Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biện pháp dạy học tích cực cho trẻ MN 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.33 KB, 20 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân,
là nền tảng đầu tiên của ngành giáo dục và đào tạo. Chất lượng chăm sóc, giáo
dục trẻ ở trường mầm non có tác dụng rất lớn đến chất lượng giáo dục ở bậc học
tiếp theo.
Giáo dục mầm non có mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng nhằm giáo dục toàn
diện cho trẻ về thể chất, tình cảm, đạo đức,thẩm mỹ, trí tuệ, là cơ sở để hình
thành nên nhân cách con người Việt Nam và chuẩn bị những tiền đề cần thiết
cho trẻ bước vào trường tiểu học được tốt.
Như Bác Hồ kính yêu đã nói: “Giáo dục mầm non tốt sẽ mở đầu cho
một nền giáo dục tốt”.Trường mầm non có nhiệm vụ chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục các cháu trở thành người công dân có ích.
Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của khoa học, công nghệ, văn
hoá và nghệ thuật trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi
hỏi con ngừơi phải chủ động, tích cực, năng động và có khả năng xử lý các vấn
đề phát sinh trong cuộc sống một cách có hiệu quả. Do vậy, cùng với sự đổi mới
chung trong giáo dục, giáo dục mầm non với mục tiêu phát triển tòan diện đứa
trẻ trong độ tuổi mầm non và đòi hỏi các biện pháp giáo dục cần phải có những
đổi mới nhằm hình thành ở trẻ những năng lực chung, những nền tảng nhân cách
ban đầu.
Phương pháp dạy học là một trong những thành tố rất quan trọng để tiếp
nhận vốn kinh nghiệm của xã hội loài người để hình thành nhân cách của bản
thân. Hiện nay, phương pháp giáo dục mầm non của chúng ta đang thực hiện còn
đồng loạt cứng nhắc, chưa phát huy tính tích cực, chủ động của từng cá nhân trẻ.
Trước tình hình thực tế đó đòi hỏi phải đổi mới giáo dục mầm non nhằm đáp
ứng sự phát triển con người trong thời kỳ đổi mới của đất nước. Đổi mới giáo
dục mầm non nhằm phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò chủ thể của trẻ để phát
triển về nhiều mặt dưới sự hướng dẫn linh họat của giáo viên.

1



Trong chương trình đổi mới nội dung giáo dục được điều chỉnh theo chủ
điểm cho phù hợp với tình hình và khả năng của trẻ ở lớp. Kế họach được tiến
hành một cách linh hoạt về thời gian thực hiện các chủ điểm, về thiết kế nội
dung họat động giáo dục trẻ sao cho phù hợp với chủ điểm.
Môi trường giáo dục được xây dựng với các góc hoạt động phù hợp nội
dung chủ điểm, thường xuyên bổ sung nguyên vật liệu mỡ bày trí ở dạng gợi ý.
Quá trình đánh giá trẻ, giáo viên cần tạo tình huống để trẻ tự bộc lộ bản
thân giúp giáo viên quan sát làm cơ sở đánh giá. Cách đánh giá trẻ cần sử dụng
bảng liệt kê để theo dõi.Giáo viên cần lập kế hoạch và lựa chọn các hoạt động
phù hợp. Cung cấp các đồ dùng đồ chơi, nguyên vật liệu mở để khuyến khích trẻ
hoạt động tích cực. Tổ chức cho trẻ hoạt động trải nghiệm một cách tích cực, tự
nhiên thông qua các giác quan của trẻ. Muốn vậy, trong quá trình tổ chức các
hoạt động giáo viên phải vận dụng phương pháp dạy học tích cực.Nghĩa là phải
làm sao phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của trẻ bằng cách dựa
vào vốn kinh nghiệm của trẻ, khai thác hứng thú hoạt động ở trẻ, tạo mọi cơ hội
và tình huống có vấn đề cho trẻ tự mình hoạt động để tìm tòi khám phá, trải
nghiệm, phát hiện và tự nói lên những điều mình tìm hiểu biết được, sau đó cho
trẻ thực hành áp dụng vào thực tiễn. Lúc đầu có thể tốn thời gian hơn nhưng trẻ
được hoạt động chủ động tích cực, sáng tạo, ngôn ngữ, tư duy của trẻ được phát
triển đồng thời những kiến thức trẻ thu được sẽ vững chắc hơn, hiệu quả dạy học
sẽ cao hơn. Một yếu tố hết sức quan trọng mà không được coi nhẹ là phải tôn
trọng, phải thực sự đồng cảm với nhu cầu và lợi ích cá nhân của trẻ, tạo cơ hội
cho trẻ phát triển các kĩ năng và vận dụng kiến thức vào thực tiễn, thích ứng và
dễ dàng hòa nhập với cuộc sống xung quanh. Kích thích động cơ bên trong của
trẻ, gây hứng thú nhằm lôi cuốn trẻ vào các hoạt động, đặc biệt là hoạt động
nhận thức.
Vấn đề cốt lõi của phương pháp dạy học tích cực là hướng tới hoạt động
chủ động, sự suy nghĩ sáng tạo của trẻ, chống gò ép, áp đặt làm thay trẻ.
Thực tế hiện nay, trong quá trình thực hiện chương trình tiếp cận đổi mới

ở các đơn vị đã có sự chuyển biến đáng kể, đại đa số giáo viên có trăn trở suy
2


nghĩ tìm cách lựa chọn và sử dụng các phương pháp dạy học sao cho trẻ hứng
thú, chủ động, tích cực tham gia họat. Với trách nhiệm lớn lao của một người
cán bộ quản lý phụ trách về công tác chuyên môn, tôi luôn trăn trở và suy nghĩ:
“Làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học tại trường mầm non, cụ thể là
tại trường mầm non Xuân Tảo của chúng tôi”. Đây là nhiệm vụ quan trọng và
phải có sự nỗ lực phấn đấu, quyết tâm cao, cần phải chú trọng công tác chuyên
môn, công tác nâng cao chất lượng giáo dục trẻ nhằm duy trì và phát triển chất
lượng giáo dục trong nhà trường ngày càng đi lên đáp ứng với yêu cầu sự nghiệp
giáo dục mầm non trong thời đại hiện nay.
Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp dạy học tích cực cho
trẻ mầm non”.

3


B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Chất lượng giáo dục quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách con
người. Có thể nói nhân cách con người trong tương lai như thế nào phụ thuộc
lớn vào sự giáo dục của trẻ trong trường mầm non.
Trường mầm non là ngôi nhà thứ hai của trẻ, vì vậy cần nâng cao chất
lượng giáo dục trẻ toàn diện về Đức - Trí - Thể - Mỹ và lao động. Với nhiệm vụ
là cán bộ quản lý của nhà trường, phụ trách về chuyên môn tôi thấy việc dạy học
cho trẻ theo chương trình đổi mới là phù hợp và phát huy được tính sáng tạo ở
trẻ. Trong chương trình đổi mới nội dung giáo dục được điều chỉnh theo chủ
điểm cho phù hợp với tình hình và khả năng của trẻ ở lớp. Kế họach được tiến

hành một cách linh hoạt về thời gian thực hiện các chủ điểm, về thiết kế nội
dung họat động giáo dục trẻ sao cho phù hợp với chủ điểm.
Nội dung giáo dục được cấu trúc theo chủ điểm, có linh hoat thiết kế các
hoạt động giáo dục phù hợp với điều kiện, thời gian, kinh nghiệm của trẻ từng
lớp, từng khối tuổi. Việc xây dựng môi trường giáo dục có liên quan đến nội
dung, hình thức tổ chức và phương pháp giáo dục trẻ vì vậy các góc hoạt động
được xây dựng theo chủ điểm nhằm tạo điều kiện cho trẻ chơi theo ý thích, kích
thích trẻ tích cực hoạt động cá nhân hoặc họat động theo nhóm nhỏ. Các tiết học
được chú ý tổ chức với nhiều hình thức đa dạng các hoạt động chăm sóc giáo
dục trẻ, trẻ được trải nghiệm, khám phá, được tự chọn, thay đổi góc chơi và hoạt
động với nhiều đồ dùng, nguyên liệu mở, được tham gia cùng cô giáo sắp xếp
góc chơi, làm đồ chơi, trang trí lớp bằng chính những sản phẩm do mình làm ra,
trưng bày trong các góc theo nội dung từng chủ điểm giáo dục. Lớp học trở nên
sinh động hấp dẫn thu hút đối với trẻ.
Bên cạnh những ưu điểm đó, thì cũng còn những tồn tại như nhận thức
của một số giáo viên quan niệm nếu thực hiện chương trình cải cách thì dạy
2tiết/ngày làm cho giáo viên vất vả hơn; còn chương trình đổi mới thì chỉ tổ
chức 1 tiết/ ngày, sẽ đỡ vất vả hơn! Thực tế nhiều giáo viên chưa hiểu được rằng
4


bản chất của việc đổi mới là ở chổ cho dù dạy 2 hay 1 tiết trong ngày thì những
nội dung kiến thức mà cô cung cấp cho trẻ không quan trọng, không nặng chỉ là
cung cấp kiến thức mà quan trọng nhất là phương pháp, cách thức truyền tải
những kiến thức ấy đến với trẻ như thế nào để trẻ nhẹ nhàng, thoải mái cùng
chơi cùng họat động mà đạt hiệu quả cao hơn, trong quá trình tổ chức các họat
động phải tích hợp một cách khéo léo các nội dung giáo dục. Trẻ phải được “học
mà chơi”,“chơi mà học”, phương pháp giáo dục trẻ chú trong đến việc tổ chức
cho trẻ thực hành, luyện tập trải nghiệm, coi trọng vai trò của trò chơi và
phương pháp dùng trò chơi trong việc tổ chức các hoạt động của trẻ. Các góc

hoạt động đảm bảo phù hợp với chủ đề giáo dục, kích thích sự tò mò ham hiểu
biết của trẻ.
Thực tế có giáo viên không thật sự kiên trì và tự giác áp dụng phương
pháp dạy học tích cực vì phải đầu tư suy nghĩ và mất nhiều công sức chuẩn bị,
chỉ khi nào thuận lợi hoặc bắt buộc phải làm thì mới áp dụng.
2. Cơ sở thực tiễn
Hiện nay hạn chế trong các giờ dạy của giáo viên là sử dụng hệ thống câu
hỏi chưa đạt chất lượng cao, thường dùng những câu hỏi đóng, câu hỏi trực tiếp
vì vậy chưa kích thích được sự phát triển tư duy của trẻ.
Ví dụ: Trong tiết THMTXQ khi cung cấp cho trẻ về công dụng và đặc
điểm của con cá, cô đặt các câu hỏi: Vây cá dùng để làm gì? Miệng cá dùng để
làm gì? Cá nhìn được là nhờ cái gì? Các câu hỏi này không sai; tuy nhiên nếu
như cô hỏi: Cô đố các con biết tại sao cá lại bơi được? Hãy tưởng tượng xem
đuôi cá khi bơi giống cái gì? Có nhận xét gì về vẩy cá ở gần vây mang? vẩy ở
gần đuôi?…giờ học sẽ sinh động hơn, trẻ sẽ động não suy nghĩ nhiều hơn.
Không nên dùng những câu hỏi quá khó đại loại như: tại sao trong cá có chất
đạm, tại sao cá có 2 mắt?.
Để đạt hiệu quả cao, trong quá trình dạy cô nên dùng những câu hỏi mở
để trẻ tìm ra nhiều phương án trả lời, khuyến khích trẻ suy luận nêu ý kiến riêng,
đặt vấn đề thắc mắc với cô với bạn, chia sẻ những gì mình hiểu biết.

5


Ví dụ: Cô đưa ra tình huống có 2 hình tam giác được cắt từ đường chéo
của 1 hình vuông bằng bìa giấy, nếu như cô yêu cầu trẻ “Con hãy ghép 1 hình
vuông từ 2 hình này ” thì sẽ không kích thích trẻ sáng tạo vì trẻ chỉ có 1 phương
án làm duy nhất. Nhưng nếu cô yêu cầu “Con có thể làm được gì từ 2 hình này?”
thì trẻ sẽ nghĩ ra nhiều cách làm khác nhau: Xếp Cái thuyền, hình bình hành,
gấp, xé dán….và như vậy sẽ kích thích tư duy linh hoạt, sáng tạo và trí tưởng

tượng của trẻ. Tuy nhiên với trẻ mầm non thì cũng không nên sử dụng câu hỏi
quá khó, không gắn với cuộc sống gần gũi của trẻ.
Thông thường trong các tiết dạy giáo viên hay đặt những câu hỏi cho trẻ
trả lời mà rất ít chú ý tới việc kích thích trẻ đặt câu hỏi, thắc mắc diễn tả và chia
sẻ ý tưởng. Điều này đã làm hạn chế việc sử dụng ngôn ngữ chủ động của trẻ
cũng như sự suy nghĩ tìm tòi của chúng. Vì vậy cô nên thường xuyên đề nghị trẻ
đặt câu hỏi: VD: Mỗi con hãy nghĩ và hỏi bạn 1 câu về vật mình vừa quan sát?
Con có hỏi thêm cô điều gì không ? Con có hỏi bạn điều gì nữa không? Và yếu
tố phương tiện phi ngôn ngữ như thái độ, sắc thái biểu cảm trên nét mặt của cô
cũng có tác dụng kích thích trẻ rất lớn: Câu hỏi của con rất hay / Một câu hỏi rất
thông minh / hoặc biểu lộ sự ngạc nhiên khi trẻ làm điều mới lạ, cô giáo luôn
luôn phải tỏ thái độ lúc nào cũng mong muốn được lắng nghe trẻ nói và không
nên tiếc lời khen ngợi, động viên trẻ dù là một sự cố gắng rất nhỏ thôi.
Bên cạnh đó, khi tổ chức hoạt động cho trẻ nên thể hiện sự đa dạng về nội
dung theo chủ đề, không nên chỉ chủ yếu dựa vào tài liệu gợi ý của Vụ Giáo dục
mầm non. Xây dựng và điểu chỉnh kế hoạch giáo dục tiếp theo cần bám sát kết
quả quan sát và đánh giá trẻ (thông tin phản hồirất quan trọng), tránh hình thức
trong thực hiện kế hoạch và theo dõi đánh giá trẻ, cần dựa trên cơ sở kinh
nghiệm trẻ có được - tức là khả năng và sự hiểu biết của trẻ để đưa ra biện pháp
giáo dục nhằm phát triển cá nhân tốt hơn (Dạy học theo kinh nghiệm, huy động
kinh nghiệm của trẻ,phát triển vùng kế cận...)
Trong năm vừa qua, việc nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ trong
trường mầm non Xuân Tảo vẫn được chú trọng song kết quả chưa cao, do trình
độ chuyên môn, tay nghề của giáo viên chưa đồng đều. Đa số giáo viên còn trẻ,
6


chưa có nhiều kinh nghệm, giáo viên còn thụ động trong việc dạy trẻ, chưa có
nhiều sáng tạo khi tổ chức các hoạt động dạy trẻ, cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ
dùng chưa đáp ứng với yêu cầu đổi mới giáo dục.Vì vậy, việc dạy học cho trẻ

theo hướng tích cực là rất cần thiết đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ mầm
non trường Xuân Tảo nói riêng nhằm thực hiện tốt chất lượng giáo dục phát
triển, đổi mới giáo dục mầm no, đổi mới phương pháp giáo dục trẻ một cách
toàn diện góp phân thực hiện tốt nội dung: “Năm học đổi mới quản lý và nâng
cao chất lượng giáo dục”.
III. Đặc điểm của trường mầm non Xuân Tảo
1. Khó khăn:
- Số học sinh quá đông, quá tiêu chuẩn quy định. TB : 60 trẻ/ lớp MG lớn.
- Áp lực của phụ huynh mong muốn các con cái gì cũng phải giỏi, phải
biết là quá lớn.
- Đội ngũ giáo viên còn trẻ, thiếu kinh nghiệm trong công tác chuyên
môn.
2. Thuận lợi:
- Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của các cấp
lãnh đạo, sự chỉ đạo sát sao của Phòng Giáo dục và Đào tạo quận.
- Là trường đạt chuẩn Quốc gia.
- Ban giám hiệu đoàn kết, mạnh dạn, có trình độ.
- Phụ huynh nhiệt tình các chủ trương, hoạt động của nhà trường.
- Đội ngũ giáo viên ham học hỏi, phấn đấu vươn lên, có tinh thần trách
nhiệm cao trong công tác.
3. Kết quả khảo sát học sinh đầu năm học:
Tổng số học

CÁC LĨNH VỰC GIÁO DỤC

sinh
598 học sinh
Đạt
Tỉ lệ %


PT thể chất
450
75,2%

PT nhận

PT Ngôn

thức

ngữ

400
66,8%

410
68,5%

PT Tình cảm
– QHXH Thẩm mỹ
405
67,7%
7


Chưa đạt
Tỉ lệ %

148
24,7%


198
33,1%

188
31,4%

193
32,2%

Từ những thực trạng nêu trên, bản thân tôi rất trăn trở làm sao để nâng
cao chất lượng giáo dục của nhà trường cũng như chất lượng kiến thức của trẻ,
tạo uy tín trong phụ huynh và nhân dân địa phương, tạo cho trẻ có một thói quen
học tập độc lập, phát triển tư duy và óc sáng tạo. Với cương vị là hiệu trưởng
của nhà trường, tôi đã cùng đồng chí phó hiệu trưởng và các đồng chí giáo viên
đã áp dụng và thí điểm một số biện pháp dạy học tích cực cho trẻ mầm non nhu
sau:
IV. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1. Biện pháp dạy học tích cực cho trẻ mầm non
1.1. Biện pháp 1: Biện pháp động não
Động não là biện pháp giúp cho trẻ trong một thời gian ngắn có thể nảy
sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. Khi sử dụng
phương pháp này sẽ kích thích ở trẻ nảy sinh các ý tưởng, huy động tối đa
những hiểu biết tiềm tàng đã có một cách nhanh nhất.
Ví dụ: Ở chủ điểm: “Thực vật”, trong hoạt động khám phá khoa học:
“Thử nghiệm gieo hạt” của trẻ mẫu giáo lớn, tôi cùng giáo viên tiến hành gieo
hạt giống vào các chậu khác nhau (có chậu được tưới nước, có chậu không được
tưới nước hoặc có chậu để ra ngoài nắng, có chậu để ở trong nhà).Cô cùng trẻ
hằng ngày quan sát, theo dõi sự lớn lên của cây, cô sử dụng những câu hỏi kích
thích trẻ động não như : “Các hạt giống có mọc lên cùng một lúc không ?; Vì

sao? Điều gì xảy ra với các chậu không có nước? Điều gì xảy ra đối với các
chậu để trong bóng tối ?...”. Khi sử dụng những câu hỏi mang tính chất kích
thích tư duy của trẻ như thế này, tôi thấy trẻ có nhiều phương án trả lời rất thông
minh và ngộ nghĩnh.
Biện pháp động não thường bắt đầu từ cách cô giáo đặt câu hỏi hay những
vấn đề mà trẻ cần tìm hiểu trước các nhóm/ lớp.
Ví dụ: Ở chủ điểm: “Nước và các hiện tượng”, trong hoạt động làm
quen với toán, khi giáo viên sử dụng những câu hỏi kích thích tư duy của trẻ
8


như: “ Để đong nước vào trong chai thì làm bằng cách nào? Làm sao để xếp
các mảnh rời thành một bức tranh hoàn chỉnh…”, trẻ đưa ra nhiều câu trả lời
khác nhau và rất phong phú như : rót bằng cốc, rót bằng thìa ... Sau khi đặt vấn
đề, cô giáo tạo điều kiện cho trẻ đặt câu hỏi cho nhau, phát biểu ý kiến và cách
làm của mình cùng với các bạn càng nhiều càng tốt. Cô giáo liệt kê tất cả ý kiến,
cách làm của trẻ và làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ, đồng thời phân loại ý kiến
của tất cả trẻ và cho phép trẻ bổ sung những ý kiến mới.
Biện pháp này có thể dùng trong tất cả các hoạt động của trẻ, ở tất cả các
lứa tuổi, các chủ đề, để giải quyết bất kỳ vấn đề nào đó như: Hoạt động học,
hoạt động vui chơi... Tuy nhiên, các vấn đề đưa ra phải gần gũi, quen thuộc
trong cuộc sống thực của trẻ. Tất cả ý kiến của trẻ đều phải được hoan nghênh,
khích lệ của cô giáo, không nên phê phán, nhận định đúng sai ngay. Cuối các
hoạt động, cô giáo cần nhấn mạnh đây này là kết quả của sự nỗ lực hoạt động
của tất cả trẻ, trẻ hoạt động rất tích cực và hứng thú.
Ví dụ: Ở chủ điểm: “Động vật”, tôi áp dụng biện pháp này ở các hoạt
động như : âm nhạc, tạo hình, khám phá khoa học, thể chất, văn học, hoạt động
ngoài trời, hoạt động chiều…tại 10/10 lớp của trường tôi thấy trẻ rất hứng thú,
sôi nổi, tham gia với nhiều ý kiến, trí tưởng tượng phong phú như : con chuồn
chuồn bay như máy bay phản lực, con cá bơi như diễn viên múa…

1.2. Biện pháp 2: Hoạt động theo nhóm
Để thực hiện biện pháp này, trước tiên giaó viên cần tạo điều kiện cho trẻ
được trình bày, trao đổi, chia sẻ những ý tưởng, kinh nghiệm, tâm tư, nguyện
vọng của mình trước nhóm/lớp. Sau khi trẻ đã trình bày xong ý tưởng của mình,
cô giáo giúp trẻ lựa chọn cách làm hữu hiệu nhất và cho phép trẻ được cùng
nhau thực hiện ý tưởng của mình.
Ví dụ: Trong hoạt động làm quen với toán: “Chia 6 đối tượng làm 2
phần” tại lớp MG lớn A1, hình thức hoạt động theo nhóm được áp dụng rất có
hiệu quả. Giáo viên cho trẻ được hoạt động theo nhóm có tính chất thi đua ở
phần ôn luyện bài cũ cũng như ôn luyện củng cố kiến thức vừa học, trẻ hứng
thú, suy nghĩ, tìm tòi, cùng nhau trao đổi, hợp tác cùng nhau và đưa ra kết quả
9


chính xác nhất từ đó giúp cho trẻ có kĩ năng hợp tác nhóm một cách tốt nhất,
phát triển tốt kĩ năng giao tiếp và tư duy của trẻ.
Việc tổ chức cho trẻ hoạt động theo nhóm sẽ huy động được khả năng làm
việc của tất cả trẻ vào hoàn thành nhiệm vụ chung của tập thể. Trẻ có nhiều cơ
hội để cùng nhau thảo luận, đàm phán, chia sẻ kinh nghiệm giúp đỡ nhau, cùng
hợp tác để thực hiện công việc chung. Trong đó, hình thành ở khả năng điều
chỉnh, điều khiển hành vi của mình phù hợp với yêu cầu chung, giải quyết các
bất hoà và giao tiếp hiệu quả hơn.
Ví dụ: ở hoạt động góc của khối lớn và khối nhỡ, khi giáo viên phân công
nhiệm vụ, trẻ nhận vai ở các góc chơi. Tại các góc chơi đó trẻ sẽ tự phân công
và thỏa thuận công việc tại góc chơi như: ở chủ đề “Trường mầm non”, giáo
viên phân cho các nhóm làm dây xúc xích trang trí lớp đón khai giảng, tôi thấy
các nhóm thảo luận rất sôi nổi về công việc cần làm: nội dung công việc, các
dụng cụ, đồ dùng cần chuẩn bị… Trẻ vui vẻ cùng nhau làm đồ dùng trang trí
lớp, thảo luận về kết quả công việc, cảm nghĩ của trẻ.
Khi thực hiện phương pháp này, giáo viên cần xây dựng nội dung, hình

thức tổ chức hoạt động trong nhóm phù hợp với nhu cầu, khả năng của trẻ ở
từng độ tuổi và phù hợp với điều kiện thực tiễn của lớp, của trường. Kết quả
hoạt động chung của trẻ có thể ở những hình thức khác nhau nhưng khi đánh giá
cô giáo phải chú ý đến hành vi, hành động của trẻ trong hoạt động chung.
Ví dụ: Phó hiêu trưởng chuyên môn kết hợp cùng tổ chuyên môn phòng
GD&ĐT để đưa ra những kế hoạch, nội dung chung cho 10 lớp. Giáo viên phải
soạn bài trước một tuần để hiệu phó chuyên môn duyệt, trong quá trình dậy trẻ,
cô giáo phải quan sát kĩ từng trẻ, nắm bắt rõ tâm lý của từng trẻ để từ đó đưa ra
những kế hoạch cụ thể để dạy trẻ.
1.3. Biện pháp 3: Cho trẻ đóng vai
Đóng vai là biện pháp tổ chức cho trẻ thực hành “làm thử” một số cách
ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là biện pháp đưa trẻ vào
những tình huống thực để trẻ suy nghĩ và có những cách giải quyết, ứng xử
khác nhau. Cần theo các bước sau:
10


+ Chuẩn bị: Cô giáo nghiên cứu kỹ chủ đề đóng vai, các tình huống có thể
xảy ra khi trẻ thực hiện để có biện pháp giải quyết chủ động, thích hợp.
+ Tiến hành: Cô giáo nêu các chủ đề và giao các tình huống để trẻ lựa
chọn đóng vai theo nhóm. Trong đó cần quy định rõ thời gian chuẩn bị và thời
gian đóng vai cho các nhóm. Tổ chức cho trẻ thảo luận chuẩn bị vai, lên đóng
vai và tạo điều kiện trẻ thảo luận, nhận xét các hành vi, cách ứng xử của các
nhận vật cụ thể hoặc tình huống trong vở diễn.
+ Kết thúc: Giáo viên đưa ra kết luận cuối cùng.
Khi sử dụng biện pháp này giáo viên cần chú ý: xây dựng tình huống
đóng vai phù hợp với chủ đề giáo dục trẻ, phù hợp với trình độ và khả năng của
trẻ ở từng độ tuổi. Tình huống đóng vai phải để mở, không cho trước kịch bản
và lời thoại. Xác định thời gian phù hợp và nên có những đồ dùng hoá trang và
đạo cụ đơn giản để làm tăng tính hấp dẫn của vở diễn, đặc biệt cần chú ý đến

những trẻ nhút nhát giúp trẻ dễ dàng hoà nhập vào hoạt động tập thể.
Ví dụ: Khi giáo viên lớp mẫu giáo lớn A2 tổ chức cho trẻ đóng kịch “Ba
cô gái ”, giáo viên đã chọn đề tài này để thực hiện ở chủ đề: “Gia đình”. Đầu
tiên, giáo viên cho trẻ kể lại chuyện theo trí nhớ của trẻ cùng với sự giúp đỡ của
cô, sau đó cô gợi ý để trẻ thể hiện các vai diễn bằng hành động cơ thể, biểu hiện
của nét mặt… cho trẻ thỏa thuận vai diễn theo ý tưởng của trẻ: trẻ tự chọn nhóm
và chọn nhân vật để đóng vai tho ý thích, trẻ còn tự sửa lời thoại theo ý muốn,
theo ngôn ngữ của trẻ nhưng lại rất có hiệu quả, hồn nhiên nhưng rất logic và
hợp lý.
Khi tiến hành cho trẻ tham gia đóng kịch theo hình thức này ở các lớp
trong trường đặc biệt là khối mẫu giáo, tôi thấy trẻ rất hào hứng, sôi nổi, tích cực
tham gia các hoạt động.
1.4. Biện pháp 4: Tổ chức trò chơi
Trò chơi là tổ chức cho trẻ tìm hiểu một vấn đề hay thực hiện hành vi hoạt
động, những thái độ, những công việc thông qua trò chơi nào đó. Qua việc tổ
chức trò chơi trẻ sẽ có nhiều cơ hội để thực nghiệm những thái độ, hành vi của
mình và bạn. Cũng thông qua trò chơi cô giáo có thể hình thành cho trẻ năng lực
11


quan sát, nhận xét, đánh giá hành vi, cách ứng xử của người khác, giải toả mọi
căng thẳng, mệt mỏi, kích thích hứng thú hoạt động của trẻ với công việc chung.
- Khi tổ chức các trò chơi, giáo viên cần xác định nội dung trò chơi phù
hợp với chủ đề giáo dục trẻ và mức độ nhận thức của trẻ ở từng độ tuổi. Giúp trẻ
nắm được các quy tắc chơi, tôn trọng luật chơi. Đồng thời, phải phát huy tính
tích cực, sáng tạo của trẻ và chú ý tạo điều kiện cho tất cả trẻ đều được tham gia.
Sau khi chơi, giáo viên phải tổ chức cho trẻ nhận xét, đánh giá kết quả hoạt động
hướng vào hành vi và cách ứng xử của trẻ trong trò chơi..
Ví dụ: Trò chơi bác sỹ, y tá được áp dụng trong hoạt động vui chơi của
10/10 lớp.

+ Mục đích: Cộng tác với bạn trong khi chơi và trải nghiệm những kinh
nghiệm gặp trong cuộc sống.
+ Chuẩn bị: Góc chơi: phòng khám bệnh với các đồ chơi: ống nghe, đè
lưỡi, bông, băng…
+ Tiến hành: Trẻ tự chơi theo ý thích, giáo viên tham gia chơi cùng trẻ
nhằm tạo nên mối giao tiếp giữa cô và trẻ, đồng thời mở rộng nội dung chủ đề
chơi.Cuối buổi chơi, giáo viên nhận xét, động viên khích lệ trẻ, nhắc nhở một số
trẻ chưa tích cực.
1.5. Biện pháp 5: Biện pháp dự án
- Biện pháp dự án là biện pháp tổ chức cho trẻ thực hiện một nhiệm vụ
bằng cách cùng nhau xác định dự án, kiểm tra, điều chỉnh và đánh giá kết quả
thực hiện. Phương pháp này thường dùng cho trẻ mẫu giáo lớn. Tiến hành
phương pháp theo các bước sau:
+ Chọn chủ đề và xây dựng dự án: Cô giáo nêu một số chủ đề để trẻ lựa
chọn, phân chia nhóm hoạt động. Trong giai đoạn này cùng với sự hướng dẫn,
định hướng của cô giáo, trẻ cùng nhau thảo luận, tranh luận, đàm phán để thống
nhất xây dựng đề cương, kế hoạch hoạt động như: xác định được công việc phải
làm, cách tiến hành, phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm và lựa
chọn đồ dùng phục vụ cho hoạt động...

12


+ Thực hiện dự án: Các thành viên trong nhóm thực hiện công việc theo
đúng kế hoạch đã đề ra cho nhóm và cá nhân. Sau đó, tất cả trẻ cùng nhau thu
thập kết quả hoạt động của nhóm và chuẩn bị công bố sản phẩm hoạt động.
+ Đánh giá dự án: Cô giáo tạo điều kiện cho trẻ cùng nhau thảo luận, nhận
xét, đánh giá lại quá trình thực hiện, kết quả và kinh nghiệm mà trẻ đã đạt được.
Lúc này, cô cũng tham gia vào quá trình đánh giá để giúp trẻ có cảm giác được
quan tâm, được tôn trọng và tạo được mối quan hệ tình cảm tốt đẹp giữa cô và

trẻ.
Tuy nhiên, khi sử dụng biện pháp này giáo viên phải xác định mục tiêu dự
án rõ ràng, có tính thực tiễn và khả thi. Cần tạo điều kiện cho tất cả trẻ đều có cơ
hội được tham gia vào trong dự án. Nội dung dự án phải phù hợp với trình độ và
khả năng của trẻ, phù hợp với lớp, với trường.
Ví dụ: Khi chọn hoạt động “Bé làm trực nhật” để áp dụng tại hai lớp
mẫu giáo lớn A1 và A2 tôi thấy phát huy rất tốt tính tích cực ở trẻ, trẻ tự suy
nghĩ, tìm tòi đưa ra những phương án và giải pháp cụ thể cho từng nội dung.Trẻ
có ý thức hơn trong công việc trực nhật ở lớp nói riêng cũng như những công
việc khác ở trong lớp nói chung.
+ Tên hoạt động: “Bé làm trực nhật”.
+ Mục đích: Phát triển kĩ năng hợp tác trong các hoạt động cùng các bạn.
+ Phát triển tính tự lực, tính trách nhiệm, ý thức giữ gìn lớp học sạch sẽ,
ngăm nắp.
+ Chuẩn bị: Khăn lau, chổi, xẻng, hót rác, xô chậu, khẩu trang…
+ Tiến hành: Cho trẻ thảo luận về công việc trực nhật ở lớp: các công việc
cần làm, các dụng cụ cần thiết, phân công công việc cho từng tổ, nhóm, các
nhân.
Thực hành: Vệ sinh lớp học (trẻ thực hiện giáo viên giám sát và hợp tác
cùng trẻ, giúp trẻ những việc khó). Sau khi lao động, trẻ biết cất đồ dùng dụng
cụ lao động đúng nơi quy định, rửa tay sạch sẽ sau khi làm việc.
Cho trẻ tự nhận xét về mức độ hoàn thành công việc của từng nhóm.

13


2. Biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy học theo hướng tích cực cho trẻ
mầm non
2.1. Xây dựng kế hoạch chuyên môn
Trên cơ sở kế hoạch nhiệm vụ năm học của trường, tôi xây dựng kế hoạch

chuyên môn một cách cụ thể và tỉ mỉ: cùng tổ chuyên môn của phòng GD&ĐT,
của trường, giáo viên chính các lớp xây dựng chương trình dạy cho các khối lớp
phù hợp, sát với tình hình hình của lớp, của trường. Chỉ đạo giáo viên các nhóm
lớp xây dựng kế hoạch hoạt động và được nhà trường phê duyệt mới thực hiện.
Hàng tháng giáo viên báo cáo kế hoạch, lịch dạy của lớp cho nhà trường, nộp và
duyệt bài soạn trước 1 tuần, cuối mỗi chủ đề đánh giá và nộp lại cho Ban giám
hiệu. Qua đó, Ban giám hiệu có cơ sở để theo dõi, kiểm tra và có biện pháp chỉ
đạo kịp thời tốt hơn.
* Giao chỉ tiêu chất lượng cho từng khối, lớp:
+ Mẫu giáo lớn:

Đạt 98%.

+ Mẫu giáo nhỡ:

Đạt 96 %.

+ Mẫu giáo bé + Nhà trẻ: Đạt 95 %.
- Chất lượng giao gắn với chỉ tiêu thi đua của lớp, của cá nhân vào cuối
năm. Với biện pháp này, giáo viên phải trăn trở, tìm tòi để có nhiều biện pháp
trong việc giáo dục trẻ, trong kế hoạch, phương pháp ôn luyện kién thức cho trẻ
thêm vào các thời điểm trong ngày.
2.2. Thành lập tổ chuyên môn
Tổ chuyên môn gồm 5 đ/c (Hiệu phó chuyên môn, các đ/c đại diện cho
các khối: Lớn, nhỡ, bé, nhà trẻ) là lực lượng nòng cốt vì vậy nhà trường đã ra
chọn các đ/c giáo viên có trình độ chuyên môn cao, có năng lực sư phạm tốt, có
kinh ngiệm để chỉ đạo phân công điều hành giáo viên trong các khối. Bản thân
tôi xây dựng kế hoạch hoạt động chuyên môn từng tháng, tuần, ghi rõ những kết
quả cụ thẻ đã làm trong tháng, tổ chức sinh hoạt chuyên môn định kỳ 1 tháng/lần
tạo nề nếp trong sinh hoạt, có đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm và triển khai kế

hoạch tiếp theo.

14


2.3. Chỉ đạo tích cực việc thực hiện: “Dạy thật – Học thật – Kết quả
thật”
Hưởng ứng cuộc vận động ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt
động dạy và học do Sở GD&ĐT, phòng GD&ĐT quận Bắc Từ Liêm phát động,
nhà trường đã phát động phong trào xây dựng và sử dụng giáo án diện tử từ đầu
năm học cho đến nay (Mỗi giáo viên có ít nhất 1 bài giảng điện tử nộp vào cuối
tháng, nhà trường sẽ thưởng kịp thời cho những giáo viên có bài giảng đặc sắc,
có chất lượng).
- “Dạy thật”: Mỗi giáo viên nghiêm túc thực hiện kế hoạch giáo dục trẻ,
tổ chức đầy đủ các hoạt động trong ngày: Hoạt động học, hoạt đông góc, hoạt
động ngoài trời, hoạt động chiều. Giáo án soạn đầy đủ, đúng nội dung, yêu cầu
về kiến thức. Biết lựa chọn, vận dụng những biện pháp dạy học tích cực nhằm
tạo tinh huốn, cơ hội phát huy trí tuệ, tính sáng tạo của trẻ. Chỉ đạo giáo viên tạo
môi trường học tập phù hợp chủ đề, kích thích trẻ tìm tòi, khám phá, tìm ra cái
mới, thể hiện sự hiểu biết của trẻ trong cuộc sống hằng ngày. Chỉ đạo nghiêm
túc các hoạt động chuyên môn, tổ chức tốt các hội thi.
- “Học thật”: Trẻ tích cực, hứng thú, tự nguyện tham gia vào các hoạt
động giáo dục trẻ tạo ra sản phẩm, tìm tòi khám phá, giáo viên không làm hộ trẻ.
Giáo viên phải hình thành và rèn luyện để cho trẻ có thao tác đúng, thuân thục
một số thói quen về nề nếp học tập.
- “Kết quả thật”: Giáo viên luôn theo dõi sự phát triển của trẻ trên các
lĩnh vực: Nhận thức, thể chất, ngôn ngữ, TC - QHXH - thầm mỹ. Đánh giá kết
quả của trẻ đúng thực chất, khách quan, công bằng, tôn trọng sản phẩm của trẻ.
Vì thế, người giáo viên muốn có kết quả thật thì phải thực hiện tốt phương pháp
dạy học tích cực, biết tạo mọi cơ hội để ôn luyện thêm kiến thức cho trẻ vào các

thời điểm trong ngày. Bởi trẻ mầm non dễ nhớ, dễ quên nên hoạt động vui chơi
là hoạt động chủ đạo của trẻ. “Học mà chơi – chơi mà học” là kết quả tốt nhất vì
trong quá trình chơi giúp trẻ ôn luyện kiến thức mà trẻ đã được trải nghiệm, đã
được khám phá.

15


Vì vậy, việc dạy học tích cực cho trẻ mầm non góp phần không nhỏ vào
việc thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không”, đưa chất lượng giáo dục trẻ
ngang tầm với yêu cầu giáo dục trong thời kì đổi mới.

16


C. KẾT QUẢ
Sau một thời gian áp dụng các biện pháp dạy học tích cực cho trẻ mầm
non, chất lượng giáo dục trẻ mầm non của nhà trường đã có những tiến bộ rõ nét
như sau:
1. Đối với học sinh:
* Kết quả khảo sát học sinh cuối năm học: Về chất lượng giáo dục toàn
diện.
ĐẦU NĂM HỌC

CUỐI NĂM HỌC

(598 học sinh)

(601 học sinh)
PT


Tổng số học sinh

Đạt
Tỉ lệ %
Chưa đạt
Tỉ lệ %

PT

PT

PT

thể

nhận

Ngôn

chất

thức

ngữ

450
400
410
75,2% 66,8% 68,5%

148
198
188
24,7% 33,1% 31,4%

Tình
cảm –
QHXH
- Thẩm
mỹ
405
67,7%
193
32,2%

PT
PT

PT

PT

thể

nhận

Ngôn

chất


thức

ngữ

580
560
582
96,5% 93,1% 96,8%
21
41
19
3,4% 6,8% 3,1%

Tình
cảm –
QHXH
- Thẩm
mỹ
570
94,8%
31
4,9

Nhìn vào kết quả đánh giá cho thấy, chất lượng giáo dục toàn diện của trẻ
cuối năm học có sự tiến bộ vượt bậc so với đầu năm học. Tỉ lệ học sinh đạt theo
yêu cầu chuẩn của ngành học rất cao từ 93,1 % -> 96,8 %. Số trẻ chưa đạt yêu
cầu giảm rõ rệt từ 66,8 % -> 75,2 % xuống còn 24,7 % -> 33,1 %, số trẻ này đa
phần là những trẻ chậm, trẻ khuyết tật hoặc mới đi học nên còn gặp nhiều khó
khăn trong các hoạt động học tập, vui chơi.
Qua thực tế hằng ngày dự giờ, thăm lớp, chúng tôi thấy các cháu có nhiều

tiến bộ, trẻ nhanh nhẹn, tháo vát, mạnh dạn, hồn nhiên, lế phép, tự tin trong giao
tiếp, trí tuệ, tư duy phát triển tốt, thông minh, ham học hỏi, thích tìm tòi, khám
phá. Đây cũng chính là một trong những lý do khiến chúng tôi cảm thấy rất phấn
khởi vì biện pháp mình đưa ra áp dụng vào thực tế đã thu được kết quả tốt.
2. Đối với phụ huynh
17


- 100 % phụ huynh học sinh đã phối kết hợp với nhà trường trong việc
chăm sóc và giáo dục trẻ.
- 80 % phụ huynh thường xuyên tham gia các buổi họp, các hoạt động do
trường, lớp tổ chức.
- 90 % phụ huynh thường xuyên theo dõi chương trình học, bản tin về
chuyên môn của nhà trường.
3. Đối với giáo viên
- 31/31 giáo viên đạt giáo viên dạy giỏi cấp trường trong đó có 3 giáo viên
đạt giáo viên giỏi cấp Quận.
- 31/31 giáo viên nắm vững phương pháp, nắm vững chuyên môn nghiệp
vụ có nhiều cải tiến, sáng tạo trong giảng dạy, các giờ hội giảng 100% đạt loại
tốt.
- Làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức chăm sóc và giáo dục
trẻ tới từng phụ huynh.

18


D. KẾT LUẬN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Kết luận
Trên đây là một số kinh nghiệm tôi đã áp dụng thành công tại trường mầm
non Xuân Tảo nơi tôi công tác. Qua một thời gian áp dụng kinh nghiệm này, tôi

nhận thấy chất lượng chăm sóc – giáo dục trẻ ở trường tôi ngày một nâng cao rõ
rệt.
Kinh nghiệm: “Một số biện pháp dạy học tích cực cho trẻ mầm non” của
tôi được phổ biến tới toàn bộ giáo viên để giáo viên thực hiện và đạt kết quả tốt.
Theo ý kiến chủ quan của bản thân tôi thấy rằng kinh nghiệm trên của tôi có thể
áp dụng rộng rãi trên mọi địa bàn, mọi tỉnh thành trong cả nước. Các cán bộ
quản lý và các đồng chí giáo viên mầm non đều có thể áp dụng và đạt kết quả tốt
tại trường của mình.
2. Bài học kinh nghiệm
Qua quá trình thực hiện, bằng kết quả thực tiễn, tôi rút ra được một số bài
học kinh nghiệm như sau:
- Giáo viên phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mầm non.
- Nắm vững phương pháp, yêu cầu cần đạt của trẻ theo lứa tuổi.
- Thường xuyên theo dõi, quan sát các hoạt động của trẻ, thường xuyên
trò chuyện với trẻ để để nắm bắt được đặc điểm riêng của từng trẻ để có kế
hoạch và biện pháp giáo dục thích hợp.
- Nghiêm túc thực hiện sự chỉ đạo chuyên môn của cấp trên.
- Tích cực sáng tạo trong giảng dạy, thường xuyên trau dồi chuyên môn
nghiệp vụ, kĩ năng sư phạm, ứng dụng thường xuyên công nghệ thông tin vào
các hoạt động dạy trẻ.
- Chú trọng phát triển kĩ năng sống, thói quen tốt cho trẻ, tạo cho trẻ sụ tự
tin, chủ động trong các hoạt động.
- Thường xuyên củng cố kiến thức cho trẻ trong mọi hoạt động như: hoạt
động góc, hoạt động ngoài trời, hoạt động chiều…

19


- Làm tốt công tác phối kết hợp với phụ huynh học sinh trong việc chăm
sóc – giáo dục trẻ.

Trên đây là một vài kinh nghiệm của bản thân tôi với mong muốn nâng
cao hơn nữa chất lượng giáo dục trẻ trong việc thực hiện chương trình giáo
dục mầm non mới.
Xin trân trọng cảm ơn !

20



×