Hình tượng con người công dân và con người
cá nhân trong văn học Việt nam trung đại-phần1
1. Một số giới thuyết
1.1. Văn học thời trung đại
1.1.1. Khái niệm thời trung đại
Thời trung đại là khái niệm mà các nhà nhân đạo chủ nghĩa châu
Âu dùng để chỉ thời đại lịch sử ở giữ thời cổ đại, tính từ khi chế
độ đế quốc La Mã sụp đổ vào TK thứ V cho đến thời đại Phục
Hưng vào TK XV.
Về mặt văn hoá, thời trung đại không đơn giản là một bước lùi
trong tiến trình văn minh mà là một bước tiến. Đó là thời đại văn
hoá lớn trong lịch sử nhân loại. Đối với các quốc gia phương
Đông như Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, … thời trung đại là
thời kỳ hình thành toàn bộ những di sản văn háo thành văn của
minh.
Về mặt thời gian, các sử gia chia thời trung đại Châu Âu ra làm
ba:
- Sơ kỳ: Từ TK V - TK XI
- Trung kỳ: Từ TK XII – TK XV.
- Mạt kỳ: Từ TK XVI – TK XVII.
Cần chú ý độ dài cụ thể của thời trung đại ở từng khu vực, từng
quốc gia có những điểm xê dịch đánh kể.
Thời cận đại là thời quá độ, giao thời chuyển hoá từ thời trung đại
lên hiện đại. Ở Châu Âu người ta tính từ TK XVI – TK XVII, tức là
ngay từ mạt kỳ trung đại. Ở Trung Quốc và Việt Nam, Nhật Bản,
tính từ thời điểm xâm nhập của tư bản phương Tây, cũng tức là
thời suy tàn của chế độ phong kiến.
Cũng cần nói thêm rằng vấn đề này hiện nay còn đang tranh luận
chưa thống nhất, bởi nếu xét theo sự phát triển của đô thị, ý thức
thị dân thì thời cận đại Việt Nam có thể tính ngược lên TK XVII –
XVIII. Trước nay, học giới xác định là 1930, thời điểm ngọn cờ
lãnh đạo cách mạng chuyển sang giai cấp vô sản, nhưng nếu xét
về thời điểm chấm dứt chế độ phong kiến thì phải đến 1945.
Nếu thừa nhận thời hiện đại là thời đại chung của mọi dân tộc và
khu vực thì có cơ sở để thấy rằng thời cận đại của các nước
Phương Đông như Việt Nam, Trung Quốc trên thực tế là rất mờ
nhạt, không rõ nét, hoặc bị teo đi. Bởi vì thời cận đại ở đây không
phải xuất hiện do sự phát triển tự thân mạnh mẽ các quan hệ xã
hội, mà chủ yếu do các nguyên nhân bên ngoài, cho nên nó
không thể kéo dài.
Xét về bình diện văn hoá thì phải tính đến cái mốc tiếp nhận và
sáng tạo các hình thái văn háo mới. Mốc ấy chưa có ở giữa TK
XIX của Việt Nam. Mặc dù có ảnh hưởng của Pháp và chữ Quốc
ngữ bắt đầu truyền bá rộng rãi dưới dạng hiện đại từ giữ TK XIX,
nhưng phải sang đầu TK XX mới được sử dụng phổ biến. Các
phong trào Cách mạng đầu TK XX đã sử dụng đắc lực chữ Quốc
ngữ. Khoa thi chữ Hán cuối cùng diễn ra năm 1917. Đó là lý do
để các nhà nghiên cứu văn học trước đây xác định thời hiện đại
của văn học Việt Nam từ đầu TK XX.
1.1.2. Khái niệm văn học trung đại
Văn học trung đại được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau: văn
học cổ; văn học cổ điển; văn học thời phong kiến,… Nhưng năm
1980, Nicôlin, đề nghị dùng khái niệm văn học trung đại, sau đó
nhiều người dùng nên trở thành quen thuộc.
Văn học trung đại Việt Nam là một thời kỳ văn học, một quá trình
của văn học dân tộc, trải dài suốt mười thế kỷ. Dùng khái niệm
văn học trung đại để chỉ thời kỳ này của văn học Việt Nam là có
cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn, đấy là văn học chịu sự chi
phối của tư tưởng, quan điểm, thẩm mỹ thời trung đại. Hết TK
XIX, văn học trung đại cũng hết vai trò lịch sử và nó được thay
thế bằng văn học thuộc loại hình khác – loại hình văn học hiện
đại mang đậm tính hiện đại của văn học thế giới từ đầu TK XX.
Văn học trung đại Việt Nam rất khó xác định cụ thể năm bắt đầu
và năm kết thúc mà chỉ nên nói bắt đầu vào TK X và kết thúc vào
những năm cuối TK XIX. Đây là quan điểm của nhiều nhà nghiên
cứu văn học hiện nay quy ước và đang chờ đợi sự bàn bạc sâu
thêm.
1.1.3. Phân kỳ văn học Việt Nam trung đại
Phan Phu Thiên (TK XV) lấy tiêu chí Văn học xếp theo triều đại,
chia thành các giai đoạn Văn học Trần; Lê.
N.I.Niculin lấy tiêu chí Chức năng ngoài văn học chia thành: TK X
– TKXII: thời kỳ tiền (thượng) trung đại: với lý do là thể loại hành
chức ngoài văn học chiếm ưu thế. TK XIII – XVII: thời kỳ trung đại
phát triển. TK XVIII – nửa đầu TK XIX: thời kỳ hạ trung đại.
Nguyễn Lộc chia thành TK X – TK XV: thời kỳ văn học khẳng định
dân tộc trên cơ sở khẳng định chế độ phong kiến. Nc TK XV – nđ
TKXVIII: văn học khẳng định nhà nước phong kiến. Nc TK XVIII –
nđ TK XIX: văn học khẳng định con người.
Lê Trí Viễn, chia thành TK X – TK XV: văn học trung đại thượng
kỳ.
TK XVI – TK XIX: văn học trung đại hạ kỳ
Các tác giả của "Hợp tuyển thơ văn Việt Nam” chia thành TK X –
TK XVII: chia ra làm hai giai đoạn: X – XIV: sự hình thành và chín
muồi của các thể loại văn học chữ Hán; XV – XVII: sự manh nha
và phồn thịnh của văn học Nôm. TK XVIII – TK XIX: sự chín muồi
đạt đến đỉnh cao của văn học Nôm và sự phát triển phong phú
thêm của văn học chữ Hán với các thể loại truyện ký mới mang
tính chất văn học.
Nguyễn Đăng Na chia TK X – TK XIV: thế kỷ lấy văn học dân gian
và văn học chức năng làm cơ sở. TK XV – TK XVI: thời kỳ đột
khởi của văn xuôi tự sự TK XVIII – TK XIX: thế kỷ của ký và tiểu
thuyết chương hồi.
Ngữ Văn 10 (Trần Đình Sử, tổng chủ biên) chia như sau: TK X –
TK XIV: thời kỳ khôi phục và xây dựng nền văn hiến dân tộc,
trong đó có văn học; thời kỳ đặt nền mống có tính chất định
hướng cho văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói
chung; nội dung chủ yếu là khẳng định và ca ngợi dân tộc. TK XV
– TK XVII: Sự phát triển của thơ ca quốc âm; ba thể thơ dân tộc
ra đời: lục bát, song thất lục bát và hát nói; văn chính luận và văn
tự sự phát triển rất mạnh; ngoài nội dung yêu nước, văn học giai
đoạn này còn chú ý đến số phận con người, bắt đầu những biểu
hiện phi Nho giáo. TK XVIII – nđ TK XIX: Con người ý thức được
vai trò của mình, do đó tạo ra được trào lưu đòi giải phóng tình
cảm cá nhân, tự do yêu đương, … Nội dung văn học thêm phong
phú, đa dạng; ngôn ngữ văn học trưởng thành vượt bậc, đặc biệt
là ngôn ngữ dân tộc; các loại hình văn học nở rộ và đều đạt đến
đỉnh cao. Nc TK XIX: văn chương yêu nước phát triển mạnh,
Ngoài thơ ca, văn chính luận, đặc biệt là loại văn điều trần cũng
rất phát triển; văn học trung đại viết bằng chữ Hán và chữ Nôm
rơi vào bế tắc; Chữ quốc ngữ và văn xuôi quốc ngữ bắt đầu xuất
hiện ở Nam Bộ.
Ngữ văn 10, Phan Trọng Luận (tổng chủ biên). Nxb Giáo Dục. H.
2006, chia TK X – TK XIV; TK XV – TK XVII: tư duy văn học chịu
sự chi phối mạnh mẽ của quan điểm văn sử triết bất phân, thi
ngôn chí, văn dĩ tải đạo. Cảm hứng chủ đạo của văn học giai
đoạn này là cảm hứng yêu nước. Thể loại văn học chủ yếu là tiếp
thu từ phương Bắc, là quá trình dân tộc hoá thể loại văn học
nước ngoài, nhiều thể loại mang tính chức năng, ngôn ngữ chủ
yếu là chữ Hán nhưng từ TK XV, chữ Nôm đã có một vị trí quan
trọng trong sáng tác thơ ca.
TK XVIII – nđ TK XIX; nc TKXIX: tư duy văn học đã có sự phân
biệt văn với sử, với triết, đã chịu sự chi phối của quan niệm sáng
tác từ "những điều trông thấy". Cảm hứng chủ đạo là cảm hứng
nhân đạo, là khẳng định con người. Thể loại văn học dân tộc đạt
được những thành tựu lớn, là văn chương hình tượng. Văn học
chữ Nôm có sự phát triển vượt bậc với những thành tựu hết sức
rực rỡ.
1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người
Quan niệm nghệ thuật về con người là nguyên tắc lý giải, cảm thụ
của chủ thể
Thi pháp học cho rằng: Văn học là nhân học, là nghệ thuật miêu
tả, biểu hiện con người. Con người là đối tượng chủ yếu của văn
học. Dù miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật, hoặc đơn giản là miêu
tả các nhân vật, văn học đều thể hiện con người. Mặt khác,
người ta không thể miêu tả về con người, nếu không hiểu biết,
cảm nhận và có các phương tiện, biện pháp nhất định. Điều này
tạo thành chiều sâu, tính độc đáo của hình tượng con người
trong văn học. Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lý giải,
cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hóa thân thành các
nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn
học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng
nhân vật trong đó.
Nhân vật là hình thức cơ bản để miêu tả con người trong văn
học, tuy nhiên trước nay người ta chỉ chú ý tới phương diện
khách thể của nó. Nhân vật mang những phẩm chất gì? Tính
cách nhân vật như thế nào? Ngoại hình được khắc họa ra sao,
tâm lý nhân vật có gì đặc sắc? Ngôn ngữ nhân vật có được cá
tính hóa hay không? Đó là những vấn đề không thể bỏ qua khi
phân tích nhân vật như một khách thể. Từ đó, cũng nhiều khi
người ta phân tích nhân vật như những con người có thật ở
ngoài đời.
Đối với nhân vật trong hệ thống hình tượng tự sự, có nhiều cách
hình dung về chức năng và cấu tạo. Về loại hình nhân vật, người
ta chia ra nhân vật chính, phụ, nhân vật chính diện, phản diện. Về
mặt cấu trúc có người chia ra nhân vật mặt nạ, nhân vật loại hình,
nhân vật tính cánh, nhân vật tư tưởng. Sự chú trọng đến hình
tượng khách thể của con người là cần thiết, song xem nhẹ việc
tìm hiểu các nguyên tắc lý giải, cảm thụ của chủ thể trong hình
tượng sẽ dẫn đến việc giản đơn hóa bản chất của sáng tác văn
học, đặc biệt là vai trò sáng tạo tư tưởng của nhà văn, rút gọn
tiêu chuẩn tính chân thực vào một điểm là miêu tả giống hay
không giống so với đối tượng.
Quan niệm nghệ thuật về con người hướng người ta khám phá
cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, ngay
cả khi miêu tả con người giống hay không giống so với đối tượng
1.3. Từ khái niệm vô ngã, hữu ngã của Phật giáo đến con
người phi ngã, bản ngã trong văn học Việt Nam trung đại.
1.3.1. Từ khái niệm vô ngã và hữu ngã …
Theo Từ điển Phật học, vô ngã (無我, sa. anātman, pi. anattā), là
một trong Ba tính chất (sa. trilakṣaṇa) của sự vật. Quan điểm vô
ngã là giáo pháp cơ bản của đạo Phật, cho rằng, không có một
Ngã (sa. ātman, pi. attā), một cái gì trường tồn, bất biến, nhất
quán, tồn tại độc lập nằm trong sự vật. Như thế, theo đạo Phật,
cái ngã (hữu ngã) là cái “tôi”, cái "tôi" cũng chỉ là một tập hợp của
Ngũ uẩn (sa. pañcaskandha), luôn luôn thay đổi, mất mát và, vì
vậy, "tôi" chỉ là một sự giả hợp, gắn liền với cái Khổ.
1.3.2. … đến khái niệm phi ngã – bản ngã.
Từ khái niệm triết học của vô ngã và hữu ngã đó, có thời văn học
Việt Nam trung đại đã dùng khái niệm phi ngã và bản ngã để nó
đến hình tượng con người cá nhân và con người cộng đồng trong
các tác phẩm ra đời trong thời kỳ này. Tuy nhiên khái niệm này,
hiện tại sách giáo khoa hiện hành rất ít sử dụng.
Từ điển tiếng Việt giải thích, phi: không, chẳng phải, sái quấy.
Ngã: ta. Phi ngã là cái ngoại tại, không phải ta, tức là sự vật ngoại
giới, đối lập với bản ngã. Phi ngã đồng nghĩa với vô ngã.
Bản ngã: cái làm nên tính cách riêng biệt của mỗi người.
2. Những biểu hiện của con người công dân và con người cá
nhân trong văn học Việt Nam trung đại.
2.1. Xét trên bình diện nội dung
2.1.1. Con người công dân biểu hiện qua các bình diện
Thứ nhất, là con người gắn bó trách nhiệm với vận mệnh của dân
tộc: Chiếu dời đô (Lý Công Uẩn); Hịch tướng sĩ văn (Trần Quốc
Tuấn); Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão); Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
(Nguyễn Đình Chiểu)…
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
(Thơ Thần – Lý Thường Kiệt ?)
Thứ hai, là con người có lý tưởng, hoài bão và khát vọng cao cả:
Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải); Cảm hoài (Đặng
Dung); hay bài thơ Ngôn hoài sau đây của Dương Không Lộ:
Trạch đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
Thứ ba, có tầm hồn phóng khoáng, hồn hậu, chân thành: Thơ
Nguyễn Trãi, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ Trần Thánh Tông,
Trần Nhân Tông, Trần Minh Tông, …
Sóc phong xuy hải khí lăng lăng
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng
Ngạc đoạn kinh khô sơn khúc khúc
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng
Quan hà bách nhị do thiên thiết
Hào kiệt công danh thử địa tằng
Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ
Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng.
(Bạch Đằng hải khẩu – Nguyễn Trãi)
Đây cũng chính là hình tượng của những con người gắn liền với
cảm hứng yêu nước trong dòng chảy của văn học Việt Nam trung
đại.
2.1.2. Con người cá nhân biểu hiện qua các bình diện
Thứ nhất, con người cá nhân với ý thức khẳng định vẻ đẹp và tài
năng của mình: thơ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công
Trứ, Nguyễn Khuyến, …
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
(Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương)
Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà!
Rắn đầu biếng học quyết không tha
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ,
Nay thét, mai gầm rát cổ cha.
Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo,
Lằn lưng chẳng khỏi vết roi da.
Từ nay Châu Lỗ xin siêng học,
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia!
(Rắn đầu biếng học – Lê Quý Đôn)
Thứ hai, con người cá nhân với nhu cầu bộc lộ tình cảm riêng tư,
tâm sự u ẩn: Thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, cá nhân vật
trong Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ), …
Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dõi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ, khắp đòi phương
(Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi)
Thứ ba, con người với khát vọng tự do, bình đẳng, khát vọng tình
yêu và hạnh phúc: thể hiện tiêu biểu trong các ngâm khúc hình
thức song thất lục bát như Chinh phụ ngâm khúc (bản dịch của
Đoàn Thị Điểm?); Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Ai
tư vãn (Lê Ngọc Hân); Tự tình khúc (Cao Bá Nhạ), Thu dạ lữ hoài
ngâm (Đinh Nhật Thận), Bần nữ thán (khuyết danh), …
Hồn bay ngàn dặm cũng gần,
Trong năm mươi khắc năm lần thấy cha.
Chợp, sực thức, la đà, gối bị,
Nằm, lại ngồi, rầu rĩ chiếu manh,
Hoá công khéo giữ nhân tình,
Đem người yên thuỷ bỏ vành lao lung!
(Tự tình khúc – Cao Bá Nhạ)
Hay
Buồn thay nhẽ, xuân về hoa ở,
Mối sầu riêng ai gỡ cho xong,
Quyết liều mong vẹn chữ tòng,
Trên rường nào ngại giữa dòng nào e.
Con trứng nước thương vì đôi chút,
Chữ tình thâm chưa thoát được đi,
Vậy nên nấn ná đòi khi,
Hình tuy còn ở, phách thì đã theo
(Ai tư vãn – Lê Ngọc Hân)