Bộ GIáO DụC Và ĐàO TạO
Trờng đại học kinh tế qc d©n
LỜI CAM ĐOAN
Tơi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi cam
kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này là tôi tự thực hiện và không vi phạm
yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.
NGUYÔN V¡N HåI
Hà Ni, ngy
Xỏc nhn ca Giỏo viờn hng dn
CHíNH SáCH TRợ GIúP XÃ HộI TRONG
CHĂM SóC SứC KHỏE TÂM THầN TạI VIệT NAM
Chuyên ngành : khoa học quản lý
MÃ số
: 62340410
Ngi hướng dẫn khoa học: PGS. TS. LÊ THỊ VÂN ANH
PGS.TS. NGUYỄN KHẮC BÌNH
Hµ Néi - 2017
tháng
năm 2017
Tác giả luận án
Nguyễn Văn Hồi
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌN VẼ
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................. 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ................. 6
1.1. Các nghiên cứu nước ngoài ............................................................................ 6
1.1.1. Các nghiên cứu liên quan đến sức khỏe tâm thần ........................................ 6
1.1.2. Các nghiên cứu liên quan đến hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm thần .......... 8
1.1.3. Các nghiên cứu liên quan đến chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần ..... 10
1.2. Các nghiên cứu trong nước .......................................................................... 15
1.2.1. Các nghiên cứu liên quan đến sức khỏe tâm thần ...................................... 15
1.2.2. Các nghiên cứu liên quan đến hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm thần ........ 16
1.2.3. Các nghiên cứu liên quan đến chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần ..... 18
1.3. Khoảng trống nghiên cứu ............................................................................. 20
1.3.1. Một số vấn đề đạt được sự nhất trí cao ...................................................... 20
1.3.2. Khoảng trống cho các nghiên cứu tiếp theo ............................................... 21
CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CHÍNH
SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE TÂM THẦN ..... 22
2.1. Trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần .................................... 22
2.1.1. Sức khỏe tâm thần và chăm sóc sức khỏe tâm thần ................................... 22
2.1.2. Trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần.................................... 26
2.2. Chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần .................. 31
2.2.1. Khái niệm chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần .. 31
2.2.2. Mục tiêu và tiêu chí đánh giá chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức
khỏe tâm thần ..................................................................................................... 33
2.2.3. Chủ thể và đối tượng của chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức
khỏe tâm thần ..................................................................................................... 36
2.2.4. Các chính sách bộ phận của chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức
khỏe tâm thần ..................................................................................................... 38
2.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức
khỏe tâm thần ..................................................................................................... 42
2.3. Kinh nghiệm về chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm
thần tại một số nước trên thế giới ....................................................................... 45
2.3.1. Chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Mỹ ........................................ 45
2.3.2. Chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Úc ......................................... 47
2.3.3. Chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Thụy Điển ............................. 49
2.3.4. Chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Pháp ...................................... 51
2.3.5. Chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Châu Phi ............................... 53
2.3.6. Chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Châu Á .................................. 54
2.3.7. Bài học rút ra cho Việt Nam về chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc
sức khỏe tâm thần ............................................................................................... 55
CHƯƠNG III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................... 58
3.1. Quy trình nghiên cứu ................................................................................... 58
3.2. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin .................................................... 60
3.2.1. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin thứ cấp ...................................... 60
3.2.2. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin sơ cấp ........................................ 60
CHƯƠNG IV: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ
HỘI TRONG CHĂM SĨC SỨC KHỎE TÂM THẦN TẠI VIỆT NAM ........ 69
4.1. Thực trạng sức khỏe tâm thần và nhu cầu chăm sóc sức khỏe tâm thần tại
Việt Nam .............................................................................................................. 69
4.1.1. Thực trạng sức khỏe tâm thần tại Việt Nam .............................................. 69
4.1.2. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam ................................... 71
4.2. Thực trạng chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần
tại Việt Nam ......................................................................................................... 74
4.2.1. Chính sách trợ cấp xã hội .......................................................................... 75
4.2.2. Chính sách phát triển cơ sở bảo trợ xã hội ................................................. 84
4.2.3. Chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm ................................................... 92
4.2.4. Chính sách phát triển các dịch vụ cơng tác xã hội ..................................... 96
4.2.5. Chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác trợ giúp xã hội ......... 102
4.3.2. Đánh giá chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần tại
Việt Nam theo các chính sách bộ phận ............................................................. 117
CHƯƠNG V: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN CHÍNH SÁCH
TRỢ GIÚP XÃ HỘI TRONG CHĂM SĨC SỨC KHỎE TÂM THẦN TẠI
VIỆT NAM ................................................................................................. 130
5.1. Quan điểm hồn thiện chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe
tâm thần của Nhà nước đến năm 2025 ............................................................. 130
5.1.1. Mục tiêu trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần của Nhà nước
đến năm 2025 ................................................................................................... 130
5.1.2. Quan điểm hồn thiện chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe
tâm thần của Nhà nước đến năm 2025 .............................................................. 132
5.2. Giải pháp hồn thiện chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe
tâm thần tại Việt Nam ....................................................................................... 133
5.2.1. Hồn thiện chính sách trợ cấp xã hội....................................................... 133
5.2.2. Hồn thiện chính sách phát triển cơ sở bảo trợ xã hội ............................. 137
5.2.3. Hoàn thiện chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm ................................ 139
5.2.4. Hồn thiện chính sách phát triển các dịch vụ cơng tác xã hội .................. 142
5.2.5. Hồn thiện chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác trợ giúp xã hội145
5.2.6. Một số giải pháp khác ............................................................................. 147
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Ý nghĩa
AP
Tổ chức từ thiện Đại Tây Dương
ASXH
An sinh xã hội
BHXH
Bảo hiểm xã hội
BHYT
Bảo hiểm y tế
5.3. Một số kiến nghị.......................................................................................... 150
KẾT LUẬN ................................................................................................. 153
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN
BNTT
Bệnh nhân tâm thần
BNV
Bộ Nội vụ
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
BTXH
Bảo trợ xã hội
BVTT
Bệnh viện tâm thần
BYT
Bộ Y tế
CSSKTT
Chăm sóc sức khỏe tâm thần
CTXH
Cơng tác xã hội
ICD
Phân loại quốc tế về Bệnh tật
ICF
Hệ thống phân loại quốc tế về Chức năng, Khuyết tật và Sức khỏe
IMF
Quỹ tiền tệ quốc tế
INGO
Tổ chức phi chính phủ nước ngồi
LĐTBXH
Lao động, thương bình - xã hội
NCS
Nghiên cứu sinh
NCVĐTT
Người có vấn đề tâm thần
NKT
Người khuyết tật
Chữ viết tắt
Ý nghĩa
NTT
Người tâm thần
NGO
Tổ chức phi chính phủ
PHCN
Phục hồi chức năng
QLNN
Quản lý nhà nước
RNTT
Rối nhiễu tâm trí
RTCCD
Trung tâm nghiên cứu và đào tạo phát triển cộng đồng
SKTT
Sức khỏe tâm thần
TCXH
Trợ cấp xã hội
TGXH
Trợ giúp xã hội
TTBTXH
Trung tâm bảo trợ xã hội
UBND
Ủy ban nhân dân
UNICEF
Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc
VNGO
Tổ chức phi chính phủ trong nước
VUSTA
Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
WB
Ngân hàng thế giới
WHO
Tổ chức Y tế thế giới
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Sự thay đổi nhận thức về chăm sóc sức khỏe ..................................... 25
Bảng 3.1: Mô tả mẫu thứ nhất ......................................................................... 61
Bảng 3.2: Nội dung điều tra đối với cán bộ làm việc tại Cục Bảo trợ xã hội ....... 62
Bảng 3.3: Mô tả mẫu thứ hai ........................................................................... 63
Bảng 3.4: Nội dung điều tra đối với các Trung tâm BTXH và Trung tâm nuôi
dưỡng người tâm thần ..................................................................................... 63
Bảng 3.5: Mô tả mẫu thứ ba ............................................................................ 65
Bảng 3.6: Nội dung điều tra đối với các cán bộ, nhân viên làm CTXH ............... 65
Bảng 3.7: Mô tả mẫu thứ tư ............................................................................. 66
Bảng 3.8: Nội dung điều tra đối với các hộ gia đình .......................................... 67
Bảng 4.1: Số người rối loạn tâm trí tại Việt Nam năm 2015 .............................. 70
Bảng 4.2: Tình hình NTT nặng ở Việt Nam năm 2015 ...................................... 71
Bảng 4.3: Tỷ lệ giường bệnh tâm thần: so sánh Việt Nam và một số nước trên thế
giới giai đoạn 2010-2015 ................................................................................ 72
Bảng 4.4: Khả năng tham gia cơng việc nhà và chăm sóc bản thân của đối tượng
bệnh nhân tâm thần ......................................................................................... 73
Bảng 4.5: Chế độ trợ cấp hàng tháng (trợ giúp thường xuyên) dành cho NTT ..... 76
Bảng 4.6: Quy trình thực hiện chi TCXH dành cho NTT ................................... 78
Bảng 4.7: Thống kê tỷ lệ người mắc bệnh tâm thần người được hưởng TCXH
thường xuyên giai đoạn 2011-2015 .................................................................. 80
Bảng 4.8: Sự khác biệt giữa “kinh phí được duyệt theo kế hoạch” và kinh phí thực
cấp trong dự án CSSKTT cộng đồng của BYT giai đoạn 2011-2015 .................. 81
Bảng 4.9: Định mức chi tiêu trung bình cho cơ sở chăm sóc bệnh nhân tâm thần
tuyến tỉnh của một số địa phương trong giai đoạn 2011-2015 ............................ 82
Bảng 4.10: Đánh giá chính sách TCXH đối với NTT theo quan điểm của cán bộ
quản lý ........................................................................................................... 84
Bảng 4.11: Quy hoạch mạng lưới các cơ sở chăm sóc và PHCN cho NTT, người
RNTT giai đoạn 2012-2020 ............................................................................. 87
Bảng 4.12: Ngân sách đầu tư phát triển các cơ sở chăm sóc và PHCN cho NTT,
người RNTT giai đoạn 2011-2015 ................................................................... 89
Bảng 4.13: Đánh giá chính sách phát triển cơ sở BTXH theo quan điểm của cán
bộ quản lý ...................................................................................................... 92
Bảng 4.14: Ước lượng số bệnh nhân có vấn đề sức khỏe tâm thần được dạy nghề
và tạo việc làm trên phạm vi cả nước giai đoạn 2011-2015 ................................ 94
Bảng 4.15: Đánh giá chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm cho NTT theo quan
điểm của cán bộ quản lý .................................................................................. 95
Bảng 4.18: Đánh giá chính sách phát triển các dịch vụ CTXH theo quan điểm của
cán bộ quản lý .............................................................................................. 101
Bảng 4.19: Tình hình cán bộ, nhân viên, cộng tác viên CTXH ở Việt Nam giai
đoạn 2011-2015 ............................................................................................ 104
Bảng 4.20: Đánh giá chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác TGXH
theo quan điểm của đội ngũ cán bộ, nhân viên làm CTXH ............................... 107
Bảng 4.21: Thu nhập bình quân của cán bộ, nhân viên làm CTXH tại Trung tâm
CTXH thuộc Bộ LĐTBXH ............................................................................ 110
Bảng 4.22: Đánh giá chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác TGXH
theo quan điểm của cán bộ quản lý ................................................................ 111
Bảng 4.23: Tình hình NTT được hưởng chính sách TGXH .............................. 112
Bảng 4.24: Diễn biến bệnh tình của đối tượng được hưởng chính sách TGXH .. 113
Bảng 4.25: Tình hình tạo việc làm cho NTT, người RNTT .............................. 114
Bảng 4.26: Đánh giá Mức độ tuân thủ chính sách của các cơ quan, đơn vị trong tổ
chức thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT ................................... 115
Bảng 4.27: Đánh giá mức độ hưởng ứng, tham gia của cộng đồng đối với chính
sách TGXH trong chăm sóc SKTT ................................................................. 116
Bảng 4.28: Đánh giá sự hài lòng của các đối tượng chính sách ........................ 117
Bảng 4.29: Đánh giá mức độ hỗ trợ của chính sách TGXH trong CSSKTT ....... 118
Bảng 4.30: Đánh giá hiệu quả thực thi chính sách TGXH trong CSSKTT ......... 120
Bảng 4.31: Đánh giá mức độ tiếp cận thơng tin chính sách TGXH trong CSSKTT .......... 121
Bảng 4.32: Đánh giá mức độ thực hiện mục tiêu của chính sách TGXH trong
CSSKTT ...................................................................................................... 122
Bảng 4.33: Đánh giá sự hỗ trợ của cấp trên đối với các cơ sở BTXH trong q
trình thực thi chính sách TGXH trong CSSKTT .............................................. 124
Bảng 4.34: Đánh giá công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách TGXH trong
chăm sóc SKTT đến gia đình các đối tượng chính sách ................................... 125
Bảng 4.35: Đánh giá tính kinh tế của chính sách TGXH trong CSSKTT........... 126
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 2.1: Các yếu tố ảnh hưởng đến SKTT ...................................................... 24
Hình 2.2: Hệ thống TGXH trong CSSKTT ....................................................... 31
Hình 2.3: Cây mục tiêu của chính sách CSSKTT .............................................. 34
Hình 3.1: Quy trình áp dụng phương pháp nghiên cứu ...................................... 58
Hình 3.2:
Hình 4.1:
Hình 4.2:
Hình 4.3:
Khung lý thuyết nghiên cứu luận án .................................................. 59
Những hỗ trợ từ cộng đồng các gia đình hiện nay nhận được .............. 74
Hệ thống dịch vụ CTXH ở Việt Nam ................................................ 98
Mơ hình các dạng dịch vụ CSSKTT của Tổ chức Y tế Thế giới ........ 100
Hình 4.4: Khó khăn của các cán bộ BTXH ..................................................... 107
Hình 4.5: Tình hình NTT được hưởng chính sách TGXH ................................ 113
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách trợ giúp xã hội (TGXH) trong chăm sóc sức khỏe tâm thần
(CSSKTT) là một hệ thống các quan điểm, mục tiêu và giải pháp về mặt xã hội trong
chăm sóc sức khỏe tâm thần. Việt Nam hiện nay đang thiếu một chính sách quốc gia
về chăm sóc sức khỏe tâm thần đúng nghĩa. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình
trạng trong thời gian qua chưa có được một sự gắn nối chặt chẽ giữa hệ thống do Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý với hệ thống do Bộ Y tế quản lý, ở cả tầm
phát triển các hướng dẫn quy chuẩn quốc gia và thực thi cụ thể ở tuyến địa phương. Việc
ra đời Đề án 32 và Đề án 1215 của Chính phủ trên cơ sở đề xuất của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã tạo một khung cảnh mới thúc đẩy cho sự hợp tác giữa các bên,
đặc biệt giữa Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế.
Với định hướng chăm sóc sức khỏe của Đảng Cộng Sản Việt Nam và khuyến cáo
của WHO về CSSKTT ở các nước đang phát triển vào thập niên đầu thế kỷ 21, thì tồn
bộ hệ thống đều ở trong tình trạng thiếu hụt đáng kể các nguồn lực cơ bản đáp ứng với
yêu cầu CSSKTT ở cả hai loại hình cơ sở BTXH và tại cộng đồng. Trong đó loại hình
cơ sở BTXH tuyến tỉnh thuộc tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng các nguồn lực. Chất
lượng nhân lực đạt yêu cầu về nhiệt tình nghề nghiệp, nhưng đội ngũ này hồn tồn
khơng được đào tạo cơ bản về phương pháp làm việc và kiến thức, kỹ năng chuyên
môn trong chăm sóc và PHCN cho người bệnh tâm thần. Hạ tầng cơ sở không được
thiết kế, trang bị và vận hành theo nguyên tắc của một cơ sở chăm sóc và PHCN cho
bệnh nhân tâm thần, với quan điểm lấy bệnh nhân là trung tâm phục vụ và đảm bảo
tơn trọng quyền cơ bản của người bệnh. Tồn bộ các cơ sở đánh giá đều nằm trongtình
trạng thiếu các hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc cụ thể, thiếu mối quan hệ và hợp tác
chuyên môn giữa các cấp trong hệ thống cũng như với các hệ thống liên quan, đặc biệt
với hệ thống do Bộ Y Tế vận hành. Thêm vào đó, nguồn tài chính ở trong tình trạng chỉ
có thể đáp ứng với yêu cầu giữ bệnh nhân hơn là chăm sóc và PHCN cho bệnh nhân.
Trong 5 năm qua, hệ thống do Bộ LĐTBXH quản lý được vận hành với mục tiêu
cụ thể là triển khai thực hiện các Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 và Nghị
định 13/2010/NĐ-CP ban hành ngày 27/02/2010 về chính sách trợ giúp các đối tượng
BTXH, trong đó có người bệnh tâm thần. Xét đến thời điểm 2011, toàn bộ hệ thống thực
hiện tương đối tốt Nghị định 13/NĐ-CP cho bệnh nhân tâm thần. Có khoảng 10.000
người tâm thần nặng đang được chăm sóc và PHCN trong hệ thống các cơ sở BTXH; giải
quyết trợ cấp hàng tháng cho 102.210 người năm 2008, tăng lên gần 200.000 người năm
2010. Tuy nhiên, do định nghĩa “người bệnh tâm thần” bị bó hẹp ở đối tượng bệnh nhân
1
điều trị tại các bệnh viện chuyên khoa tâm thần, nên sự bỏ lọt đối tượng của bên y tế cũng
trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động của bên hệ thống LĐTBXH quản lý.
Nhìn tổng thể, hệ thống CSSKTT của Bộ LĐTBXH và cả của Bộ Y tế đều mới
chỉ tập trung vào nhóm bệnh loạn thần và bỏ lọt các nhóm đối tượng tâm thần phổ biến
khác như trầm cảm, lo âu, sang chấn sau stress, rối loạn tâm thần do rượu và đặc biệt
các nhóm bệnh tâm thần ở phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ, trẻ em và trẻ vị thành niên.
Các nội dung trợ giúp khác đặc thù cho người tâm thần chưa được triển khai vì rất nhiều
ngun nhân, trong đó ngun nhân chính đến từ thiếu vắng hệ thống tuyên truyền
hiểu biết trong cả đội ngũ thực thi hệ thống và dân chúng nói chung về kiến thức cơ bản
trong dự phịng, điều trị và chăm sóc PHCN cho bệnh nhân tâm thần tại cộng đồng.
Hệ thống chính sách trợ giúp xã hội trong CSSKTT đang được nâng cấp thông
qua hai Đề án quốc gia: “Đề án 32/QĐ-TTg về phát triển nghề công tác xã hội” và “Đề
án 1215/QĐ-TTg về trợ giúp xã hội và phục hồi cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm
trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011-2020”. Điều này phản ánh một sự chuyển động
tích cực từ Bộ LĐTBXH và một quyết tâm chính trị cao của Nhà nước Việt Nam trong
hai năm qua vì mục tiêu cơng bằng và an sinh xã hội nói chung và vì người bệnh tâm
thần nói riêng.
Tuy nhiên, trong hồn cảnh thiếu hụt trầm trọng các nguồn lực, thiếu sự hợp tác
giữa các bộ ngành liên quan và hai Đề án 32 và Đề án 1215 mới ở giai đoạn đầu của tiến
trình xác định mơ hình, nên tình trạng chung cho đến nay vẫn chưa có gì thay đổi đáng
kể so với thời điểm nhóm.
Đứng trước những yêu cầu của đổi mới, đòi hỏi nghiên cứu cũng phải làm rõ
các cơ sở khoa học của chính sách trợ giúp xã hội trong CSSKTT tại Việt Nam để có
căn cứ rõ ràng cho việc đánh giá thực trạng chính sách.
Như vậy, xuất phát từ những lý do đã nêu trên, NCS đã lựa chọn đề tài “Chính
sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam” làm đối tượng
nghiên cứu luận án tiến sĩ với mục tiêu là tìm kiếm giải pháp hồn thiện nhóm chính
sách này tại Việt Nam trong điều kiện phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở khoa học và thực tiễn đánh giá về thực trạng chính sách TGXH
trong CSSKTT tại Việt Nam, luận án đề xuất các giải pháp chủ yếu, có căn cứ khoa
học rõ ràng nhằm hồn thiện chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam định
hướng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025.
2
2.2. Mục tiêu cụ thể
+ Chính sách trợ cấp xã hội;
Thứ nhất, xây dựng khung lý thuyết cho nghiên cứu về chính sách TGXH trong
CSSKTT. Xác định những chính sách cơ bản, những nhân tố ảnh hưởng đến chính
sách, đồng thời làm rõ những tiêu chí để đánh giá chính sách.
+ Chính sách phát triển cơ sở bảo trợ xã hội;
Thứ hai, phân tích thực trạng chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam trong
giai đoạn từ năm 2011 (là năm Đề án 1215 của Thủ tướng Chính phủ được ban hành) đến
hết năm 2015. Từ đó, chỉ rõ những điểm mạnh cũng như những điểm yếu của chính sách,
lý giải nguyên nhân dẫn tới những điểm mạnh, điểm yếu của chính sách.
Thứ ba, đề xuất các giải pháp có cơ sở khoa học nhằm hồn thiện chính sách
TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam phù hợp với điều kiện nguồn lực trong nước và
bối cảnh hội nhập quốc tế của Việt Nam.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, luận án sẽ tập trung trả lời các câu hỏi
nghiên cứu sau:
- Hệ thống chính sách TGXH trong CSSKTT bao gồm những chính sách bộ
phận cơ bản nào?
- Các yếu tố nào tác động đến chính sách TGXH trong CSSKTT?
- Phương pháp nào được sử dụng để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các chính
sách bộ phận thuộc chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam?
- Thực trạng chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam hiện nay như thế
nào? Điểm mạnh, điểm yếu của chính sách và nguyên nhân của những điểm mạnh,
điểm yếu?
- Cần phải có những giải pháp và kiến nghị nào nhằm hồn thiện chính sách
TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Chính sách TGXH trong CSSKTT tại
Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt
Nam là một hệ thống các chính sách khá phức tạp, có mối liên hệ khá mật thiết với nhau.
Trong phạm vi nghiên cứu, luận án sẽ tập trung đi sâu vào 05 chính sách cơ bản sau:
+ Chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm;
+ Chính sách phát triển các dịch vụ cơng tác xã hội;
+ Chính sách phát triển nguồn nhân lực làm cơng tác trợ giúp xã hội.
- Phạm vi nghiên cứu về khơng gian: Luận án tập trung nghiên cứu chính sách
TGXH trong CSSKTT trên phạm vi toàn quốc.
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Luận án xem xét, đánh giá thực trạng chính
sách TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam từ năm 2010 đến năm 2015; đưa ra quan
điểm, định hướng, giải pháp hồn thiện chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt
Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025.
5. Quy trình nghiên cứu
Bước 1: Nghiên cứu tài liệu nhằm xác định khung lý thuyết về chính sách
TGXH trong CSSKTT.
Bước 2: Thu thập tài liệu, số liệu và tiến hành phân tích thực trạng chính sách
TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam trong giai đoạn 2010-2015; đánh giá những điểm
mạnh, điểm yếu và nguyên nhân của những điểm mạnh, điểm yếu trong chính sách
TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam.
Bước 3: Trên cơ sở kết luận phân tích thực trạng, đề xuất một số định hướng và
giải pháp nhằm hồn thiện chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2025.
6. Tóm tắt phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, luận án sử dụng nhiều phương pháp nghiên
cứu với khung nghiên cứu sẽ được trình bày cụ thể trong chương III.
7. Các kết quả nghiên cứu
7.1. Về mặt khoa học
Luận án bổ sung, làm rõ khung lý thuyết nghiên cứu chính sách TGXH trong
CSSKTT dựa trên cơ sở tổng quan các cơng trình nghiên cứu trong và ngoài nước
trước đây về vấn đề này, cụ thể là:
Thứ nhất, xác định được 05 chính sách bộ phận cơ bản trong chính sách TGXH
trong CSSKTT, bao gồm: Chính sách trợ cấp xã hội; Chính sách phát triển cơ sở bảo
3
4
trợ xã hội; Chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm; Chính sách phát triển các dịch vụ
cơng tác xã hội; Chính sách phát triển nguồn nhân lực làm cơng tác trợ giúp xã hội. 05
chính sách này là 05 chính sách cơ bản, có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện
mục tiêu chung của chính sách TGXH trong CSSKTT.
Thứ hai, luận án xác định những tiêu chí để đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả, sự
phù hợp của chính sách TGXH trong CSSKTT; từ đó làm cơ sở khoa học trong đánh
giá chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam.
Thứ ba, luận án xác định 02 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến chính sách TGXH
trong CSSKTT, bao gồm: Nhóm yếu tố khách quan; Nhóm yếu tố chủ quan.
7.2. Về mặt thực tiễn
Luận án đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế của chính sách
TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam trong giai đoạn 2010-2015; Đưa ra một số giải
pháp nhằm hồn thiện chính sách đến năm 2020.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo cho các nghiên
cứu tiếp theo về chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam.
8. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của
luận án được chia thành 05 chương:
Chương I: Tổng quan các cơng trình nghiên cứu.
Chương II: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về chính sách trợ giúp xã hội
trong chăm sóc sức khỏe tâm thần.
Chương III: Phương pháp nghiên cứu.
Chương IV: Phân tích thực trạng chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức
khỏe tâm thần tại Việt Nam.
Chương V: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội trong
chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì trên thế giới hiện nay cứ 04 người thì có
01 người mắc phải 01 hay nhiều rối loạn tâm thần hoặc rối loạn hành vi trong suốt
cuộc đời. Hiện trên thế giới có khoảng 450 triệu có các rối loạn tâm thần, trong đó 120
triệu bệnh nhân trầm cảm, 50 triệu bệnh nhân động kinh và 40 triệu bệnh nhân tâm
thần phân liệt...
Ở Việt Nam với sự phát triển của nền kinh tế thị trường mở cửa, và sự phát
triển nhanh của tiến bộ kỹ thuật thông tin đã tác động mạnh mẽ đến SKTT. Chỉ tính
riêng 10 bệnh tâm thần thường gặp là tâm thần phân liệt, trầm cảm, động kinh, rối loạn
lo âu, sa sút trí tuệ ở người già, loạn tâm thần sau chấn thương sọ não, chậm phát triển
tâm thần, rối loạn hành vi ở thanh thiếu niên, rối loạn tâm thần do rượu, ma túy thì có
khoảng 15% dân số, tương đương với khoảng 13 triệu người (Bộ Y tế - 2014). Gần
đây một số nghiên cứu có quy mơ nhỏ hơn cho thấy tỷ lệ các rối loạn tâm thần khoảng
20 - 30%. Hiện SKTT được WHO xếp hạng thứ 4 trong các vấn đề sức khỏe, dự kiến
đến năm 2020 SKTT sẽ được xếp hạng thứ 2 sau các bệnh về tim mạch. Nguyên nhân
theo WHO là do những yếu tố sau: điều kiện cuộc sống (nghèo khổ kéo dài), thiếu
điều kiện giáo dục, ăn ở, triển vọng công ăn việc làm; cơng việc q tải; các thay đổi
nhanh chóng về kinh tế xã hội, xung đột chính trị; và ảnh hưởng của thiên nhiên đặc
biệt là sau các thảm họa.
Tuy nhiên, đối với các quốc gia, đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế chưa
phát triển một cách tồn diện như Việt Nam thì việc nghiên cứu ban hành và triển khai
các chính sách đối với người tâm thần hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập. Vấn đề này
cũng được một số nhà nghiên cứu trong và ngoài nước lựa chọn. Trong đó, có thể đề
cập đến các nghiên cứu tiêu biểu sau.
1.1. Các nghiên cứu nước ngoài
1.1.1. Các nghiên cứu liên quan đến sức khỏe tâm thần
(i) “Bản đồ SKTT 2011 (Mental Health Atlas 2011)” của Tổ chức Y tế thế giới
- WHO là một cơng trình lớn tiêu biểu. Atlas là một dự án mà WHO đã triển khai từ
nhiều năm, bắt nguồn từ 2001, sau đó được tiếp tục cập nhật 2005. Atlas 2011 là phiên
bản mới nhất hiện nay. Dự án này được chủ trì bởi tổng hành dinh của WHO tại
Geneva và được giám sát, điều phối bởi Shekhar Saxena - người phụ trách bộ phận
5
6
SKTT trong Tổ chức Y tế Thế giới. (WHO, 2011)
Atlas 2011 đã khẳng định những phát hiện từ những công trình trước đó rằng
các nguồn lực hiện vẫn khơng đủ đáp ứng so với sự bùng phát của những rối loạn thần
kinh tâm trí. Tuy nhiên, sự thiếu hụt nguồn lực không đồng đều nhau và khoảng cách
là các dịch vụ trợ giúp xã hội, bao gồm: thúc đẩy các hình thức hỗ trợ nhà ở, việc làm,
liên kết xã hội, hòa nhập người bệnh tâm thần vào cộng đồng, xây dựng các chương
trình CSSKTT trong trường học, bao gồm cả các chương trình phát hiện sớm lẫn giáo
dục SKTT cho trẻ em, giám sát sự tôn trọng nhân quyền cho người bệnh tâm thần, vận
giữa nguồn lực và nơi tập trung bệnh là rất lớn tại những nước đang phát triển. Bên
cạnh đó, những phát hiện tích cực cho thấy số giường bệnh tại các bệnh viện tâm thần
đang giảm đi tại hầu hết các quốc gia. Phát hiện này có thể chỉ ra rằng các nước đang
(v) Nghiên cứu “Reform of the MOLISA Centres for persons with severe mental
disorders”của tác giả Harry Minas năm 2009, đã đề cập rối loạn tâm thần là một bệnh
giảm chăm sóc tập trung mà thay thế bằng chăm sóc tại cộng đồng theo đúng khuyến
cáo của WHO.
(ii) “Chương trình hành động SKTT 2013-2020” (cơng bố tháng 5/2013) của
WHO. Trong đó, WHO nhấn mạnh: “Các yếu tố ảnh hưởng tới SKTT không chỉ bao
động quyền cho người bệnh tâm thần... (Vikram Patel, 2007)
có thể chẩn đốn được, nó gây nên những biến đổi căn bản về tư duy, cảm xúc và hành
vi và làm suy yếu năng lực làm việc và năng lực thực hiện các quan hệ cá nhân thông
thường của người bệnh. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, có nhiều loại khác nhau của rối
loạn tâm thần, một số thể loại thường gặp như các rối loạn trầm cảm, lo âu, một số
gồm các đặc điểm cá nhân như khả năng kiểm soát tư duy, cảm xúc, hành vi và tương
tác với người khác, mà còn bao gồm các yếu tố xã hội, văn hóa, kinh tế, chính trị, và
mơi trường, như chính sách quốc gia, bảo trợ xã hội, mức sống, điều kiện làm việc, và
không thường gặp lắm như bệnh tâm thần phân liệt hay rối loạn cảm xúc; tuy nhiên tất
cả các bệnh tâm thần đều gây suy giảm chức năng trầm trọng đối với người bệnh, điều
này thường ít khi được những người chưa bao giờ mắc bệnh tâm thần coi trọng. (Harry
các trợ giúp xã hội từ cộng đồng”. WHO và hầu hết các nước đều thừa nhận sự ưu việt
của mơ hình CSSKTT dựa vào cộng đồng và ủng hộ việc xây dựng một hệ thống
CSSKTT tồn diện trong đó có chăm sóc xã hội song song với chăm sóc y tế, thường
thơng qua hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu (primary care) và qua hệ thống cơ sở y
(vi) Bài viết “SKTT và chương trình nghị sự thế giới”của các tác giả Anne
Becker và Arthur Kleinman, đăng trên tạp chí New England Journal of Medicine,
tháng 7 năm 2013. Bài này là một bản tổng kết các kết quả nghiên cứu mới nhất về
tế cộng đồng. (WHO, 2013)
(iii) Văn bản “Hướng dẫn về SKTT và trợ giúp tâm lý - xã hội” của WHO năm
2007. WHO đưa ra định nghĩa trợ giúp tâm lý xã hội trong SKTT là “bất cứ hoạt động
hỗ trợ nào từ địa phương hoặc bên ngồi, với mục đích bảo vệ và tăng cường sức khỏe
tâm lý - xã hội và/hoặc ngăn ngừa, điều trị các rối loạn tâm thần”. Các chính sách này
cung cấp các dịch vụ trợ giúp trong một số lĩnh vực chính: Trị liệu, tư vấn tâm lý - xã
hội; Trợ giúp về giáo dục - đào tạo; Lao động - việc làm - thu nhập; Nhà ở - chăm sóc
tại gia; Giao thơng - đi lại; Giải trí - nghệ thuật - vui chơi - thể dục thể thao; Hòa nhập
xã hội. (WHO, 2007)
(iv) Bài viết “SKTT Thế giới: Một năm nhìn lại”của tác giả Vikram Patel và cộng
Minas, 2009)
SKTT thế giới trong những năm gần đây và chỉ ra chương trình nghị sự trong thời gian
tới. Nổi bật nhất, các tác giả chỉ ra hơn 75% người có các rối loạn tâm thần nặng ở các
nước chậm phát triển không được điều trị, đặc biệt ở các nước thuộc nhóm thu nhập
thấp và trung bình. Các tác giả cũng chỉ ra ở các nước này thiếu trầm trọng đội ngũ
nhân lực làm việc trong CSSKTT và mơ hình chăm sóc tại các bệnh viện (chủ yếu là
khám, phát thuốc) vừa “không thực tế” vừa “không hợp lý”. Các tác giả cho rằng cần
phát triển mơ hình chăm sóc hợp tác (collaborative care) trong cộng đồng, có phân bổ
trách nhiệm, chia sẻ cơng việc giữa các nhân viên khác nhau - bác sĩ, nhà tâm lý, y tá,
trị liệu việc làm, nhân viên CTXH. Đây cũng là các khuyến cáo của WHO và là mơ
hình mà các nước phát triển đang hướng tới. (Anne Becker và Arthur Kleinman, 2013)
1.1.2. Các nghiên cứu liên quan đến hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm thần
sự, đăng trên tạp chí Lancet, số 372, năm 2008. Trong bài viết này, các tác giả điểm lại
phản ứng của các tổ chức quốc tế, các quốc gia, các nhà nghiên cứu, và người thực hành
trong lĩnh vực SKTT một năm sau khi Tạp chí Lancet đăng một loạt 5 bài về tình trạng
CSSKTT trầm trọng ở hầu hết các nước trên thế giới. Theo các tác giả, chỉ trong 1 năm,
(i) Báo cáo “Lồng ghép SKTT vào hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu” (xuất
bản năm 2008) và báo cáo “Cải thiện hệ thống y tế và dịch vụ SKTT” (xuất bản năm
2009) của WHO kết luận rằng có một nghịch lý trong việc cung cấp dịch vụ CSSKTT
sự chú ý đến SKTT đã tăng nhiều; các tổ chức quốc tế như WHO và các chính phủ đã sử
dụng các dữ liệu mà Lancet cung cấp để xây dựng chính sách, chương trình CSSKTT.
Một trong các chiến lược mà các xã hội sử dụng để có thể nhân rộng dịch vụ CSSKTT
trên thế giới, đó là: ở các nước có thu nhập thấp và trung bình, lẽ ra người có vấn đề về
SKTT nên nhận được điều trị thơng qua hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu (primary
care) thì họ lại thường được điều trị ở các cơ sở CSSKTT chuyên biệt. Trong khi đó, ở
7
8
các nước phát triển (Mỹ, Đức, Ý, Nhật, Tây Ban Nha), số người được chăm sóc trong
hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu ngang với số được chăm sóc ở hệ thống chuyên
biệt. (WHO, 2008, 2009)
(ii) Tài liệu “Lồng ghép SKTT vào chăm sóc sức khỏe ban đầu”của WHO xuất
bản năm 2008. Trong tài liệu này, WHO trình bày các cơ sở lý luận cho việc lồng ghép
CSSKTT vào hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu; và minh họa bằng các chương
trình lồng ghép ở 11 quốc gia khác nhau (Argentina, Úc, Belize, Brazil, Chile, Ấn Độ,
Uganda, Nam Phi, Anh, Ả Rập Xê Út, vv...). Trong khuyến nghị về cách thức lồng
ghép ở mỗi nước, WHO khẳng định rằng CSSKTT qua hệ thống chăm sóc sức khỏe
ban đầu phải bao gồm cả các dịch vụ y tế lẫn các dịch vụ trợ giúp xã hội, phải có sự
phối hợp để chuyển tuyến, giới thiệu người bệnh từ các cơ sở y tế tới các dịch vụ can
thiệp tâm lỹ xã hội và dịch vụ cộng đồng khác nhau. (WHO, 2008)
hội nhập sức khoẻ tâm thần Châu Âu năm 2014 của EIU, so sánh mức độ nỗ lực của
mỗi nước trong việc thực hiện các chỉ số liên quan đến việc hội nhập các cá nhân mắc
bệnh tâm thần vào xã hội.
1.1.3. Các nghiên cứu liên quan đến chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần
(i) Tài liệu “Hướng dẫn xây dựng chính sách SKTT” của WHO (xuất bản năm
2004) đưa ra các hướng dẫn cụ thể cho các nước để xây dựng chính sách SKTT và kế
hoạch SKTT. Về chính sách SKTT, tài liệu này chỉ ra 7 bước cơ bản để xây dựng
chính sách là: (1) Đánh giá nhu cầu trong dân số, (2) Thu thập bằng chứng về các
chiến lược hiệu quả, (3) Mời tư vấn và thương lượng, (4) Trao đổi với các quốc gia
khác, (5) Đặt ra tầm nhìn, giá trị, nguyên lý và mục tiêu cho chính sách, (6) Xác định
các lĩnh vực hành động, (7) Xác định vai trò và trách nhiệm chính của các thành phần
(iii) Nghiên cứu “Mental health, Pearson Education Inc-Allyn and Bacon” của
các tác giả Jerry L.Johnson và George Grant, Jr năm 2005. Tại nhiều quốc gia phát
khác nhau. Trong tài liệu này, WHO khẳng định rằng chỉ có một vài nước có chính
sách xã hội trong đó có đề cập riêng biệt tới SKTT, và thường thì tập trung vào việc
thúc đẩy hiểu biết xã hội về SKTT. Ở một số nước, chính sách TGXH nằm dưới dạng
triển trên thế giới như Mỹ, Úc, Pháp đã chuyển hướng xây dựng các Trung tâm tâm
thần lớn tập trung hàng mấy ngàn giường thay thế bằng xu hướng phân tán ra nhiều
trung tâm quy mô nhỏ ở các địa phương để làm cho việc điều trị, chăm sóc và PHCN
cho người bệnh tâm thần gần gũi với cộng đồng và gia đình hơn. Đó là các dịch vụ tư
quy định về ngân sách khung ở cấp Trung ương cho các dịch vụ xã hội hoặc dịch vụ y
tế; và để cho các cấp địa phương xin ngân sách rồi tự xây dựng chương trình TGXH.
Chính vì thế, tuy khơng có chính sách TGXH rõ ràng nhưng các dịch vụ và chương
trình TGXH cho nhóm đối tượng có vấn đề về SKTT thì tồn tại ở hầu hết các nước và
vấn, trị liệu tâm lý, lao động trị liệu, trợ giúp học nghề, việc làm, giải quyết trợ cấp xã
hội và trợ giúp khác tại cộng đồng. (Jerry L. Johnson và George Grant. Jr, 2005)
rất đa dạng, nhất là các nước có thu nhập cao. (WHO, 2004)
(iv) Bài viết “SKTT ở Malaysia: Lịch sử, vấn đề hiện tại và hướng phát triển
(ii) Báo cáo “Bản đồ SKTT thế giới” của WHO (xuất bản năm 2011) cho biết ở
184 nước thì 110 nước (gần 60%) có chiến lược hoặc chính sách quốc gia về SKTT dù
tương lai” của các tác giả Sheu Tsuey Chong, M. S. Mohamad, và A. C. Er, đăng trên
tạp chí Asian Social Sciences, Số 9, quyển 6, năm 2013. Các tác giả cho biết, Malaysia
đã có các Luật SKTT từ đầu thế kỷ 20 dựa trên các luật của Anh và Ấn Độ. Năm 2001,
Bộ Y tế Malaysia đưa ra Luật SKTT Quốc Gia. Trong Luật này, Malaysia bắt đầu đưa
mức độ phát triển của các chính sách này khác nhau - có nước có chính sách chi tiết và
cập nhật, có nước vẫn dùng chính sách đã xây dựng từ thập kỷ 60. Trong tổng số này,
khoảng 77% các nước có thu nhập cao có chính sách quốc gia, so với tỷ lệ 50% ở các
nước có thu nhập thấp và trung bình thấp. Tương tự, xét về mặt luật pháp, 77% các
các hoạt động trị liệu tâm lý xã hội vào CSSKTT để bù đắp cho hướng điều trị tập
trung chủ yếu vào khám và phát thuốc trước đây. Tuy nhiên, các tác giả không chỉ rõ
các dịch vụ trợ giúp xã hội tại cộng đồng là gì, nên được thực hiện như thế nào ở
nước thu nhập cao có luật về SKTT trong khi chỉ có 38% các nước thu nhập thấp và
47% các nước có thu nhập trung bình thấp có luật về SKTT. Tuy nhiên, trong báo cáo
này không đề cập đến chính sách TGXH. Báo cáo này cũng khẳng định nếu xét riêng
Malaysia. (Sheu Tsuey Chong và ctv, 2013).
(v) Báo cáo “Mental health and integration - Provision for supporting people
with mental illness: A comparison of 15 asia pacific countries” theo The Economist
Intelligence Unit (EIU) (2016). EIU đã tiến hành nghiên cứu nhằm đánh giá mức độ
về chính sách TGXH trong chăm SKTT, hầu hết các nước khơng có văn bản pháp luật
hay chính sách riêng biệt cho vấn đề này, mà thường nằm rải rác trong các văn bản
chung về các vấn đề xã hội có liên quan đến ngườ có vấn đề về SKTT, ví dụ như thơng
qua luật giáo dục, luật về người khuyết tật, luật ASXH, luật bảo hiểm xã hội, luật trợ
cam kết của 15 quốc gia trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương trong vấn đề chăm
sóc người tâm thần tại các quốc gia này. Báo cáo tập trung vào kết quả nghiên cứu Chỉ
số tích hợp y tế tâm thần Châu Á - Thái Bình Dương. Trên cơ sở các bài học từ Chỉ số
(iii) Bài viết “Cải cách dịch vụ SKTT ở Nhật”của các tác giả Hiroto Ito và Lloyd
Sederer, đăng trên tạp chí Harvard Review of Psychiatry, số 7, quyển 4, năm 1999.
9
10
giúp người nghèo và người cao tuổi, các văn bản về nhân quyền, v.v... (WHO, 2011)
Trong bài viết này, các tác giả trình bày các yếu tố kinh tế và xã hội đưa đến cải cách
dịch vụ SKTT ở Nhật. Theo các tác giả, Luật CSSKTT đầu tiên ở Nhật là Luật Quản
chế và bảo vệ NTT, được thông qua năm 1900. Đến năm 1950, Nhật thơng qua Luật vệ
sinh tâm thần, theo đó bắt buộc những người có rối loạn tâm thần phải đi viện điều trị,
nhân quyền), Chương 16 (Gia đình và người chăm sóc của người có vấn đề về SKTT)
đề cập trực tiếp tới các chính sách và chương trình TGXH cho người có vấn đề về
SKTT ở các nước châu Âu. (Martin Knapp và ctv, 2007)
nhờ đó chấm dứt tình trạng giam lỏng tại nhà đối với người có rối loạn tâm thần. Một
loạt các scandal vào những năm 1980 khiến Nhật đưa ra Luật SKTT vào năm 1995.
Luật này thúc đẩy khái niệm “bình thường hóa” bằng cách lần đầu tiên thừa nhận người
cách Thụy Điển, Pháp, và Anh phục vụ các nhóm mục tiêu”của tác giả Anna Melke,
bảo vệ tại Đại học Gothenburg, năm 2010. Tác giả Melke cho biết năm 2006, Thụy
Điển có một làn sóng các chương trình CSSKTT nhằm vào 4 mục tiêu cho năm 2015,
bệnh tâm thần được coi là có khuyết tật, giống như những người có khuyết tật thể chất.
Những biện pháp chăm sóc mới bao gồm phá bỏ trại tâm thần tập trung, phân loại dịch
vụ, đảm bảo quyền tiếp cận dịch vụ một cách công bằng, phá bỏ các kỳ thị trong xã hội.
Về cơ bản, Nhật cũng đi theo hướng chung của thế giới là tăng cường CSSKTT dựa vào
cộng đồng, tăng cường các hoạt động TGXH thay vì chỉ khám chữa bệnh bằng thuốc
hoặc quản thúc bệnh nhân tại các cơ sở. (Hiroto Ito và Lloyd Sederer, 1999)
(vi) Luận án tiến sĩ “Chính sách SKTT và Nhà nước phúc lợi: Nghiên cứu về
đó là: tất cả những người có vấn đề về SKTT dạng nặng phải (1) có nhà ở hợp lý, (2)
phải có một cơng việc có nghĩa, dù là việc làm có thu nhập, việc làm khơng thu nhập
hay học nghề, (3) phải được chăm sóc và trợ giúp đầy đủ theo nhu cầu, và (4) được hỗ
trợ để hòa nhập vào xã hội đẩy đủ và có một mạng lưới quan hệ xã hội như họ mong
(iv) Cuốn “Khỏe hơn nhưng khơng khỏe mạnh: Chính sách SKTT của Mỹ từ
muốn. Để thực hiện điều này, Thụy Điển tăng cường các TGXH về nhà ở, quản lý ca,
trợ giúp cá nhân, trợ giúp việc làm, đồng thời tăng phúc lợi, đẩy mạng PHCN, các hoạt
động điều phối dịch vụ chăm sóc khỏe tâm thần, nghiên cứu, đánh giá, và trợ giá.
năm 1950”của các tác giả Richard Frank và Sherry Glied năm 2006. Cuốn sách này có
mục đích tổng kết về chính sách SKTT của Mỹ từ năm 1950 tới 2005. Các tác giả kết
luận rằng từ năm 1950, tỷ lệ người có vấn đề về SKTT trong tổng dân số Mỹ tương
đối ổn định. Cũng kể từ thập kỷ 1950, nước Mỹ đã phát triển thêm nhiều chính sách và
Chính quyền trung ương xây dựng các văn bản khung như Luật dịch vụ xã hội, Luật
khuyết tật; các tiểu bang (state) và hạt (county) là nơi xây dựng và triển khai các
chương trình CSSKTT cũng như tự chi trả cho các dịch vụ này. Ước tính 70% ngân
sách cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe được đóng góp từ thuế của hạt và tiểu bang.
dịch vụ CSSKTT, đặc biệt phải kể đến việc ứng dụng khoa học và các công nghệ hiện
đại vào việc tạo ra các thiết bị trợ giúp cho người có vấn đề về SKTT cũng như các
chính sách bảo hiểm khuyết tật và phúc lợi như Medicaid và chương trình Hỗ trợ thu
Người bệnh chỉ phải đóng góp rất ít (khoảng 3%). (Anna Melke, 2006)
nhập an sinh SSI trong Bộ Luật ASXH. Ở chương cuối, các tác giả cho rằng nước Mỹ
cần cải cách thêm nữa cách tiếp cận chính sách và dịch vụ cho người có vấn đề về
SKTT, mà cụ thể là phải dừng việc tách họ thành nhóm đối tượng đặc biệt trong chăm
sóc; thay vì thế, nên chăm sóc theo hướng hịa nhập và phải thay đổi các loại hình
5 người Canada thì có một người có vấn đề về SKTT. Tuy nhiên, cho đến năm 2007,
Canada là nước duy nhất trong khối G8 khơng có một chiến lược quốc gia về SKTT.
Vì thế, năm 2007, Chính phủ Canada thành lập Ủy Ban SKTT Canada, một tổ chức
NGO với nhiệm vụ xây dựng chiến lược này. Tháng 5-2012, Ủy Ban này cơng bố
chăm sóc. (Richard Frank và Sherry Glied, 2006)
(vii) Báo cáo “Thay đổi hướng đi, thay đổi cuộc đời: Chiến lược SKTT của
Canada” do Ủy ban SKTT Canada xuất bản năm 2012. Theo báo cáo thì hàng năm, cứ
(v) Cuốn “Chính sách và thực hành SKTT ở Châu Âu: Hướng đi tương lai
trong CSSKTT”của các tác giả Martin Knapp, David McDaif, Elias Mossialos, và
chiến lược quốc gia về SKTT, theo đó u cầu chính phủ tăng ngân sách cho SKTT từ
7% lên 9%, chú trọng đặc biệt vào các chính sách và dịch vụ phịng ngừa. Xét về
TGXH trong CSSKTT, Canada khơng có một chính sách riêng mà chỉ có các chương
Graham Thornicroft năm 2007. Cuốn sách này gồm 18 chương, mỗi chương là một
nghiên cứu độc lập có mục đích thảo luận về các vấn đề nổi cộm trong q trình xây
dựng chính sách SKTT ở châu Âu, nhằm tạo ra một hệ thống CSSKTT công bằng và
hiệu quả hơn ở châu Âu. Trong các chương này, đặc biệt có Chương 3 (Giải quyết vấn
trình TGXH được xây dựng dựa trên Chiến lược quốc gia về SKTT. Khi xây dựng các
chương trình này, Canada đặc biệt nhấn mạnh vào hai điểm: (1) TGXH ở tất cả các
giai đoạn trong vịng đời, tại các mơi trường gia đình, trường học, và nơi làm việc; (2)
chú trọng phòng ngừa và can thiệp sớm với SKTT. (Mental Health Commission of
đề cô lập xã hội ở châu Âu), Chương 10 (Các cải cách trong chăm sóc sức khỏe tại
cộng đồng: cân bằng giữa CSSKTT tại bệnh viện và tại cộng đồng), Chương 12 (Nhà
ở và việc làm), Chương 13 (Xây dựng chính sách SKTT: một cách tiếp cận từ hướng
Canada, 2012)
(viii) Bài viết “Luật SKTT mới của Trung Quốc”của tác giả Michael Phillips và
các cộng sự, đăng trên tạp chí American Journal of Psychiatry, số tháng 6 năm 2013.
11
12
Trong bài báo này, các tác giả bàn về Luật SKTT mới thông qua vào tháng 11-2012
của Trung Quốc. Theo luật này, Trung Quốc áp dụng quyền tự nguyện điều trị cho các
bệnh nhân bị tâm thần nặng thay vì cho phép người nhà có thể ép người bệnh tâm thần
vào các bệnh viện hoặc trại tâm thần như trước đây. Mặt khác, luật quy định chỉ các
trình này có hai chương trình cơ bản là Chương trình phúc lợi chăm sóc y tế Medicare
(Medicare Benefits Schedule - MBS) và Chương trình phúc lợi Dược (Pharmaceutical
Benefits Scheme - PhBS). Chương trình Medicare tập trung vào các trợ giúp liên quan
tới dịch vụ y tế và xã hội; cịn chương trình Dược tập trung vào các trợ giúp liên quan
bác sĩ chuyên khoa tâm thần mới được kê đơn, ngay cả các bác sĩ đa khoa thông
thường hoặc các nhà tâm lý lâm sàng cũng không được phép. Trung Quốc thông qua
luật này để chuyển gánh nặng CSSKTT từ các bệnh viện tâm thần chuyên biệt về hệ
tới thuốc như kê đơn thuốc, trợ giá thuốc, vân vân... Đối với chương trình Medicare,
chính phủ Úc trợ cấp tồn bộ hoặc một phần chi phí cho người có vấn đề SKTT trong
một loạt các dịch vụ y tế, mà lớn nhất (43,5%) là các dịch vụ tham vấn và trị liệu tâm
thống chăm sóc sức khỏe ban đầu và hệ thống y tế cộng đồng. Trong bài báo này, các
tác giả tiếp cận việc TGXH cho CSSKTT từ góc độ quyền của người bệnh tâm thần
trong xã hội. Các tác giả chỉ ra những bất cập trong mơ hình CSSKTT hiện tại cho
việc trao quyền tự quyết cho người bệnh tâm thần đối với bệnh của chính mình, do đó
lý - xã hội với các bác sĩ tâm lý và nhân viên trị liệu khác như nhân viên CTXH (trị
liệu cá nhân, trị liệu gia đình, các trị liệu chuyên biệt như trị liệu việc làm, trị liệu giao
tiếp, vv...). Cụ thể hơn, MBS có 3 chương trình chính: trợ giá tồn bộ hoặc một phần
cho các dịch vụ tâm - thần kinh với bác sĩ thần kinh (MBS - subsidized psychiatrist
vận động Trung Quốc cần có thêm các chính sách hỗ trợ; nhưng các tác giả vẫn khẳng
định rằng chủ trương bảm đảo quyền công dân, quyền con người của người bệnh tâm
thần là chủ trương đúng, bao gồm cả quyền tự quyết đối với việc điều trị bệnh của bản
services) như dịch vụ khám, tham vấn, tâm lý trị liệu, tư vấn ca, và trị liệu sốc điện; trợ
giá toàn bộ hoặc một phần cho các dịch vụ tâm lý (MBS - subsidised psychologist
services) như dịch vụ tham vấn, trị liệu với các bác sĩ tâm lý có giấy phép trị liệu lâm
thân. (Michael Phillips, 2013)
(ix) Báo cáo “Dịch vụ SKTT ở Australia” do Viện Sức khỏe và phúc lợi
Australia xuất bản xuất bản năm 2013. Theo báo cáo thì mỗi năm khoảng 3 triệu người
(tương đương 1 trong 5 người Úc) có các biểu hiện rối loạn tâm thần, trong số này, chỉ
sàng (tức có bằng tiếng sỹ về tâm lý học lâm sàng hoặc bằng thạc sỹ về tâm lý học lâm
sàng và 1 năm thực tập dưới sự hướng dẫn của một bác sĩ tâm lý lâm sàng); trợ giá
toàn bộ hoặc một phần cho các dịch vụ với các chuyên gia SKTT khác như nhà trị liệu
việc làm, điều dưỡng SKTT, nhân viên CTXH.
1/3 những người có vấn đề về SKTT tiếp cận các dịch vụ CSSKTT, chủ yếu thơng qua
hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu. Ở cấp quốc gia, Australia có hai chương trình
chính sách cơ bản về CSSKTT là Chiến lược Quốc gia về SKTT (National Mental
(x) Nghiên cứu “Mental Health in the Asia-Pacific Region: An Overview.
International Journal of Behavioral Science 2015” của Alexander Lourdes Samy,
ZaIlraFazli Khalaf, và Wah-Yun Low (2015). Các tác giả đánh giá, các vấn đề về sức
Health Strategy) và Chương trình hành động Quốc gia về SKTT (National Action Plan
on Mental Health). Đây là các chương trình khung về chính sách cho CSSKTT. Ngồi
ra, Úc có Thỏa thuận Quốc gia về chăm sóc sức khỏe (National Healthcare
Aggreement) và Thỏa thuận Quốc gia về hệ thống y tế và bệnh viện để hướng dẫn các
khỏe tâm thần đang gia tăng ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương và nó thường bị bỏ
qua hoặc khơng được chú ý. Tỷ lệ mắc các rối loạn và bệnh tật về sức khoẻ tâm thần
đang gia tăng, đặc biệt ở các nước đang phát triển và đang phát triển như Nhật Bản,
Triều Tiên, Thái Lan, Malaysia, Singapore... Để giảm thiểu vấn đề này, các tác giả cho
hoạt động của chính phủ trong CSSKTT. Dựa trên các chính sách khung trên, Úc triển
khai các chính sách và chương trình TGXH trong CSSKTT cho nhiều đối tượng tham
gia vào việc CSSKTT: trợ giúp cho người bệnh (ví dụ, các dịch vụ chi trả tồn bộ hoặc
rằng, việc phát hiện sớm những người có vấn đề sức khoẻ tâm thần là điều vô cùng
quan trọng. Các chính phủ cần chú trọng đến chăm sóc sức khoẻ tâm thần ở khu vực
nông thôn, các vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, sự hợp tác giữa các tổ chức chính phủ
một phần việc khám chữa bệnh, các loại trị liệu, các dịch vụ giáo dục, việc làm, hòa
nhập cộng đồng, vấn đề quyền), trợ giúp cho gia đình người bệnh và cộng đồng, cũng
như trợ giúp cho hệ thống CSSKTT (ví dụ trả tiền cho các bác sĩ muốn nâng cao hiểu
biết về SKTT). (Australian Institute of Health and Welfare, 2013)
và phi chính phủ cần phải được đẩy mạnh nhằm tăng cường hệ thống chăm sóc sức
khoẻ tâm thần, tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào các vấn đề sức khoẻ tâm
thần và xây dựng các chính sách có hiệu quả hơn nữa để giải quyết vấn đề này.
Đối với các dịch vụ TGXH trong CSSKTT thơng qua kênh chăm sóc sức khỏe
ban đầu (tức kênh y tế), chương trình cơ bản nhất của Úc là chương trình Medicare tức chương trình phúc lợi y tế toàn dân (universal healthcare system). Trong chương
Lessons for Countries in Transition. Asia and the Pacific Policy Studies” của Kelley
Lee et. Al (2015). Nghiên cứu này khẳng định nhu cầu cấp thiết về chăm sóc sức khoẻ
tâm thần tại các quốc gia có sự chuyển đổi nhanh chóng do tồn cầu hoá. Kinh
13
14
(xi) Nghiên cứu “The Political Economy of Mental Health in Vietnam: Key
nghiệm của Việt Nam trong những thập kỷ gần đây cho thấy cần phải hiểu rõ hơn bản
chất của quá trình chuyển đổi, chứ khơng chỉ là cách chuyển đổi xã hội, mà còn ảnh
hưởng đến nhu cầu sức khoẻ tinh thần của người dân. Nền kinh tế chính trị ở Việt
Nam cho đến nay đã đặt ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế thông qua việc hội nhập với
(ii) Một số nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Phát triển Cộng
đồng (RTCCD): (1) Tỷ lệ rối nhiễu tâm trí ở bà mẹ và trẻ em tại năm tỉnh dự án Young
Lives (2001-02) (Dự án Young Lives tại Việt Nam - DFID); (2) Gánh nặng rối nhiễu
tâm trí trong dân chúng Đà Nẵng, Khánh Hịa (2006-07) (Dự án phát triển hệ thống
nền kinh tế thế giới và cải cách khu vực công. Bài báo này kết luận quá trình chuyển
đổi ở Việt Nam đặt ra cả mối đe dọa tiềm ẩn đối với việc chăm sóc người có nhu cầu
sức khoẻ tâm thần, cũng như cơ hội để phát triển mơ hình chăm sóc sức khỏe tâm thần
CSSKTT dựa vào cộng đồng tại Đà Nẵng, Khánh Hòa (tài trợ AP/VVAF); (3) Rối
nhiễu tâm trí ở bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS, Quảng Ninh (2009-2010) (Nghiên cứu
đánh giá can thiệp chăm sóc giảm nhẹ tại Quảng Ninh, FHI 360 - kinh phí USAID);
phù hợp với bối cảnh của quốc gia.
Tựu chung lại, các đề tài, nghiên cứu nước ngoài liên quan đến lĩnh vực xã hội
trong CSSKTT có nhiều. Hầu hết các nghiên cứu tập trung vào đánh giá mô hình hoạt
động của các cơ sở chăm sóc NTT ở những khía cạnh khác nhau, có nghiên cứu thì
(4) Rối nhiễu tâm trí ở mẹ thời kỳ chu sinh và ảnh hưởng đên sức khỏe và phát triển
của con (2008-2010) - Dự án hợp tác đại học Melboume - RTCCD; kinh phí Hội đồng
nghiên cứu Australia (ARC). Những nghiên cứu này đã đạt được những kết quả như:
(RTCCD, 2006, 2008, 2009, 2011)
nghiên cứu khía cạnh tâm lý phục hồi, có nghiên cứu sâu vào hệ thống quản lý tổng
hợp, chưa có nghiên cứu nào chun sâu về chính sách TGXH trong CSSKTT.
Xác định gánh nặng rối nhiễu tâm trí trong các nhóm đối tượng nằm ngồi can
thiệp của hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm trí hiện hành;
1.2. Các nghiên cứu trong nước
Xác định bằng chứng dịch tễ học phụ vụ hình thành chính sách can thiệp phịng
Từ trước đến nay các tài liệu trong nước nghiên cứu lĩnh vực xã hội trong
CSSKTT không nhiều. Một vài năm trở lại đây, cùng với sự phát triển của kinh tế kéo
theo đó là hệ lụy như tệ nạn xã hội, bệnh tật, nghèo đói và đặc biệt là tình trạng người
mắc bệnh tâm thần, người rối nhiễu tâm trí ngày càng gia tăng. Do đó gần đây trong
nước cũng xuất hiện một số các nghiên cứu liên quan đến công tác quản lý, chăm sóc
người tâm thần cũng như chính sách TGXH trong CSSKTT như:
1.2.1. Các nghiên cứu liên quan đến sức khỏe tâm thần
(i) Dự án “Phụ nữ chia sẻ kinh nghiệm chăm sóc sức khỏe tâm trí từ các ví dụ
điển hình tích cực tại cộng đồng” do Grand Challenges Canada tài trợ với sự hợp tác
của Hội phụ nữ tỉnh Bắc Giang - năm 2012-2013. Dự án tập trung củng cố phương
pháp “chăm sóc khơng chính thức” (khơng sử dụng ngân sách nhà nước), qua việc hỗ
trợ hội phụ nữ vận động người dân học hỏi những điển hình tích cực về tự chăm sóc và
chăm sóc dựa vào cộng đồng. Mục đích của hệ thống chăm sóc khơng chính thức là
sàng lọc sớm, chăm sóc, PHCN và dự phịng tại cộng đồng. Ba mục tiêu chính của dự
án là: (1) tăng cường áp dụng phương pháp chăm sóc sức khoẻ tâm trí khơng chính
thức tại cộng đồng; (2) Giảm kỳ thị và ngược đãi đối với người mắc bệnh tâm
thần/người rối nhiễu tâm trí; (3) Duy trì mơ hình chăm sóc sức khoẻ khơng chính thức
có chất lượng bởi Hội phụ nữ tại cộng đồng sau khi dự án kết thúc. (Grand Challenges
Canada và Hội phụ nữ tỉnh Bắc Giang, 2012)
15
chống rói nhiễu tâm trí cho phụ nữ trong thời gian mang thai.
(iii) Bên cạnh đó cịn có một số bài viết trên các tạp chí khoa học trong nước
như: (1) tác giả Nguyễn Khắc Viện với bài viết “Tâm lý học lâm sàng trẻ em Việt
Nam” Nxb Y học năm 1999; (2) tác giả Nguyễn Công Khanh với bài viết “Tâm lý học
trị liệu” NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2000; (3) tác giả Nguyễn Minh Tuấn với
bài viết “Các rối loạn tâm thần: Chẩn đoán và điều trị” NXB Y học năm 2002. Tuy
nhiên các nghiên cứu chỉ tập trung vào các kỹ thuật đơn lẻ để cải thiện sức khỏe tinh
thần, cải thiện các vấn đề cảm xúc và hành vi của các cá nhân. Tâm lý trị liệu chữa trị
các vấn đề tâm lý chủ yếu bằng phương pháp sử dụng lời nói hoặc các cơng cụ giao
tiếp khác giữa nhà trị liệu và thân chủ. Trong khi đó, nghiên cứu về tâm lý học lâm
sàng lại tìm hiểu, phịng tránh và giải toả tâm trạng buồn bực và hoạt động sinh lý bất
bình thường dựa trên cơ sở tâm lý, đồng thời đẩy mạnh sự phát triển lành mạnh của
con người. Các chủ đề ví dụ bao gồm: tâm lý liệu pháp và đánh giá mức độ tâm lý.
Tâm lý học lâm sàng tập trung vào các khía cạnh trí tuệ, tình cảm, sinh học, xã hội,
hành vi của chức năng tâm lý con người trong suốt cuộc đời, ở các nền văn hoá khác
nhau và ở các tầng lớp xã hội khác nhau. (Nguyễn Khắc Viện, 1999; Nguyễn Công
Khanh, 2000)
1.2.2. Các nghiên cứu liên quan đến hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm thần
(i) Báo cáo “Khảo sát các mơ hình CSSKTT phát triển bởi các tổ chức phi chính
phủ ở Việt Nam” được thực hiện bởi Cục BTXH-Trung tâm RTCCD năm 2010. Nghiên
16
cứu được thiết kế trong khuôn khổ đề tài cấp Bộ duyệt bởi hội đồng khoa học MOLISA
và được triển khai phối hợp giữa Cục BTXH (MOLISA) và Trung tâm Nghiên cứu &
Đào tạo phát triển cộng đồng (RTCCD) thuộc Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt
Nam (VUSTA). Nghiên cứu đưa ra 10 kết luận thuộc ba mảng: (1) phạm vi và loại hình
sở định hình cho các hoạt động thiết kế tiếp theo của hai Bộ Lao động Thương binh và
Xã hội và Bộ Y tế trong các đề án 32 và 1215, dự án CSSKTT cộng đồng của chương
trình mục tiêu quốc gia và đề án 930/QĐ-TTg ngày 30/6/2009 về củng cố và xây dựng
bệnh viện chuyên khoa tâm thần tại các tỉnh hiện còn thiếu (do Bộ Y tế quản lý). Đối
dịch vụ cung cáp bởi các NGOs; (2) Tính sáng tạo, sư đâp ứng với nhu cầu thực tế, và
sự phù hợp với điều kiện của Việt Nam; (3) chất lượng và khả năng tư duy trì, phát triển.
Nghiên cứu cũng đưa ra 5 khuyến cáo chính sách phát triển CSSKTT ở Việt Nam, trong
với sự hỗ trợ từ tổ chức quốc tế, đặc biệt từ UNICEF và WHO cần được tiếp tục và đẩy
mạnh theo ba hướng: (1) Hỗ trợ để các bên thống nhất được cách tiếp cận đa ngành
(holistic), dựa vào cộng đồng trong CSSKTT, ưu tiên hỗ trợ cho những mơ hình, sáng
đó có 2 khuyến cáo đặc thù cho mảng CSSKTT cho trẻ em và sự phát triển đề án BTXH
cho người bệnh tâm thần của MOLISA. (RTCCD, 2010)
kiến giải quyết khoa học và phù hợp với điều kiện nguồn lực thực tế của Việt Nam; (2)
Hỗ trợ thực hiện sự tạo lập và vận hành nhóm hỗ trợ kỹ thuật và các hoạt động vận động
chính sách ở tầm vĩ mơ nhằm nhanh chóng tạo ra khung chính sách và pháp lý về
CSSKTTở Việt Nam; (3) Hỗ trợ VUSTA tổ chức và vận hành nhóm Think - tank dành
(ii) Dự án “Đánh giá thực trạng hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm trí thuộc
quản lý của Bộ Lao động, Thương binh & Xã hội” doWHO tài trợ với sự hợp tác của
Bộ LĐTBXH năm 2010. Hướng tới mục tiêu “công bằng, hiệu quả và bền vững” của
hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm trí, Bộ LĐTBXH hợp tác cùng UNICEF và WHO, đã
phát triển một kế hoạch hành động vì sức khỏe tâm trí giai đoạn 2011-2015. Bước đầu
cho CSSKTT đảm bảo vai trò khoa học và độc lập trong tư vấn phản biện chính sách
cho các bên liên quan chủ yếu (Ủy ban các Vấn đề Xã hội của Quốc hội, Vụ các Vấn đề
Xã hội thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ LĐTBXH, Bộ Y tế, Bộ Tài chính).
tiên là tiến hành phân tích để trả lời cho câu hỏi chiến lược và chính sách “nên tập
trung vào việc nâng cấp hoặc mở rộng một cách bền vững mạng lưới các trung tâm
BTXH hay tập trung vào sự phát triển hệ thống điều trị, chăm sóc và PHCN dựa vào
cộng đồng”. Với thỏa thuận chung của Bộ LĐTBXH-UNICEF-WHO, nhiệm vụ của
(iv) Dự án “Xây dựng mô hình điểm về TGXH và PHCN cho người rối nhiễu
tâm trí dựa vào cộng đồng tại tỉnh Bến Tre và Thanh Hóa” do Atlantic Philanthropies
tài trợ với sự hợp tác của Sở LĐTBXH & Sở Y tế tỉnh Bến Tre và tỉnh Thanh Hóa -
nghiên cứu này đã được giao cho Cục BTXH (CBTXH, Bộ LĐTBXH) cùng với sự hỗ
trợ kỹ thuật của RTCCD. Trong nghiên cứu này, RTCCD đóng vai trò là cơ quan tư
vấn, thiết kế kỹ thuật, đào tạo, thu thập số liệu, quản lý và phân tích số liệu, viết báo
năm 2013-2015. RTCCD đang tiến hành nghiên cứu và xây dựng mơ hình điểm về
TGXH và PHCN cho người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng tại tỉnh Bến Tre và
tỉnh Thanh Hóa. Từ mơ hình điểm này Cục BTXH và các tỉnh, thành sẽ có cơ sở khoa
cáo và phối hợp cùng CBTXH triển khai cấu phần A (nghiên cứu các luật định liên
quan đến việc điều trị và hỗ trợ người mắc các rối loạn tâm thần; phân tích q trình
hình thành chính sách quốc gia, và đánh giá các quy tắc quản lý hệ thống của Bộ
LĐTBXH trong mối liên hệ với hệ thống của Bộ Y tế về việc điều trị và hỗ trợ người
học và bằng chứng thực tiễn để nhân rộng mơ hình CSSKTT dựa vào cộng đồng trong
cả nước. Dự án hướng tới 4 mục tiêu chính, đó là: (1) có các nghiên cứu về nhu cầu
CSSKTT và các kinh nghiệm thực hành tốt trong CSSKTT để làm cơ sở cho việc phát
triển mơ hình CSSKTT dựa vào cộng đồng; (2) Tạo dựng một mơ hình điểm về
mắc các rối loạn tâm thần), cấu phần B (đánh giá thực trạng các trung tâm chăm sóc và
bảo trợ NTT nặng của Bộ LĐTBXH), và giám sát triển khai cấu phần C (đánh giá nhu
cầu chăm sóc của bệnh nhân tâm thần/ gia đình và năng lực cộng đồng trong việc cung
CSSKTT toàn diện, dựa vào cộng đồng phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam tại hai
tỉnh Bến Tre và tỉnh Thanh Hóa. (3) Đội ngũ cán bộ cung cấp dịch vụ CSSKTT tại hai
tỉnh tham gia dự án, có đủ năng lực để vận hành và duy trì mơ hình một cách bền vững
cấp các dịch vụ chăm sóc và BTXH đối với bệnh nhân tâm thần dựa vào cộng đồng).
(Bộ LĐTBXH, 2010)
sau giai đoạn 2013-2015. (4) Các hướng dẫn kỹ thuật tạo lập và vận hành mô hình ở
các tỉnh được xây dựng và điều chỉnh có sử dụng các bằng chứng khoa học từ việc tạo
lập mơ hình ở hai tỉnh điểm. (RTCCD, 2013)
(iii) Nghiên cứu “Đánh giá thực trạng Hệ thống CSSKTT thuộc quản lý của Bộ
Lao động Thương binh và Xã hội” của WHO tại Việt Nam năm 2011. Một kết quả đạt
(WHO, 2011)
1.2.3. Các nghiên cứu liên quan đến chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần
được quan trọng của nghiên cứu này chính là đề xuất và áp dụng chính sách CSSKTT
tại Việt Nam giai đoạn sau năm 2011. Theo đó, ưu tiên của giai đoạn này là cần thống
nhất được tầm nhìn và khung mục tiêu quốc gia về CSSKTT ở Việt Nam, nhằm tạo cơ
(i) Dự án “Đánh giá chi phí - lợi ích mơ hình chăm sóc sức khoẻ tâm trí dựa
vào cộng đồng tại Hà Tây và Hà Nam” doWHO Hà Nội tài trợ với sự hợp tác của
Tổng hội Y học Việt Nam, Bệnh viện Tâm thần TW I - năm 2007. Đây là một nghiên
17
18
cứu định hướng chính sách được thực hiện trong nỗ lực nhằm đo lường thiết kế, triển
khai và lợi ích nhận được từ Mơ hình Chăm sóc Sức khỏe Tâm trí Dựa vào Cộng đồng
(CSSKTTDVCĐ) do Bộ Y tế xây dựng và thực hiện thơng qua Chương trình Sức khỏe
Tâm trí Quốc gia. Có sử dụng cả phương pháp định tính và định lượng trong thu thập
mơ hình cơ sở phịng và trị liệu rối nhiễu tâm trí cho các cơ sở TGXH và PHCN cho
NTT; (3) Phát triển nguồn nhân lực làm công tác TGXH và PHCN cho NTT, người rối
nhiễu tâm trí; (4) Truyền thơng, nâng cao nhận thức về trách nhiệm của gia đình, cộng
đồng và tồn xã hội về chăm sóc và PHCN cho NTT; (5) Vận động tài trợ từ các tổ
dữ liệu tại 2 tỉnh Hà Tây và Hà Nam, nghiên cứu này đã đưa ra 6 kết luận chính và 15
kết luận cụ thể mơ tả mơ hình, ngun nhân và tác động đối với cơng tác dự phịng và
quản lý sức khỏe tâm trí cũng như những khuyến nghị đối với cơng tác hoạch định
chức quốc tế. Trong giai đoạn 2015-2020, báo cáo xác định mục tiêu huy động sự
tham gia của xã hội nhất là gia đình, cộng đồng trợ giúp về vật chất, tinh thần, PHCN
cho NTT để ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng, phòng ngừa người rối nhiễu tâm
chính sách. (WHO, Tổng hội Y học Việt Nam, Bệnh viện Tâm thần TW I, 2007)
trí bị tâm thần góp phần bảo đảm ASXH. Theo đó, định hướng nội dung hoạt động của
Đề án trong thời gian tới tập trung vào 07 nhóm cơng việc: (1) Xây dựng các văn bản
quy phạm pháp luật huy động sự tham gia đóng góp nguồn lực TGXH và PHCN cho
người rối nhiễu tâm trí, NTT dựa vào cộng đồng; (2) Xây dựng cơ sở vật chất và trang
(ii) Hội nghị triển khai Đề án TGXH và PHCN cho NTT, người rối nhiễu tâm
trí giai đoạn 2011-2020. Ngày 22 tháng 7 năm 2011, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Đề án TGXH và PHCN cho NTT, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn
2011-2020 (gọi tắt là đề án 1215), giao cho Bộ Lao động Thương binh chủ trì. Để triển
khai Đề án này, ngày 27 tháng 11 năm 2012,tại Đà Nẵng, Bộ Lao động Thương binh
và xã hội phối hợp với tổ chức Atlantic Philanthropies và Quỹ Nhi đồng Liên hợp
quốc, tổ chức Hội nghị triển khai Đề án. Theo đó, Chính phủ Việt Nam đã ban hành
nhiều chủ trương, chính sách chăm lo đời sống các đối tượng BTXH, trong đó có
người mắc bệnh tâm thần. Đến nay, có khoảng 10.000 NTT nặng đang được chăm sóc
và PHCN tại 26 cơ sở BTXH ở 20 tỉnh, thành phố; Nghị định số 67/2007/NĐ-CP và
Nghị định số 13/2010/NĐ-CP của CP đã giải quyết trợ cấp hàng tháng cho gần
200.000 NTT nặng sinh sống tại gia đình và cộng đồng.
Mục tiêu của Hội nghị triển khai Đề án bao gồm (1) Triển khai Đề án TGXH và
PHCN cho NTT, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011-2020; (2)
Nâng cao nhận thức của các Bộ, ngành, địa phương về việc TGXH và PHCN cho
NTT, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng; (3) Khuyến nghị mơ hình chăm sóc
và PHCN cho NTT, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng; tại trung tâm BTXH
thiết bị cho các cơ sở BTXH chăm sóc và PHCN cho NTT; (3) Phát triển nguồn nhân
lực làm công tác TGXH và PHCN cho người rối nhiễu tâm trí, NTT dựa vào cộng
đồng; (4) Hỗ trợ nhân rộng mơ hình phịng và trị liệu rối nhiễu tâm trí tới quận, huyện,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh có đơng đối tượng để cung cấp dịch vụ trị liệu tâm lý,
PHCN cho những người rối nhiễu tâm trí, NTT, người trầm cảm, tự kỷ; (5) Truyền
thông, nâng cao nhận thức về trách nhiệm của gia đình, cộng đồng và tồn xã hội về
chăm sóc và PHCN; nâng cao kiến thức, kỹ năng TGXH và PHCN cho người rối
nhiễu tâm trí, NTT dựa vào cộng đồng; (6) Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học trên các
lĩnh vực phòng ngừa, phát hiện và can thiệp sớm, trị liệu tâm lý, PHCN cho người rối
nhiễu tâm trí, NTT; điều tra, khảo sát, xây dựng cơ sở dữ liệu TGXH và PHCN cho
người rối nhiễu tâm trí, NTT dựa vào cộng đồng; (7) Tăng cường hợp tác với các tổ
chức, cá nhân nước ngoài trong việc hỗ trợ kỹ thuật, kinh nghiệm và nguồn lực để phát
triển TGXH và PHCN cho người rối nhiễu tâm trí, NTT. (Bộ LĐTBXH, 2015)
Như vậy tính đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có nghiên cứu nào tại Việt Nam
và tại bệnh viện; (4) Khuyến nghị hợp tác liên ngành trong lĩnh vực CSSKTT và Đề án
quy hoạch mạng lưới các cơ sở chăm sóc và PHCN cho NTT, người rối nhiễu trí dựa
vào cộng đồng giai đoạn 2011-2020; (5) Định hướng giáo dục và đào tạo về CSSKTT.
đề cập một cách tổng thể, tồn diện về phân tích chính sách TGXH trong CSSKTT. Do
đó, đề tài nghiên cứu của luận án đảm bảo tính mới, độc lập với những cơng trình
nghiên cứu hiện có ở trong và ngồi nước.
(iii) Báo cáo “Đánh giá kết quả thực hiện Đề án TGXH và PHCN cho NTT,
người rối nhiễu tâm trí giai đoạn 2011-2015 và định hướng giai đoạn 2016-2020” của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội năm 2015. Báo cáo đã trình bày tình hình NTT
và người rối nhiễu tâm trí ở Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và đưa ra dự báo đến năm
1.3. Khoảng trống nghiên cứu
2020: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các Bộ, ngành, địa phương tập trung
triển khai vào 5 nhóm cơng việc chính sau: (1) Xây dựng và ban hành hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật về SKTT; (2) Xây dựng, nâng cấp mở rộng, trang thiết bị và
nhau. Nhưng nhìn chung, các cơng trình đều cho thấy một số vấn đề cơ bản sau đây đã
được đa số các tổ chức, tác giả có quan điểm, kết luận giống nhau:
19
20
1.3.1. Một số vấn đề đạt được sự nhất trí cao
Các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến một số nội dung liên quan đến
chính sách CSSKTT và chính sách TGXH trong CSSKTT trên nhiều góc độ khác
Một là, khẳng định sự cần thiết của công tác CSSKTT và TGXH trong
CSSKTT với xu hướng đa dạng hóa đội ngũ nhân lực thực hiện chính sách cũng như
khẳng định xu hướng
thực hiện chính sách dựa trên sự hỗ trợ của cộng đồng (dựa vào cộng đồng).
Hai là, xác định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước trong việc ban
hành, tổ chức thực thi chính sách CSSKTT và chính sách TGXH trong CSSKTT.
Ba là, nhất trí về sự thay đổi cơ chế, chính sách đối với NTT, người rối nhiễu
tâm trí phù hợp với q trình hội nhập quốc tế của đất nước.
1.3.2. Khoảng trống cho các nghiên cứu tiếp theo
Bên cạnh những kết quả nêu trên, căn cứ và nhiệm vụ của luận án cho thấy cịn
có một số vấn đề liên quan tới chính sách TGXH trong CSSKTT ở nước ta:
Một là, làm rõ thêm các vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách TGXH trong
CSSKTT. Trong đó làm rõ: khái niệm, mục tiêu, các chủ thể, đối tượng của chính
sách, các chính sách bộ phận (5 chính sách cơ bản) và các yếu tố ảnh hưởng đến chính
sách TGXH trong CSSKTT.
Hai là, xác định những vấn đề cần giải quyết của chính sách TGXH trong
CSSKTT như: Trị liệu, tư vấn tâm lý - xã hội; Trợ giúp về giáo dục - đào tạo; Lao
động - việc làm - thu nhập; Nhà ở - chăm sóc tại gia; Giao thơng - đi lại; Giải trí - nghệ
thuật - vui chơi - thể dục thể thao; Hòa nhập xã hội.
Ba là, khảo sát, đánh giá thực trạng chính sách TGXH trong CSSKTT ở Việt
Nam trong giai đoạn 2010-2015, làm rõ những điểm mạnh, điểm yếu và rút ra nguyên
nhân của những điểm mạnh, điểm yếu đó. Trên cơ sở đó đề xuất định hướng và giải
pháp hồn thiện chính sách TGXH trong CSSKTT trong giai đoạn 2016-2020, định
hướng đến năm 2025.
CHƯƠNG II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
VỀ CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI TRONG CHĂM SÓC
SỨC KHỎE TÂM THẦN
2.1. Trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần
2.1.1. Sức khỏe tâm thần và chăm sóc sức khỏe tâm thần
2.1.1.1. Quan điểm về sức khỏe tâm thần
Trong Hiến chương của WHO cho rằng: Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn
diện về thể chất, tinh thần và xã hội và khơng phải chỉ bao gồm có tình trạng khơng có
bệnh hay thương tật (WHO, 2006). Mặc dù định nghĩa này là chủ đề của nhiều cuộc
tranh cãi, đặc biệt là việc thiếu giá trị hoạt động và vì vấn đề được tạo ra bởi từ “toàn
diện”, nên đây vẫn là vấn đề còn kéo dài. Các định nghĩa khác cũng đã được đưa ra,
trong số đó định nghĩa gần đây nhất là mối quan hệ giữa sức khỏe và sự thỏa mãn các
nhu cầu cá nhân. Các hệ thống phân loại như Phân loại quốc tế về Gia đình của WHO,
bao gồm Hệ thống phân loại quốc tế về Chức năng, Khuyết tật và Sức khỏe (ICF) và
Phân loại quốc tế về Bệnh tật (ICD), thường được sử dụng để định nghĩa và để đo đạc
các thành phần của sức khỏe.
Theo tác phẩm “The determinants of health” của WHO thì nhìn chung, tùy từng
ngữ cảnh mà theo đó nhiều cá nhân xem trọng tình trạng sức khỏe và chất lượng của
sống của họ. Người ta ngày càng nhận ra rằng sức khỏe được duy trì và cải thiện
khơng chỉ qua những thành tựu và ứng dụng của khoa học y tế, mà còn qua những cố
gắng và những lựa chọn cách sống thông thái của một cá nhân hay xã hội. Theo WHO,
các yếu tố chính quyết định đến sức khỏe như môi trường kinh tế và xã hội, môi
trường vật lý, và đặc điểm và ứng xử của mỗi cá nhân. (WHO, 2011)
Cụ thể hơn, các yếu tố chính đã được phát hiện là có ảnh hưởng đến sức khỏe
bao gồm: (i) Thu nhập và địa vị xã hội; (ii) Mạng lưới hỗ trợ xã hội; (iii) Giáo dục và
biết chữ; (iv) Tình trạng việc làm; (v) Mơi trường xã hội; (vi) Mơi trường vật lý; (vii)
Chăm sóc sức khỏe và kỹ năng ứng phó; (viii) Phát triển của trẻ tốt; (ix) Sinh học và di
truyền; (x) Dịch vụ chăm sóc sức khỏe; (xi) Giới tính; (xii) Văn hóa.
Cũng theo WHO, khơng có định nghĩa chính thức cho sức khỏe tâm thần. Các
nền văn hóa khác nhau, các đánh giá chủ quan và các giả thuyết khoa học khác nhau
đều có ảnh hưởng tới định nghĩa về khái niệm “sức khỏe tâm thần”. Mặt khác, tình
21
22
trạng thoải mái, khơng có rối loạn nào về tinh thần chưa chắc đã được coi là sức khỏe
tinh thần.
SKTT chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố được thể hiện trong hình vẽ sau:
Các yếu tố sinh học
- Mất cân bằng hóa chất ở
não
- Gen
- Tổn thương não
- Bệnh mãn tính
Sức khoẻ tâm thần khơng chỉ là khơng bị mắc rối loạn tâm thần. Sức khoẻ tâm
thần được định nghĩa bởi WHO “là trạng thái hoàn toàn thoải mái mà ở đó mỗi cá
nhân nhận thức rõ khả năng của mình, có thể đối phó với những căng thẳng bình
thường trong cuộc sống, làm việc hiệu quả và năng suất và có thể đóng góp cho cộng
đồng”. SKTT bao gồm “Khỏe mạnh, nhận thức, tự chủ, năng lực, sự phụ thuộc liên thế
hệ, và tự chủ tiềm năng trí tuệ và tình cảm của một người. (WHO, 2014)
Như vậy qua các khái niệm đã có, chúng ta có thể rút ra khái niệm SKTT như
sau: Sức khoẻ tâm thần là một trạng thái khơng có rối loạn hay dị tật tâm thần mà
cịn là một trạng thái tâm thần hồn tồn thoải mái, cần phải có chất lượng ni sống
tốt, có được sự cân bằng và hịa hợp giữa cá nhân, người xung quanh và môi trường
xã hội.
Các sự kiện thời thơ
bé
- Bạo lực và lạm dụng
- Bị bỏ mặc
- Cha mẹ chết sớm
Sức khỏe
tâm thần
Các yếu tố tâm lý
- Lịng tự trọng thấp
- Suy nghĩ tiêu cực
Theo đó, có thể được mơ tả bởi 5 khía cạnh cơ bản sau:
Khả năng tận hưởng cuộc sống: đó là khả năng sống với hiện tại, và trân trọng
những gì mình có; khả năng học được kinh nghiệm từ quá khứ, và lên kế hoặch cho
tương lai mà không trăn trở, dấn sâu vào những kỉ niệm đau buồn sự nối tiếc hay
những điều khơng thể thay đổi hoặc dự đốn đuợc trong tương lai.
Khả năng phục hồi: khả năng bình phục sau những trải nghiệm khó khăn hoặc
những sự kiện đau buồn trong cuộc sống như trải qua mất mát, đổ vỡ, thất nghiệp... mà
không mất đi sự lạc quan cũng như niềm tin của bạn.
Khả năng cân bằng: khả năng thiết lập một sự cân bằng trước rất nhiều phương
diện của cuộc sống như thể chất, tâm lý, tinh thần, xã hội và kinh tế.
Khả năng phát triển cá nhân: khả năng tự nhận biết năng lực và sở thích của cá
nhân, ni dưỡng những tài năng của mình để đạt được sự phát triển tối đa.
Sự linh hoạt: khả năng thích nghi trong những tình huống mới, khả năng tự điều
chỉnh mong đợi của mình về cuộc sống, về chính bản thân mình và về người khác - để
giải quyết vấn đề gặp phải và để cảm thấy dễ chịu hơn.
Các yếu tố xã hội
- Xung đột gia đình
- Nghèo đói
- Thất nghiệp
- Vơ sinh
Hình 2.1: Các yếu tố ảnh hưởng đến SKTT
Nguồn: Tổng hợp của NCS
2.1.1.2. Chăm sóc sức khỏe tâm thần
a) Khái niệm chăm sóc sức khỏe tâm thần
Chăm sóc sức khỏe tâm thần là sự chung tay của Nhà nước, cộng đồng xã hội
và mỗi cá nhân trong việc thực hiện một tập hợp các công việc có tính chất hệ thống
nhằm nâng cao tình trạng SKTT của người dân.
Từ sau Hội nghị Alma Ata (Hội nghị Quốc tế về Chăm sóc sức khỏe ban đầunăm 1978), vấn đề chăm sóc sức khỏe đã có sự thay đổi quan trọng về nội dung, về đối
tượng cần chăm sóc sức khoẻ, về trách nhiệm của người cán bộ y tế, về vai trò của
từng người nhân, từng ban ngành trong xã hội trong việc phấn đấu không ngừng nâng
cao sức khoẻ cho cá nhân, cho cộng đổng và cho xã hội. Sự khác biệt cơ bản về nhân
thức chăm sóc sức khoẻ được tóm tắt như sau:
23
24
Bảng 2.1: Sự thay đổi nhận thức về chăm sóc sức khỏe
Nội dung
Quan niệm về sức khoẻ
Nhận thức cũ về CSSK
Khơng có bệnh
Nhân thức mới về CSSK
Thoải mái về thể chất, tinh
thần, xã hội và khơng có bệnh
tật.
những lý do sau:
CSSKTT dựa trên chính nền tảng cộng đồng mà người rối loạn tâm thần đang
sinh sống nên giúp họ hòa nhập trở lại với cộng đồng tốt hơn;
Nội dung CSSK
Nặng về chữa bệnh
Dự phịng tích cực, chăm sóc
tồn diện.
Đối tượng CSSK
Cá thể: người ốm là chính
Cộng đổng: người khoẻ và
người ốm
Trách nhiệm của CSSK
Y tế
Tồn dân, tồn xã hội
Vai trị của người dân
Thụ động: ỷ lại vào y tế
Chủ động;
Tự bảo vệ mình;
Cùng tham gia bảo vệ cộng
đổng
Tính chất hoạt động
Hoạt động của y tế tách rời Y tế là một bộ phận lồng ghép
với hệ thống kinh tế - xã trong hệ thống kinh tế - xã hội
hội
Nguồn: Tổng hợp của NCS
Vấn đề CSSKTT hiện nay được tiếp cận một cách bao quát hơn, trách nhiệm
Nhà nước, của cộng đồng xã hội và gia đình được xác định rõ hơn trong CSSKTT. Các
mơ hình CSSKTT dần được xây dựng và ngày càng hồn thiện.
b) Mơ hình CSSKTT đối với NTT và RNTT
CSSKTT đối với NTT và RNTT có nhiều mơ hình khác nhau, bao gồm
CSSKTT tập trung tại bệnh viện chuyên khoa tâm thần hay tại các cơ sở BTXH đang
ni dưỡng, chăm sóc và PHCN cho người có vấn đề tâm thần (NCVĐTT), chăm sóc
và điều trị ngoại trú do cán bộ chuyên khoa tâm thần đảm nhiệm, và CSSKTT dựa vào
cộng đồng.
Mơ hình chăm sóc, điều trị tập trung tại bệnh viện tâm thần hay cơ sở BTXH
phù hợp đối với những NCVĐTT nặng trong giai đoạn bắt đầu điều trị, đang có những
hành vi nguy hiểm, hoặc NCVĐTT mãn tính khơng cịn khả năng phục hồi. Đối với
những NCVĐTT đã ổn định cũng như những NCVĐTT ở thể nhẹ, mơ hình này có hạn
chế trong việc hỗ trợ hịa nhập cộng đồng cho người có rối loạn tâm thần. Ngoài ra,
25
cán bộ chuyên khoa tâm thần còn thiếu, cơ sở điều trị tập trung ở xa, và việc kì thị
nặng nề khi điều trị tại cơ sở là những yếu tố dẫn đến sự tiếp cận, và sử dụng dịch vụ
CSSKTT cịn rất ít so với nhu cầu thực tế.
CSSKTT dựa vào cộng đồng được coi là mơ hình phù hợp và hiệu quả với
Khơng phải tất cả những người có rối loạn tâm thần đều có thể tiếp cận điều trị
tại các cơ sở tập trung, đặc biệt các bệnh viện chuyên khoa tâm thần. Còn rất nhiều
người rối loạn tâm thần đang sống trong cộng đồng, và họ cần được điều trị. Vì thế,
cần có một mơ hình điều trị tại cộng đồng để họ có thể tiếp cận được dễ hơn;
Rối loạn tâm thần bao gồm những cấp độ khác nhau, ở mỗi cấp độ lại có
những cách thức can thiệp riêng. Đối với những người ở thể nhẹ, cần phát hiện và
can thiệp sớm tại cộng đồng thông qua trị liệu tâm lý; tham vấn gia đình cách thức
chăm sóc và phịng ngừa biến chứng nặng hơn. Những người đã được điều trị ổn
định tại cơ sở chuyên khoa cũng cần được phục hồi và tái hịa nhập trong mơi trường
sống bình thường.
2.1.2. Trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần
2.1.2.1. Khái niệm trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần
a) Khái niệm, quan điểm tiếp cận, phân loại và vai trò của trợ giúp xã hội
(i) Khái niệm trợ giúp xã hội:
Trợ giúp xã hội được hiểu theo một số quan điểm tiếp cận, tính chất, chức năng,
hình thức và mơ hình khác nhau. Phần lớn các tài liệu nghiên cứu chưa lý giải một
cách toàn diện về khái niệm TGXH, nhưng cũng đã giải thích thuật ngữ, từ ngữ gần
với TGXH (BTXH, CTXH, phúc lợi xã hội, ASXH, cứu tế xã hội, cứu trợ xã hội,
BTXH, dịch vụ xã hội):
Theo Bộ LĐTBXH: Bảo trợ xã hội là hệ thống các chính sách, chế độ, hoạt
động của chính quyền các cấp và hoạt động của cộng đồng xã hội dưới các hình thức
và biện pháp khác nhau, nhằm giúp các đối tượng thiệt thòi, yếu thế hoặc gặp bất hạnh
trong cuộc sống có điều kiện tồn tại và có cơ hội hồ nhập với cuộc sống chung của
cộng đồng, góp phần bảo đảm ổn định và công bằng xã hội. (Bộ LĐTBXH, 1997)
Công tác xã hội là sự thúc đẩy thay đổi trong xã hội, thúc đẩy việc giải quyết
26
các vấn đề trong quan hệ giữa con người, trao quyền và giải phóng con người đem lại
sự bình n cho xã hội. Vận dụng lý thuyết về hành vi của con người và các hệ thống
xã hội, CTXH can thiệp vào các mặt mà ở đó con người tác động trực tiếp tới môi
trường sống của họ. Nguyên tắc về quyền con người và công bằng xã hội là cốt lõi của
hệ thống chính sách hiệu quả, phát huy được vai trị hỗ trợ các chính sách kinh tế và ổn
định xã hội. Ngược lại quan điểm không phù hợp, dẫn đến lựa chọn chính sách khơng
phù hợp, gây tốn kém nguồn lực mà không hiệu quả, đôi khi còn gây nên hậu quả xấu
cho xã hội.
CTXH. (UNICEF Việt Nam, 2006)
Phúc lợi xã hội là một bộ phận thu nhập quốc dân của xã hội được sử dụng
nhằm thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên trong xã hội,
Tiếp cận theo quan điểm quyền: Quan điểm này lấy con người làm trung tâm
của mục tiêu các chính sách. Theo quan điểm này, chính sách TGXH xây dựng trên cơ
sở bảo đảm cho bộ phận dân cư khó khăn thực hiện các nhu cầu về đời sống (lương
chủ yếu được phân phối ngoài thu nhập theo lao động. Phúc lợi xã hội bao gồm: những
chi phí xã hội như trả tiền hưu trí, các loại trợ cấp bảo hiểm xã hội, học bổng cho học
sinh, những chi phí cho học tập khơng mất tiền, những dịch vụ y tế, nghỉ ngơi an
dưỡng, nhà trẻ, mẫu giáo. (Từ điển bách khoa Việt Nam, 2003)
thực, thực phẩm), có nước sạch sinh hoạt, có nơi ở, bảo đảm vệ sinh cá nhân và mơi
trường, được chăm sóc y tế, được tiếp cận giáo dục, giao tiếp, các hoạt động cộng
đồng. Quan điểm tiếp cận này còn được các tổ chức xã hội vận dụng để huy động
nguồn lực và thực hiện cung cấp dịch vụ TGXH tác động là giảm bớt (i) sự thiếu thốn
An sinh xã hội là một hệ thống các cơ chế, chính sách, các giải pháp của Nhà
nước và cộng đồng nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã hội đối phó với các rủi ro,
các cú sốc về kinh tế - xã hội làm cho họ suy giảm, hoặc mất nguồn thu nhập do bị ốm
vật chất, (ii) sự tách biệt với môi trường và (iii) sự tổn thương cá nhân.
Tiếp cận theo quan điểm quản lý rủi ro: Cơ sở của quan điểm này là mọi thành
viên trong xã hội luôn có nguy cơ bị rủi ro. TGXH là cơng cụ quản lý rủi ro và thực
đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả khơng cịn khả năng lao động, hoặc vì
các nguyên nhân khách quan khác rơi vào cảnh nghèo khổ, bần cùng hoá và cung cấp
dịch vụ chăm sức khoẻ cho cộng đồng, thông qua các hệ thống chính sách về bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, TGXH và trợ giúp đặc biệt. (Nguyễn Hải Hữu, 2007)
hiện các chức năng phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro. Với quan điểm này
TGXH bao gồm hệ thống nhiều cấp độ chính sách khác nhau và tạo ra các loại hình
dịch vụ riêng.
Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của xã hội bằng nguồn tài chính của Nhà nước và
của cộng đồng đối với các thành viên gặp khó khăn, bất hạnh và gặp rủi ro trong cuộc
sống như thiên tai, hỏa hoạn, bị tàn tật, già yếu... dẫn đến mức sống quá thấp, lâm vào
thành viên xã hội đều có nhu cầu được bảo đảm về ASXH. Ưu điểm của mơ hình này
là tiêu chí xác định đối tượng rất đơn giản do vậy, chi phí quản lý thấp. Hạn chế của
quan điểm này là do đông đối tượng hưởng trợ cấp, nên mức trợ cấp thường thấp
cảnh neo đơn túng quẫn nhằm giúp họ bảo đảm được điều kiện sống tối thiểu, vượt
qua cơn nghèo khốn và vươn lên cuộc sống bình thường. (Nguyễn Văn Định, 2008)
không gắn với bảo đảm mức sống tối thiểu, nhưng tổng kinh phí chi TCXH hàng năm
thì vẫn lớn. Theo quan điểm này, thường ít quan tâm đến chất lượng, hiệu quả của
chính sách mà chỉ quan tâm đến số người được hưởng.
Với quan điểm TGXH không chỉ là hoạt động của cộng đồng và xã hội mà phải là
trách nhiệm của Nhà nước, khơng những thế cịn là hoạt động có tính chất về CTXH,
Tiếp cận theo quan điểm phổ cập: Quan điểm này dựa trên cơ sở cho rằng, mọi
Tiếp cận theo quan điểm mục tiêu: Với quan điểm này tiêu chí xác định đối
khơng dành riêng cho một, hoặc một số đối tượng xã hội, đồng thời TGXH khơng phải là
giải pháp tồn diện về ASXH, mà chỉ là một hợp phần của ASXH. Qua đó, chúng ta có
thể khái quát khái niệm TGXH như sau: Trợ giúp xã hội là các biện pháp, giải pháp đảm
tượng thường phức tạp hơn, phải gắn những điều kiện giới hạn đối tượng hưởng lợi
như nghèo, không tự bảo đảm được cuộc sống; chi phí bộ máy quản lý tốn kém hơn,
bỏ sót đối tượng; độ bao phủ thấp hơn khoảng 1,5% so với dân số. Nhưng ưu điểm là
bảo của Nhà nước và xã hội đối với các đối tượng bảo trợ xã hội (người thiệt thòi, người
yếu thế hoặc bất hạnh trong cuộc sống) nhằm giúp họ khắc phục những khó khăn trước
mắt cũng như lâu dài trong cuộc sống. Việc đảm bảo này thông qua các hoạt động cung
cấp tài chính, vật phẩm, các điều kiện vật chất khác cho đối tượng.
chính sách cho nhóm đối tượng ưu tiên thường gắn với bảo đảm mức sống tối thiểu,
cao hơn các chính sách phổ cập. Nguồn lực thường thấp hơn mơ hình chính sách phổ
cập, vì độ bao phủ so với dân số thường thấp hơn.
(ii) Quan điểm tiếp cận TGXH: TGXH được xây dựng trên cơ sở quan điểm
phát triển hệ thống TGXH của mỗi quốc gia. Với quan điểm tiếp cận đúng, sẽ có được
cận khác nhau để lựa chọn mơ hình TGXH vừa kết hợp bảo đảm quyền, thực hiện
chức năng chính sách, phổ cập hoặc mục tiêu ưu tiên chính sách. Việc lựa chọn mô
27
28
Tiếp cận theo quan điểm tổng thể: Quan điểm này dựa trên các quan điểm tiếp
hình, hướng đi phù hợp với khơng gian, thời gian và các nhóm đối tượng cụ thể.
(iii) Phân loại TGXH:
cho các đối tượng quỹ ngày vì người nghèo, quỹ nạn nhân chất độc da cam, quỹ vận
động trợ giúp các bệnh nhân bị bệnh hiểm nghèo...
Phân loại theo phương thức thực hiện, TGXH bao gồm:
(iv) Vai trò của TGXH:
Trợ giúp xã hội đột xuất: là hình thức trợ giúp tức thì cho các cá nhân hoặc nhóm
Thứ nhất, TGXH thực hiện chức năng bảo đảm ASXH của Nhà nước: Thông
dân cư do các nguyên nhân khách quan bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh
dẫn đến khơng có đồ ăn, nước uống, nhà ở... trong một khoảng thời gian xác định.
Trợ giúp xã hội thường xuyên: Trợ giúp thường xuyên hàng tháng cho các cá
nhân hoặc hộ gia đình trong khoảng thời gian dài.
Phân loại theo đối tượng cần trợ giúp chính sách, TGXH bao gồm:
Người cao tuổi: Bao gồm người khơng có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã
hội, NCT cô đơn nghèo...
Người tàn tật: Không có khả năng lao động, khơng có khả năng tự phục vụ nhu
cầu sinh hoạt cá nhân, hộ có từ hai người tàn tật nặng...
Trẻ em mồ côi: Mồ côi cả cha và mẹ, bị bỏ rơi, mô côi cha, mơ cơi mẹ...
Người nhiễm HIV/AIDS: Nghèo, khơng có khả năng lao động...
Đối tượng khó khăn khác...
qua luật pháp, chính sách, các chương trình TGXH, Nhà nước can thiệp và tác động
giữ ổn định xã hội, ổn định chính trị, phân hoá giàu nghèo và giảm phân tầng xã hội,
tạo sự đồng thuận xã hội giữa các nhóm xã hội trong quá trình phát triển.
Thứ hai, TGXH thực hiện chức năng tái phân phối lại của cải xã hội: Với chức
năng này TGXH sẽ điều tiết phân phối thu nhập, cân đối, điều chỉnh nguồn lực để tăng
cường cho các vùng nghèo, vùng chậm phát triển, tạo nên sự phát triển hài hoà giữa
các vùng, giảm bớt sự chênh lệch giữa các vùng; giữa các nhóm dân cư.
Thứ ba, TGXH có vai trò phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu và khắc phục rủi ro và
giải quyết một số vấn đề xã hội nẩy sinh: TGXH trực tiếp giải quyết những vấn đề liên
quan đến giảm thiểu rủi ro, hạn chế tính dẽ bị tổn thương và khắc phục hậu quả của rủi
ro thơng qua các chính sách và chương trình cụ thể nhằm giúp cho các thành viên xã
hội ổn định cuộc sống, tái hoà nhập cộng đồng, bảo đảm mức sống tối thiểu cho dân
cư khó khăn.
b) Khái niệm trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tân thần:
Phân loại theo nơi ở của đối tượng hưởng lợi, TGXH bao gồm:
Trợ giúp tại cộng đồng: Thực hiện trợ giúp tại hộ gia đình, cộng động nơi đối
tượng sinh sống và do cấp xã quản lý, tổ chức thực hiện.
Chăm sóc, ni dưỡng trong các cơ sở BTXH: Thực hiện nuôi dưỡng tập trung
đối tượng trong các trung tâm BTXH.
Phân loại theo chủ thể thực hiện trợ giúp, TGXH bao gồm:
Trợ giúp của Nhà nước; Trợ giúp của cộng đồng.
Phân loại theo nguồn lực thực hiện trợ giúp:
Trợ giúp từ ngân sách nhà nước: Nguồn kinh phí trợ cấp do ngân sách nhà nước
hoặc các nguồn hỗ trợ khác do các cơ quan nhà nước thực hiện.
Trợ giúp từ nguồn quỹ do đóng góp của các thành viên thơng qua các quỹ bảo
hiểm, quỹ rủi ro của các tổ chức đoàn thể, xã hội.
Trợ giúp từ các nguồn quỹ vận động xã hội: Khoản trợ giúp này được thực hiện
thông qua các tổ chức đoàn thể, xã hội hoặc cá nhân đứng ra vận động, nhằm giúp đỡ
29
Qua việc làm rõ những vấn đề có liên quan đến TGXH, chúng ta có thể rút ra
khái niệm TGXH trong CSSKTT như sau: Trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe
tâm thần là các biện pháp, giải pháp của Nhà nước đối với những người gặp các vấn
đề về sức khoẻ tâm thần thơng qua các chính sách, chương trình, đề án, nhằm giúp họ
điều trị, khắc phục những khó khăn hiện tại, tạo điều kiện cho họ ổn định cuộc sống
trong tương lai; từ đó, làm giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội.
2.1.2.2. Hệ thống trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần
Trong thực tế, các yếu tố của hệ thống không phải là những điểm trừu tượng mà
là những hệ thống phức tạp. Mỗi yếu tố cũng có nhiều nhiều mặt, nhiều thuộc tính, khi
tác động lẫn nhau với các yếu tố khác của hệ thống khơng phải tất cả các mặt, các
thuộc tính của nó đều tham gia mà chỉ một số mặt, một số thuộc tính nào đó mà thơi.
Như vậy, những mặt và thuộc tính của các yếu tố tham gia tác động lẫn nhau càng lớn
thì kết cấu của hệ thống càng phức tạp. Cùng một số yếu tố, khi tác động lẫn nhau
bằng những mặt khác nhau có thể tạo nên các hệ thống khác nhau.
Như vậy, có thể hiểu: Hệ thống TGXH trong CSSKTT là tập hợp của các cơ
30
quan, đơn vị có liên quan, cùng với các chính sách, chương trình, dự án và cơ sở dữ
liệu cơng nghệ, kỹ thuật,... nhằm thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước về
CSSKTT trong nhân dân.
Nhà nước
Các cơ quan quản lý
nhà nước
- Hoạch định các
chính sách;
- Xây dựng các
chương trình, dự án
Các đơn vị
(Cơ sở bảo trợ xã hội; Cơ sở
y tế; Trung tâm chăm sóc sức
khỏe; Các tổ chức phi chính
phủ; Các đơn vị phối hợp;
Các lực lượng tư nhân...)
Người có vấn
đề về sức khỏe
tâm thần
- Thực thi các chính sách; các
chương trình, dự án
Mục tiêu
TGXH trong
chăm sóc SKTT
Theo Bách khoa tồn thư mở Wikipedia thì: Chính sách công là tập hợp các chủ
trương và hành động về phương diện nào đó của Chính phủ nó bao gồm các mục tiêu
mà Chính phủ muốn đạt được và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó. Những mục
tiêu này bao gồm sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội môi trường.
Theo Tạ Ngọc Hải - Viện Khoa học tổ chức nhà nước thì: Chính sách cơng
được tiếp cận nghiên cứu từ những giác độ khoa học khác nhau theo đó có những cách
hiểu, xác định khơng hồn tồn giống nhau về khái niệm và các thuộc tính của chính
sách cơng, cụ thể như:
(i) Chính sách cơng là những hoạt động mà chính quyền lựa chọn làm và khơng
làm. Theo cách tiếp cận này thì các hoạt động mà chính quyền làm hoặc khơng làm phải
có tác động, ảnh hưởng lâu dài và sâu sắc đến nhân dân thì mới là chính sách cơng.
Hỗ trợ
Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về
ASXH
Hình 2.2: Hệ thống TGXH trong CSSKTT
Nguồn: Tổng hợp của NCS
2.2. Chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần
2.2.1. Khái niệm chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần
Chính sách là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu các tài liệu, các nghiên cứu cho thấy khái niệm chính sách
được thể hiện khác nhau:
Chính sách theo nghĩa rộng thể hiện tập hợp các nội dung định hướng chính trị
của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bao gồm mục tiêu, biện pháp và công cụ
thực hiện mục tiêu. Chính sách cơng của Nhà nước (public policy) thể hiện các nội
dung trên nhằm thực hiện nhiệm vụ quản lý xã hội. Chính sách cơng là chuỗi những
hoạt động mà chính quyền chọn làm hay khơng làm với tính tốn và chủ đích rõ ràng,
có tác động đến người dân. (Đoàn Thị Thu Hà và ctv, 2012)
Theo Từ điển tiếng Việt thì: Chính sách là sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt
một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra.
(ii) Chính sách cơng là tồn bộ các hoạt động của chính quyền trực tiếp hay
gián tiếp tác động đến cuộc sống của mọi người. So với quan niệm trên, quan niệm
này mở hơn, rộng hơn ở việc xem cả xây dựng, ban hành và thực hiện chính sách của
chính quyền đều là chính sách công. Nhưng lại hẹp hơn ở chỗ không coi những việc
chính quyền khơng làm là chính sách cơng (thực tế ở các nước cho thấy chính quyền
khơng thể và không nhất thiết phải làm tất cả mọi việc đối với xã hội);
Tác giả Lê Chi Mai cho rằng “Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về định
nghĩa chính sách cơng vẫn là một chủ đề sơi động và khó đạt được sự nhất trí rộng rãi”
tuy vậy theo bà chính sách cơng có những đặc trưng cơ bản nhất như: chủ thể ban hành
chính sách cơng là Nhà nước; chính sách cơng khơng chỉ là các quyết định (thể hiện trên
văn bản) mà còn là những hành động, hành vi thực tiễn (thực hiện chính sách); chính
sách công tập trung giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội
theo mục tiêu xác định; chính sách cơng gồm nhiều quyết định chính sách có liên quan
lẫn nhau. Như vậy, so với các quan niệm đã nêu ta thấy có những điểm tương đồng
trong quan niệm về chính sách cơng như: tính nhà nước, tính cơng cộng, tính hành động
thực tiễn (coi q trình thực hiện là một phần của chính sách cơng).
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về chính sách, chính sách cơng, nhưng
tựu chung lại, chúng ta có thể khát quát được một số những điểm chung trong quan
điểm của các tác giả như sau:
(i) Chính sách là do một chủ thể quyền lực hoặc chủ thể quản lý đưa ra;
Bên cạnh đó cịn có nhiều tác giả khác cũng đưa ra những khái niệm khác nhau
về “chính sách” nói chung và chính sách cơng (public policy) nói riêng:
(ii) Chính sách được ban hành căn cứ vào đường lối chính trị chung và tình hình
thực tế;
31
32
(iii) Chính sách được ban hành bao giờ cũng hướng đến một mục đích nhất
định; nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó; chính sách được ban hành đều có
sự tính tốn và chủ đích rõ ràng.
Mục tiêu tổng thể của chính sách:
Cải thiện tình trạng SKTT cộng đồng, đảm bảo công bằng, ổn định
và phát triển bền vững về chính trị, kinh tế và xã hội của quốc gia
Như vậy, kết hợp với khái niệm về TGHX trong CSSKTT đã đưa ra, chúng ta
có thể khái quát khái niệm về Chính sách TGXH trong CSSKTT như sau, đây cũng
chính là quan điểm về chính sách được tiếp cận nghiên cứu trong luận án:
Mục tiêu cụ thể của chính sách
Chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần - một bộ phận
của chính sách an sinh xã hội, là tổng thể các quan điểm, giải pháp,công cụ mà Nhà
nước sử dụng để giúp đối tượng BTXH mắc các rối loạn tâm thần khắc phục khó khăn
và hỗ trợ họ hịa nhập với cuộc sống. Việc bảo đảm này thông qua việc cung cấp
nguồn tài chính hàng tháng, dịch vụ hỗ trợ chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, tạo việc làm
và các dịch vụ trợ giúp xã hội khác.
2.2.2. Mục tiêu và tiêu chí đánh giá chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức
khỏe tâm thần
2.2.2.1. Mục tiêu của chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần
Mục tiêu của một chính sách cơng là nhằm hướng mọi nội dung vào việc thực
hiện ý chí của chủ thể hoạch định chính sách, làm cho chính sách được thực hiện theo
mong muốn của Nhà nước, thỏa mãn được mong muốn của các đối tượng chính sách
Mục tiêu của
chính sách
TCXH
Giảm thiểu
khó khăn,
đảm bảo điều
kiện sống cơ
bản cho các
đối tượng
BTXH
Mục tiêu của
chính sách
đào tạo nghề
và tạo việc
làm
Tạo điều kiện
cho NTT,
người RNTT
có đủ điều
kiện, khả
năng được
tham gia lao
động, tạo thu
nhập, cải
thiện đời sống
Mục tiêu của
chính sách
phát triển cơ
sở BTXH
Mục tiêu của
chính sách
phát triển các
dịch vụ CTXH
Đầu tư xây
dựng mới
hoặc sửa
chữa, cải tạo,
nâng cấp các
cơ sở BTXH
nhằm tăng
cường năng
lực phục vụ
của các cơ sở
BTXH
Phát triển các
dịch vụ hỗ trợ
cho cơng tác
CSSKTT
Mục tiêu của
chính sách
phát triển
NNL làm công
tác TGXH
Đảm bảo
NNL cả về
chất và lượng,
thực hiện
thành cơng
chính sách
TGXH trong
CSSKTT
và cả xã hội.
Đối với chính sách TGXH trong CSSKTT, mục tiêu của chính sách được thể
hiện như sau:
Mục tiêu của tổng thể của chính sách TGXH trong CSSKTT là cải thiện tình
trạng SKTT cộng đồng, đảm bảo công bằng, ổn định và phát triển bền vững về chính
trị, kinh tế và xã hội của quốc gia.
Mục tiêu cụ thể của chính sách TGXH trong CSSKTT bao gồm:
Thứ nhất, tăng cường khả năng phòng ngừa và giảm nguy cơ mắc bệnh tâm
thần trong nhân dân;
Thứ hai, tăng cường khả năng điều trị, phục hồi chức năng và hòa nhập cộng
đồng đối với người mắc bệnh tâm thần
Hình 2.3: Cây mục tiêu của chính sách CSSKTT
Nguồn: NCS xây dựng
2.2.2.2. Tiêu chí đánh giá chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần
Trong q trình hoạch định, tổ chức thực thi chính sách TGXH trong CSSKTT,
nhà quản lý cần phải đánh giá chính sách để điều chỉnh và hồn thiện chính sách. Mục
đích đánh giá là làm rõ kết quả các tác động tích cực và tác động tiêu cực của chính
sách, phát hiện những nội dung chính sách khơng phù hợp, dự kiến xu hướng kết quả
và tác động tiếp theo của chính sách.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu đã xây dựng được một số phương pháp tốt để
đánh giá một chính sách cơng. Theo đó, có nhiều quan điểm về các tiêu chí có thể sử
dụng để đánh giá một chính sách cơng, bao gồm: Tính hiệu lực; Tính hiệu quả; Sự phù
hợp; Sự cơng bằng; Tính khả thi;... Tuy nhiên, chính sách TGXH trong CSSKTT là
một chính sách khá đặc thù, nguồn vốn thực thi của một số chính sách bộ phận khơng
33
34
được lượng hóa ngay khi xây dựng chính sách. Do đó, tiêu chí “Tính khả thi” rất khó
để đánh giá. Mặt khác, để tránh việc phức tạp hóa cơng cụ nghiên cứu, luận án quyết
định gộp các tiêu chí đánh giá thành 03 tiêu chí sau đây mà vẫn đảm bảo được tính
khách quan, chính xác trong đánh giá: Tính hiệu lực; Tính hiệu quả; Sự phù hợp.
Stt
có bệnh tình chuyển biến tích cực
3
(i) Đánh giá tính hiệu lực của chính sách tức là sự so sánh giữa kết quả đạt
được của chính sách với mục tiêu của chính sách. Cụ thể là phạm vi ảnh hưởng của
chính sách đến đời sống của đối tượng thụ hưởng chính sách. Theo nghĩa hẹp, là xem
xét mức độ hoàn thành mục tiêu, bao gồm cả các yếu tố ảnh hưởng. Trên góc độ
nghiên cứu của luận án, NCS đánh giá hiệu lực của chính sách thơng qua những tiêu
chí định tính (những tiêu chí này sẽ được đánh giá thơng qua phương pháp điều tra
khảo sát và sẽ được đề cập sâu hơn ở những nội dung được phân tích và đánh giá ở
Thứ hai, mức độ hưởng ứng, tham gia của gia đình các đối tượng được hưởng
chính sách và của cộng đồng đối với chính sách TGXH trong CSSKTT.
Chính sách đào tạo nghề và - Số lượng lao động mới cung cấp cho xã hội
tạo việc làm
- Tỷ lệ đối tượng chính sách có sự cải thiện về
4
Chính sách phát triển các - Số lượng các đơn vị cung cấp dịch vụ CTXH
dịch vụ CTXH
- Chất lượng của các đơn vị cung cấp dịch vụ
CTXH
5
Chính sách phát triển nguồn - Số lượng cán bộ, nhân viên, công tác viên
nhân lực làm cơng tác làm CTXH
TGXH
(ii) Đánh giá tính hiệu quả của chính sách chính là việc so sánh giữa đầu ra
(kết quả đạt được của chính sách) với đầu vào của chính sách, hay đo lường giữa đầu
vào với quá trình chuyển hóa thành đầu ra như thế nào. Theo đó, tính hiệu quả của
chính sách có thể đánh giá thơng qua kết quả thực thi các chính sách bộ phận, thể hiện
ở bảng sau:
Bảng 2.2: Tiêu chí đánh giá hiệu quả của chính sách TGXH trong CSSKTT
Stt
1
Tiêu chí đánh giá hiệu quả của chính sách
Chính sách TCXH
- Tổng số đối tượng được hưởng chính sách
- Mức trợ cấp bình quân
- Tỷ lệ giữa đối tượng được hưởng chính sách
so với tổng số người có vấn đề về SKTT
2
Chính sách phát triển cơ sở - Số lượng cơ sở BTXH được xây mới, nâng
BTXH
cấp và năng lực phục vụ của chúng
- Ngân sách đầu tư cho phát triển cơ sở BTXH
- Số lượng đối tượng được hưởng chính sách
35
- Mức thay đổi về thu nhập bình quân của các
đối tượng được hưởng chính sách
chất lượng cuộc sống
phần sau:
Thứ nhất, mức độ tuân thủ chính sách của các cơ quan, đơn vị trong thực thi
chính sách TGXH trong CSSKTT.
Tiêu chí đánh giá hiệu quả của chính sách
- Thu nhập bình qn của cán bộ, nhân viên,
công tác viên làm CTXH
Nguồn: NCS xây dựng
(iii) Đánh giá sự phù hợp của chính sách là xem xét chính sách được thực thi
trong thực tiễn có thật sự phù hợp với hồn cảnh kinh tế - xã hội của đất nước, của các
địa phương và hồn cảnh của những đối tượng thụ hưởng chính sách hay khơng. Theo
đó, để đánh giá sự phù hợp của chính sách TGXH trong CSSKTT, luận án sử dụng
tiêu chí: Sự hài lịng của gia đình các đối tượng được hưởng chính sách TGXH trong
CSSKTT.
2.2.3. Chủ thể và đối tượng của chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe
tâm thần
2.2.3.1. Chủ thể của chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần
Chủ thể của chính sách TGXH trong CSSKTT bao gồm các cơ quan từ Trung
ương đến địa phương với các chức năng, nhiệm vụ khác nhau từ: hoạch định, tổ chức
triển khai chính sách. Bao gồm: Chính phủ; Bộ LĐTBXH; Các Sở, Phịng LĐTBXH ở
cấp tỉnh, huyện. Bên cạnh đó, chủ thể của chính sách cịn bao gồm các đơn vị phối hợp
thực hiện chính sách: Cơ sở BTXH; Cơ sở y tế; Trung tâm chăm sóc sức khỏe; Các tổ
chức phi chính phủ; Các lực lượng tư nhân, Các đơn vị phối hợp khác.
36
2.2.3.2. Đối tượng của chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần
Đối tượng của chính sách TGXH trong CSSKTT bao gồm:
(i) Tổ chức, đơn vị cung cấp dịch vụ CSSKTT;
(ii) Nhân lực thực hiện các dịch vụ CSSKTT;
(iii) Những đối tượng BTXH có vấn đề về SKTT, bao gồm:
Người chậm phát triển trí tuệ: Là một tình trạng bệnh lý có đặc điểm là khả
năng trí tuệ chung thấp hơn bình thường một cách rõ rệt kèm theo suy giảm đáng kể
khả năng thích nghi (khả năng tự lập và thực hiện các trách nhiệm của xã hội tương
ứng với tuổi) và khởi phát bệnh trước tuổi 18. Tuy nhiên khả năng thích nghi của trẻ
có thể được cải thiện nếu cho trẻ đi học tại các trường đặc biệt dành cho trẻ chậm phát
triển trí tuệ và điều trị tốt các tình trạng bệnh lý kèm theo.
NTT phân liệt: Tâm thần phân liệt là một loại bệnh tâm thần nặng. Cứ trong 100
người dân thì có 1 người mắc bệnh này. Bệnh có thể biểu hiện dưới nhiều dạng khác
2.2.4. Các chính sách bộ phận của chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức
khỏe tâm thần
nhau nhưng đều có chung đặc điểm là ảnh hưởng đến các hoạt động tinh thần và về lâu
dài có thể làm thay đổi nhân cách của bệnh nhân. Các triệu chứng chính của bệnh là
hoang tưởng, ảo thanh, rối loạn khả năng suy nghĩ, mất đi ý muốn làm việc, giảm sự
biểu lộ tình cảm và cách ly xã hội.
Mặc dù kinh tế cịn nhiều khó khăn nhưng hệ thống chính sách TGHX của Việt
Nam từng bước được hoàn thiện và phát triển. Nhà nước đã xây dựng được hệ thống
văn bản pháp luật, chính sách tạo cơ sở pháp lý cho thực hiện tốt chính sách TGXH.
Người rối loạn trầm cảm: Trầm cảm là một rối loạn tâm thần thường gặp bao
gồm nhiều triệu chứng nhưng hay gặp nhất là sự buồn bã một cách sâu sắc.
Người rối loạn lưỡng cực: Rối loạn cảm xúc lưỡng cực là một rối loạn trong đó
cảm xúc của bệnh nhân thường thay đổi từ giai đoạn trầm cảm sang hưng cảm hoặc
ngược lại. Tuy nhiên cũng có những giai đoạn khí sắc bình thường nhưng nếu cứ để tiếp
tục khơng điều trị thì tình trạng cảm xúc này sẽ chuyển từ cực này sang cực đối nghịch.
Người bệnh Alzheimer: Bệnh Alzheimer là một loại bệnh tiến triển ngày càng
nặng dần với đặc điểm là sự hủy diệt từ từ các tế bào thần kinh trong não.
Người rối loạn ám ảnh cưỡng chế:Đây là một loại rối loạn lo âu có thể xuất
hiện ở bất kỳ tuổi nào nhưng thường bắt đầu trong thời kỳ thơ ấu.
Người rối loạn tâm thần do rượu hay ma túy: Những người nghiện rượu hay
chất gây nghiện là những người không thể kiểm soát việc sử dụng các chất này, họ cần
phải dùng liện tục mỗi ngày với liều lượng ngày càng tăng. Nếu khơng có các chất này
thì họ sẽ khơng thể làm việc bình thường và sẽ xuất hiện các triệu chứng rất khó chịu
như là đổ mồ hơi, mạch nhanh, run tay, mất ngủ, ói mửa, kích động, lo âu, co giật...
(nếu là nghiện rượu) hoặc nôn, đau nhức bắp thịt, chảy nước mắt nước mũi, giãn đồng
tử, dựng lông, tốt mồ hơi, tiêu chảy, ngáp, mất ngủ...(nếu là nghiện thuốc phiện hay
heroin). Về lâu dài họ có thể bị thêm nhiều loại rối loạn tâm thần khác như sa sút tâm
thần, rối loạn trí nhớ, loạn thần, rối loạn khí sắc, rối loạn lo âu, rối loạn giấc ngủ... Các
đối tượng này cần được điều trị tại cơ sở chuyên khoa.
Đến nay, đã có trên 10 bộ luật, luật; 7 pháp lệnh và hơn 30 nghị định, quyết định của
Chính phủ; hơn 40 thơng tư, thơng tư liên tịch và nhiều văn bản có nội dung liên quan
quy định khn khổ pháp luật, chính sách TGXH, trong đó bao gồm các chính sách
TGHX trong CSSKTT.
Chính sách TGXH trong CSSKTT bao gồm một hệ thống chính sách bộ phận
với các giải pháp và công cụ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến các đối tượng của
chính sách. Tuỳ theo các cách tiếp cận khác nhau, có thể có các chính sách bộ phận
khác nhau khi đề cập đến hệ thống chính sách TGXH trong CSSKTT. Trong khn
khổ nghiên cứu của luận án, để đảm bảo tính khả thi, luận án sẽ tập trung đi sâu vào
nghiên cứu 05 chính sách bộ phận:
2.2.4.1. Chính sách trợ cấp xã hội
TCXH là việc Nhà nước hỗ trợ bằng vật chất (thường là tiền) cho các đối tượng
BTXH hàng tháng. Mức hỗ trợ được quy định chi tiết đối với từng nhóm đối tượng
khác nhau và được thể hiện rõ trong các chính sách ASXH của Nhà nước.
Như vậy, chính sách TCXH trong CSSKTT có bản chất là việc Nhà nước cấp
cho đối tượng chính sách một khoản tiền hàng tháng để mua lương thực, thực phẩm
và các chi tiêu cần thiết khác phục vụ cho nhu cầu cuộc sống. Các chế độ trợ cấp
được tính tốn dựa vào các mức chi tiêu tối thiểu để bảo đảm duy trì cuộc sống cho
các đối tượng mắc các vấn đề về SKTT, khoản trợ cấp này bao gồm cả chi phí ni
dưỡng và chi phí cho người chăm sóc (trong những trường hợp khơng tự chăm sóc
được bản thân).
Các nhóm đối tượng khác nhau được hưởng các mức trợ cấp khác nhau dựa vào
theo nguyên tắc bảo đảm không thấp hơn mức chuẩn chung và khó khăn nhiều hỗ trợ
37
38
nhiều, khó khăn ít hỗ trợ ít. Chế độ trợ cấp được điều chỉnh phù hợp với điều kiện phát
triển kinh tế xã hội của đất nước và khả năng ngân sách Nhà nước.
2.2.4.2. Chính sách phát triển cơ sở bảo trợ xã hội
Chính sách phát triển cơ sở BTXH có bản chất là việc Nhà nước cấp kinh phí
cho đầu tư xây dựng mới hoặc sửa chữa, cải tạo, nâng cấp các cơ sở BTXH nhằm tăng
cường năng lực phục vụ của các cơ sở BTXH.
Ở Việt Nam, cơ sở BTXH bao gồm cơ sở BTXH công lập và cơ sở BTXH
dịch vụ đào tạo nghề.
Chính sách tạo việc làm có bản chất là việc Nhà nước phối hợp với các đơn vị,
doanh nghiệp để tạo điều kiện cho những đối tượng của chính sách TGXH đủ điều
kiện, khả năng được tham gia lao động, tạo thu nhập để đáp ứng nhu cầu bản thân và
gia đình của đối tượng, đồng thời cịn giúp PHCN, có cơ hội giao tiếp với xã hội, hoà
nhập cộng đồng và hơn hết là đảm bảo quyền công dân của các đối tượng chính sách.
2.2.4.4. Chính sách phát triển các dịch vụ cơng tác xã hội
ngồi cơng lập: Cơ sở BTXH cơng lập do cơ quan nhà nước quản lý, đầu tư xây dựng
cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên của cơ sở BTXH;
Cơ sở BTXH ngồi cơng lập do các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên của cơ sở
Theo Liên đoàn CTXH chuyên nghiệp quốc tế (họp ở Canada 2004) cho
rằng: “CTXH là hoạt động chuyên nghiệp nhằm tạo ra sự thay đổi của xã hội bằng sự
tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề xã hội (vấn đề nảy sinh trong mối quan hệ
xã hội) vào quá trình tăng cường năng lực và giải phóng tiềm năngcủa mỗi cá nhân,
BTXH.
gia đình và cộng đồng. CTXH đã giúp cho con người phát triển đầy đủ và hài hòa hơn
và đem lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người dân”.
Nhà nước ln khuyến khích các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; tổ chức tôn giáo;
Theo Hiệp hội Quốc gia các nhân viên xã hội Mỹ - NAW (1970) thì: “CTXH là
các tổ chức, cá nhân trong nước; tổ chức, cá nhân nước ngoài; người Việt Nam định cư
ở nước ngoài thành lập cơ sở BTXH để chăm sóc đối tượng BTXH trên lãnh thổ Việt
Nam, trong đó có các đối tượng mắc các vấn đề về SKTT; thành lập và tham gia Hiệp
hội Giám đốc cơ sở BTXH để trao đổi kinh nghiệm chăm sóc, ni dưỡng, chỉnh hình
hoạt động mang tính chun mơn nhằm giúp đỡ những cá nhân, các nhóm hoặc cộng
đồng tăng cường hoặc khơi phục năng lực thực hiện chức năng xã hội của họ và tạo ra
những điều kiện thích hợp nhằm đạt được những mục tiêu ấy”.
- PHCN và hoà nhập cộng đồng cho đối tượng BTXH.
cộng đồng, đặc biệt là các đối tượng xã hội “yếu thế” giúp họ phát triển khả năng của
bản thân, gia đình cùng với cộng đồng và sự trợ giúp của nhà nước, để họ tự vươn lên
hòa nhập đời sống cộng đồng.
Với sự gia tăng ngày một nhanh của các đối tượng BTXH nói chung, các đối
tượng mắc các rối loạn tâm thần nặng nói riêng khơng thể điều trị tại cộng đồng thì
việc phát triển các cơ sở BTXH là một yêu cầu thiết yếu đối với các địa phương.
2.2.4.3. Chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm
Chính sách đào tạo nghề có bản chất là việc Nhà nước phối hợp với các cơ sở
BTXH, các đơn vị dạy nghề ở các địa phương tạo điều kiện để các đối tượng chính
Như vậy, dịch vụ CTXH hướng đến việc trợ giúp cho các cá nhân, gia đình,
Ở Việt Nam, CTXH được biết đến từ những năm 1970 nhưng chỉ diễn ra ở
miền Nam với một số trường đào tạo bậc cử nhân. Đến năm 2007, Bộ Lao độngTBXH đã chính thức tham gia tổ chức kỷ niệm ngày CTXH. CTXH trở thành một
nghề chuyên nghiệp là một quá trình tất yếu, vì theo quy luật, khi kinh tế càng phát
sách tiếp cận và sử dụng dịch vụ đào tạo, bình đẳng như các thành viên khác trong xã
hội. Chính sách đào tạo nghề được thực hiện cho các nhóm đối tượng có khả năng tiếp
thu và có năng lực làm việc sau khi được đào tạo nghề, được triển khai bằng cách
triển thì càng nảy sinh nhiều vấn đề xã hội. Để giải quyết có hiệu quả và bền vững các
vấn đề đó, địi hỏi phải phát triển CTXH như một nghề chuyên nghiệp.
miễn, giảm học phí, TCXH, hỗ trợ ăn trưa, giảm các khoản đóng góp xây dựng trường
lớp... Trong những trường hợp đặc biệt hỗ trợ sách giáo khoa, vở viết và đồ dùng học
tập. Phương thức thực hiện có thể thực hiện bằng cách nhà nước ấn định các cơ sở
cung cấp dịch vụ miễn phí là các cơ sở của Nhà nước. Nhưng cũng có thể áp dụng
lực cho vấn đề CSSKTT. Để phát triển các dịch vụ CTXH, Nhà nước khuyến khích
các địa phương thành lập các Trung tâm Cung cấp dịch vụ CTXH với những chức
năng, nhiệm vụ thiết thức gắn kết chặt chẽ với tình hình của các đối tượng BTXH của
từng địa phương.
Qua đó có thể thấy rằng, các dịch vụ CTXH là các dịch vụ hỗ trợ hết sức đắc
phương thức nhà nước mua dịch vụ của các tổ chức cung cấp dich vụ giáo dục. Đây là
phương thức linh hoạt cả cho các đối tượng của chính sách và các đơn vị cung cấp
39
40