Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Hoạt động ngoại giao của việt nam dân chủ cộng ḥòa trong thời kỳ kháng chiến chống mỹ cứu nước 1954 – 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.06 KB, 61 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
-----------

NGUYỄN THỊ NGUYỆT

HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM DÂN
CHỦ CỘNG ḤÒA TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC 1954 – 1975

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH: SƯ PHẠM LỊCH SỬ
HỆ ĐÀO TẠO: CHÍNH QUY
Khóa học : 2013 - 2017

Quảng Bình, 2017


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việt Nam ta là quốc gia văn hiến có lịch sử ngoại giao lâu đời và phong phú,
trong đó nổi bật là nền ngoại giao cách mạng trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ
cứu nước 1954- 1975. Lịch sử nước ta đã trải qua biết bao nhiêu lần kháng chiến
chống quân xâm lược ngoại bang từ chống quân Tống thời Lý Thường Kiệt, chống
quân xâm lược Mông - Nguyên thời Trần và mới đây chưa đầy nửa thế kỉ chúng ta lại
phải đương đầu với thế lực phương Tây vô cùng hùng mạnh đặc biệt là đế quốc Mỹ.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta là cuộc đối đầu giữa một quốc
gia nhỏ bé, tiềm lực vật chất nhỏ bé so với một nước đế quốc sừng sỏ, đứng đầu hệ


thống tư bản chủ nghĩa. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta diễn ra
trong bối cảnh trên thế giới đang diễn ra cuộc Chiến tranh Lạnh ở vào thời kỳ gay gắt,
quan hệ giữa các nước lớn, đặc biệt là quan hệ Mỹ - Xô - Trung có nhiều biến động,
thay đổi hết sức phức tạp, có tác động trực tiếp đến công cuộc kháng chiến của nhân
dân ta. Tuy nhiên, bên cạnh việc vận dụng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh thì các bài học ngoại giao truyền thống của dân tộc đã được Đảng ta phát
huy cao độ và theo đó ngoại giao đã trở thành một mặt trận quan trọng trong cuộc
kháng chiến đầy anh dũng và hòa hùng của dân tộc.
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ đã ứng dụng những thành tựu
khoa học - kỹ thuật quân sự tiên tiến nhất, mới nhất (trừ vũ khí nguyên tử), sử dụng tối
đa sức mạnh và tiềm lực của nước Mỹ chống lại Việt Nam. Ngoài ra, Mỹ còn lôi kéo
các nước đồng minh của mình tham gia vào cuộc chiến tranh xâm lược không cân sức
này. Với đường lối và chính sách ngoại giao đúng đắn, Đảng ta đã xây dựng được một
mặt trận quốc tế rộng rãi đoàn kết ủng hộ một cách to lớn cho cách mạng cuộc kháng
chiến của nhân dân ta. Cách mạng Việt Nam đã tranh thủ tập hợp được một lực lượng
quốc tế rộng lớn mạnh mẽ góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đến thắng lợi
hoàn toàn.
Tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ do Đảng ta lãnh đạo đã giành được thắng lợi
vẻ vang, song sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước
vẫn chưa hoàn thành. Đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ
chính trị khác nhau: miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ CNXH;
ở miền Nam Mỹ thay chân Pháp âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền
Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự của Mỹ và các nước đồng minh.
Trong khi đó, tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, đặc biệt là xu thế
hòa hoãn đang tác động một cách mạnh mẽ và có ảnh hưởng hai mặt đến các nước
trong phe XHCN. Trong những năm đầu kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; tất cả các

1



nước trên thế giới, kể cả Liên Xô và Trung Quốc đều chưa ủng hộ Việt Nam dùng bạo
lực cách mạng để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, mà chủ trương giữ vững
hòa hoãn nhằm giữ nguyên trạng Châu Âu và nguyên trạng thế giới sau đại chiến thế
giới thứ II.
Trước những xu thế mới của bối cảnh quốc tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã
phát huy cao độ tinh thần độc lập, tự cường dân tộc, sáng tạo trong việc phân tích tình
hình, xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam nói chung, đường lối đối
ngoại nói riêng. Có thể nói, lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954-1975 đã chứng kiến quá
trình nhận thức yêu cầu của lịch sử, hình thành về cơ bản đường lối đối ngoại, đồng
thời từng bước triển khai thực hiện đường lối đó, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế nhằm
phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống Mỹ ở
miền Nam.
Việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong giai
đoạn 1954 – 1975 đã thể hiện sự linh hoạt và khôn khéo của Đảng ta trong việc tranh
thủ sự giúp đỡ quốc tế nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược ở miền Nam, quá trình này đã hình thành
đường lối, sách lược đúng đắn của Đảng, những kinh nghiệm quý báu, tạo tiền đề và là
cơ sở vững chắc cho hoạt động ngoại giao sau này.
Suốt hơn hai thập kỉ đấu tranh chống Mỹ cứu nước, ngoại giao Việt Nam- theo
đường lối của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh - luôn luôn là một mặt trận hỗ trợ và
phối hợp với đấu tranh quân sự, chính trị với những hoạt động và biện pháp phong
phú, hiệu quả góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước
Nghiên cứu quá trình đấu tranh ngoại giao của nền ngoại giao cách mạng thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có ý nghĩa
thực tiễn sâu sắc. Nghiên cứu kỹ lưỡng vấn đề này sẽ góp phần quan trọng trong việc
làm rõ vai trò to lớn của chính sách đối ngoại mà Đảng và Nhà nước ta triển khai góp
phần đưa đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn như đã nêu trên, chúng tôi chọn

đề tài vấn đề “Hoạt động ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥòa trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 – 1975” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của
mình.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Theo từ điển Tiếng Việt “Ngoại giao” được định nghĩa là “sự giao thiệp với
nước ngoài để bảo vệ quyền lợi của quốc gia mình và để góp phần giải quyết những
vấn đề quốc tế chung”. Lịch sử ngoại giao của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước đã thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.

2


Cho đến nay đã có khá nhiều công trình trong và ngoài nước đề cập đến ngoại giao
Việt Nam 1954 – 1975 từ những góc độ khác nhau. Tất cả các công trình nghiên cứu
đều hướng đến việc phân tích và khẳng định những chính sách đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta, trí tuệ và thiên tài ngoại giao Hồ Chí Minh và những hoạt động phong
phú trong đấu tranh ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta.
Đã có một số công trình nghiên cứu có đề cập đến chính sách đối ngoại
của Đảng giai đoạn 1954-1975 như: “ Lưu Văn Lợi, (1996), Năm mươi năm ngoại
giao Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân Hà Nội, 1996); Nguyễn Dy Niên
(2002), Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia; (1990),
Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), tập 1, Nhà xuất bản Sự
thật,.... Ngoài ra, còn khá nhiều chuyên khảo được đăng tải của rất nhiều tác giả đăng
trên các báo và tạp chí trong nước như: Khắc Huỳnh “Ngoại giao Việt Nam trong thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số
4/2005; Nguyễn Ngọc Mão, Vũ Thị Hồng Chuyên, “Nhìn lại quan hệ Xô-Việt thời kỳ
1945-1975”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 3/2013. Bên cạnh đó, các công trình
nghiên cứu của nước ngoài về cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam cũng khá đa dạng
và phong phú như: Gabrien Côncô (1991), Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Nhà xuất
bản Quân đội nhân dân, Hà Nội; Maicơn Máclia (1990), Việt Nam cuộc chiến tranh

mười nghìn ngày, Nhà xuất bản Sự thật… Những công trình trên đều có đề cập đến
đường lối và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta ở mức độ khái quát hoặc ở
những khía cạnh khác nhau, tuy vậy cho đến nay vẫn chưa có một công trình chuyên
khảo tập trung phân tích làm rõ vai trò của các thành tựu, hạn chế mà ngành ngoại giao
cách mạng đã đạt được; trên cơ sở thừa kế những thành quả của người đi trước, chúng
tôi đã tập hợp lựa chọn và hệ thống hóa nhằm dựng lại bức tranh toàn cảnh và chi tiết
về các hoạt động ngoại giao cùng với đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta từ 1954-1975. Trên cơ sở bức tranh toàn cảnh đó khóa luận đi sâu phân
tích những thành tựu và hạn chế đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm lịch sử.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA KHÓA LUẬN
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện khóa luận, tác giả hướng đến việc dựng lại một cách chân thực bức
tranh toàn cảnh về hoạt động của nền ngoại giao VNDCCH thời kỳ 1954 - 1975.
Trên cơ sở đó khóa luận tập trung phân tích các thành tựu và hạn chế của nền
ngoại giao cách mạng góp phần làm sáng tỏ đóng góp của ngành ngoại giao đối với
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; phân tích kết quả đạt được và
bước đầu tổng kết, đánh giá việc xác định đường lối và chỉ đạo thực hiện các hoạt
động ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta.

3


Nghiên cứu một cách có hệ thống “hoạt động ngoại giao của nước Việt Nam
dân chủ Cộng hòa trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 - 1975”, đặt
trong mối liên hệ với với cả tiến trình ngoại giao của Việt Nam để rút ra những bài học
kinh nghiệm cho hoạt động ngoại giao phục vụ công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
So sánh quá trình đấu tranh ngoại giao của VNDCCH ở Hội nghị Giơnevơ với Hội
nghị Paris để làm rõ bước tiến, sự trưởng thành của nền ngoại giao cách mạng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp đầy đủ và hệ thống hoá những nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài.

- Làm rõ tiến trình nhận thức cũng như sự hình thành và phát triển đường lối
đối ngoại của Đảng trong thời kỳ mới.
- Trình bày toàn bộ điều kiện lịch sử có tác động đến việc hình thành chính sách
đối ngoại của Đảng trong mỗi thời đoạn trên; những nội dung của đường lối đối ngoại
cũng như biện pháp cụ thể mà Đảng và Nhà nước đề ra thông qua các hoạt động ngoại
giao nhằm thực hiện đường lối đó.
- Khái quát những kết quả đạt được trong việc thực hiện đường lối đối ngoại
của Đảng và Nhà nước ta, làm rõ những thành tựu trong hoạt động ngoại giao qua từng
giai đoạn lịch sử.
- Từ việc nghiên cứu thực hiện khóa luận, tác giả rút ra một số bài học kinh
nghiệm quý báu trong hoạt động ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ
1954 -1975.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu các đối tượng chính sau:
- Bối cảnh quốc tế và trong nước, trong đó có chiến lược của các nuớc lớn ảnh
hưởng đến quá trình hình thành chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
- Những thành tựu nổi bật của ngoại giao Việt Nam từ ngày đầu lập quốc đến
21/7/1954
- Đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam từ 1954 - 1975 nói chung và
ảnh hưởng của nó đến sự hình thành chính sách đối ngoại của Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa
- Việc thực hiện đường lối đối ngoại và những thành tựu, hạn chế của hoạt
động ngoại giao trong quá trình thực hiện đường lối.
- Trên cơ sở xem xét toàn diện cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khóa
luận đi sâu vào nghiên cứu lĩnh vực ngoại giao và làm rõ hai nội dung:
- Thứ nhất: quá trình hình thành và phát triển đường lối đối ngoại của các chủ
trương, chính sách đối ngoại Đảng và Nhà nước ta trong những năm 1954 - 1975
thông qua các văn kiện như: Nghị quyết của các Đại hội Đảng các hội nghị BCHTWĐ
các khóa, trong các kế hoạch nhà nước theo từng nhiệm kỳ và các bản tuyên bố chính

phủ, của bộ ngoại giao…
- Thứ hai: Việc triển khai thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước
ta qua hoạt động ngoại giao của nước VNDCCH.

4


4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Khóa luận xem xát toàn bộ các hoạt động ngoại giao của nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trên phạm vi toàn cầu.
Về thời gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu hoạt động ngoại giao của Việt
Nam dân chủ cộng hòa trong những năm 1954 -1975.
5. NGUỒN TÀI LIỆU
Để hoàn thành khóa luận chúng tôi dựa trên các nguồn tài liệu thu thập được sau:
- Các Văn kiện Đảng giai đoạn 1954-1975.
- Các tác phẩm của Hồ Chí Minh, tác phẩm của các đồng chí lãnh đạo Đảng và
Nhà nước có liên quan đến đường lối đối ngoại của Đảng giai đoạn này.
- Các tác phẩm và công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước,
bao gồm các sách đã xuất bản, các bài đăng trên tạp chí khoa học.
- Khóa luận tốt nghiệp của sinh viên các khóa tốt nghiệp từ 2016 về trước được
lưu giữ trong thư viện trường Đại học Quảng Bình.
6. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phương pháp luận
Trong quá trình thực hiện khóa luận chúng tôi đứng trên quan điểm phương pháp
luận Macxit - Lênin nít và tư tưởng Hồ Chí Minh và trong nhận thức và nghiên cứu
lịch sử.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
- Khóa luận sử dụng phương pháp lịch sử nhằm tái hiện quá trình hoạt động của
ngành ngoại giao cách mạng dưới ánh sảng của đường lối đối đối ngoại Đảng qua các
thời đoạn khác nhau.

- Đồng thời khóa luận, sử dụng phương pháp logic nhằm làm rõ những vấn đề
mang tính quy luật, nguyên tắc trong việc xác định và chỉ đạo thực hiện chính sách đối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
- Ngoài ra, khóa luận còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu liên ngành
khác như phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh để có cái nhìn tổng thể
về quá trình hình thành chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, về thành tựu và
hạn chế của nền ngoại giao cách mạng trong thời kỳ 1954 -1975
7. ĐÓNG GÓP CỦA KHÓA LUẬN
- Khóa luận tái hiện lại bức tranh hoạt động ngoại giao của Đảng và Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 1975.
- Làm rõ những thành tựu, bước tiến mới của nền ngoại giao cách mạng so với
thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945-1954 và rút ra những bài học kinh nghiệm của
nền ngoại giao Việt Nam dân chủ cộng hòa trong những năm 1954 – 1975 phục vụ
hoạt động ngoại giao của nước ta trong các giai đoạn tiếp theo.
8. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục khóa luận được chia
làm 3 chương:

5


Chương 1: Khái quát quá trình hình thành và phát triển ngành ngoại giao
VNDCCH
Chương 2: Hoạt động ngoại giao của nước VNDCCH trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước 1954 – 1975 (Bước tiến mới của ngoại giao thời đại Hồ Chí
Minh)
Chương 3: Những thành tựu nổi bật và bài học kinh nghiệm của ngoại giao
VNDCCH giai đoạn 1954 -1975.

6



NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA NGÀNH NGOẠI GIAO VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
1.1 Cơ sở và sự ra đời phát triển của ngành ngoại giao Việt Nam dân chủ
cộng hòa thời kỳ trước tháng 8 năm 1954
1.1.1 Khái lược ngoại giao Việt Nam từ buổi đầu lập quốc cho đến năm 1929.
Nói đến ngoại giao hơn 70 năm qua của nước Việt Nam hiện đại mà không nói
đến ngoại giao của nước Việt Nam ngày xưa thì không thể hiểu được sức mạnh của
ngoại giao ngày nay. Ông cha ta không những đã lập nên những chiến công bất hủ,
chói ngời sử sách trên mặt trận quân sự mà còn để lại những kỳ tích ngoại giao vẻ
vang, những bài học kinh nghiệm vô giá cho các thế hệ mai sau. Chúng ta sung sướng,
tự hào biết bao khi được thừa kế truyền thống ngoại giao hàng nghìn năm của các bậc
tiền bối. Trong lịch sử Việt Nam, nếu kể cả ngoại giao nhân dân (buổi đầu gọi là lân
giao) có thể tính bắt đầu từ thời Hùng vương dựng nước (với việc Việt vương Câu Tiễn
cho sứ giả sang dụ Hùng vương thần phục đã bị vua Hùng từ chối) đến nay đã có trên
1000 năm. Tuy nhiên quan hệ ngoại giao trở thành một trong những nhiệm vụ quan
trọng của nhà nước (thời phong kiến chủ yếu là quan hệ với các nước láng giềng gọi là
bang giao) thì có thể tính từ khi nước ta giành lại được độc lập tự chủ từ thời họ Khúc
ở thế kỷ X với sự kiện Khúc Hạo sai con là Khúc Thừa Mỹ làm Hoan hảo sứ sang
Quảng Châu thăm dò tình hình. Sự kiện này cũng được các nhà Việt Nam học nước
ngoài thừa nhận mà tiêu biểu là nhà sử học Nhật Bản Yamamoto - Phó Chủ tịch Viện
hàn lâm Nhật Bản trong công trình “Lịch sử quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc”
lấy làm sự kiện mở đầu cho nền ngoại giao Việt Nam. Từ thời nhà Ðinh trở đi ngoại
giao luôn là mặt trận quan trọng hỗ trợ cho thắng lợi trên các lĩnh vực chính trị, quân
sự. Nãm 973, Ðinh Tiên Hoàng đã sai con trai cả là Đinh Liễn đi sứ nhà Tống đặt mối
quan hệ bang giao thành công, vua Tống đã phong cho Đinh Tiên Hoàng làm Giao Chỉ
Quận vương thừa nhận nền độc lập của Đại Cồ Việt.
Đến thời Tiền Lê, ngoại giao nước ta lại tiến thêm một bước. Sau chiến thắng

ngoại xâm về quân sự, Lê Hoàn đã dùng văn hóa vào ứng xử ngoại giao khiến sứ giả
nhà Tống là Lý Giác phải khâm phục khẩu phục thừa nhận là ngoài văn minh Hoa Hạ
còn có văn minh Đại Cồ Việt.
“Ngoài trời lại có trời soi nữa
Sóng lặng khe đầm bóng nguyệt thâu”.
Những trang sử ngoại giao thời Lê Hoàn được ví là những trang hào hùng nhất
của ngoại giao nước ta thời phong kiến Lê Hoàn được ví là người vác núi lấp biển;
chẳng những nhà Tống phải nể mà còn sợ Lê Hoàn.
Đến thời Lý - Trần - Lê, ngoại giao đã được nâng lên hàng chiến lược. Thời Lý,
sau khi Lý Thường Kiệt đem quân đánh phá các căn cứ của Nhà Tống ở Khâm Châu,

7


Liêm Châu, Ung Châu để “tiên phạt chế nhân” và đặc biệt là sau chiến thắng trên sông
Như Nguyệt, Nhà Lý đã dùng ngoại giao để chấm dứt chiến tranh, tranh thủ hòa bình
để xây dựng đất nước.
Từ thời Trần đến Hậu Lê, Tây Sơn, ngoại giao Việt Nam đều hỗ trợ đắc lực cho
các hoạt động quân sự, chính trị. Sau những chiến thắng vẻ vang trong kháng chiến
chống ngoại xâm, cha ông ta đã thực hiện một nền ngoại giao kiên cường về chiến
lược, mềm dẻo về sách lược mà nhân nghĩa hòa hiếu, trải thảm đỏ cho kẻ thù rút quân
về nước.
Phương thức ứng xử đó của cha ông ta là biểu hiện rõ bản sắc dân tộc trong
công tác đối ngoại. Theo như giáo sư sử học Văn Tạo khái quát thì ngoại giao Việt
Nam là “một nền ngoại giao nhân nghĩa, chính nghĩa, thông minh, giữ gìn độc lập dân
tộc thống nhất toàn vẹn lãnh thổ”.
Đến thời thực dân nửa phong kiến, ngoại giao nước ta nằm trong tay thực dân
Pháp (từ 1874 khi triều Nguyễn kí kết hiệp ước Giáp Tuất 15/3/1874 đến 1945).
Đầu thế kỷ XX, nhiều nhà yêu nước Việt Nam hướng ra nước ngoài để tìm con
đường giải phóng dân tộc. Phan Bội Châu với tổ chức Đông Du, “xuất dương cầu

viện” trông chờ vào Nhật Bản để chống Pháp. Phan Châu Trinh thì hiểu rằng “vọng
ngoại tắc ngu, bạo động tắc tử” nhưng lại chủ trương dựa vào Pháp để khai hóa nước
nhà, chung quy vẫn là vọng ngoại. Các cuộc đấu tranh và nổi dậy đầy tinh thần yêu
nước, quật cường của nhân dân ta nhưng liên tiếp thất bại. Phong trào cứu nước đứng
trước những bế tắc, vì thời thế đã thay đổi mà đường lối vẫn như cũ.
Từ giữa những năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện trên vũ đài chính trị
của dân tộc và thế giới. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin,
trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, gắn
cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Đó là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa
xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiền phong của giai cấp công nhân. Đặc biệt
Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và thời đại; giữa
phong trào giai cấp vô sản của chính quốc với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của
nhân dân các nước thuộc địa cùng chống chủ nghĩa đế quốc. Đồng thời Người khẳng
định phong trào giải phóng dân tộc chỉ có thể “đem sức ta mà giải phóng cho ta”
“công cuộc giải phóng của anh em chỉ có thể thực hiện bằng sự nỗ lực của anh em”
[6; 36]. Đó chính là điểm sáng tạo tuyệt vời đối với cách mạng Việt Nam và phong
trào giải phóng dân tộc thế giới. Đồng thời đó là nền tảng cho đường lối quốc tế và
chính sách ngoại giao của Đảng và Nhà nước Việt Nam qua các giai đoạn đấu tranh
sau này.
1.1.2 Ngoại giao của Đảng Cộng sản Việt Nam những năm 1930-1945
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mà đứng đầu là Bác Hồ vĩ đại đã vạch
ra và không ngừng bổ sung phát triển đường lối đối ngoại của Đảng “Gắn cách mạng
Việt Nam với cách mạng thế giới”. Trong điều lệ tóm tắt của Đảng nêu rõ “Đảng phổ

8


biến khẩu hiệu Việt Nam tự do và đồng thời Đảng liên kết với những dân tộc bị áp bức
và quần chúng vô sản cách mạng trên thế giới nhất là quần chúng vô sản Pháp”[2; 6].
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, ngoại giao Việt Nam bước vào một thời kỳ

hoàn toàn mới; từng bước tiếp cận lý luận cách mạng - lý luận của chủ nghĩa MácLênin; cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân ta được Đảng ta gắn với
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân quốc tế. Trong thời gian từ năm 1930 - 1945
Đảng ta là một “chi bộ” của Quốc tế cộng sản, đồng thời chủ trương liên hệ chặt chẽ
với phong trào đấu tranh hai xứ Miên- Lào. Đảng ta bám sát tình hình quốc tế và thực
tiễn cách mạng để đưa ra những sách lược thích hợp trong từng thời kì, đó chính là nền
móng của tư tưởng “Dĩ bất biến ứng vạn biến”của ngoại giao Việt Nam do Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập sau này. Đặc biệt đường lối ngoại giao cách mạng Việt Nam
được thể hiện rõ nét từ Hội nghị Trung ương lần thứ 8 của Đảng năm 1941, khi Đảng
ta chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh và nêu ra chương trình của Việt Minh gồm
mười điểm trong đó dự kiến “Thành lập chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa”. Về
ngoại giao Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa sẽ:
1) Hủy bỏ tất cả các hiệp ước mà Pháp đã ký bất kỳ với nước nào (nhân danh bảo
vệ Đông Dương).
2) Tuyên bố các dân tộc bình đẳng và hết sức giữ hòa bình.
3) Kiên quyết chống tất cả các lực lượng xâm phạm đến quyền và lợi ích của nước
Việt Nam.
4) Mật thiết liên lạc với các dân tộc bị áp bức, giai cấp vô sản toàn thế giới.
Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào từ 13-15 tháng 8 năm 1945, đã
nêu “Nhiệm vụ ngoại giao”:
a) Về mặt ngoại giao, tuy chúng ta đã cố gắng nhiều nhưng mãi đến bây giờ đối
với Trung Hoa vẫn chưa có kết quả tốt, đối với các nước Đồng minh (ý muốn nói Mỹ)
tuy việc ngoại giao có tiến nhưng cách mạng Việt Nam vẫn chưa giành được một địa
vị khả quan trên trường quốc tế.
b) Hiện nay về chính sách ngoại giao chúng ta cần phải nhận định rõ hai điều
này: Sự mâu thuẫn giữa Đồng minh Anh - Pháp và Mỹ - Trung Quốc về vấn đề Đông
Dương là một điều ta cần lợi dụng.
c) Sự mâu thuẫn giữ Anh - Pháp - Mỹ và Liên Xô có thể làm cho Anh - Mỹ
nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương.
d) Chính sách chúng ta là phải tránh các trường hợp một mình đối phó với
nhiều lực lượng Đồng minh (Trung Quốc, Pháp, Mỹ) tràn vào nước ta và đặt Chính

phủ của Pháp Đờ Gôn hay một chính phủ bù nhìn khác trái với ý nguyện dân tộc.
e) Bởi vậy cần tranh thủ sự đồng tình của Liên Xô và Mỹ; chống lại mưu đồ của
Pháp định khôi phục lại địa vị cũ ở Đông Dương và mưu đồ của một số quân phiệt
Trung Quốc định chiếm nước ta:

9


“Dù sao chỉ có thực lực của ta mới quyết định sự thắng lợi giữa ta và Đồng
minh.
Đối với các nước nhược tiểu, dân chúng Pháp và Trung Quốc chúng ta phải
liên lạc và tranh thủ sự giúp đỡ của họ”.
Như vậy các nhiệm vụ ngoại giao được Hội nghị toàn quốc của Đảng vạch ra đã
thể hiện sự nhạy bén và sáng suốt của Đảng ta trong việc xác định những phương
châm và sách lược đối ngoại tại thời điểm cuộc Đại chiến thế giới thứ hai kết thúc.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khẳng định thắng lợi to lớn của cuộc đấu tranh
chính nghĩa của dân tộc ta, tuyên bố trước thế giới “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự
do và độc lập và sự thật nước Việt Nam đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn
thê dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để
giữu vững nền tự do và độc lập ấy” [3; 13]. Tuyên ngôn độc lập là một bản hùng văn
thể hiện hào khí của dân tộc, là một vũ khí sắc bén đanh thép về pháp lý quốc tế và
mang tính thời đại. Đây chính là bức thông điệp ngoại giao quân trọng đầu tiên của
nước Việt Nam mới gửi tới thế giới. Sự kiện này đã đánh dấu sự ra đời của ngoại giao
Việt Nam. Nền ngoại giao cách mạng ra đời được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh
đạo, từ đó đến nay ngoại giao Việt Nam chính thức bước vào thời đại mới-thời đại Hồ
Chí Minh và thực sự trở thành một khoa học.
1.1.3 Vài nét về ngành ngoại giao cách mạng Việt Nam từ 1945 -1954
Giai đoạn 1945-1946: Cách mạng tháng Tám 1945 thành công Ủy ban Dân tộc
giải phóng trung ương đổi thành Chính phủ Lâm thới của nước Việt Nam dân chủ cộng

hòa. Bộ Ngoại giao nước VNDCCH được thành lập ngày 28/8/1945 (ngày công bố
danh sách Chính phủ lâm thời). Do tầm quan trọng của công tác ngoại giao, nên Chủ
tịch Hồ Chí Minh kiêm luôn Bộ trưởng Ngoại giao. Ngày 02/3/1946 khi thành lập
Chính phủ Liên hiệp, Bộ Ngoại giao do Nguyễn Tường Tam, người của Việt Cách nắm
giữ. Theo các thỏa thuận giữa chính phủ VNDCCH và đại diện Chính phủ Pháp tại
Hội nghị ký kết Hiệp định sơ bộ, Hội nghị Trù bị Đà Lạt Việt Nam và Pháp sẽ tổ chức
cuộc đàm phán chính thức tại Phông ten nơblô (Pa ri-Pháp). Ông Nguyễn Tường Tam
được cử làm Trưởng đoàn đàm phán đại diện của Quốc hội và của Chính phủ
VNDCCH, song ngày 30/5/1946, một ngày trước khi đoàn Đàm phán lên đường sang
Paris dự Hội nghị Phôngtenơblô, ông ta đã bỏ trốn sang Trung Quốc theo quân Tưởng.
Do đó ông Phạm Văn Đồng Phó trưởng ban Thường trực của Quốc hội được cử làm
Trưởng đoàn đàm phán.
Ngày 03/11/1946 Quốc Hội phê chuẩn lại Chính phủ Liên hiệp kháng chiến,
Chủ tịch Hồ Chí Minh lại một lần nữa vừa làm Chủ tịch Chính phủ vừa kiêm chức Bộ
trưởng Ngoại giao cho đến tháng 3/1947. Từ tháng 3/1947 đến tháng 4/1954, Bộ

10


trưởng Ngoại giao là ông Hoàng Minh Giám và từ tháng 4/1954 đến tháng 2/1961 Bộ
trưởng Ngoại giao là ông Phạm Văn Đồng.
Ngày 7/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 47 về cơ cấu tổ chức, chức
năng, nhiệm vụ của Bộ Ngoại giao. Theo sắc lệnh này, Bộ ngoại giao chia làm Nội bộ
và Ngoại bộ. Ngoại bộ gồm Sứ bộ và Lãnh sự bộ. Nội bộ gồm Văn phòng, với ba
phòng: Bí thư-Cơ mật; Thông tin và Phát ngôn; Đổng lý sự vụ (Công văn, nhân viên
vật liệu và kế toán, Nghi lễ, khánh tiết, Tuyên truyền, Báo chí, Thông dịch, luật pháp,
hành chính và kiều dân, Chính trị và Kinh tế).
Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, bộ máy gọn nhẹ đặt
ngay trong Phủ Chủ tịch sau đó Trụ sở Bộ chuyển đến 43 Lý Thái Tổ, rồi năm 1946
chuyển đến 23 phố Hàng Tre (nguyên là Trụ sở Tổng Thanh tra Công chính Pháp).

Biên chế lúc đầu khoảng 20 cán bộ, phần lớn là trí thức cách mạng, biết ngoại ngữ như
tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, tiếng Nhật. Do bộ máy nhỏ nên trong giai
đoạn này các hoạt động ngoại giao có sự tham gia của hầu hết nhân vật cao cấp biết
ngoại ngữ của cơ quan Đảng và Chính phủ hay các nhân sĩ tiêu biểu lúc bấy giờ.
Tổng thư ký Bộ ngoại giao (tương đương thứ trưởng) điều hành hoạt động của
Văn phòng Bộ, kiêm công tác tuyên truyền báo chí.
Tham nghị hay Ban tham biện là bộ phận giúp việc quan trọng nhất phụ trách
quan hệ với các đối tượng chủ yếu (Mỹ, Pháp, Tưởng và Nhật).
Sau Hội nghị Phôngtennơblô tháng 9/1946, Chính phủ lập Cơ quan đại diện
không chính thức tại Paris gồm 3 người do ông Hoàng Minh Giám đứng đầu đến cuối
1947 thì rút. Tháng 8/1946, Chính phủ cử ông Nguyễn Đức Quỳ đến Băng Kok lập cơ
quan đại diện, được hưởng quy chế ngoại giao và tháng 6/1951 Chính phủ Thái Lan
công nhận chính phủ Bảo Đại, ta rút cơ quan.
Giai đoạn 1947-1954: Sau ngày Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Bộ Ngoại giao
chuyển lên an toàn khu (ATK) ỏ Việt Bắc. Lúc đầu đóng tại nhà dân xã Kim Quan
Thượng, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, sau đó chuyển về xã Minh Khai (nay là
xã Minh Thanh), huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Lúc này Bộ có 7 cán bộ.
Trong chiến dịch thu đông 1950-1951, do địch đánh phá mạnh ATK nên Bộ chuyển về
xã Đông Lý, huyện Yên Bình, Yên Bái, sau lại chuyển về xã Yên Nguyên, huyện
Chiêm Hoá, Tuyên Quang. Từ đầu năm 1951 chuyển về Đồng Chùa, xóm Dõn, xã
Minh Khai, Sơn Dương. Bộ đóng tại khu nhà riêng. Nơi đây đã được xây dựng lại
thành Khu di tích Bộ Ngoại giao, khánh thành ngày 25/8/2000. Từ tháng 7/1954, Bộ
chuyển về huyện Đại Từ (Thái Nguyên) và tháng 10/1954, chuyển về Hà Nội. Bộ đã tổ
chức cuộc gặp của Bộ trưởng Hoàng Minh Giám với lãnh sự Anh ở cầu Đuồng
(5/1947), cuộc gặp của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Paul Mus, đại diện cao Uỷ Pháp ở
Thái Nguyên (12/5/1947).
Sau chiến dịch biên giới ta mở thông đường sang Trung Quốc, Liên Xô, công
tác ngoại giao có bước phát triển vượt bậc. Lúc này, biên chế của Bộ khoảng 50 người

11



và có thêm nhiều hoạt động thu thập tin tức phụ vụ đối ngoại hướng dẫn tuyên truyền
đối ngoại cho cơ quan ở nuóc ngoài, dự thảo công hàm trao đổi, biên soạn tài liệu giới
thiệu các nước có quan hệ ngoại giao cho các địa phương, cử đoàn ra nước ngoài dự
hội nghị. Bộ đã tổ chức vài lớp bồi dưỡng chính trị, ngoại ngữ và đầu 1950 lần đầu
tiên Bộ cử cán bộ đi đào tạo ở Trung Quốc.
Về tổ chức Đảng, trước 1950 các Đảng viên của Bộ Ngoại giao sinh hoạt đảng
chung với Văn phòng Chủ tịch nước. Chi bộ đầu tiên thành lập năm 1950 có 20 đảng
viên.
Năm 1950, lập Đoàn đại biểu VNDCCH ở Trung Quốc, sau đổi thành Đại sứ
quán. Năm 1952 lập Đại sứ quán ở Liên Xô. Cuối năm 1953 đầu năm 1954 lập Biện sự
sứ Côn Minh, Nam Ninh và Quảng Châu Trung Quốc
1.2 Khái quát hoạt động ngoại giao của VNDCCH từ sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945 đến 21 tháng 7 năm 1954 (sự ra đời của ngoại giao thời đại Hồ
Chí Minh)
1.2.1 Hoạt động của ngoại giao Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945
đến 1949 - Ngoại giao phá vây
1.2.1.1 Hoạt động của ngoại giao cách mạng từ sau Cách mạng tháng Tám
1945 đến 19 tháng 12 năm 1946
Từ 19/8/1945 đến ngày 19/12/1946 là giai đoạn đặc biệt của lịch sử Việt Nam,
khi ngành ngoại giao của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (gọi tắt là ngoại giao cách
mạng) được khai sinh cùng với sự thành lập Chính phủ Lâm thời nước VNDCCH.
Hoạt động đối ngoại của chính quyền cách mạng trong giai đoạn này đã để lại một
trang sáng chói trong ngoại giao Việt Nam.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, tình hình thế giới thay đổi với nhịp điệu
nhanh chóng. Các nước lớn trong phe Đồng minh điều chỉnh chiến lược đối ngoại.
Quan hệ giữa Liên Xô và Mỹ chuyển từ hợp tác sang đấu tranh gay gắt. Trật tự hai cực
Ianta được thiết lập vận động và từng bước xói mòn. Chính quyền cách mạng nước ta
vừa mới thành lập thì quân đội Đồng Minh dựa theo quyết định của hội nghị Ianta và

Pốtxđam lập tức kéo vào nước ta. Từ vĩ tuyến 16 trở vào, quân đội Anh núp dưới danh
nghĩa Đồng Minh vào giải giáp quân Nhật nhưng thực chất là mở đường cho thực dân
Pháp trở lại xâm lược nước ta. Từ vĩ tuyến 16 trở ra 20 vạn quân Tưởng kéo vào làm
nhiệm vụ giải giáp quân Nhật nhưng thực chất còn mang theo âm mưu lật đổ chính
quyền cách mạng, tiêu diệt Đảng Cộng sản, bắt giam Hồ chủ tịch, đưa bọn Việt gian
tay sai lên nắm chính quyền để biến nước ta thành thuộc địa của chúng. Ngoài các thế
lực ngoại bang thì bọn Việt gian tay sai Pháp, Nhật, Tưởng cũng nhân cơ hội ngóc đầu
dậy chống phá chính quyền cách mạng. Tình hình đó đặt chính quyền cách mạng non
trẻ trước thách thức vô cùng nghiêm trọng “Ngàn cân treo sợi tóc”. Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã biến ngoại giao thành vũ khí sắc bén góp phần giữ vững thành quả

12


của cách mạng, bảo vệ chính quyền nhân dân, đồng thời phục vụ kháng chiến kiến
quốc. Đảng và Nhà nước ta đã khéo léo lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước này với
nhau và có đối sách phù hợp với từng đối tượng: giữ Mỹ đứng trung lập, kiên quyết
tránh mọi xung đột với Tưởng, kiên quyết chống Pháp đồng thời tìm giải pháp hòa
bình khi Tưởng và Pháp kí hiệp định Trùng Khánh cho phép Pháp đưa quân ra Bắc
thay Tưởng.
Tư duy sắc bén, bản lĩnh ngoại giao của Hồ Chí Minh và ban lãnh đạo Đảng
Cộng sản Đông Dương còn thể hiện đặc biệt nổi bật trong việc áp dụng sách lược
ngoại giao khôn khéo, linh hoạt mềm dẻo trên cơ sở nguyên tắc “Dĩ bất biến ứng vạn
biến”. Điều này thể hiện qua những nước cờ chính trị vừa có ý nghĩa quan trọng trong
đối nội lẫn đối ngoại: Đảng Cộng sản Đông Dương rút vào hoạt động bí mật, lập
Chính phủ Liên hiệp, giành ghế trong Quốc hội và chính phủ cho các Đảng phái thân
Tưởng; ký hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/ 1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946. Khi đối phó
với các thế lực thực dân Pháp âm mưu áp đặt trở lại ách thống trị của Pháp tại Đông
Dương, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã biết
tận dụng mọi kênh ngoại giao có thể để giao thiệp với các nước lớn khác: gửi nhiều

thư, công hàm cho những người đứng đầu các nước lớn như Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung
Quốc khẳng định tính hợp pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tố cáo âm mưu
và tội ác thực dân Pháp gây chiến tranh xâm lược.
Trong giai đoạn đầy biến cố này, dưới sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản, ngoại giao Việt Nam vừa mới ra đời đã lập được một kỳ tích vẻ vang.
Có thể nói sách lược ngoại giao thời kỳ này là mẫu mực về kết hợp giữa ngoại giao với
quân sự và sức mạnh chính trị, tổng hợp sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, kết
hợp đối nội và đối ngoại, là mẫu mực về nghệ thuật nhân nhượng có nguyên tắc.
Những thành quả đó đặt nền móng vững chắc cho ngoại giao Việt Nam cách mạng thời
kỳ tiếp theo.

1.2.1.2 Ngoại giao Việt Nam từ ngày 19/12/1946 đến 1949
Từ ngày 19/12/1946 cuộc kháng chiến của nhân dân ta bùng nổ trên quy mô
toàn quốc. Trong những năm đầu cuộc kháng chiến của nhân dân ta, tình hình thế giới
có những diễn biến quan trọng ảnh hưởng to lớn đến tiến trình phát triển quan hệ quốc
tế. Nổi bật là sự ra đời của một loạt nước XHCN ở Đông Âu, sự phát triển mạnh mẽ
của phong trào giải phóng dân tộc ở Á, Phi, và sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh
vì dân sinh dân chủ và hòa bình thế giới. Mỹ và các nước Phương Tây phát động cuộc
chiến tranh Lạnh chống Liên Xô và các nước XHCN. Trật tự hai cực Xô - Mỹ hình
thành.

13


Đối với Việt Nam từ năm 1947 - 1949, cuộc chiến đấu của nhân dân ta diễn ra
trong vòng vây của các thế lực thù địch, với sức mạnh quật cường của cả dân tộc đang
hồi sinh sau gần một thế kỷ bị nô dịch, toàn dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương đã tiến hành cuộc kháng chiến
toàn dân, toàn diện, trường kỳ với lòng tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng.
+ Ngoại giao VNDCCH nêu cao thiện chí và chính nghĩa nổ lực vãn hồi hòa

bình. Đầu năm 1947, đối với các cuộc thương lượng Pháp-Việt, TW Đảng chủ trương
“phải lợi dụng hết khả năng ngoại giao, làm cho cuộc đổ máu Việt - Pháp rút ngắn
lại”. Mục tiêu đàm phán vẫn là độc lập, thống nhất trong Liên hiệp Pháp “Nếu Pháp
không công nhận thì ta tiếp tục kháng chiến đến toàn thắng mới thôi”.
Từ ngày 19/12/1946 đến tháng 3/1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tám lần gửi
thư cho Chính phủ, Quốc hội và nhân dân Pháp về tình hình Đông Dương, phân tích
các nguyên nhân xung đột và đề ra các giải pháp để chấm dứt chiến sự, nối lại cuộc
đàm phán Việt - Pháp.
+ Ngoại giao cách mạng Việt Nam tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới.
Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn và thiếu thốn,
Chính phủ Việt Nam đã chủ động triển khai các hoạt động quốc tế để tranh thủ sự
đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân
dân ta. Ngày 21/12/1946, Hồ Chủ tịch đã gửi thư cho nhân dân Việt Nam, nhân dân
Pháp và nhân dân các nước Đồng minh tố cáo chính sách lật lọng của thực dân Pháp,
phá hoại Hiệp định Sơ bộ và Tạm ước 14/9/1946. Người khẳng định “Những hành
động của thực dân Pháp muốn chiếm lấy nước chúng tôi thực rõ rệt, không thể chối
cãi được. Dân tộc Việt Nam nay bị đặt trước hai đường: một là khoanh tay, cúi đầu
trở lại nô lệ; hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do và độc lập”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu quan điểm về chính sách ngoại giao hữu nghị và
hợp tác của Việt Nam, khẳng định Việt Nam muốn “làm bạn với tất cả mọi nước dân
chủ và không gây thù oán với một ai. Việt Nam sẽ hợp tác với mọi nước vui lòng hợp
tác thật thà và bình đẳng với Việt Nam”.
Từ 1945 – 1949 Nhân dân Việt Nam phải chiến đấu trong vòng vây trùng điệp
của kẻ thù (nước VNCDCH ra đời chưa có một quốc gia nào công nhận). Một cố gắng
của ngoại giao Việt Nam thời kỳ này là mở đột phá ở Tây Nam, thiết lập các liên hệ
trực tiếp với một số nước Đông Nam Á và từ địa bàn này mở rộng tiếp xúc, tuyên
truyền quốc tế, phát triển ngoại giao nhân dân, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng
tiến bộ trên thế giới đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Cuối
năm 1946 đến 1947, Chính phủ cử đại diện ngoại giao của Việt Nam tại Thái Lan, năm
1948 ở Miến Điện. Trong khi ngoại giao nhà nước còn hạn chế, ta đã triển khai ngoại


14


giao đoàn thể, cử các đoàn đi tham dự các Hội nghị quốc tế, khu vực như Hội nghị
Liên Á, Châu Á.
Giữa năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương Đảng cử một
cán bộ cao cấp làm đặc phái viên Chính phủ và đại diện Đảng ở hải ngoại, có trách
nhiệm chỉ đạo các hoạt động đối ngoại ở Đông Nam Á và Châu Âu. Từ đó công tác
đối ngoại của các cơ quan, đoàn thể ở nước ngoài có được sự chỉ đạo thống nhất hơn.
Với những chủ trương đường lối đó, ngoại giao Việt Nam thời kỳ này đã nổ lực
khắc phục được những khó khăn của đất nước sau Cách mạng tháng Tám, đấu tranh
kiên cường trong vòng vây của kẻ thù khi các liên hệ từ thủ đô kháng chiến với thế
giới còn hết sức hạn chế. Trước năm 1950, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã
có cơ quan đại diện ở Bằng Cốc, Răng-gun, Pa ri tạo được đầu mối ở ngoài nước để
hoạt động quốc tế làm cho nhân dân Pháp và nhân dân thế giới dần hiểu rõ cuộc chiến
tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, từ đó tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế đối
với cuộc kháng chiến của nhân dân ta, xây dựng được liên minh đoàn kết chiến đấu
Việt-Miên-Lào.
Sau chiến thắng Biên giới thu đông 1950, “vòng vây của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực phản động đã bị phá vỡ từng mảng lớn ở phía Bắc, từ Lai Châu qua Cao
Bằng đến Lạng Sơn. Cách mạng Việt Nam đã thiết lập được quan hệ trực tiếp với cách
mạng thế giới
1.2.2 Hoạt động của ngành ngoại cách mạng từ 1950 – 1953
Từ cuối năm 1949, tình hình thế giới và Châu Âu diễn ra những biến cố lớn. Ở
Đông Âu, chính quyền dân chủ nhân dân được củng cố. Nền kinh tế Liên Xô phục hồi
với nhịp độ tăng trưởng cao. Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử pha độc
quyền của Mỹ. Ngày 1/10/1949, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố thành
lập. Sự ra đời của nước Trung Hoa mới tạo ra một bước ngoặt trong tình hình Châu Âu
và thế giới, ảnh hưởng tích cực đến cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Đông Dương.

Sau 3 năm chiến đấu theo đường lối tự lực cánh sinh, cuộc kháng chiến của
nhân dân Việt Nam đã vượt qua giai đoạn thử thách hiểm nghèo, lực lượng kháng
chiến giành nhiều thắng lợi to lớn và ở vào thế chủ động để nắm bắt và tận dụng thời
cơ, thuận lợi mới đang xuất hiện trên thế giới và khu vực, Hồ Chủ tịch và Đảng ta đã
chủ trương đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, trước hết là với Trung Quốc, Liên Xô và
các nước XHCN khác tranh thủ sự đồng tình ủng hộ góp phần thúc đẩy cuộc kháng
chiến đến thắng lợi.
Ngày 5/12/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện tới Mao Chủ tịch chúc mừng
việc thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Ngày 14/1/1950, Hồ Chủ tịch
tuyên bố “Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, chính phủ hợp pháp duy nhất của
toàn thể nhân dân Việt Nam...Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa sẵn sàng đặt
quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào tôn trọng quyền bình đẳng, chủ quyền

15


lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hòa bình xây
đắp dân chủ thế giới”. Ngày 18/1/1950 Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố công
nhận Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngày 30/1/1950 Liên Xô tuyên bố công nhận nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa, tiếp đó các nước XHCN lần lượt công nhận nước ta:
Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên ngày 31/1/1950, Tiệp Khắc 2/2/1950; Cộng hòa
dân chủ Đức 2/2/1950; Rumani 3/2/1950; Ba Lan 4/2/1950; Hunggari 4/2/1950;
Bungari 8/2/1950; Anbani 13/3/1950.
Ngày 19/1/1950, Hồ Chí Minh bí mật vượt biên giới Cao Bằng đi thăm Trung
Quốc, Liên Xô. Ngày 3/2/1950, Người đến Maxcova thăm Liên xô, qua Hội đàm với
lãnh đạo Liên Xô và Mao Trạch Đông đang ở thăm Liên Xô, các nhà lãnh đạo Liên Xô
và Trung Quốc đã khẳng định sẽ cung cấp một số viện trợ vũ khí, trang bị quân sự,
lương thực và thuốc men; Mao Chủ tịch còn khẳng định: “Tỉnh Quảng Tây sẽ là hậu
phương trực tiếp của Việt Nam”.
Sau khi thiết lập được quan hệ ngoại giao với các nước XHCN, hướng hoạt động

đối ngoại chủ yếu của Việt Nam là củng cố quan hệ với các nước anh em đồng thời mở
rộng quan hệ với nhân dân Pháp, với các tổ chức hòa bình, dân chủ quốc tế nhằm tranh
thủ sự đồng tình và ủng hộ để đẩy mạnh kháng chiến. Việc Liên Xô, Trung Quốc và
các nước XHCN công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khiến Pháp, Hoa Kỳ và
một số nước Phương Tây phê phán gay gắt. Ngày 7/2/1950, Hoa Kỳ và Anh tuyên bố
công nhận chính quyền Bảo Đại. Tiếp đó nhiều nước Phương Tây và một số nước
Đông Nam Á như Philippin, Thái Lan đã công nhận chính quyền Bảo Đại....
Đầu năm 1950, phong trào đấu tranh chính trị ở Sài Gòn rất sôi nổi, khi Mỹ đưa
hai tàu chiến vào cảng Sài Gòn để biểu dương lực lượng, ngày 19/3/1950, 30 vạn nhân
dân Sài Gòn - Gia Định do luật sư Nguyễn Hữu Thọ và nhiều nhân sỹ trí thức dẫn đầu
đã xuống đường chống Mỹ. Sự kiện này đánh dấu sự đụng độ đầu tiên giữa nhân dân
Việt Nam với đế quốc Mỹ.
Trước việc Mỹ can thiệp trực tiếp vào chiến tranh, Đảng ta đã lập tức đề ra chủ
trương “chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, hoàn toàn giải phóng Đông Dương,
đánh tan tâm lý sợ Mỹ, thân Mỹ và phối hợp cuộc kháng chiến của ta với phong trào
dân chủ và hòa bình thế giới”[21; 23], và giúp đỡ cách mạng Lào và Campuchia.
Chiến thắng Biên giới thu đông 1950, đã đưa cuộc kháng chiến chống Pháp của
quân và dân ta chuyến sang giai đoạn mới - giai đoạn ta giành được quyền chủ động
trên chiến trường liên tục mở các chiến dịch tiến công quân sự tiêu hao, tiêu diệt sinh
lực địch, đẩy quân Pháp ở Đông Dương vào thất bại liên tiếp nhất là tại các chiến dịch:
Hòa Bình (1950 1951); chiến dịch Tây Bắc thu đông 1952, chiến dịch Thượng Lào
1953.

16


Sau 8 năm tiến hành chiến tranh, với những thất bại dồn dập về quân sự trên
chiến trường Đông Dương, cùng những khó khăn về kinh tế ở trong nước đã tác động
mạnh mẽ đến tình hình chính trị nước Pháp, gây nên cuộc khủng hoảng nội các ở
Pháp. Phong trào đấu tranh của nhân dân Pháp đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược

Đông Dương lên cao. Quân Pháp ở Đông Dương thiệt hại nặng nề; tính đến năm 1953,
quân Pháp đã bị ta loại khỏi vòng chiến hơn 39 vạn quân. Nước Pháp đã tiêu tốn vào
cuộc chiến này tới 2.000 tỉ Phrăng, những vùng chiếm đóng vẫn liên tục bị thu hẹp.
Quân đội Pháp trên chiến trường Đông Dương ngày càng đi vào thế phòng ngự bị
động do đó thực dân Pháp buộc phải dựa hẵn vào Mỹ, xin thêm viện trợ để đẩy mạnh
chiến tranh với mong muốn giành một thắng lợi quân sự quyết định kết thúc chiến
tranh. Trước tình thế sa lầy và thất bại của Pháp, Mỹ can thiệp sâu vào cuộc chiến
tranh Đông Dương, ép Pháp phải kéo dài và mở rộng chiến tranh, tích cực chuẩn bị
thay thế Pháp. Ngày 7 tháng 5 được sự nhất trí của Mỹ, Chính phủ Pháp đã cử Tướng
Nava sang làm tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương (thay tướng Xalăng). Sau
một tháng nghiên cứu tình hình Đông Dương Nava đề ra kế hoạch chính trị - quân sự
mang tên ông ta với hy vọng trong 18 tháng giành lấy một thắng lợi quyết định để "kết
thúc chiến tranh trong danh dự".
Kế hoạch quân sự Nava được chia làm 2 bước:
Bước thứ nhất, trong thu- đông 1953-1954, giữ thế phòng ngự chiến lược ở Bắc
Bộ, tấn công chiến lược để bình định miền Trung và Nam Đông Dương, giành lấy
nguồn nhân lực, vật lực, xóa bỏ vùng tự do Liên khu V, đồng thời mở rộng ngụy quân,
tập trung binh lực xây dựng đội quân cơ động chiến lược mạnh.
Bước thứ hai, từ thu - đông 1954, chuyển lực lượng ra chiến trường Bắc Bộ, thực
hiện tiến công chiến lược cố giành thắng lợi quân sự quyết định buộc ta phải đàm phán
với những điều kiện có lợi cho Pháp nhằm kết thúc chiến tranh. Để thực hiện kế hoạch
Nava, Pháp điều thêm 12 tiểu đoàn rút từ châu Âu và bắc Phi qua, xin thêm Mỹ viện
trợ gấp đôi năm trước chiếm tới 73% chi phí chiến tranh ở Đông Dương. Mặt khác
Pháp ra sức tăng cường ngụy quân, đưa lực lượng này lên 334. 000 quân vào đầu năm
1954.
Đối phó với kế hoạch Nava của Pháp (có Mỹ giúp sức), về quân sự ta tiến
hành các cuộc tiến công chiến lược trong Đông Xuân 1953 – 1954 đã làm phá sản
bước đầu kế hoạch Na va của Pháp. Từ cuối năm 1953 đến tháng 5 năm 1954 ta và
Pháp đều quyết định chọn Điện Biên Phủ làm trận quyết chiến chiến lược làm cơ sở
cho việc đàm phán để kết thúc cuộc chiến.

1.2.3 Hoạt động của ngoại giao cách mạng tại Hội nghị Giơ ne vơ về Đông
Dương từ 8/5/1954 – 21/7 1954

17


Tháng 1/1954, Hội nghị ngoại trưởng bốn nước (Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp)
họp tại Becslin đã thỏa thuận về việc triệu tập một Hội nghị quốc tế ở Giơnevơ để giải
quyết vấn đề Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Giữa lúc quân ta đang mở cuộc tiến công đợt 3 để quyết định số phận quân
Pháp ở Điện Biên Phủ, Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương chính thức khai mạc ngày
26/4/1954. Từ ngày 8/5/1954 đến ngày 20/7/1954, Hội nghị Giơnevơ bắt đầu thảo luận
vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương. Phái đoàn Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng
hòa do Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ ngoại giao Phạm Văn Đồng làm Trưởng
đoàn chính thức được mời họp từ ngày 8/5/1954; đoàn ta đến hội nghị với tư thế là
người đại diện cho dân tộc chiến thắng. Căn cứ vào điều kiện cụ thể cuộc kháng chiến
của ta cũng như so sánh lực lượng giữa ta và Pháp trong chiến tranh và xu thế chung
của thế giới sau thế chiến là giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng; căn
cứ vào quan hệ Liên Xô, Trung Quốc với Việt Nam lúc đó, Việt Nam dân chủ cộng
hòa phải chấp nhận giải pháp Hiệp định Giơnevơ ngày 21/7/1954 về việc lập lại hòa
bình ở Đông Dương.
Tuy còn những hạn chế, Hiệp định Giơnevơ cùng với chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp và can thiệp Mỹ ở
Đông Dương. Hiệp định là văn bản pháp lý quốc tế ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản
của nhân dân Ðông Dương và được các cường quốc tham dự Hội nghị cam kết tôn
trọng. Hiệp định Giơnevơ đã buộc Pháp phải rút hết quân đội về nước, Mỹ thất bại
trong âm mưu kéo dài, mở rộng quốc tế hóa chiến tranh; miền Bắc được hoàn toàn giải
phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng XHCN, trở thành chỗ dựa vững chắc cho
cuộc cách mạng giải phóng miền Nam và đấu tranh thống nhất nước nhà.
Do tình hình quốc tế lúc này, các cường quốc chi phối quan hệ quốc tế cho nên

việc giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lại do Hội nghị các cường quốc quyết
định. Hội nghị Giơ ne vơ bàn về kết thúc chiến tranh Đông Dương có sự tham dự của
9 đoàn: Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc, Liên Xô, VNDCCH, chính quyền Bảo Đại,
Chính phủ Xihanuc và Chính phủ Vương quốc Lào.
Chính phủ VNDCCH đại diện cho Việt Nam và cả lực lượng cách mạng kháng
chiến của Lào và Campuchia. Phathet Lào có chính phủ, có vùng giải phóng, lực lượng
cách mạng. Campuchia có vùng giải phóng nhưng không được mời tham gia Hội nghị
Giơnevơ. Tình hình đó làm cho cuộc đấu trí phái đoàn VNDCCH tại Giơ ne vơ trở nên
khó khăn, mặt khác ngành ngoại giao còn non trẻ chưa có kinh nghiệm đấu tranh tại
các Hội nghị quốc tế do đó ta phải chấp nhận giải pháp do các nước lớn đề xuất

18


19


CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO CỦA NƯỚC VNDCCH TRONG
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC 1954 – 1975
2.1 Bối cảnh lịch sử quốc tế và trong nước từ 1954 -1975
2.1.1 Tình hình quốc tế
Trên vũ đài chính trị quốc tế những năm sau chiến tranh thế giới lần thứ II, một
hệ thống xã hội mới xuất hiện với hàng loạt nước dân chủ nhân dân chọn con đường
phát triển theo chủ nghĩa xã hội mà Liên Xô là một hình mẫu lớn. Năm 1949 được coi
là năm quyết định của quá trình thay đổi căn bản tình hình thế giới sau đại chiến với
việc Liên Xô phá vỡ độc quyền hạt nhân của Mỹ, nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Hoa ra đời. Cán cân so sánh lực lượng trên thế giới nghiêng hẳn về phía các nước
chống chủ nghĩa đế quốc.
Bước vào thập kỷ 50, Liên Xô tiếp tục triển khai những “Kế hoạch 5 năm” xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Chiến tranh từng đè nặng lên nền kinh tế - xã hội Xô Viết với

bao tổn thất về người và của. Nhưng chỉ 7 năm sau, Liên Xô đã đủ sức làm nên “Sự
kiện Sputnich” khiến các thế lực đối địch phải sửng sốt. Một khả năng bảo vệ hòa bình
thế giới đãxuất hiện trong thực tế. Trong khi đó các nước Đông Âu cũng bước vào
thực hiện công cuộc kiến thiết đất nước với những kế hoạch dài hạn để xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Tháng 11/1957 tại Matxcơva (Liên Xô), Hội nghị Quốc tế 64 Đảng Cộng Sản và
Công Nhân đã tổng kết kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, ra tuyên bố hòa bình,
củng cố phong trào Cộng Sản Quốc Tế. Thế giới tiến bộ và cách mạng từ cuối thập kỷ
50 đầu thập kỷ 60 bước vào thời kỳ phát triển với thế và lực mới của mình trong đó
Liên Xô là người có công đầu trong việc kiến thiết và gìn giữ hòa bình. Nhưng lúc ấy
châu Âu đã bị chia làm đôi, cuộc chiến tranh lạnh bắt đầu, hệ thống xã hội mới ra đời
cũng bước vào thời kỳ đối đầu với chủ nghĩa đế quốc.
Cũng sau chiến tranh thế giới lần II, phong trào giải phóng dân tộc ở Á - Phi - Mỹ
La-tinh phát triển thành cơn bão táp cách mạng, phá vỡ từng mảng thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc. Những cuộc đấu tranh vũ trang, những lực lượng tiến và cách mạng
chiếm ưu thế trong dân tộc, xu hướng độc lập - dân chủ - hòa bình - trung lập… Đó là
những nét mới trong tiến trình phát triển của phong trào.
Dù được “Trao trả độc lập” hay đấu tranh giành độc lập, các nước thuộc địa sau
khi thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang đều đi theo con đường phi đế quốc; trong
số các nước này có một số nước đã đi gần hoặc đi thẳng vào con đường CNXH. Trung
Quốc từ năm 1953 bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng CNXH.
Các nước Việt Nam, Cu Ba là những ngọn cờ đầu trong phong trào giải phóng dân tộc,
sau khi giành được độc lập đã tiến thẳng lên CNXH không qua giai đọan phát triển
TBCN.
Chiến tranh thế giới qua đi, chủ nghĩa phát xít bị tiêu diệt, nhiều nước đế quốc, cả
thắng trận và bại trận bị tàn phá nghiêm trng, nhưng đế quốc Mỹ lại trở nên giàu có

20



hơn bao giờ hết. Là một trong những nước lớn góp phần quyết định vào thắng lợi của
phe Đồng minh trong chiến tranh, lại là nước giàu mạnh nhất sau chiến tranh, Hoa Kỳ
đã giương cao ngọn cờ sen đầm quốc tế và muốn áp đặt tự do kiểu Mỹ ở khắp nơi trên
thế giới.
Chiến lược toàn cầu của Mỹ phản ánh một tham vọng muốn xác lập sức mạnh
của đế quốc Hoa Kỳ trên tất cả mọi khu vực của thế giới. Mục tiêu trong các kế hoạch
chiến lược của Mỹ lúc này là:
* Tiêu diệt chủ nghĩa xã hội (trọng tâm là Liên Xô và các nước Đông Âu).
* Dập tắt phong trào giải phóng dân tộc ở Á - Phi - Mỹ La-tinh (trọng tâm là Việt
Nam trong khu vực Đông Nam Á và Cu Ba trong khu vực Mỹ La-tinh).
* Lôi kéo, khống chế các nước đồng minh (trọng tâm là Tây Âu - Nhật Bản).
Chiến lược toàn cầu của Mỹ sử dụng 3 phương thức chủ yếu: chiến tranh lạnh, chạy
đua vũ trang và thực hiện chủ nghĩa thực mới… Chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang
và chạy đua vũ trang tạo ra sự đối đầu giữa hai hệ thống thế giới, Mỹ sẽ lôi kéo các
nước phe Mỹ vào cuộc chiến chống Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa; chủ nghĩa thực
dân mới sẽ thay thế lối thống trị thuộc địa mà phương Tây nay đã lỗi thời.
Ba chỗ dựa trọng yếu của chiến lược toàn cầu của Mỹ lúc này là: Viện trợ kinh tế quân sự - xây dựng hệ thóng liên minh phòng thủ - củng cố lực lượng quân sự mạnh.
Sau kế hoạch Marshall chi 50 tỷ dollar vào việc phục hồi các nước tư bản, Mỹ tiếp tục
đẩy mạnh viện trợ cho các nước, tính bình quân mỗi năm trong thời kỳ 8 năm 1953 1960 là 5 tỷ dollar. Trong đó số viện trợ quân sự gần 3 tỷ dollar với tỷ lệ theo ưu tiên
cho các khu vực là: Tây Âu 54%, Đông Nam Á và Viễn Đông 24,2%, Trung Cận Đông
14,9%, các nơi khác 6%.
Những khối liên minh song phương và đa phương do Mỹ đứng đầu hoặc bảo trợ
lần lượt ra đời như: khối Bắc Đại Tây Dương (NATO) thành lập năm 1949, khối Đông
Nam Á (SEATO) ra đời năm 1954, khối Trung Cận Đông (CENTO) hình thành năm
1955, khối Nam Thái Bình Dương (ANZUC) lập ra năm 1951… Ngoài ra còn các
Hiệp ước tay đôi giữa Mỹ và một số nước ở Đông Á, Nam Á, Đông Nam Á. Về lực
lượng quân sự, những năm 1953 - 1960 Mỹ cũng đề ra nhiều ý nghĩa chính trị và kinh
tế cho Mỹ lúc này. Quân số giảm đi nhưng căn cứ quân sự ở nước ngoài lại được tăng
cường. Sau chiến tranh Mỹ có hơn 2.200 căn cứ quân sự có mặt ở khắp các châu lục, 7
hạm đội trải ra khắp các đại dương, phái đoàn quan sự và cố vấn Mỹ hoạt động ở 45

nước trên thế giới, nhiều loại vũ khí trang bị mới được ra đời như máy bay ném bom
chiến lược B52, B47, tên lửa vượt đại châu có đầu đạn hạt nhân, tên lửa tầm trung, tàu
ngầm nguyên tử trang bị tên lửa hạt nhân chiến thuật…
2.1.2 Tình hình Việt Nam
Ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ đã triển khai chiến lược toàn cầu từ
rất sớm, trong đó Việt Nam là một trong những trọng điểm. Việt Nam nằm trong khu
vực có tiềm năng lớn về kinh tế vì rất giàu khoáng sản, nguyên nhiên liệu, lại có nguồn

21


nhân lực lao động dồi dào. Việt Nam còn có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự
cho cả vùng Đông Nam Á. Đất liền nối với nhiều quốc gia và đi sâu vào tận miền
Trung Á. Biển có những đảo và hải cảng không những thuận tiện giao thông, dễ sự
dụng tàu thuyền, mà còn có khả năng khống chế cả vùng rộng lớn. Việt Nam lại là tiêu
điểm của phong trào giải phóng dân tộc đang sôi sục ở châu Á.
Sau Cách mạng tháng Tám khi VNDCCH - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông
Nam Á ra đời, cục diện chính trị trên bán đảo Đông Dương thay đổi lớn, bất lợi cho
chủ nghĩa đế quốc. Đã có sự tập hợp các lực lượng phản cách mạng chống lại lượng
cách mạng, nhưng chúng đã không thành công. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt
Nam đã kết thúc thắng lợi với việc giải phóng nửa nước ở miền Bắc, đi lên chủ nghĩa
xã hội.
Việt Nam còn là nơi ấp ủ những mưu toan của Mỹ từ lâu. Đầu thập kỷ 50 Mỹ đã
thấy “Đông Dương là phần thưởng đặt cho một trò chơi lớn… trong thời gian chiến
tranh thế giới thứ hai, hàng năm Đông Dương đã đem lại lợi tức khoảng 300 triệu
đôla”.
Ngay khi vừa bước vào Nhà Trắng, Tổng thống Mỹ Eisenhower đã tuyên bố giúp
Pháp trong chiến tranh Đông Dương là để “ngăn chặn một cách rẻ tiền nhất các sự
kiện có thể gây ra những hậu quả khủng khiếp đối với nước nước Mỹ”. Từ tháng
8/1950 Mỹ đã triển khai phái đoàn cố vấn viện trợ quân sự (MAAG) vào Việt Nam. Từ

cuối năm 1950 đến cuối năm 1951, bằng các Hiệp định tay đôi ký với Pháp ở Đông
Dương, như “Hiệp nghị phòng thủ chung Đông Dương”, “Kế hoạch hợp tác kinh tế”,
“Kế hoạch an ninh chung”, Mỹ đã từng bước can thiệp vào Việt Nam. Những kế hoạch
chiến tranh của Pháp ở Đông Dương như “Kế hoạch Rever”, “Kế hoạch Delatte de
Tassingy”, “Kế hoạch Dalan”, “Kế hoạch Navarre” đều được Mỹ trực tiếp tham gia chỉ
đạo thực hiện. Có thể nói Việt Nam là nơi tập trung quyền lợi sống còn, là đất dụng võ
của họ.
Sau Hiệp định Giơnevơ 1954, đất nước Việt Nam bị chia làm hai miền. Cuộc
chuyển quân tập kết đã làm thay đổi tình hình so sánh lực lượng, từ thế “Cài răng
lược” ở phạm vi toàn quốc thành thế “Đối đầu” ở hai miền đất nước. Lực lượng cách
mạng đang phát triển thuận lợi trên phạm vi toàn cục, nay tập trung ra miền Bắc, thế
và lực lượng cách mạng nhất là ở miền Bắc nhưng vô cùng bất lợi ở miền Nam. Trong
khi đó lực lượng Pháp và các phe phái chính trị phản động trên toàn quốc dồn cả về
miền Nam, mang theo tâm trạng thua cuộc, hận thù, muốn tìm chỗ dựa mới, đó là cơ
hội để Mỹ nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới.
Với những hoạt động xây dựng chủ nghĩa thực dân mới, tấn công đánh phá lực lượng
và phong trào cách mạng, trong mấy năm 1954 - 1959 Mỹ - Diệm đã biến miền Nam
Việt Nam từ một chiến trường chống chủ nghĩa thực dân thành một chiến trường phản
kích lại các lực lượng cách mạng. Âm mưu chiến lược của Mỹ là biến miền Nam Việt

22


Nam thành thuộc địa kiểu mới, thành căn cứ quân sự, một bàn đạp để tấn công miền
Bắc và phe XHCN từ phía Nam, ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản
đang lan tràn xuống vùng Đông Nam Á.
Mỹ đã thi thố ở Việt Nam 4 chiến lược chiến tranh, ứng dụng từ 3 lần thay đổi
chiến lược toàn cầu, do 5 đời tổng thống kế tiếp nhau thực hiện từ năm 1953 đến năm
1975. Đó là sự lựa chọn đúng nơi, đúng lúc, đúng đối tượng tiến hành chiến tranh của
Mỹ. Chưa bao giờ Mỹ huy động được sức mạnh của cả nước Mỹ cùng các nước phe

Mỹ, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật và quân sự như là
trong thời kỳ họ tiến hành chiến tranh Việt Nam. Ý chí và quyết tâm của Mỹ khi đánh
Việt Nam không phải chỉ nhằm khuất phục một dân tộc, dập tắt một ngọn lửa đấu
tranh vì độc lập tự do, mà còn nhằm đe dọa nhiều nước khác, đồng thời thể hiện sức
mạnh của Hoa Kỳ trong nửa cuối thế kỷ XX.
Cách mạng Việt Nam vừa giành thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến 9 năm
chống chủ nghĩa thực dân Pháp, nay lại đứng trước kẻ thù mới vừa lớn mạnh vừa đầy
tham vọng. Nửa nước ở miền Bắc được giải phóng và có lực lượng cách mạng của cả
nước tập trung về. Do đó miền Bắc có nhiệm vụ phải nhanh chóng hoàn thành nốt
những nhiệm vụ còn lại của Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để bước tiếp sang
cuộc cách mạng mới, đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội. Nửa nước còn lại ở miền
Nam chưa được giải phóng, cách mạng lại bị mất thế lực, quần chúng nhân dân đang
tiếp tục bị khủng bố đàn áp. Vì thế miền Nam có nhiệm vụ phải gây dựng lại lực lượng
và phong trào cách mạng, tiếp tục cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giải
phóng miền Nam, giành tự do độc lập.
Hai miền của một đất nước bị cắt tiến hành đồng thời “hai cuộc cách mạng” khác
nhau, dưới sự lãnh đạo của một Đảng thống nhất là Đảng Lao Động Việt Nam. Cách
mạng XHCN ở miền Bắc có nhiệm vụ trước mắt là xây dựng miền Bắc vững mạnh
toàn diện, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam, miền Bắc là hậu phương to
lớn, là chỗ dựa căn bản nhất cho toàn dân tộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có nhiệm vụ trước mắt là đánh bại cuộc
chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ và tay sai, miền Nam là tiền tuyến
lớn, là chiến trường chính của cuộc kháng chiến.
Cách mạng XHCN ở miền Bắc có ý nghĩa quyết định nhất đối với toàn bộ sự
phát triển của Cách mạng Việt Nam, trước hết là đối với sự nghiệp đấu tranh thống
nhất nước nhà. Cuộc đấu tranh chóng Mỹ ở miền Nam có ý nghĩa quyết định trực tiếp
đối với việc giải phóng miền Nam giành tự do độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc.
Cả hai miền Nam Bắc có nhiệm vụ chung là giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc,
tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc để xây dựng một Việt Nam hòa bình - thống nhất
- độc lập - dân chủ và giàu mạnh. Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ kéo dài hơn 20

năm buộc nhân dân Việt Nam phải chọn con đường cách mạng bạo lực để gạt bỏ mọi

23


×