Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Chí làm trai trong văn học cổ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (58.74 KB, 10 trang )

Chí làm trai trong văn học cổ
(làm bao boi thì chèn mấy cái ảnh về công danh như là hình ảnh ra trận hoặc
đi thi nhé)
I. Sơ lược về nguồn gốc của trí khí nam nhi
- Trí khí nam nhi chủ yếu được hình thành trong xã hội phong kiến dưới sự ảnh
hưởng của hết sức to lớn của Nho giáo, mà người sáng lập ra nó là Khổng Tử
- Theo quan điểm của Nho giáo: chí khí nam nhi được hiểu là “trí” và “dũng”:
Trí là hiểu biết được tạo nên trên mối quan hệ lớn nhỏ của con người với trời
đất, với muôn vật, với mọi người trong thiên hạ. Nói cách khác, trí là biết được
điều đúng sai, phải trái trong mọi vấn đề thuộc về đạo đức.
Dũng bao gồm cả ý nghĩa về thể lực và tinh thần. Người “dũng” là người
không sợ sệt, dám đối đầu với mọi thử thách, khó khăn. Đàn ông chân chính không
thể thiếu trí và dũng, không thể thiếu chí khí nam nhi. Chí khí này là sự phân biệt
giữa tiểu nhân và quân tử. Có chí khí, người đàn ông mới đạt công danh và đó phải
là mục đích sống của họ. Có công danh là để rạng rỡ tổ tông, gia đình, gia tộc và
khi có thể sẽ tiến tới “trị quốc bình thiên hạ”.
- Trí làm trai còn được thể hiện ở một phong tục cổ của người Trung Hoa: “Thỏa
chí tang bồng”.Tang bồng” vốn là cách nói tắt của “Tang hồ bồng thỉ”. “Tang” là
dâu, “hồ” là cung, “tang hồ” là cung bằng gỗ cây dâu. “Bồng” là “cỏ bồng”, “thỉ”
là “tên”, “hồ thỉ” là tên bằng cỏ bồng. Tang hồ bồng thỉ, nghĩa là cung làm bằng gỗ
dâu, tên làm bằng cỏ bồng. Tục truyền, ngày xưa ở Trung Quốc, hễ đẻ con trai thì
dùng loại cung tên này bắn sáu phát; bắn bốn phát ra bốn hướng, một phát lên trời,
còn một phát xuống đất. Ngụ ý của việc làm này là sau này trưởng thành, người
con trai sẽ mang chí lớn “hai vai gánh vác sơn hà”, tung hoành dọc ngang giữa trời


đất. Với nghĩa ấy, “tang bồng” thường kết hợp với các từ như “Chí tang bồng”, “nợ
tang bồng”. Thành ngữ “thoả chí tang bồng” hay là “phỉ chí tang bồng” dùng để
chỉ sự thoả mãn, tự do trong hành động nhằm thực hiện chí lớn, không chịu bất kỳ
một sự gò bó, ràng buộc nào.
II. Biểu hiện của chí khí nam nhi trong văn học cổ


2.1 Trong văn học dân gian
- Từ xa xưa, trong văn học dân gian đã nhắc đến chí làm trai. Văn học dân gian nói
đến trí làm trai ở hai khía cạnh:
+ Thứ nhất là các bài ca dao mang tính chất ca ngợi khí phách, chí hướng của
những trang nam nhi tài gỏi:
VD:

Là trai cho đáng lên trai
Xuống đông đông tĩnh lên đoài đoài yên.

Đó là người con trai có sức mạnh phi thường, có khả năng bảo vệ gia đình và Tổ
quốc.
Hay đó là hình ảnh người con trai từng trải, có hiểu biết, đi đây đi đó để mở rộng
chí hướng:
VD:

Làm trai cho đáng lên trai
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng

+ Thứ hai là phê phán, chế giễu những người nam nhi không có chí hướng, nhu
nhược chỉ được xếp vào hàng cùng với nữ nhi:
VD;

Làm trai cho đáng lên trai
Vót đũa cho dài ăn vụng cơm con

Hay:
Làm trai cho đáng lên trai
Ăn cơm với vợ lại nài vét liêu
Hay:

Làm trai cho đáng lên trai


Khom lưng quấn gối gánh hai hạt vừng
Người nam nhi trong những câu ca dao trên hiện lên với tiếng cười chế giễu: “ăn
vụng cơm con”, “vét liêu cơm” hay “gánh hai hạt vừng”. Từ các bài ca dao muốn
nhắc nhở các bậc nam nhi trong thiên hạ phải có hoài bão, có khí chất.
2.1 Trong văn học viết thời phong kiến
2.2.1 Chí khí làm trai thể hiện ở khát vọng làm việc lớn, có ích giúp nước giúp
đời, lập công danh sự nghiệp.
- Trong văn học Trung Hoa, nhất là Đường thi có rất nhiều tác phẩm nói về chí
khí làm trai. Trong bài thơ “Đề Ô giang đình” (Đề đình Sông Ô) có viết:
“Thắng bại binh gia sự bất kỳ
Bao tu nhẫn sỉ thị nam nhi”
(Thua được nhà binh chuyện bất kỳ
Nén lòng hổ nhục mới nam nhi)
Trang nam tử thắng bại là chuyện thường, phải biết nhịn nhục để làm việc lớn, phải
biết “nếm mật nằm gai” để gây dựng cơ đồ sự nghiệp vâng dội.
Nhà thơ Văn Thiên Trường của Trung Hoa trong hoàn cảnh nước mất nhà ta, ông
đã nói lên cái khí chất của mình: lời lẽ khẳng khái, hào hùng của kẻ sĩ trong thời
nước nhà lâm nạn vẫn một lòng hướng về đất nước không thay đổi:
“Xưa nay hỏi có ai không chết?
Hãy để lòng son chiếu sử xanh”
- Trong văn học trung đại Việt Nam chúng ta bắt gặp hàng loạt hình ảnh người
quân tử vói chí khí ngút trời lập công danh sự nghiệp hiển hách như: Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Công Trứ, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Du, Đặng
Dung,..


Đó có thể là hình ảnh của Phan Bội Châu mang một khát vọng lớn lao, đi tìm con

đường cứu nước trong buổi đầu đất nước bị xâm lược:
“ Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”
(Xuất Dương lưu biệt)
Đã là nam nhi ở trên đời này phải làm nên “chuyện lạ”, làm những việc mà người
khác không giám làm, phải là người xoay chuyển trời đất thiên địa, làm chủ số
phận của bản thân. Trong bài thơ “ Chết” Phan Bội Châu cũng thể hiện được chí
lớn, sẵn sàng hi sinh vì đất nước, dân tộc:
“Chết mà vì nước, chết vì dân,
Chết đấng nam nhi trả nợ trần.
Chết buổi Đông Chu, hồn thất quốc,
Chết như Tây Hán lúc tam phân.”
Hay trong bài thơ “ Chơi Xuân” ông đã thể hiện một lần nữa cái trí nam nhi ấy với
một mong muốn táo bạo: ‘nắm địa cầu, đạp càn khôn” :
“Nắm địa cầu vừa một tí con con!
Đạp toang hai cánh càn khôn,
Đem xuân vẽ lại trong non nước nhà!”
Nhà Nho Nguyễn Công trứ trong các tác phẩm của mình cũng thể hiện được cái trí
trai ấy của mình với đời. Bài thơ “ Chí làm trai” ông đã nói lên cái khao khát tung
hoành ngang dọc của mình:
“Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây,
Cho phỉ sức vẩy vùng trong bốn bể”
Người quân tử ấy muốn đi kháp thế gian, thỏa sức “vẫy vùng trong bốn bể”, cái
ước muốn mang dáng vóc của một con người có chí lớn, có hoài bão đem sức mình


để cống hiến cho cuộc đời. Nguyễn Công Trứ còn thể hiện ước muốn lập được
công danh hiển hách, vang dội với đời trong bài thơ “Đi thi tự vịnh”:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.”

Nhà thơ tự nhận trách nhiệm về mình, thấy minh sinh ra trong trời đất này phải “có
danh gì với núi sông”, phải thành đạt trên con đương khoa cử, để lại tiếng thơm
cho muôn đời sau.
Nguyễn Hữu Huân là một sĩ phu yêu nước, và là một lãnh tụ khởi nghĩa
chống thực dân Pháp ở Nam Kỳ (Việt Nam) vào nửa cuối thế kỷ 19. Là một trang
nam nhi sinh ra trong thời loạn, ông đã ý thức được trách nhiệm của người quân tử
phò vua giúp nước, nguyện hi sinh cả bản thân:
“Hữu chí nan thân, không uổng bách niên chiêu vật nghị,
Tuy công bất tựu, diệc tương nhất tử báo quân ân.
Tạm dịch:
Việc lớn không thành, báo chúa cũng đành liều một chết;
Lòng ngay khó tỏ, miệng đời luống để luận trăm năm.”
Hay trong một bài thơ khác, ông cũng nói lên tiết nghĩa ở đời của người quân tử:

“Anh hùng có sá chi thua được,
Tiết nghĩa nào phai với đất trời.”
Trong tác phẩm “Ching phụ ngâm khúc”, người chinh phu ra trận, không ngại hiểm
nguy để tiến bước trên con đường công danh, sự nghiệp:
“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa


Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao.”
Kẻ anh hùng không sợ hi sinh gian khổ, dù có phải “da ngựa bọc thây” cũng quyết
không từ nan, người chinh phu ấy vượt núi cao “Thái Sơn” mà dễ dàng cho thấy tài
năng hơn người của chàng.
Đó cũng có thể là chàng Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, một vị anh
hùng với “vai năm thước rộng thân mười thước cao” và một chí hướng ngút trời:
“Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.
Đội trời đạp đất ở đời,
Họ Từ tên Hải, vốn người Việt đông.

Giang hồ quen thú vẫy vùng,”
Hình ảnh “đội trời đạp đất” cho thấy một chí khí ngạo nghễ, sống và hành động hết
sức tự do, ngang tàng, không thừa nhận bất cứ một uy quyền nào trên đời để thể
hiện được chí hướng “vẫy vùng” của mình.
Phạm Ngũ Lão, người con của vùng đất Hưng Yên, lập nhiều công trạng dưới thời
nhà trần cũng thể hiện được khí thế chiến đấu và ý thức trách nhiệm của trang nam
nhi thời loạn qua bài thơ “Tỏ lòng”:
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
(Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.
“Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)


Phạm Ngũ Lão cho rằng mình vẫn chưa trả xong “nợ công danh” để thể hiện ý trí
cống hiến hết mình cho đất nước. một người làm đến chức Quan nội hầu mà lại
cho rằng mình chưa trả xong nợ công danh và cảm thấy thẹn khi nghe kể truyện Vũ
Hầu(Gia Cát Lượng). Thể hiện được sự khiêm nhường của một vị tướng tài ba. Là
trang nam nhi sinh ra trong thời phong kiến ai lấy đều phải mang một món nợ đó là
nợ công danh, giống như nguyễn Công Trứ từng nói:
“Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc.
Nợ tang bồng vay trả, trả vay.”
“Nợ tang bồng” chính là nợ công danh mà người quân tử phải trả cho đời, phải
cống hiến cho nước cho dân, như thế thì mới xứng đáng là bậc hiền nhân quân tử.

2.2.2 Sự hiên ngang bất khuất của người quân tử trước khó khăn nguy hiểm
vẫn hiên ngang, lạc quan yêu đời và sẵn sàng giúp đỡ người khác

- Phan Châu Trinh một nhà hoạt động cách mạng cũng là một nhà thơ nổi tiếng của
Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX cũng là ột gương mặt tiêu biểu cho những
nhà Nho Đương thời có chí hướng lập công danh, cứu nước giúp đời. Người chí sĩ
cách mạng ấy trong cảnh tù đầy ở nhà ngục Quảng Đông (Trung Quốc) vẫn khẳng
khái, hiên ngang thể hiện chí khí anh hùng:
“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Vẫn ngạo nghễ trước gông cùm, xiềng xích:
Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
(Đập đá ở Côn Lôn)
Một tư thế và phong thái hiếm có: vừa hiên ngang, lẫm liệt, vừa ung dung thanh
thản. Nhà tù của bọn đế quốc chỉ có thể giam cầm, đày đoạ được thân xác những


người yêu nước, chúng làm sao có thể uy hiếp được tinh thần của họ. Họ coi nhà tù
chỉ là nơi dừng chân nghỉ ngơi trên bước đường cách mạng đầy chông gai sóng gió
của mình. Thậm chí, đối với họ, nhà tù còn là nơi thử thách và tôi luyện thêm phẩm
chất anh hùng. Cho nên, họ cố thể ngẩng cao đầu kiêu hãnh, cất lên tiếng cười đầy
ngạo nghễ, ngang tàng. Trong bài thơ “Cảm tác” ông cũng thế hiện trí khí làm trai
của mình:
“Làm trai quyết gánh gánh gian nan,
Dám nại xa xôi bỏ giữa đàng”
Cũng giống như Khổng Tử đã từng nói :“Người quân tử xa rời đạo nhân làm sao
có thể xứng danh quân tử được. Người quân tử không bao giờ xa rời đạo nhân dù
chỉ trong khoảng thời gian một bữa ăn. Dù cho ở hoàn cảnh bức bách khốn cùng,
phải phiêu bạt nơi đất khách quê người cũng không bao giờ xa rời đạo nhân.”. Đã
là người quân tử dù trong muôn vàn khó khăn gian khỏ vẫn phải giữ được đạo làm
người !
Chàng trai trẻ Lục Vân tiên trong truyện “Lục vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu
cũng thể hiện được tư tưởng anh hùng của mình với câu thơ:

“ Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Cụm từ “kiến ngãi bất vi” được hiểu là thấy việc nghĩa mà không làm, còn cụm từ
“ phi anh hùng” có nghĩa là không phải là anh hùng. Vậy hai câu thơ này nói lên ý
nghĩa là thấy việc làm có nghĩa mà không làm, thấy người ta nghèo khổ bị bắt nạt
mà không giúp đỡ thì đó không phải là một người anh hùng, mà thậm chí còn là
một kẻ tầm thường. Từ việc phủ định việc làm ấy tác giả đi đến khẳng định một
phẩm chất tốt đẹp, một bài học đạo lí cần học đó là tinh thần nghĩa hiệp, hành động
hướng tới nhân nghĩa; coi việc nghĩa ở đời là trách nhiệm cao cả thiêng liêng.
2.2.3 Người quân tử chí lớn chưa thành mà đầu đã bạc nhưng vẫn khao khát
nung nấu ý chí lập công danh


Nhà thơ Đỗ Phủ trong bài thơ “Càn Nguyên Trung Ngụ Cư Đồng Cốc Huyện Tác
Ca Kỳ VII” đã nói lên hình ảnh của một đấng nam nhi đã qua tuổi xế chiều rồi mà
mộng công danh vẫn còn đang giang giở:
Nam nhi sinh bất thành danh thân dĩ lão
Tam niên cơ tẩu hoang sơn đạo.
(Làm trai sinh ra chưa nên danh thân đã già
Ba năm đói chạy khắp nẻo núi hoang.)
Trí lớn chưa thành mà đầu đã bạc, đó là sự tiếc nuối cho một thời đã qua, chí khí
nam nhi vẫn còn đó nhưng sức đã già không thể làm nên được nghiệp lớn.
Nhà thơ Đặng Dung cũng có chung một nỗi lòng tam sự giống như nhà thơ Đỗ Phủ
xưa kia. Trong bài thơ “Cảm hoài” nhà thơ đã thể hiện chí khí của một đáng anh
hùng tuy đã già nhưng vẫn “mài gươm dưới ánh trăng”:
“Quốc thù vị báo, đầu tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma”
“Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.”
Câu thơ nói thù nước (quốc thù) chưa trả (vị báo) đầu đã bạc (đầu tiên bạch). Với

một con người sống với lý tưởng hiên ngang thì trả nợ nước là cái mà con người ấy
luôn ấp ủ.Dù đầu đã bạc nhưng con người ấy không bao giờ từ bỏ ý chí mà vẫn
“mài gươm dưới ánh trăng”, nung nấu ý chí cống hiến cho đất nước.
Nguyễn Du trong bài thơ “Tự thán 1” cũng luyến tiếc trước sự trôi chảy của thời
gian, đầu đã bạc mà đường công danh vẫn giở dang và ông vẫn khao khát cống
hiến cho đời cho nước:
“ Sinh vị thành danh thân dĩ suy
Tiêu tiêu bạch phát mộ phong suy”
(Danh phận chưa thành sức yếu ngay
Lơ thơ tóc bạc gió chiều bay)


Như vậy, chí làm trai trong văn học cổ, đặc biệt là văn học trung đại được thể
hiện rất đa dạng. Đó có thể là khát vọng lập công danh, sự nghiệp, để lại tiếng
thơm muôn đời. Cũng có thể là lòng gan dạ, không sợ hiểm nguy khó khăn
gian khổ, sẵn sàng giúp đỡ người khác khi gặp phải hoạn nạn. Cuối cùng là
những khao khát được cống hiến, thể hiện chí làm trai khi đã về già của các
bậc tiền nhân.



×