Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

quá trình đảng lãnh đạo công tác xây dựng và phát triển hội phụ nữ việt nam trong thời kỳ kháng chiến chống mỹ cứu nước (1954 – 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.03 KB, 27 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
5. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận
- Phương pháp nghiên cứu
6. Đóng góp của khóa luận
7. Kết cấu của khóa luận

1


B. NỘI DUNG
Chương 1
CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN HỘI PHỤ
NỮ VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 1954
*****o0o*****
1.1. QUÁ TRÌNH RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỘI
PHỤ NỮ VIỆT NAM
- Quá trình ra đời:
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh dựng nước
và giữ nước. Trong hàng ngàn năm lịch sử ấy, phụ nữ Việt
Nam giữ một vai trò trọng yếu và hiển nhiên trong lịch sử dân
tộc.
Vai trò, vị trí của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến
luôn bị đánh giá thấp. Họ bị những quy định ràng buộc chặt chẽ


của xã hội phong kiến trói buộc như “tam tòng tứ đức”, “công
- dung - ngôn hạnh”. Quyền của người phụ nữ cũng bị hạn chế
hơn nhiều so với quyền của nam giới, ít có tiếng nói trong gia
đình và xã hội. Mặt khác, người phụ nữ luôn phải nín nhịn,
chấp nhận địa vị hèn kém của mình trong gia đình và ngoài xã
hội. Họ không dám đoàn kết nhau lại để đòi quyền lợi chính
đáng về phía mình. Chính vì vậy, thời kỳ phong kiến tổ chức
hội phụ nữ không được đề cao.
Vào những năm 1927-1930, bên cạnh những tổ chức quần
chúng như: Công Hội Đỏ, Nông Hội Đỏ, các nhóm tương tế, tổ
học nghề đã hình thành nên nhiều nhóm phụ nữ:
- Năm 1927 nhóm chị Nguyễn Thị Lưu, Nguyễn Thị Minh
2


Lãng, Nguyễn Thị Thủy và ba chị em ở làng Phật Tích (Bắc
Ninh) tham gia Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, các chị
tuyên truyền, xây dựng tổ chức học nghề đăng ten gồm 30 chị
vừa học nghề vừa học chữ.
- Nhóm chị Thái Thị Bôi có các chị Lê Trung Lương,
Nguyễn Thị Hồng, Huỳnh Thuyên tham gia sinh hoạt ở trường
nữ học Đồng Khánh.
- Năm 1928, nhóm chị Nguyễn Thị Minh Khai cùng chị
Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị An tham gia sinh hoạt hội đỏ
của Tân Việt. Nhóm này liên hệ với chị Xân, chị Thiu, chị
Nhuận, chị Liên thành lập tờ Phụ nữ giải phóng ở Vinh.
Có thể thấy trước năm 1930, phụ nữ ở Việt Nam đã tập
hợp nhau lại thành những nhóm phụ nữ. Sở dĩ có sự hình thành
các nhóm phụ nữ này vì họ cùng chung một mục đích: Cùng
học tập, lao động và chiến đấu. Tuy nhiên, do chưa có hệ tư

tưởng chung thống nhất, soi đường nên các nhóm phụ nữ này
còn hoạt động rời rạc, chưa có sự thống nhất nên mức độ đoàn
kết chưa cao.
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập. Trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã ghi rõ: “Nam nữ
bình quyền”[21,tr1-4]. Đảng đã sớm nhận thức được phụ nữ là
lực lượng quan trọng của cách mạng và đề ra nhiệm vụ: Đảng
phải giải phóng phụ nữ; Phụ nữ phải tham gia các đoàn thể
cách mạng (công hội, nông hội) và cần thiết phải thành lập tổ
chức riêng cho phụ nữ để lôi cuốn các tầng lớp phụ nữ tham gia
cách mạng.
Chính vì vậy, ngay từ những năm 1930 một số tổ chức
3


phụ nữ đã hình thành như: Phụ nữ Liên Hiệp Hội (1930), Phụ
nữ Giải Phóng (1930-1931), Phụ nữ Dân chủ (1936-1939), Phụ
nữ phản đế (1939-1941), Đoàn Phụ nữ cứu quốc (tháng 61941). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tổ chức phụ nữ này là
hạt nhân nòng cốt trong việc vận động phụ nữ tham gia tích cực
và góp phần vào thắng lợi của cách mạng.
- Quá trình phát triển:
Quá trình phát triển của Hội phụ nữ gắn liền với lãnh đạo
của Đảng. Hội có tiền thân từ nhiều tổ chức phụ nữ như: Phụ
nữ Giải Phóng, Phụ nữ Dân chủ, Phụ nữ phản đế, Đoàn Phụ nữ
cứu quốc.
Từ năm 1930 đến năm 1931, tổ chức “Phụ nữ Giải phóng”
dần hình thành, thu hút đông đảo phụ nữ tham gia vào cao trào
đấu tranh cách mạng (điển hình là phong trào Xô viết Nghệ
Tĩnh).
Thời kỳ 1936-1939, tổ chức cách mạng của phụ nữ được

đổi thành Hội phụ nữ Dân chủ.
Tháng 9 năm 1939, Hội lấy tên là Hội phụ nữ Phản đế.
Ngày 16-6-1941, Đoàn Phụ nữ Cứu quốc được thành lập.
Tháng 10-1945, Ban chấp hành Phụ nữ Cứu quốc Thành
Hoàng Diệu (Hà Nội) được thành lập.
Ngày 20-10-1946, từ các tổ chức tiền thân, trước yêu cầu
mới của cách mạng và phong trào phụ nữ cả nước, Hội chính
thức mang tên Hội Liên hiệp phụ nữ (LHPN) Việt Nam và làm
lễ ra mắt tại Quảng trường Nhà hát lớn, Thủ đô Hà Nội.
Năm 1948, Hội LHPN Việt Nam chính thức gia nhập Liên
đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế.
4


Ngày 8-3-1961, Hội LHPN giải phóng miền Nam Việt
Nam được thành lập.
Sau ngày đất nước giải phóng, Đảng chủ trương thống nhất
các đoàn thể nhân dân. Vì vậy, tháng 6-1976, Hội nghị hợp
nhất tổ chức Phụ nữ ở hai miền được tổ chức mang tên Hội
LHPN Việt Nam.
Từ năm 1976 đến nay, Hội LHPN Việt Nam lớn mạnh
không ngừng, là tổ chức chính trị - xã hội nòng cốt, đóng góp
to lớn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
1.2. VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN HỘI PHỤ NỮ VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÔNG
CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã khẳng định vai trò và những
đóng góp to lớn của phụ nữ Việt Nam trong các thời kỳ xây
dựng và phát triển đất nước. Ở mỗi thời kỳ khác nhau, địa vị
của người phụ nữ ngày càng được khẳng định.

Vai trò quan trọng của phụ nữ Việt Nam còn gắn liền với
nền văn minh nông nghiệp. Việt Nam là một quốc gia nằm
trong khu vực cội nguồn của nền nông nghiệp lúa nước. Lịch sử
đã chứng minh rằng trong quá trình phát triển của nền văn minh
lúa nước, người phụ nữ luôn đóng vai trò trụ cột trong lao động
sản xuất.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như
trong cuộc sống thường ngày, phụ nữ Việt Nam có vị trí và vai
trò to lớn.
Trong các cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược phụ nữ Việt Nam đã tham gia
5


kháng chiến và làm tròn trọng trách cách mạng mà Đảng và
Nhà nước giao phó.
Không chỉ đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, người
phụ nữ còn đóng vai trò quan trọng trong đấu tranh chính trị,
xây dựng Chủ nghĩa xã hội (CNXH). Muốn xây dựng CNXH
trước hết phải xây dựng con người CNXH. Con người CNXH ở
đây không thể bỏ qua một lực lượng đông đảo là phụ nữ.
Như vậy có thể thấy trong hàng ngàn năm dựng nước và
giữ nước, phụ nữ là một lực lượng hùng hậu, một nguồn sức
mạnh to lớn. Chính vì vậy, một yêu cầu cấp bách đặt ra là phải
làm sao tập hợp được nguồn sức mạnh dồi dào này phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết của Hội nghị
Trung ương I (1930) của Đảng đã phân tích: Lực lượng cách
mạng của phụ nữ là một cái lực lượng trọng yếu. Nếu quảng đại
quần chúng phụ nữ không tham gia vào những cuộc đấu tranh
cách mạng thì cách mạng không thể thắng lợi được. Để phát

huy được sức mạnh to lớn của đông đảo phụ nữ thì một yêu cầu
cấp bách đặt ra lúc này là phải lập ra một đoàn thể quần chúng
của riêng phụ nữ. Ngày 20-10-1946, Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam chính thức được thành lập.
Ngay sau khi thành lập, Hội LHPN Việt Nam đã xác định
cho mình những nhiệm vụ:
Thứ nhất, giáo dục, động viên các tầng lớp phụ nữ thực
hiện tốt nhiệm vụ và các chính sách sản xuất, phục vụ chiến
đấu và chiến đấu chống Mỹ, cứu nước. Phát huy và cổ vũ
phong trào “Ba đảm đang” của phụ nữ miền Bắc thi đua với
phụ nữ miền Nam thành phong trào sâu rộng và vững chắc.
6


Giáo dục ý thức nam nữ bình đẳng, giải phóng phụ nữ, và
hướng dẫn phụ nữ phấn đấu để thực hiện nam nữ bình đẳng.
Thứ hai, phối hợp với các ngành làm tốt công tác phúc lợi
đối với phụ nữ và trẻ em. Hướng dẫn, tổ chức tốt đời sống thích
hợp với thời chiến và bảo vệ sức khoẻ, giải quyết khó khăn cho
phụ nữ.
Thứ ba, kiểm tra việc thực hiện các luật pháp, chế độ,
chính sách của Đảng và Nhà nước về quyền lợi phụ nữ và trẻ
em. Đề xuất với Đảng và Nhà nước bổ sung những chính sách
và chế độ cần thiết đối với phụ nữ và trẻ em.
Thứ tư, xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, nhất là ở cơ sở.
Bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ Hội trong phong trào sản
xuất và chiến đấu. [7,tr15]
Công tác xây dựng và phát triển Hội phụ nữ được chú
trọng có ý nghĩa to lớn trong việc phát huy sức mạnh của lực
lượng phụ nữ trong sản xuất và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là

trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Hội LHPN chủ động đề xuất với các ngành có liên quan
những yêu cầu về công tác vận động phụ nữ để các ngành kịp
thời đưa vào chương trình của các ngành. Hội tuyên truyền và
phổ biến những kinh nghiệm của quần chúng, xây dựng những
điển hình phụ nữ về các mặt, để làm kiểu mẫu vận động phụ nữ
noi theo, giúp các cấp uỷ và các ngành những kinh nghiệm cụ
thể trong công tác lãnh đạo phụ nữ.
Ngay sau khi ra đời tổ chức Hội phụ nữ đã tuyên truyền
giác ngộ quần chúng, xây dựng cơ sở Đảng, làm giao thông liên
lạc từng bước phát động phụ nữ tham gia đấu tranh chống bọn
7


chủ bóc lột, đòi quyền lợi hàng ngày, tham gia rải truyền đơn,
diễn thuyết, cắm cờ cách mạng, tiến lên khởi nghĩa cướp chính
quyền góp phần to lớn làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám
năm 1945 thành công. Từ đây mở ra kỷ nguyên độc lập tự do
cho toàn dân tộc, đem đến sự đổi mới cho phụ nữ từ thân phận
nô lệ trở thành người làm chủ xã hội, phát huy tài năng tham
gia các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội...
Từ sau khi đất nước được hoàn toàn độc lập, giang sơn thu
về một mối, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Tháng 3-1978,
Hội LHPN Việt Nam phát động phong trào “Người phụ nữ mới
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, phong trào đã giáo dục động viên
phụ nữ cả nước làm tốt nghĩa vụ công dân và trách nhiệm làm
mẹ, đồng thời bồi dưỡng cho phụ nữ ý thức phấn đấu thực hiện
nam nữ bình đẳng, đưa sự nghiệp giải phóng tiến lên một bước
quan trọng.
Năm 1986 đứng trước nguy cơ tụt hậu về kinh tế, trước sự

khủng hoảng kinh tế đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến nước
ta, Đảng ta đã quyết định phát động công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước.
Những người phụ nữ lại bừng lên với khí thế cách mạng,
hòa mình trên con đường phát triển của dân tộc gắn liền với
những nhiệm vụ, chủ trương đổi mới của Đảng.
Tiểu kết chương 1
Trong lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của
dân tộc ta, phụ nữ luôn giữ vị trí quan trọng và có những cống
hiến to lớn, góp phần xây dựng nên truyền thống vẻ vang của
dân tộc, đồng thời cũng tạo nên truyền thống của chính mình.
8


Ngay từ khi ra đời, nhận thức được vai trò của phụ nữ,
Đảng ta đã quyết định thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam ngày 20-10-1930.
Lịch sử của phong trào phụ nữ Việt Nam, của Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam gắn liền với lịch sử phát triển của đất
nước. Kể từ khi các tổ chức phụ nữ tiền thân ra đời, người phụ
nữ Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng phá tan thành trì
phong kiến, đánh dấu mốc son lịch sử trong vấn đề bình đẳng
giới được xác lập và định chế bằng Hiến pháp và Pháp luật. Tất
cả quyền bính trong nước là của nhân dân Việt Nam. Phụ nữ
nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa có quyền bình đẳng với nam
giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và
gia đình.
Như vậy, có thể thấy công tác bồi dưỡng, phát triển, vận
động phụ nữ đã trở thành hệ thống có tính lý luận và thực tiễn,
là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược của Đảng ta trong mọi thời

kỳ cách mạng. Quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng nói
chung, Đảng ta luôn quan tâm tới sự phát triển của phụ nữ,
không chỉ vì phụ nữ là một nửa của xã hội, mà còn là vì phụ nữ
nước ta thực sự có vị trí và vai trò to lớn trong mọi giai đoạn
phát triển của lịch sử dân tộc.

9


Chương 2
QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC XÂY
DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN HỘI PHỤ NỮ VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
CỨU NƯỚC (1954 – 1975)
2.1. ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN HỘI
PHỤ NỮ VIỆT NAM CỦA ĐẢNG
2.1.1. Đường lối của Đảng trong xây dựng và phát triển
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam ở miền Bắc
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can
thiệp Mỹ do Đảng lãnh đạo đã giành được thắng lợi, song sự
nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả
nước vẫn chưa hoàn thành. Miền Bắc được hoàn toàn giải
phóng, song miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị của thực dân
và tay sai. Đất nước tạm thời bị chia làm hai miền.
Đứng trước những biến đổi phức tạp nêu trên, lịch sử lại
đặt cho Đảng ta một yêu cầu bức thiết là phải vạch ra đường lối
chiến lược đúng đắn.
Về đường lối chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn mới:
Trên cơ sở phân tích tình hình và đặc điểm nước ta, Đại

hội III (1960) của Đảng xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn mới:
Một là, đẩy mạnh cách mạng XHCN ở miền Bắc.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập
và dân chủ trong cả nước.
10


Cách mạng ở miền Bắc và cách mạng ở miền Nam thuộc
hai chiến lược khác nhau, song trước mắt đều hướng vào mục
tiêu chung là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất
nước.
Đường lối xây dựng và phát triển tổ chức hội phụ nữ Việt
nam của Đảng được thể hiện qua các kỳ đại hội:
- Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ I (nhiệm kỳ
1950-1956)
Diễn ra từ ngày 14 đến 19-4-1950 tại Đại Từ (Thái
Nguyên), Đại hội có 168 đại biểu chính thức, đại diện cho 5
triệu hội viên và 10 triệu phụ nữ Việt Nam.
Đại hội đã thông qua được những vấn đề lớn của tổ chức
Hội như: Các Quyết nghị về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của
Hội Phụ nữ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng phụ
nữ và bảo vệ hòa bình dân chủ; Chương trình, điều lệ của Hội
LHPN Việt Nam, tuyên ngôn, hiệu triệu gửi toàn thể phụ nữ
Việt Nam.
Đại hội đã đề ra 10 nhiệm vụ, 2 chương trình lớn, bầu ra
Ban Chấp hành Trung ương Hội gồm 32 ủy viên, Ban Thường
trực Trung ương Hội gồm 9 ủy viên. Bà Lê Thị Xuyến được
bầu làm Hội trưởng.

Đại hội phụ nữ lần thứ I có ý nghĩa lịch sử vô cùng quan
trọng, hợp nhất Đoàn phụ nữ Cứu quốc và Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam thành một tổ chức duy nhất lấy tên là Hội LHPN
Việt Nam. Hội LHPN Việt Nam là thành viên của Liên đoàn
phụ nữ dân chủ quốc tế.
- Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ II (nhiệm
11


kỳ 1956-1961)
Diễn ra từ ngày 26 đến 31-5-1956 tại Thủ đô Hà Nội, Đại
hội có 425 đại biểu chính thức đại diện cho mọi tầng lớp phụ
nữ ở các khu, tỉnh, thành của miền Bắc.
Đại hội thông qua Điều lệ mới của Hội gồm 10 điều, trong
đó điều 1 và điều 2 đã nêu tôn chỉ mục đích của Hội; Đề ra 5
chương trình hoạt động là: Đoàn kết phụ nữ cả nước để cùng
toàn dân phấn đấu xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh; Thực hiện nam nữ bình
đẳng, giải phóng hoàn toàn phụ nữ; Nâng cao trình độ chính trị,
văn hóa cho phụ nữ; Mở rộng các hoạt động xã hội để nâng cao
đời sống của phụ nữ và nhi đồng; Đấu tranh bảo vệ hòa bình
thế giới.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Hội gồm 50
ủy viên, Ban Thường trực Trung ương Hội gồm 13 ủy viên. Bà
Nguyễn Thị Thập - ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng
được bầu làm Hội trưởng.
Số lượng đại biểu tham dự, Đại hội phụ nữ lần II đã thấy
sự phát triển mạnh mẽ của Hội LHPN Việt Nam. Đó là là sự
tưởng thành mạnh mẽ về cơ cấu tổ chức, về khả năng tập hợp
lực lượng. Đây thực sự là bước tiến đáng ghi nhận trong lịch sử

phát triển Hội.
- Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ III (nhiệm
kỳ 1961-1974)
Trong 15 năm (1961 – 1975), cùng thực hiện nhiệm vụ vận
động phụ nữ nhưng Hội LHPN Việt Nam có tổ chức ở cả hai
miền.
12


Ở miền Bắc, Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ III
được diễn ra từ ngày 8 đến 11-3-1961 tại Hà Nội với 450 đại
biểu chính thức, đại diện cho gần 4,5 triệu hội viên trong cả
nước. Đại hội đề ra 3 nhiệm vụ lớn, phát động phong trào thi
đua Năm tốt; Bầu Ban Chấp hành Trung ương Hội gồm 76 ủy
viên, Ban Thường trực Trung ương Hội gồm 16 ủy viên. Bà
Nguyễn Thị Thập - ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng
tiếp tục được bầu làm Hội trưởng. Trong lịch sử của Hội, nhiệm
kỳ thứ 3 là nhiệm kỳ dài nhất (1961-1974), gắn liền với lịch sử
chống Mỹ, cứu nước của cả dân tộc. Thông qua sự lãnh đạo tài
tình của Đảng mà trực tiếp là Hội LHPN Việt Nam, phụ nữ
Việt Nam đã phát huy được sức mạnh truyền thống, góp phần
to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.
2.1.2. Đường lối của Đảng trong xây dựng và phát triển
Hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam Việt Nam ở
miền Nam
Ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực
dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào để thay chân Pháp nhằm
biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của
Mỹ.
Ngày 8-3-1961, Hội Liên hiệp phụ nữ Giải phóng miền

Nam Việt Nam được thành lập.
Ngày 22-6-1963, Ban Binh vận Trung ương Cục Miền
Nam ra chỉ thị chủ trương đẩy mạnh công tác binh vận, địch
vận và phá ấp chiến lược đề cập công tác phụ nữ.
Bước sang năm 1965, trước những bước tiến mới của cuộc
chiến tranh cách mạng, Trung ương Đảng, Trung ương Cục
13


miền Nam đã có nhiều Chỉ thị, Nghị quyết về công tác vận
động phụ nữ, đẩy mạnh hơn nữa phong trào của quần chúng
phụ nữ tham gia vào đấu tranh cách mạng.
Ngày 6-3-1965, Trung ương Cục miền Nam đã tổng kết
công tác phụ vận và ra Nghị quyết về công tác phụ vận nhằm
đẩy mạnh phong trào phụ nữ.
Đại hội đại biểu lần thứ I, Hội LHPN giải phóng miền
Nam Việt Nam được tổ chức vào ngày 8-3-1965 tại căn cứ
Dương Minh Châu (Tây Ninh), gần 500 đại biểu thay mặt cho
hơn 2 triệu hội viên các địa phương đã về dự Đại hội. Đại hội
đã nhấn mạnh các nhiệm vụ: Kiên quyết đấu tranh chống mọi
hoạt động áp bức, bóc lột, khủng bố giết chóc, chà đạp nhân
phẩm đạo đức của đế quốc Mỹ và tay sai, triệt để bênh vực mọi
quyền lợi thiết thân cho mọi tầng lớp phụ nữ; Cùng với toàn
dân kiên quyết đấu tranh đánh đổ đế quốc Mỹ xâm lược, đánh
đổ mọi chế độ bù nhìn phản dân hại nước, tay sai của đế quốc
Mỹ, thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ ở miền
Nam, giành độc lập dân chủ và hòa bình, tiến tới thống nhất Tổ
quốc, thực hiện nam nữ bình đẳng, từng bước giải phóng phụ
nữ; Phát động phong trào thi đua “Năm tốt”. Bà Nguyễn Thị
Định – Phó Tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng miền

Nam được bầu làm Hội trưởng.
Ngày 8-6-1965, Ban Bí thư Trung ương ra Chỉ thị số
99/CT-TW về phương hướng nhiệm vụ công tác vận động phụ
nữ trước tình hình mới.
Ngày 27-12-1965, Ban chấp hành Trung ương họp Hội
nghị lần thứ 12, nhận định tình hình và đề ra nhiệm vụ cho toàn
14


Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong giai đoạn mới.
Đến tháng 12-1967, Trung ương Cục Miền Nam ra chỉ thị
về nhiệm vụ, yêu cầu, nội dung công tác binh vận, đề cập vai
trò xung kích của phụ nữ.
Ngày 2-12-1968, Trung ương Cục Miền Nam ra Chỉ thị:
Tăng cường công tác vận động phụ nữ tham gia kháng chiến
chống Mỹ cứu nước. Chỉ thị nhằm đẩy mạnh công tác vận động
phụ nữ nhằm phát huy hơn nữa vai trò và khả năng cách mạng
của phụ nữ Miền Nam trong tình hình mới, trong đó có phụ nữ
ở vùng giải phóng.
Do điều kiện hoàn cảnh lịch sử khác nhau nên Hội LHPN
giải phóng miền Nam ra đời muộn hơn và nhiệm vụ của Hội
cũng mang những đặc trưng riêng.
2.2. CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN HỘI PHỤ
NỮ VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954-1975)
2.2.1. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam xây dựng và bảo
vệ CNXH ở miền Bắc, đảm bảo chi viện cho miền Nam
2.2.1.1. Trong sản xuất và chiến đấu chống chiến tranh
phá hoại của Mỹ ở miền Bắc
Trước yêu cầu bảo vệ miền Bắc, ủng hộ cách mạng giải

phóng miền Nam, đánh bại âm mưu thâm độc, đen tối của đế
quốc Mỹ, thực hiện Đại hội phụ nữ Việt Nam lần thứ III (31961), Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động
trong toàn thể phụ nữ miền Bắc phong trào thi đua “Năm tốt” ở
miền Bắc (1961) với nội dung:
- Đoàn kết, sản xuất, tiết kiệm tốt
15


- Chấp hành chính sách tốt
- Tham gia quản lý tốt
- Học tập chính trị, văn hoá, kỹ thuật tốt
- Xây dựng gia đình, nuôi dạy con tốt. [4,tr5]
Phong trào diễn ra sôi nổi rộng khắp với khẩu hiệu: “Cần
kiệm xây dựng Tổ quốc, cần kiệm xây dựng gia đình, phấn đấu
thực hiện nam nữ bình đẳng”.[ 4,tr5]. Phong trào “Năm tốt” đã
động viên phụ nữ đẩy mạnh sản xuất, công tác, nuôi con khỏe,
dạy con ngoan, xây dựng gia đình thuận hòa, hạnh phúc.
Thi hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11, 12 của Ban chấp
hành Trung ương Đảng, tháng 3-1965, Trung ương Hội LHPN
Việt Nam phát động phong trào phụ nữ “Ba đảm nhiệm”. Sau
đó phong trào đã được Bác Hồ đổi tên thành “Ba đảm đang”.
Phong trào thi đua phong trào thi đua “Ba đảm đang” với
3 nội dung:
- Đảm nhiệm sản xuất và công tác thay thế cho nam giới đi
chiến đấu
- Đảm nhiệm gia đình khuyến khích chồng con yên tâm
chiến đấu
- Đảm nhiệm phục vụ chiến đấu. [4,tr5]
Phong trào “Ba đảm đang” là một phong trào cách mạng
của quần chúng phụ nữ, lôi cuốn đông đảo các tầng lớp phụ nữ

hăng hái thi đua, trở thành sức mạnh hùng hậu của hàng chục
triệu phụ nữ trên mọi lĩnh vực hoạt động sản xuất và chiến đấu.
Được tôi luyện và trưởng thành trong phong trào “Ba đảm
đang”, đội ngũ cán bộ nữ đã phát triển nhanh chóng cả về số
lượng và chất lượng, phát huy được vai trò tác dụng trên mọi
16


cương vị khác nhau, đáp ứng yêu cầu tăng cường cán bộ của
Đảng và Nhà nước.
Thông qua các phong trào nhằm xây dựng và bảo vệ
CNXH ở miền Bắc, đảm bảo chi viện cho miền Nam, công tác
xây dựng và phát triển tổ chức Hội phụ nữ Việt Nam ở miền
Bắc đã có sự trưởng thành rõ rệt và ngày càng hoàn thiện về
mọi mặt về: Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, lực lượng
phụ nữ tham gia chính quyền, hệ thống tổ chức từ Trung ương
tới cơ sở, vai trò tham mưu cho Đảng, tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng.
2.2.1.2. Đảm bảo chi viện cho miền Nam
Sự chi viện về mọi mặt: sức người, sức của, tinh thần với
khẩu hiệu “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một
người”.
Về sức người: Trong chiến tranh chống Mỹ, hàng vạn phụ
nữ đã tình nguyện tham gia bộ đội chủ lực, thanh niên xung
phong mở đường, các đoàn dân công hoả tuyến. Hàng vạn
người mẹ, người vợ miền Bắc đã không ngần ngại hy sinh hạnh
phúc cá nhân, động viên chồng con, anh em lên đường vào
Nam chiến đấu thực hiện nghĩa vụ của hậu phương miền Bắc,
hết lòng chi viện cho chiến trường miền Nam với tinh thần
“Tất cả vì miền Nam ruột thịt”.

Về sức của: Ở hậu phương, hàng chục triệu phụ nữ đã
không quản ngày đêm, bom đạn, vừa hăng hái thi đua lao động
sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Chị em
nông dân “tay cày, tay súng”, đảm đang thay nam giới làm chủ
ruộng đồng, quản lý hợp tác xã với tinh thần “Ruộng rẫy là
17


chiến trường, cuốc cày là vũ khí”. Hàng chục vạn nữ công nhân
“tay búa, tay súng” hưởng ứng khẩu hiệu “Mỗi người làm việc
bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, làm việc với quyết tâm “tim
có thể ngừng đập, máy không thể ngừng chạy”; tham gia phong
trào thi đua “luyện tay nghề, thi thợ giỏi” nêu cao tinh thần làm
chủ tập thể, ra sức phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật.
Về tinh thần: Không chỉ chi viện về sức người sức của,
lực lượng phụ nữ còn là hậu phương vững chắc, là chỗ dựa tinh
thần vững chắc để các chiến sĩ yên tâm chiến đấu. Sự động viên
về tinh thần có ý nghĩa to lớn, là nguồn cổ vũ lớn lao vào sự
nghiệp đấu tranh trường kỳ giành độc lập dân tộc.
2.2.2. Hội liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam Việt
Nam trong công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước
2.2.2.1. Trong sản xuất
Sau kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, đế quốc
Mỹ vào miền Nam Việt Nam, âm mưu chia cắt và xâm lược
miền Nam Việt Nam với nhiều hình thức và thủ đoạn, tiến hành
các chiến dịch đàn áp, khủng bố hết sức dã man phong trào
cách mạng khiến cách mạng miền Nam phải trải qua những
năm, tháng khó khăn nhất, trong đó phụ nữ miền Nam liên tiếp
phải đương đầu với những thách thức nghiêm trọng.

Phong trào thi đua “Năm tốt” - phong trào phụ nữ thi đua
đầu tiên và lớn nhất được phát động trong kháng chiến chống
Mỹ - được phát động trên toàn miền Nam đã nhanh chóng ăn
sâu vào tầng lớp phụ nữ khắp các vùng giải phóng ở miền Nam
Việt Nam. Đại hội đại biểu lần thứ I Hội LHPN giải phóng
18


miền Nam Việt Nam (1965) phát động phong trào thi đua
“Năm tốt”.
Phong trào thi đua “Năm tốt” ở miền Nam có nội dung:
- Đoàn kết đấu tranh chính trị, vũ trang, binh vận tốt
- Lao động sản xuất, tiết kiệm tốt
- Chăm sóc nuôi dưỡng thương binh tốt
- Học tập văn hoá, chính trị, chuyên môn tốt
- Rèn luyện tư cách đạo đức tốt.
Phong trào sản xuất, phong trào xây dựng nông thôn giải
phóng được phụ nữ hưởng ứng sôi nổi.
Công tác đào tạo cán bộ nữ theo chủ trương của Đảng
cũng được Hội LHPN hết sức chú trọng. Được rèn luyện qua
chiến đấu, đội ngũ cán bộ nữ phát triển nhanh chóng trong tất
cả các cấp các ngành, đáp ứng yêu cầu tăng cường cán bộ của
Đảng và Nhà nước.
2.2.2.2. Trong chiến đấu
Được sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và của Mặt trận
dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, trực tiếp là Hội Liên
hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam, phong trào đấu tranh bảo vệ
và mở rộng vùng giải phóng của phụ nữ trong các vùng giải
phóng diễn ra quyết liệt.
Đảng chỉ đạo quần chúng phụ nữ tích cực tham gia hơn

nữa vào công tác đấu tranh vũ trang, đấu tranh du kích, xây
dựng xã chiến đấu và bảo vệ xóm làng đã giải phóng. Lực
lượng phụ nữ tích cực hưởng ứng và tham gia đông đảo các
công tác như xây dựng xã chiến đấu, phá hoại, đào địa đạo,
trồng cây gây rừng, tạo chướng ngại vật, tham gia chống phá ấp
19


chiến lược, gia nhập các lực lượng quân đội.
“Phong trào địa đạo” của phụ nữ ở khắp các xã vùng giải
phóng tăng lên rất mạnh, phụ nữ tham gia đào hố đinh, đổ xi
măng làm bàn chông đinh đánh giặc, xây dựng căn cứ của ta,
phá hoại cơ sở địch và đạt nhiều thành tích.
Suốt các giai đoạn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, phụ
nữ miền Nam góp phần to lớn nhằm đánh bại cuộc “Chiến
tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hoá chiến
tranh” của bọn Mỹ Ngụy. Lực lượng phụ nữ đã đấu tranh trực
diện với bọn Mỹ - Ngụy và bọn chư hầu. “Đội quân tóc dài” đã
kiên cường và liên tục đấu tranh phá ấp chiến lược, chống bình
định nông thôn, chống hành quân càn quét, chống phi pháo huỷ
diệt và dồn quân bắt lính của Mỹ - Nguỵ.
“Đội quân tóc dài” đã góp phần to lớn vào thắng lợi vẻ
vang của dân tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Đảng ta đã đánh giá: Phụ nữ miền Nam không những có thành
tích lớn trong đấu tranh binh vận mà còn tỏ ra có năng lực lớn
trong đấu tranh vũ trang.
Gắn liền với “Đội quân tóc dài” là Phó tổng tư lệnh các
lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị
Định. Năm 1961, bà được bầu làm Hội trưởng Hội Liên hiệp
Phụ nữ giải phóng miền Nam, bà đã có công rất lớn trong việc

xây dựng và phát huy tác dụng “Đội quân tóc dài”, làm cho
quân thù vô cùng run sợ. Bác Hồ nói: “Phó Tổng tư lệnh quân
giải phóng miềm Nam là cô Nguyễn Thị Định, cả thế giới chỉ
nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật vẻ vang cho cả
miền Nam, cho cả dân tộc ta” [5,tr33].
20


2.2.2.3 Trong hoàn thiện tổ chức Hội
Được rèn luyện qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, Hội LHPN Việt Nam ngày càng trưởng
thành, hoàn thiện về mọi mặt về cơ cấu tổ chức, về số lượng,
chất lượng, về chính trị tư tưởng.
Về số lượng: Kể từ khi Hội thành lập năm 1930, trải qua
hai cuộc kháng chiến trường kỳ, số lượng đại biểu và hội viên
trong Hội không ngừng nâng cao. Hội đã đoàn kết được mọi
tầng lớp tham gia hoạt động Hội, không phân biệt dân tộc, tôn
giáo, nghề nghiệp, nơi cư trú. Đặc biệt là nữ công nhân, viên
chức và lao động sinh hoạt trong tổ chức Công đoàn là hội viên
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, là lực lượng nòng cốt trong
phong trào phụ nữ.
Về chất lượng: Không những phát triển mạnh về số lượng
hội viên tham gia Hội mà chất lượng của các Hội viên ngày
càng nâng cao. Hội không chỉ thu hút lực lượng phụ nữ trong
lĩnh vực sản xuất nông nghiệp tham gia mà trong mọi ngành,
mọi lĩnh vực phụ nữ cũng tham gia rất nhiệt tình.
Về đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ: Từ sau hoà bình lập lại
và nhất là từ Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng, phong trào
phụ nữ được đẩy mạnh nhằm thực hiện nhiệm vụ cải tạo và xây
dựng CNXH. Qua cuộc vận động chống Mỹ, cứu nước, chấp

hành đường lối, chính sách cán bộ nói chung và chính sách đối
với cán bộ nữ ở các cấp, các ngành nói riêng đã dần dần đi vào
phương hướng đúng đắn và ngày càng được tăng cường.
Về chính trị, tư tưởng: Công tác giáo dục chính trị tư
tưởng cho phụ nữ đã được đề cao. Giáo dục phụ nữ hiểu rõ
21


cách mạng XHCN là cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để
nhất, là sự nghiệp đấu tranh lâu dài, gian khổ. Chỉ xây dựng
thành công CNXH thì mới có những điều kiện triệt để để giải
phóng phụ nữ.
Về công tác tổ chức Hội: Là một tổ chức vừa có tính chất
giới, vừa có tính chất quần chúng, Hội LHPN Việt Nam đã
tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng cách mạng,
phẩm chất đạo đức, lối sống, đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Như vậy, có thể thấy rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Hội LHPN Việt Nam tự hào lớn
lên cùng đất nước. Suốt chặng đường lịch sử vinh quang, hào
hùng của hai cuộc chiến tranh, Hội đã không ngừng phát triển,
sáng tạo, linh hoạt trong xác định mục tiêu, nhiệm vụ từng thời
kỳ để kịp thời đáp ứng trọng trách mà Đảng và Nhà nước giao
phó.
2.3. MỘT SỐ KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
2.3.1. Kết quả
- Thành tựu:
Những thành tựu mà phong trào phụ nữ đã đạt được khái
quát trong báo cáo tại Đại hội phụ nữ Việt Nam lần thứ IV
(tháng 3-1974) như sau:

Phong trào “Ba đảm đang” trong tất cả các ngành, trên mọi
lĩnh vực hoạt động, đã chứng minh khả năng lãnh đạo vô cùng
to lớn của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Con số 42 nữ anh
hùng, 9 đơn vị anh hùng là nữ, 1.718 phụ nữ được thưởng huy
hiệu Hồ Chủ tịch, trên 5.000 nữ chiến sỹ thi đua và trên 3.000
22


tổ đội lao động XHCN đông nữ được bình bầu hàng năm, trên 3
triệu hội viên được bầu “Ba đảm đang” đã chứng tỏ trong chế
độ ta, đông đảo phụ nữ đã góp phần vào sự nghiệp anh hùng
của dân tộc.
Ngày 30-4-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tới dự Đại hội
liên hoan phụ nữ “Năm tốt”. Tại Đại hội, Người đã biểu dương
thành tích của phụ nữ Việt Nam:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phụ nữ ta đã góp phần khá lớn
làm cho cách mạng thành công, kháng chiến thắng lợi vẻ
vang… Phụ nữ ta tham gia ngày càng đông và càng đắc lực
trong các ngành kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Thế là dưới
chế độ tốt đẹp của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, phụ
nữ ta thật sự làm chủ đất nước. [23,tr256-259]
Sự trưởng thành của phong trào phụ nữ trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ có ý nghĩa to lớn đối với công tác xây
dựng và phát triển tổ chức Hội phụ nữ, làm cho Hội ngày càng
mạnh mẽ hơn. Có được những thắng lợi đó phải kể đến đường
lối lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, là kết quả
của việc thực hiện đường lối vận động phụ nữ của Đảng.
- Hạn chế:
Bên cạnh sự trưởng thành vượt bậc, có ý nghĩa lịch sử
công tác xây dựng và phát triển tổ chức Hội phụ nữ Việt Nam

còn bộc lộ một số nhược điểm, thiếu sót sau đây:
Tinh thần làm chủ tập thể, trình độ văn hóa, nghề nghiệp,
kỹ thuật của phụ nữ chưa theo kịp với yêu cầu của cách mạng.
Điều kiện lao động, đời sống, sức khỏe của phụ nữ còn
nhiều khó khăn.
23


Tổ chức, lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp Hội chưa theo kịp
phong trào phụ nữ ngày càng lớn mạnh.
2.3.2. Bài học kinh nghiệm
Từ thực tiễn phong phú của phong trào phụ nữ Việt Nam,
chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm sau đây:
Thứ nhất, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của phong trào phụ nữ, của sự
nghiệp giải phóng phụ nữ.
Thứ hai, để động viên và phát huy cao độ mọi khả năng
của các tầng lớp phụ nữ phục vụ cho sự nghiệp cách mạng cần
phát động phong trào vừa đáp ứng yêu cầu của cách mạng, vừa
phù hợp với đặc điểm, nguyện vọng của phụ nữ.
Thứ ba, phát huy vai trò, tác dụng của Hội trong việc giáo
dục, động viên, tổ chức phụ nữ thực hiện nhiệm vụ chính trị
của Đảng, đại diện cho quyền lợi, nguyện vọng của các tầng
lớp phụ nữ.
Thứ tư, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ để đáp ứng yêu cầu
chung của cách mạng và đẩy mạnh phong trào phụ nữ, hoàn
thiện tổ chức Hội phụ nữ cả về số lượng và chất lượng.
Tiểu kết chương 2
Vai trò của phụ nữ Việt Nam được thể hiện qua các phong
trào “Năm tốt”, “Ba đảm đang”. Có được những thành công đó

là nhờ sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thông qua các phong trào mà Hội liên hiệp phụ nữ ngày càng
được xây dựng phát triển về mọi mặt cả về số lượng và chất
lượng góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước.
24


Ghi nhận những thành tích đóng góp của phụ nữ trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc, Bác
Hồ đã tặng phụ nữ Việt Nam 8 chữ vàng: “Anh hùng, bất
khuất, trung hậu, đảm đang” và khẳng định: “Non sông gấm
vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu
mà thêm tốt đẹp, rực rỡ” [24,tr186]. Đây chính là sự khẳng
định của Bác về vị trí, vai trò không thể thiếu của phụ nữ Việt
Nam đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.

25


×