Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Quản lý hoạt động dạy học tiếng nhật ở các trường THCS quận ba đình thành phố hà nội theo hướng xã hội hoá giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 129 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
---------------

TRẦN THỊ QUỲNH HƯƠNG

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC TIẾNG NHẬT
Ở CÁC TRƯỜNG THCS QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ
HÀ NỘI THEO HƯỚNG XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã ngành:6014.01.14

Người hướng dẫn: PGS.TS Dương Thị Hoàng Yến

Hà Nội, tháng 06/2017

0


DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
DÙNG TRONG LUẬN VĂN
1.

BGH

Ban Giám hiệu

2.


CBQL

Cán bộ quản lý

3.

CBCNV

Cán bộ công nhân viên

4.

XHH

Xã hội hóa

5.

GV

Giáo viên

6.

HS

Học sinh

7.


CSVC

Cơ sở vật chất

8.

GD - ĐT

Giáo dục - Đào tạo

9.

CMHS

Cha mẹ học sinh

10. THCS

Trung học cơ sở

11. THPT

Trung học phổ thông

1


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nước ta đang bước vào quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa và chịu

nhiều tác động của yếu tố ngoại cảnh như xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế, cơ
chế thị trường, kinh tế tri thức… Để đáp ứng được điều đó thì vấn đề ngôn ngữ có
vai trò rất quan trọng. Việt Nam nằm trong khu vực châu Á nên ngoài ảnh hưởng
của xu thế hội nhập chung của thế giới còn ảnh hưởng lớn của xu thế hội nhập khu
vực châu Á. Vì thế, việc tiếp cận với giáo dục các nước châu Á phát triển đã được
chú ý, đặc biệt với các nước có nền giáo dục tiến tiến như Singapo, Nhật Bản.
Muốn đạt được mục tiêu tiếp cận với giáo dục các nước châu Á nói chung, Nhật
Bản nói riêng thì việc quan trọng là ngôn ngữ. Vì thế, việc học tiếng Nhật hiện nay
đang trở thành một trào lưu khá phát triển. Khi việc học tiếng Nhật mở rộng thì
một vấn đề đặt ra là quản lý việc dạy học tiếng Nhật trong các nhà trường theo các
hướng cụ thể thế nào?
Ngày 26/08/2016, Chỉ thị số 3031/CT-BGDĐT về nhiệm vụ chủ yếu năm
học 2016-2017 nêu rõ: Nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ ở các cấp học.
Chuẩn hóa đội ngũ giáo viên ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu triển khai chương trình
ngoại ngữ 10 năm đối với giáo dục phổ thông. Xây dựng, hoàn thiện chương trình,
sách giáo khoa, hệ thống học liệu ngoại ngữ trực tiếp và trực tuyến đáp ứng mục
tiêu đào tạo chung. Xây dựng chương trình, tài liệu dạy và học ngoại ngữ tăng
cường, chuyên ngữ và song ngữ ở các cấp học và trình độ đào tạo. Triển khai đổi
mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá năng lực ngoại ngữ của học
sinh, sinh viên theo chuẩn đầu ra ngay trong quá trình và theo kết quả từng giai
đoạn giáo dục, đào tạo.
Quyết định số 1400/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ : Về việc phê duyệt
Đề án "Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 –
2020". Trong mục tiêu chung chỉ rõ “Đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ
trong hệ thống giáo dục quốc dân, triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ
mới ở các cấp học, trình độ đào tạo, nhằm đến năm 2015 đạt được một bước tiến
rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với
2



một số lĩnh vực ưu tiên; đến năm 2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung
cấp, cao đẳng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin trong
giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hóa;
biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.”. Như vậy, việc dạy- học ngoại ngữ nói
chung, tiếng Nhật nói riêng đã và đang được triển khai rộng rãi. Điều đó, đòi hỏi
việc quản lý hoạt động dạy học tiếng Nhật phải được đặt ra để đạt hiệu quả.
Hiện nay, trong xã hội, giao lưu quốc tế đang ngày càng mở rộng trên mọi
lĩnh vực, rất nhiều học sinh Việt Nam và gia đình có xu hướng cho con đi du học
nước ngoài để có cơ hội mở mang nhận thức và tìm kiếm việc làm tốt thì việc học
ngoại ngữ càng được quan tâm. Nếu trước đây, môn ngoại ngữ trong các nhà
trường là một môn phụ, ít được chú trọng thì nay vai trò của nó đã có sự thay đổi.
Ngoài tiếng Anh được coi là ngôn ngữ rất được phổ biến và đang rất được chú
trọng thì tiếng Nhật cũng đang được các nhà trường chú ý. Để triển khai việc dạyhoc tiếng Nhật trong nhà trường thì rất cần các nguồn lực hỗ trợ vì tiếng Nhật hiện
tại đang được triển khai ở một số trường chứ không rộng rãi như tiếng Anh.
Vấn đề quản lý dạy học tiếng Nhật đang được đặt ra với nhiều nội dung,
trong đó có vấn đề xã hội hóa rất cần thiết. Tuy nhiên, trong thực tế, do một số
nguyên nhân như tiếng Nhật chưa phổ biến, tiếng Anh đang được quan tâm
hơn…nên hiện nay, tại quận Ba Đình chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề
này. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, đề tài “Quản lý hoạt động
dạy học tiếng Nhật ở các trường THCS quận Ba Đình, thành phố Hà Nội theo
hướng xã hội hóa giáo dục” được đặt ra và nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng quản lý hoạt động dạy học tiếng
Nhật theo hướng xã hội hóa giáo dục ở trường THCS quận Ba Đình, thành phố Hà
Nội, đề xuất biện pháp quản lý nhằm góp phần nâng cao kết quả dạy học tiếng
Nhật theo hướng xã hội hóa của các trường THCS quận Ba Đình, thành phố Hà
Nội.
3. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
3



3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động dạy học tiếng Nhật tại trường THCS.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý hoạt động dạy học tiếng Nhật ở trường
THCS quận Ba Đình, thành phố Hà Nội theo hướng xã hội hóa giáo dục
4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, quản lý hoạt động dạy học tiếng Nhật đang được triển khai ở một
số trường THCS trên địa bàn quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, nhưng kết quả còn
hạn chế do cộng đồng dân cư chưa nhận thức rộng rãi về dự án dạy tiếng Nhật
thuộc Đề án Ngoại ngữ quốc gia 2020 cũng như sự hạn chế về các nguồn lực và
môi trường thực hành tiếng Nhật trong các nhà trường THCS. Nếu đề xuất được
các biện pháp quản lý theo hướng thu hút được sự tham gia của cộng đồng, của
những tổ chức sử dụng và phát triển văn hóa Nhật Bản thì sẽ góp phần nâng cao
chất lượng dạy và học tiếng Nhật tại các nhà trường.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về quản lý hoạt động dạy học ngoại ngữ và
tiếng Nhật tại trường THCS theo hướng xã hội hóa giáo dục.
5.2. Đánh giá thực trạng quản lý hoạt động dạy học tiếng Nhật ở trường THCS
quận Ba Đình, thành phố Hà Nội theo hướng xã hội hóa giáo dục và các yếu tố ảnh
hưởng đến thực trạng.
5.3. Đề xuất biện pháp quản lý hoạt động dạy học tiếng Nhật ở trường THCS quận
Ba Đình, thành phố Hà Nội theo hướng xã hội hóa giáo dục.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài:
6.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu: Sử dụng tiếp cận xã hội hóa trong giáo dục
để nghiên cứu vấn đề quản lý hoạt động dạy học tiếng Nhật tại các trường THCS
quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
6.2. Giới hạn về địa bàn khảo sát: Khảo sát tại 04/04 trường THCS ở quận Ba
Đình, thành phố Hà Nội có triển khai việc dạy học tiếng Nhật gồm trường THCS
Thăng Long, trường THCS Thành Công, trường THCS Nguyễn Công Trứ và
trường THCS Nguyễn Tri Phương

6.3. Giới hạn về đối tượng khảo sát:

4


- CBQL: 04 hiệu trưởng, 04 hiệu phó phụ trách chuyên môn, 4 tổ trưởng
chuyên môn tổ Ngoại ngữ, 02 chuyên viên phòng GD&ĐT Ba Đình
- GV dạy tiếng Nhật: 08/08 giáo viên tiếng Nhật.
- Học sinh các lớp học tiếng Nhật: 420 học sinh ở 9 lớp học tiếng Nhật khối
6,7,8 của 04 trường ( Thăng Long: 03 lớp, Thành Công: 02 lớp, Nguyễn Công Trứ:
02 lớp, Nguyễn Tri Phương: 1 lớp)
6.4. Giới hạn về thời gian: Thời gian lấy số liệu: Từ năm học 2014- 2015 đến năm
học 2016-2017.
7. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích-Tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa, cụ thể hóa các các tài liệu
lý luận quản lý dạy học ngoại ngữ tại trường THCS, và các văn kiện, Nghị quyết
của Đảng, các văn bản quy định của nhà nước và của ngành giáo dục và đào tạo.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: dành cho cán bộ quản lý (hiệu
trưởng, hiệu phó, giáo viên, học sinh và cha mẹ học sinh).
- Phương pháp phỏng vấn: với hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, các giáo viên
dạy giỏi, học sinh và cha mẹ học sinh và đại diện các tổ chức tham gia dạy và học
tiếng Nhật tại Hà Nội.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm.
7.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học.
8. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận về quản lý hoạt động dạy học tiếng Nhật tại
trường THCS theo hướng xã hội hóa giáo dục.

5


Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động dạy học tiếng Nhật tại trường
THCS quận Ba Đình, thành phố Hà Nội theo hướng xã hội hóa giáo dục.
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động dạy học tiếng Nhật tại trường
THCS quận Ba Đình, thành phố Hà Nội theo hướng xã hội hóa giáo dục.

6


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC TIẾNG NHẬT TẠI
TRƯỜNG THCS THEO HƯỚNG XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC

1.1 Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về quản lý hoạt động dạy học
Sự phát triển của một quốc gia phụ thuộc vào nhiều vào trình độ tri thức của
người dân. Để có tri thức, vấn đề giáo dục luôn được các quốc gia ưu tiên hàng
đầu. Giáo dục góp phần vào việc xây dựng nhân cách cho con người và phải cung
cấp kĩ năng cho lực lượng lao động của quốc gia. Nền giáo dục của xã hội cần phải
xây dựng cho con người kĩ năng khai thác, sử dụng những thông tin để đáp ứng
yêu cầu của công việc. Nói đến giáo dục thì một trong những hoạt động quan trọng
nhất là dạy và học. “Hoạt động dạy- học đạt được hiệu quả tối ưu trong trường
hợp có sự thống nhất biện chứng giữa hoạt động dạy và hoạt động học của học

sinh, trong đó sự hỗ trợ của giáo viên và của học sinh trùng nhau tạo nên sự cộng
hưởng của chính quá trình dạy học đó”[16, tr 137,138]. Điều đó cũng đặt ra vấn đề
phải quản lý hoạt động dạy học. Có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý hoạt
động dạy học hoặc liên quan đến quản lý hoạt động dạy học.
Một số công trình nghiên cứu như: Hoạt động dạy học ở trường THCS,
2000- Nguyễn Ngọc bảo, Hà Thị Đức; Lý luận dạy học ở trường THCS,2005Nguyễn Ngọc Bảo, Trần Kiểm; Một số vấn đề về quản lý giáo dục và khoa học
giáo dục,1986- Phạm Minh Hạc; Quản lý và kiểm định chất lượng đào tạo nhân
lực theo ISO & TQM, 2004- Đặng Quốc Bảo; Giáo dục Việt Nam- Đổi mới và phát
triển hiện đại hóa, 2007- Vũ Ngọc Hải, Đặng Bá Lãm, Trần Khánh Đức; Đại
cương khoa học quản lý, 2010- Trần Khánh Đức; Những vấn đề cơ bản về lý luận
quản lý giáo dục, 1989- Nguyễn Ngọc quang; Biện pháp quản lý hoạt động dạy
học của Hiệu trưởng các trường THCS thực hiện chương trình SGK mới tại huyện
Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh, Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục- Nguyễn Kim
Phụng; Biện pháp quản lý hoạt động dạy học của Hiệu trưởng trường THPT huyện
Ứng Hòa tỉnh Hà Tây, Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục- Vũ Trí Thức, trường

7


ĐHP Hà Nội; “ Quản lý dạy học theo hướng đảm bảo chất lượng tại trường Tiểu
học tỉnh Vĩnh Long”, luận án Tiến sĩ Giáo dục- Phạm Huy Tư…
Hầu hết các công trình nghiên cứu này đều hướng tới việc nêu ra đặc điểm,
cách quản lý hoạt động dạy học có hiệu quả nhất từ các góc độ khác nhau hoặc
ứng dụng cụ thể trong một phạm vi tác giả nghiên cứu.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về quản lý xã hội hóa giáo dục
Mỗi quốc gia muốn phát triển giáo dục đều cần có sự vào cuộc của
các lực lượng xã hội. Vì thế, xã hội hóa giáo dục là vấn đề đã được nhiều người
nghiên cứu, đề cập. Có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu khoa học bàn về
XHHGD như: Xã hội hóa giáo dục nhìn từ góc độ pháp luật, Lê Quốc Hùng-2004,
Xã hội hóa giáo dục và vai trò của nhà nước- GS, TS Nguyễn Vân Nam; Xã hội

hóa giáo dục ( 2001)- Chủ biên: PGS Võ Tấn Quang; Đề án Xã hội hóa giáo dục
và đào tạo (1998)- Bộ Giáo dục và Đào tạo; Xã hội hóa giáo dục- Một số vấn đề lí
luận và thực tiễn, Nguyễn Sinh Huy; Xã hội hóa và sự hình thành định hướng giá
trị, Võ Tấn Quang; Xã hội hóa giáo dục- một động lực nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, Nguyễn Mậu Bành; Xã hội hóa giáo dục- Một điều
kiện nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, Nguyễn Văn Sơn;
; Đề án xã hội hóa giáo dục- đào tạo của Bộ Giáo dục- Đào tạo của ; Đề án Sự
công bằng xã hội về giáo dục và giải pháp xã hội hóa giáo dục – đào tạo Công
Đoàn Việt Nam; Các giải pháp về tổ chức và cơ chế chính sách nhằm triển khai
thực hiện xã hội hóa giáo dục trong lĩnh vực giáo dục- đào tạo của Vụ Tổ chức
cán bộ-Bộ Giáo dục- Đào tạo…
Theo tác giả Phạm Bích Thủy trong luận án Tiến sĩ Giáo dục học “ Quản
lý hoạt động xã hội hóa giáo dục ở trường mầm non trên địa àn thành phố Hải
Phòng trong bối cảnh đổi mới giáo dục” thì quản lý XHHGD được nghiên cứu ở
nước ngoài tập trung vào các hướng nghiên cứu như: Huy động cộng đồng cùng
tham gia giáo dục; Dân chủ hóa giáo dục; phân cấp quản lý giáo dục; Công bằng
xã hội trong giáo dục với nhiều công trình nhiên cứu, bài viết chủ yếu mang tầm vĩ
mô hoặc ghi lại từ thực tiễn một số mô hình đã thành công trong huy động cộng
đồng tham gia cùng làm giáo dục nhưng cùng hướng đến mục tiêu như UNESCO
8


“ Đảm bảo sự công bằng trong giáo dục đó là giáo dục phải được cung cấp cho
tất cả mọi người. Mọi người đều có cơ hội học tập như nhau từ người nghèo đến
trẻ em đường phố , những người ở vùng nông thôn hay miền núi, hải đảo, những
người dân tộc thiểu số…tất cả đều có cơ hội học tập” [14, tr11]. Trong nước, có
nhiều công trình nghiên cứu và có sự tương đồng về quan niệm XHHGD với các
nhà nghiên cứu nước ngoài. Trong các văn bản mang tầm quốc gia như Đề án “
Qui hoạch phát triển xã hội hóa giáo dục giai đoạn 2005- 2010” của Bộ GD&ĐT
hay Quyết định số 711/QĐ-TTG ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt “ Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020” đều xác định rõ “Vai
trò chủ đạo, mang tính toàn diện, thống nhất của nhà nước nhằm thu hút mọi tiềm
năng để phát triển giáo dục. XHHGD có thể coi là một chiến lược của Đảng và
Nhà nước ta, bởi nó mang giá trị chỉ đạo quá trình phát triển giáo dục một cách
lâu dài và căn bản nhằm đạt được mục tiêu giáo dục” [ 14, tr 14]. Các công trình
nghiên cứu chủ yếu theo các hướng: vai trò của quản lý XHHGD; nội dung của
quản lý XHHGD; giải pháp quản lý XHHGD tuy nhiên đều trên tầm vĩ mô và đều
nhấn mạnh đến việc thu hút mọi người dân và toàn xã hội tham gia cũng giáo dục,
xác định rõ vai trò của nhân dân, nhà nước, xã hội trong việc tập hợp nguồn sức
mạnh vật chất và tinh thần cho giáo dục.
Trong luận văn nghiên cứu về XHHGD “ Quản lý thực hiện xã hội hóa giáo
dục ở các trường trung học phổ thông công lập huyện Đức Thọ, tỉnh Lâm Đồng
của Võ Hùng Phi lại chỉ ra việc nghiên cứu vấn đề thực hiện XHHGD ở nước
ngoài như Nhật bản, Hàn Quốc, Hoa Kì và ở Việt Nam qua các thời kì: phong kiến
và Pháp thuộc, trong và sau kháng chiến, thời kì đổi mới…
Nhìn chung, nghiên cứu về XHHGD thì nhiều nhưng XHHGD trong dạy
học tiếng Nhật thì chưa có đề tài nào nghiên cứu.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về quản lý hoạt động dạy học ngoại ngữ và
quản lý hoạt động dạy học tiếng Nhật ở trường THCS theo hướng xã hội hóa
giáo dục:

9


Giáo dục phải hướng đến đào tạo những công dân toàn cầu, có trình độ
ngôn ngữ để tiếp nhận kiến thức mới. Vì thế, việc dạy học ngoại ngữ luôn được
các quốc gia rất chú ý, Việt Nam cũng vậy.
Để đảm bảo mục tiêu hội nhập quốc tế theo xu hướng toàn cầu hóa, từ bậc
Tiểu học, vấn đề dạy- học ngoại ngữ đã được Bộ Giáo dục dề cập đến rất nhiều
trong quá tình đổi mới chương trình, sách giáo khoa, hợp tác giáo dục…Nhiều văn

bản đã được ban hành, nhiều hội thảo được tổ chức với qui mô quốc gia, nhiều dự
án ngoại ngữ được tiến hành nhằm nâng cao chất lượng day- học ngoại ngữ trong
các nhà trường phổ thông. Đặc biệt trong “ Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ
thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020” - Hà Nội, 2008. Với đề án này,
việc quản lý dạy- học ngoại ngữ được đề cập cụ thể, qui mô nhằm nâng cao chất
lượng dạy- học ngoại ngữ ở nước ta, trong đó có đề cập đến việc dạy- học tiếng
Nhật trong nhà trường phổ thông.
Nhật Bản là một quốc gia châu Á có nền giáo dục tiên tiến và đất nước Nhật
Bản từ một nước nghèo tài nguyên, hay bị thiên tai trở thành một cường quốc với
nền kinh tế rất phát triển. Để có điều đó, Nhật Bản đã rất chú trọng đào tạo con
người. Do đó, việc học tập Nhật Bản không chỉ Việt Nam mà nhiều quốc gia khác
cũng đang tiến hành; mặt khác, muốn học hỏi một quốc gia thì cần hiểu ngôn ngữ
của quốc gia đó. Việc dạy- học tiếng Nhật ở trường phổ thông của nước ta mới tiến
hành chưa lâu: năm 2003 Việt Nam và Nhật Bản kí kết thỏa thuận khung về việc
dạy thí điểm tiếng Nhật trong trường phổ thông Việt Nam trong “ Đề án dạy thí
điểm tiếng Nhật trong trường THCS và THPT Việt Nam”. Đề án này góp phần
chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu hợp tác ngoại giao, kinh tế , khoa
học kĩ thuật,…phát triển quan hệ hai nước lên một tầm cao mới hiệu quả hơn. Từ
năm 2013, đề án này trở thành một phần trong “ Đề án dạy và học ngoại ngữ trong
hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam giai đoạn 2008-2020” nay gọi là “ Đề án
ngoại ngữ quốc gia 2020”. Theo đó, Bộ tiếp tục triển khai dạy và học tiếng Nhật
trong các trường phổ thông, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và các Trung tâm giáo
dục thường xuyên. Bên cạnh đó, ưu tiên xây dựng và phát triển chương trình 6 bậc
năng lực với tài liệu giảng dạy và học tập tiếng Nhật khác nhau cho các đối tượng
10


để đảm bảo chứng chỉ của Việt Nam cũng được công nhận tại Nhật Bản, tạo điều
kiện cho công dân Việt Nam dễ dàng đến Nhật Bản học tập, lao động và giao lưu
hơn.

Sau khi đề án dạy tiếng Nhật được triển khai tại một số thành phố, đa số phụ
huynh có nhu cầu cho con theo học tiếng Nhật đều rất phấn khởi nhưng điều băn
khoăn của họ là kinh phí cho việc dạy học tiếng Nhật phụ thuộc phần lớn vào xã
hội hóa. Điều này cũng gây khó khăn cho việc phát triển, mở rộng qui mô dạy
tiếng Nhật trong các trờng phổ thông; mặt khác, một số vấn đề khó khăn khi dạy
tiếng Nhật như giáo viên tiếng Nhật thiếu về số lượng và chưa đạt chuẩn trình độ,
thiết bị, đồ dùng dạy học tài liệu tham khảo cho việc dạy học tiếng Nhật còn nhiều
hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học. Tại các trường Sư phạm đào tạo
giáo viên ngoại ngữ chỉ tập trung vào tiếng Anh. Do đó, giáo viên tiếng Nhật dạy
cho các trường phổ thông lại không được đào tạo theo Sư phạm mà chỉ ở các
trường ngoại ngữ, là việc tại các trung tâm tiếng Nhật.
Vì thế, khi triển khai việc dạy tiếng Nhật ở trường phổ thông thì một vấn đề
đặt ra là quản lý hoạt động dạy học tiếng Nhật thế nào cho hiệu quả. Hiện nay, có
nhiều công trình nghiên cứu về công tác quản lý để nâng cao chất lượng dạy học
trong nhà trường phổ thông. Ngoại ngữ cũng không tách rời hệ thống các môn học
nên đa số các biện pháp quản lý dạy- học nói chung đều có thể áp dụng khi nghiên
cứu biện pháp quản lý hoạt động dạy- học ngoại ngữ nói chung và tiếng Nhật nói
riêng.
Nghiên cứu về các biện pháp quản lý hoạt động dạy học ngoại ngữ trong
nhà trường có rất nhiều đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục nhưng chỉ tập trung
chủ yếu ở môn tiếng Anh. Ví dụ: Tuyển tập các bài báo khoa học Những vấn đề cơ
bản về dạy học ngoại ngữ, 1995-2005- Nguyễn Thị Thu Phương; Các biện pháp
quản lý hoạt động dạy- học môn ngoại ngữ cho sinh viên tại Học viện hành chính
quốc gia, Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục Trương Thị Thu Thủy-2008; Biện
pháp quản lý hoạt động dạy- học môn ngoại ngữ tại học viện thanh- thiếu niên
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục Đỗ Thị Thu Hà- 2008;

11



Các công trình nghiên cứu đều đã đạt những thành tựu nhất định về lý luận
và thực tiễn nhưng chỉ tập trung ở môn tiếng Anh và các biện pháp quản lý chung.
Đến nay, vấn đề quản lý hoạt động dạy- học tiếng Nhật tại trường THCS là vấn đề
mới và chưa có tác giả nào đề cập, triển khai nghiên cứu. Việc quản lý hoạt động
dạy học tiếng Nhật trong các nhà trường chủ yếu là quản lý về chương trình, giáo
viên; mà như trên đã trình bày, giáo viên tiếng Nhật chưa được đào tạo bài bản cho
dạy phổ thông, chương trình chỉ ở mức thí điểm, cơ sở vật chất chủ yếu dựa vào xã
hội hóa. Do đó, việc quản lý hoạt động này để nâng cao chất lượng dạy học là việc
làm cần thiết. Muốn nâng cao chất lượng dạy- học tiếng Nhật thì phải quản lý tốt
và có những giải pháp phù hợp với từng yếu tố ảnh hưởng đến việc dạy học tiếng
Nhật. Các công trình nghiên cứu về quản lý dạy học tiếng Nhật và nhất là theo
hướng xã hội hóa giáo dục càng chưa có nên đây là vấn đề rất mới, khó khăn. Vì
thế, khi tác giả lựa chọn và tiến hành nghiên cứu đề tài này sẽ tham khảo, kế thừa
kết quả các công trình nghiên cứu về quản lý hoạt động dạy học ngoại ngữ nói
chung và tiếp tục đề ra một số giải pháp mới về quản lý hoạt động dạy- học tiếng
Nhật tại trường THCS quận Ba Đình, Hà Nội nhưng chỉ trong giới hạn theo hướng
xã hội hóa giáo dục.
Nghiên cứu quản lý hoạt động dạy- học tiếng Nhật tại trường THCS theo
hướng xã hội hóa giáo dục ngoài việc nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động
dạy học tiếng Nhật, tác giả hướng theo nội dung xã hội hóa giáo dục. Vấn đề xã
hội hóa giáo dục không chỉ hiểu đơn thuần là huy động nguồn vốn từ các nguồn
lực xã hội cho việc dạy- học tiếng Nhật mà cần hiểu hai chiều là sự đóng góp của
hoạt động dạy- học tiếng Nhật cho xã hội, tạo được sản phẩm phục vụ nhu cầu xã
hội. Do đó, vấn đề nghiên cứu ngoài những nội dung về quản lý hoạt động dạy học
tiếng Nhật thì sẽ đặt ra những biện pháp theo định hướng xã hội hóa .
Như vậy, nét mới của đề tài là quản lý hoạt động dạy học tiếng Nhật ở
trường THCS và theo hướng xã hội hóa giáo dục.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm quản lý và quản lý giáo dục


12


1.2.1.1 Khái niệm quản lý: Quản lý đã trở thành nhân tố của sự phát triển xã
hội, một hoạt động phổ biến, diễn ra trong mọi lĩnh vực, ở mọi cấp độ và liên quan
đế mọi người. Quản lý phối hợp các bộ phận , các hoạt động riêng lẻ của xã hội tạo
nên hiệu quả mang cấp số nhân cho sự phát triển xã hội. Quản lý là một hoạt động
quan trọng nhất trong các hoạt động của con người. Quản lý đúng tức là con người
đã nhận thức được quy luật, vận động theo quy luật và sẽ đạt được những thành
công to lớn. Nghiên cứu về quản lý sẽ giúp cho con người có được những kiến
thức cơ bản nhất, chung nhất đối với hoạt động quản lý. Quản lý là khái niệm rất
chung, dùng cho cả quá trình quản lý xã hội ( xí nghiệp, trường học, đoàn thể…).
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về quản lý và quản lý ở nhà trường:
Quản lý là những tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý
đến đối tượng bị quản lý trong tổ cức để vẫn hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất
định.
Quản lý là quá trình tiến hành những hoạt động khai thác, lựa chọn, tổ chức
và thực hiện các nguồn lực, các tác động của chủ thể quản lý theo kế hoạch chủ
động và phù hợp với qui luật khách quan để gây ảnh hưởng đến đối tượng quản lý
trong tổ chức nhằm tạo ra sự thay đổi hay tạo ra hiệu quả cần thiết vì sự tồn tại, ổn
định và phát triển của tổ chức trong một môi trường luôn biến động.
F.W Taylor cho rằng: Quản lý là biết chính xác điều muốm người khác là,
sau đó thấy họ hòa thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất.
H. Koontz thì khẳng định: Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo
phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm
(tổ chức ).
Theo C.Mác: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào
tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo. Một
người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có
nhạc trưởng ”.

Quản lý chính là các hoạt động do một hoặc nhiều người điều phối hành
động của những người khác nhằm thu được kết quả mong muốn.
13


Từ những định nghĩa trên, có thể hiểu một cách khái quát về quản lý như sau:
“Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng
quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra”.
Như vậy, bản chất của quản lý là sự tác động có mục đích, có kế hoạch của
chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đạt được những mục tiêu cơ bản của
quản lý.
1.2.1.2 Khái niệm quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là quản lý một lĩnh vực xã hội. Lĩnh vực này ngày càng
thâm nhập vào mọi mặt của đời sống. Quản lý giáo dục cho thấy điển hình nhất về
quản lý con người, quản lý sự hình thành và phát triển nhân cách. Sự hình thành và
phát triển nhân cách đưa ra cái gốc để có dân trí, nhân lực và nhân tài.
Về khái niệm quản lý giáo dục có nhiều cách hiểu khác nhau:
- Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát: “Hoạt động điều hành, phối hợp
các lực lượng xã hội nhằm đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội”. Ngày
nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ
giới hạn ở thế hệ trẻ mà còn cho mọi người; tuy nhiên trọng tâm vẫn là giáo dục
thế hệ trẻ cho nên quản lý giáo dục được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục
quốc dân, các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân.
- Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội
nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục theo yêu cầu phát triển xã hội. [6;86]
- Theo tác giả Trần Kiểm: “QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có
ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau nhằm mục đích
đảm bảo sự hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng
những quy luật chung của xã hội cũng như các quy luật của quản lý giáo dục, sự
phát triển tâm lý, thể lực của trẻ em.”.

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “QLGD là hệ thống những tác động có
mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận
hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất
của nhà trường XHCN Việt Nam, mà điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục
thế hệ trẻ, đưa giáo dục đến mục tiêu dự kiến, tiến lên một trạng thái mới về chất”
14


Trong quản lý giáo dục các hoạt động quản lý hành chính nhà nước, quản lý sự
nghiệp chuyên môn đan xen vào nhau, thâm nhập lẫn nhau không tách biệt, tạo thành
hoạt động quản lý thống nhất.
Từ những khái niệm nêu trên, phạm vi nghiên cứu này xác định: Quản lý
giáo dục là quá trình vận dụng nguyên lý, khái niệm, phương pháp chung nhất của
khoa học quản lý vào lĩnh vực giáo dục. Quản lý giáo dục là sự tác động có chủ
đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý trong lĩnh vực giáo dục nhằm đạt
mục tiêu xác định.
1.2.2. Khái niệm hoạt động dạy học
1.2.2.1. Khái niệm hoạt động dạy học
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm này, tác giả Hà Thế Ngữ đã
quan niệm: "Hoạt động dạy học là một quá trình hoạt động thống nhất giữa giáo
viên và học sinh, trong đó dưới tác động chủ đạo (tổ chức, điều khiển) của giáo
viên, học sinh tự giác, tích cực tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động học nhằm thực
hiện tốt các nhiệm vụ dạy dạy học đã đặt ra" [18, tr11].
Tác giả Phạm Viết Vượng cho rằng “ Nói đến dạy học là nói đến hoạt động
dạy và học của thầy và trò trong nhà trường, với mục tiêu là giúp học sinh nắm
vững hệ thống kiến thức khoa học, hình thành hệ thống kĩ năng, kỹ xảo và thái độ
tích cự đối với học tập và cuộc sống.” [20, tr 10]
Nhìn chung các quan niệm đều thống nhất: Hoạt động dạy học là quá trình
truyền thụ, lĩnh hội những kỹ năng, kỹ xảo và phương pháp nhận thức của con
người. Dạy học là quá trình hoạt động hai mặt do thầy giáo (dạy) và người học

(học) nhằm thực hiện các mục đích dạy học
Quan niệm trên về hoạt động dạy học đã phản ánh tính chất hai mặt của quá
trình dạy học: Hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Hai
hoạt động này không tách rời nhau mà là một quá trình hoạt động chung nhằm
hình thành nhân cách của con người mới đáp ứng được yêu cầu của thời đại. Trong
quá trình dạy học không thể thiếu một trong hai quá trình bộ phận này, nếu không
thì quá trình đó không diễn ra.

15


Vậy, hoạt động dạy học là hoạt động trong đó dưới sự tổ chức, điều khiển,
lãnh đạo của người giáo viên làm cho người học tự giác, tích cực, chủ động tự tổ
chức tự điều khiển hoạt động nhận thức – học tập của mình nhằm thực hiện những
nhiệm vụ dạy học.
1.2.2.2. Khái niệm hoạt động dạy: Theo các tác giả Trần Thị Tuyết Oanh và
một số tác giả khác thì hoạt động dạy của người giáo viên “Đó là hoạt động lãnh
đạo, tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức-học tập của học sinh, giúp học sinh
tìm tòi, khám phá tri thức, qua đó thực hiện có hiệu quả chức năng học của bản
thân.”[16, tr 135].
Ngày nay trong quá trình hoạt động chung đó, người giáo viên đóng vai trò
lãnh đạo, tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của người học để giúp họ tự
khám phá tri thức, ngoài ra giáo viên cũng có chức năng truyền thụ tri thức nhưng
chỉ khi người học thật cần thiết. Song, chức năng này không phải là chức năng
chính yếu của toàn bộ quá trình dạy. Người giáo viên phải suy nghĩ để giúp người
học sử dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có của mình, những tri thức họ
thu thập được qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua cuộc sống để tạo nên
sự hiểu biết của mình.
Phối hợp với hoạt động đó của giáo viên, người học tự giác, tích cực, chủ
động, tự tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức – học tập của mình nhằm nắm

vững tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo, phát triển năng lực nhận thức, đặc biệt
năng lực tư duy sáng tạo, hình thành cơ sở thế giới quan khoa học và những phẩm
chất tốt đẹp của con người mới.
1.2.2.3. Khái niệm hoạt động học
“Hoạt động học của học sinh là hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, tự tổ
chức , tự điều khiển hoạt động nhận thức- học tập của mình nhằm thu nhận, xử lý
và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức của bản thân, qua đó, người học thể
hiện mình, tự biến đổi mình, tự làm phong phú những giá trị của mình.” [16-tr135]
Học là hoạt động do được sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển nên nó là hoạt
động nhận thức đặc biệt. Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não
người. Đó là sự phản ánh tâm lý của con người bắt đầu từ cảm giác. Sự học tập của
16


học sinh cũng là quá trình phản ánh như vậy. Sự phản ánh đó là sự phản ánh đi
trước, có tính chất cải tạo mà mức độ cao nhất của tính chất cải tạo đó là sự sáng
tạo. Sự phản ánh đó có tính tích cực thể hiện ở chỗ nó được thực hiện trong tiến
trình phân tích – tổng hợp của não người và có tính lựa chọn. Trong vô số những
sự vật và quá trình của hiện thực khách quan, chủ thể tích cực lự chọn những cái
trở thành đối tượng phản ánh của họ. Vì vậy, với tư cách là chủ thể có ý thức, học
sinh có khả năng phản ánh khách quan về nội dung và chủ quan về hình thức,
nghĩa là về nội dung học sinh có khả năng phản ánh đúng bản chất và những quy
luật của thế giới khách quan, còn về hình thức, mỗi học sinh có phương pháp phản
ánh riêng của mình.Quá trình học tập của học sinh cũng diễn ra theo công thức nổi
tiếng của V.I.Lênin: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy
trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý,
nhận thức hiện thực khách quan”. (Bút ký Triết học – NXB Sự thật, Hà Nội 1963.
Tr 189).
Hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học được sự lãnh đạo,
tổ chức, điều khiển của giáo viên với những điều kiện sư phạm nhất định nên nó có

tính độc đáo, thể hiện như sau: Quá trình nhận thức của học sinh không phải là quá
trình tìm ra cái mới cho nhân loại mà là tái tạo lại tri thức của nhân loại đã tạo ra;
trong một thời gian tương đối ngắn, học sinh có thể lĩnh hội một khối lượng tri
thức rất lớn một cách thuận lợi, vì vậy trong quá trình học tập, học sinh phải củng
cố, tập vận dụng, kiểm tra, đánh giá tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nhằm biến chúng
thành tài sản của riêng bản thân mình. Trong quá trình dạy học cần phải chú ý tới
tính đặc biệt đó trong quá trình nhận thức của học sinh để tránh sự đồng nhất quá
trình nhận thức chung của loài người với quá trình nhận thức của người học sinh.
Vậy, hai mặt hoạt động dạy và hoạt động học có quan hệ chặt chẽ với nhau,
kết quả của hoạt động này phụ thuộc vào hoạt động kia và ngược lại.
1.2.3. Khái niệm hoạt động dạy học tiếng Nhật
Căn cứ vào một số khái niệm về hoạt động dạy học, ta có nhiều cách hiểu
khác nhau về khái niệm hoạt động dạy học tiếng Nhật. Dựa trên quan niệm của tác
giả Hà Thế Ngữ, có thể hiểu: Hoạt động dạy học tiếng Nhật là một quá trình hoạt
17


động thống nhất giữa giáo viên dạy tiếng Nhật và học sinh học tiếng Nhật, trong
đó dưới tác động chủ đạo (tổ chức, điều khiển) của giáo viên dạy tiếng Nhật, học
sinh tự giác, tích cực tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động học tiếng Nhật nhằm thực
hiện tốt các nhiệm vụ dạy dạy học tiếng Nhật đã đặt ra.
Dựa trên quan niệm của tác giả Phạm Viết Vượng, đề tài xác định: dạy học
tiếng Nhật bao gồm hoạt động dạy và học tiếng Nhật của thầy và trò trong nhà
trường, với mục tiêu là giúp học sinh nắm vững hệ thống kiến thức về tiếng Nhật,
hình thành hệ thống kĩ năng, kỹ xảo và thái độ tích cực đối với học tập tiếng Nhật
và vận dụng tiếng Nhật vào cuộc sống.
Hoạt động dạy học tiếng Nhật cũng bao gồm hoạt động dạy tiếng Nhật và
hoạt động học tiếng Nhật. Cụ thể:
Hoạt động dạy của người giáo viên tiếng Nhật: Đó là hoạt động của giáo
viên dạy tiếng Nhật thực hiện việc lãnh đạo, tổ chức, điều khiển hoạt động nhận

thức-học tập của học sinh học tiếng Nhật, giúp học sinh tìm tòi, khám phá tri thức
về tiếng Nhật, qua đó thực hiện có hiệu quả việc học của bản thân về môn học
tiếng Nhật. Người giáo viên tiếng Nhật phải suy nghĩ để giúp học sinh tiếp nhận,
sử dụng những kiến thức từ đơn giản nhất về tiếng Nhật và kết hợp với những kinh
nghiệm đã có của mình thu thập được qua các phương tiện thông tin đại chúng,
qua cuộc sống để tạo nên sự hiểu biết của mình về tiếng Nhật cung cấp cho học
sinh.
Hoạt động học của người học tiếng Nhật: Hoạt động học tiếng Nhật của học
sinh là hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động
nhận thức- học tập của mình về tiếng Nhật nhằm thu nhận, xử lý và biến đổi thông
tin bên ngoài thành tri thức của bản thân, qua đó, người học thể hiện mình, tự biến
đổi mình, tự làm phong phú những giá trị của mình về một môn ngoại ngữ mới là
tiếng Nhật. Qua việc học tiếng Nhật, học sinh không chỉ hiểu biết về ngôn ngữ mà
còn hiểu thêm về đất nước, con người Nhật Bản. Từ đó biết học hỏi nghị lực, cách
sống của một dân tộc, hiểu hơn những kiến thức đã biết về tiếng Nhật qua các
phương tiện thông tin đại chúng mà học sinh đã tiếp cận. Hoạt động học không chỉ
học ở thầy cô trên lớp mà còn là học ở nhiều nguồn thông tin khác.
18


1.2.4. Quản lý hoạt động dạy học tiếng Nhật theo hướng XHHGD
1.2.4.1. Quản lý hoạt động dạy học- Quản lý hoạt động dạy học tiếng Nhật
Quản lý HĐDH chính là các biện pháp tác động của chủ thể quản lý đến tập thể
giáo viên, học sinh, … nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vốn có,
tạo động lực đẩy mạnh quá trình dạy học của nhà trường nhằm thực hiện mục tiêu
giáo dục của nhà trường theo yêu cầu trong năm học.
Quản lý hoạt động dạy học chính là sự tác động lên đội ngũ giáo viên, học
sinh qua việc thực thi các chức năng quản lý kế hoạch, tổ chức chỉ đạo, kiểm tra,
điều chỉnh nhằm thực hiện mục tốt nhất mục tiêu giáo dục. Trong đó, người thầy
đóng vai trò hướng dẫn, dẫn dắt học sinh đi tìm chân lý. Người học chủ động tiếp

cận chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng theo yêu cầu. Đặc biệt vai trò người học trên cơ
sở hướng dẫn của người giáo viên biết tự xây dựng kế hoạch, tự kiểm tra đánh giá
để đạt chuẩn với yêu cầu trong giáo dục.
Mục tiêu quản lí hoạt động dạy học: Đảm bảo thực hiện đầy đủ các mục tiêu,
kế hoạch đào tạo và nội dung, chương trình giảng dạy theo đúng tiến độ, thời gian
quy định; đảm bảo hoạt động dạy học đạt chất lượng cao.
Nội dung quản lý hoạt động dạy học gồm:
- Quản lý mục tiêu, nội dung dạy học: Quản lý việc xây dựng, quản lý việc
thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục, thái độ và phát triển trí tuệ cho học sinh,
việc chấp hành nội quy, quy chế về đào tạo, như: điều lệ, nội quy, chế độ…
- Quản lý chất lượng dạy học: Việc phát hiện kịp thời các nguyên nhân dẫn
đến tình trạng yếu kém, đề ra và tổ chức thực hiên các biện pháp khắc phục những
yếu kém nhằm đảm bảo được chất lượng dạy học và đạt được yêu cầu của xã hội
đối với dạy học.
Bên cạnh đó, các nhà trường còn chú trọng đến các nội dung quản lý như:
- Quản lý kiểm tra, đánh giá, xác nhận trình độ văn bằng, chứng chỉ.
- Quản lý hoạt động ngoài lớp, ngoài nhà trường và quản lý điều phối các
hoạt động của các tổ chức sư phạm trong nhà trường. Việc quản lý hoạt động dạy
học phải tuân thủ đầy đủ những nguyên tắc quản lý giáo dục nói chung và áp dụng
những nguyên tắc đó vào quá trình dạy học ở phạm vi một nhà trường nói riêng.
19


Vậy, quản lý hoạt động dạy học tiếng Nhật ở trường THCS là những tác
động có mục đích, hợp qui luật khách quan của hiệu trưởng nhằm điều khiển
quá trình dạy học tiếng Nhật của giáo viên và học sinh, thực hiện có hiệu quả
các mục tiêu dạy học tiếng Nhật đề ra là hình thành cho học sinh kiến thức kĩ
năng nghe, nói, đọc, viết bằng tiếng Nhật và có thái độ tích cực sử dụng tiếng
Nhật trong học tập, giao tiếp.
1.2.4.2. Khái niệm xã hội hóa giáo dục

Theo tác giả Lê Quốc Hùng trong “Xã hội hóa giáo dục nhìn từ góc độ pháp
luật” thì “ Xã hội hóa giáo dục là chính sách huy động mọi nguồn lực của nhân
dân, của các tổ chức kinh tế- xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục, đầu tư vào
hoạt động giáo dục trên cơ sở phù hợp với khả năng tài chính và trình độ chuyên
môn nhằm xây dựng xã hội học tập.” [5- Tr 17].
Xã hội hóa giáo dục được hiểu trên phương diện rộng là toàn thể nhân dân,
toàn thể xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục. Xã hội hóa giáo dục là làm cho
hoạt động giáo dục trở thành hoạt động chung của toàn xã hội. Trong điều 1 Nghị
định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999 của Chính phủ định nghĩa như sau: “ Xã
hội hóa hoạt động giáo dục là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân
dân, của toàn xã hội vào sự phát triển sự nghiệp giáo dục nhằm từng bước nâng
cao mức hưởng thụ về vật chất và tinh thần của nhân dân.”
Tuy nhiên, không nên hiểu xã hội hóa giáo dục một cách đơn giản dưới góc độ
huy động nguồn vốn đầu tư mà phải mở rộng ra nhiều góc độ, phạm vi khác nhau.
Trước hết, là dưới góc độ của người đi học. Xã hội hóa giáo dục ở đây có nghĩa
tạo điều kiện để làm sao cho người đi học được tham gia vào việc quản lý của
trường cũng như xây dựng chương trình học tập, giảng dạy.
Xã hội hóa giáo dục nhìn từ phía thầy giáo, nhà trường chính là nhằm mục tiêu
đảm bảo quyền tự do giảng dạy của họ hơn nữa.
Dưới góc độ phụ huynh, xã hội hóa giáo dục là nhằm đảm bảo cho họ quyền tự
do lựa chọn nơi học tập cho con em của họ.
Như vậy, xã hội hoá giáo dục không chỉ bó hẹp trong việc huy động nguồn vốn
đầu tư mà còn ở nhiều góc độ và phạm vi khác nhau, như: Tạo điều kiện cho người
20


đi học được tham gia vào quản lý của nhà trường cũng như chương trình học tập
và giảng dạy. Bằng hình thức đó là sự tham gia của các hội đồng đại diện cho học
sinh; họ kết hợp với nhà trường, giảng viên trong việc xét chọn, đánh giá, góp ý về
chương trình và phương pháp giảng dạy… Đối với giảng viên, xã hội hoá giáo dục

chính là việc nhà trường đảm bảo cho giảng viên quyền tự do giảng dạy của họ.
Từng trường, từng địa phương, từng thầy giáo, cô giáo, từng học sinh được quyền
có chương trình cũng như có cách thức giảng dạy khác nhau sao cho phù hợp và
đạt hiệu quả nhất. Góc độ của phụ huynh, học sinh: khi xã hội hoá giáo dục họ sẽ
đảm bảo cho họ về quyền chọn lựa môi trường học tập cho con em mình.
Xã hội hóa giáo dục là vận động toàn xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục,
nhằm phát huy truyền thống hiếu học và tiềm năng con người trong quá trình xây
dựng nền giáo dục hiện đại dưới sự quản lý của nhà nước để phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao mức hưởng thụ giáo dục
của nhân dân. “Xã hội hóa giáo dục trở thành một nguyên lý tổ chức giáo dục
trong xã hội mà tư tưởng cốt lõi của nguyên lý là coi cách mạng như một sự
nghiệp của quần chúng. Với một nước đang còn nhiều khó khăn về kinh tế- xã hội
thì xã hội hóa lại là một quan điểm phải được quán triệt sâu sắc, bởi chỉ tiếp cận
với chủ trương này thì mới huy động được tổng lực của xã hội vào sự nghiệp xây
dựng cả nước thành một xã hội học tập.” [4, tr47]
Trong văn kiện Hội nghị lần thứ tư ba chấp hành TW Đảng khóa VIII chỉ rõ
xã hội hóa giáo dục là “huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp
nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lí của nhà nước”.
Với khá đông người, xã hội hóa được hiểu đơn giản và phiến diện là huy động sự
đóng góp vật chất của dân vào sự nghiệp giáo dục. Nghị quyết 90-CP của Chính
phủ ngày 21/08/1997 đã xác định khái niệm xã hội hóa giáo dục như sau: “Xã hội
hóa giáo dục là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn
xã hội vào sự nghiệp phát triển giáo dục; là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của
các tầng lớp nhân dân và đảng bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các cơ
quan nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp đóng
tại địa hương và của từng người dân đối với việc tạo lập và cải thiện môi tường
21


kinh tế, xã hội lành mạnh, thuận lợi cho hoạt động giáo dục; là mở rộng các

nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lưc trong xã hội
(kể cả nước ngoài), phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực này.”[31]
Xã hội hóa giáo dục gồm 2 thành phần chính:
+ Xây dựng một xã hội học tập trong đó mọi người học tập thường xuyên, học tập
suốt đời để là việc tốt hơn, thu nhập cao hơn và có cuộc sống tốt đẹp hơn, làm cho
xã hội ta trở thành xã hội học tập.
+ Vận động toàn xã hội tham gia đóng góp cho giáo dục, tạo môi trường giáo dục
tốt lành, phối hợp chặt chẽ giữa giáo dục trong nhà trường với giáo dục gia đình
và ngoài xã hội, tăng cường trách nhiệm của các cấp đối với sự nghiệp giáo dục.
Về xây dựng một xã hội học tập, nhiều công trình nghiên cứu vấn đề này. Trong
giai đoạn hiện nay, khi sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông dang
rất mạnh mẽ, cong người phải có năng lực nhận thức, xử lý và chọn lựa những
thông tin có ích và từ đó biết vận dụng sáng tạo nó. Như vậy, giáo dục của xã hội
phải xây dựng cho con người năng lực đón nhận, xử lý, sản xuất , truyền bá, sử
dụng những thông tin để xã hội có những tri thức mới. Nền giáo dục phải hướng
vào đào tạo con người năng động, sáng tạo. Muốn vậy, bản thân họ phải học tập
suốt đời và mỗi quốc gia phải xây dựng một xã hội học tập. Theo Phạm Tất Dong,
trong “ Xây dựng mô hình xã hội học tập ở Việt Nam”, khái niệm “xã hội học tập”
được tiếp cận bằng nhiều phương pháp khác nhau. Trong đó, theo tiếp cận lịch sửxã hội thì “ Thực chất bên trong của mô hình xã hội học tập là xây dựng và phát
triển một phong trào học tập rộng rãi trong nhân dân” [4, tr45] và “Xét trên bình
diện toàn cầu, xã hội học tập là sản phẩm tất yếu của kinh tế tri thức” [4, tr47].
Xây dựng xã hội học tập để mọi người trong xã hội được học tập suốt đời.
1.2.4.3. Nội dung của XHHGD trong hoạt động dạy học:
Theo công trình nghiên cứu trong “Xã hội hóa giáo dục” của Viện Khoa học
giáo dục [8]: các quốc gia đều có nét chung là sự cần thiết có sự tham gia của toàn
xã hội vào phát triển giáo dục để mọi người được hưởng thụ cơ hội giáo dục và
tham gia dưới nhiều hình thức đóng góp cho sự phát triển giáo dục.

22



Công trình nghiên cứu đó cũng chỉ ra nội dung của công tác xã hội hóa giáo
dục gồm có: toàn xã hội, toàn dân tham gia vào các hoạt động giáo dục; đa dạng
hóa các hình thức nhà trường; đa dạng hóa các nguồn lực làm giáo dục; huy động
toàn xã hội xây dựng môi trường thuận lợi cho giáo dục; huy động xã hội tham gia
trực tiếp và gián tiếp vào quá trình giáo dục.
Việc thực hiện XHHGD đầy đủ phải thể hiện được hai chiều: Một chiều nhà
trường đón nhận các nguồn lực từ xã hội vào và chiều ngược lại: nhà trường phải
phát huy tác dụng của mình vào xã hội bằng cách nâng cao chất lượng giáo dục,
tạo nguồn lao động cho tương lai để phục vụ lại xã hội. Bên cạnh đó, nhà trường
phổ thông công lập cũng phát huy ảnh hưởng tích cực của mình đến xã hội qua
việc tổ chức các hoạt động xã hội cho học sinh tham gia. Hai mặt, hai chiều của
hoạt động XHHGD có mối quan hệ biện chứng: không thể tồn tại mặt này mà
không có mặt kia. Chúng còn được thực hiện đồng thời, không thể thực hiện quá
trình này rồi mới thực hiện quá trình kia. Có chiều huy động nguồn lực từ xã hội
cho giáo dục thì phải có chiều đóng góp của xã hội cho giáo dục.
Trong quản lý hoạt động dạy học, quan điểm này thể hiện rõ trong nội dung
sau:
• Huy động các lực lượng xã hội tham gia vào xây dựng môi trường cho hoạt
động dạy học ở nhà trường.
“ Các lực lượng xã hội, tùy khả năng, có thể tham gia vào hoạt động giáo
dục như: xây dựng kế hoạc giáo dục địa phương, góp ý vào nội dung và phương
pháp giáo dục ở một mức độ nhất định, tham gia quản lý giáo dục bao gồm tham
gia vào việc đánh giá giáo dục, đánh giá học sinh, tham gia tổ chức các hoạt động
ngoại khóa và ngoài nhà trường, có thể tham gia hướng dẫn lao đọng, đào tạo
nghề, thực nghiệm khoa học và sản xuất… Những hoạt động này mang tính
chuyên nghiệp, cần được tiến hành dưới sự chỉ đạo của cơ quan chuyên môn về
giáo dục và các nhà trường, các thầy cô giáo. Ở đây cũng chỉ ra vai trò và trách
nhiệm của giáo dục nhà trường, giáo viên trong XHH chương trình giáo dục”[tr57,
8].


23


Lực lượng xã hội đầu tiên tham gia vào hoạt động dạy học ở nhà trường là
gia đình. Gia đình đóng vai trò vô cùng quan trọng với lứa tuổi học sinh phổ thông,
gia đình là trường học đầu tiên và cha mẹ là thầy giáo đầu tiên. Gia đình sẽ quyết
định cho con học ở đâu, theo mô hình giáo dục nào. Trong hoạt động dạy học ở
nhà trường đều cần có sự hỗ trợ của gia đình để tạo điều kiện về vật chất, tinh thần
cho hoạt động dạy học trong nhà trường tiến hành.
Gia đình không chỉ ủng hộ về vật chất và tinh thần mà còn giúp hoạt động
dạy học đạt hiệu quả bằng việc kiểm tra, đôn đốc việc học của con em. Hoạt động
dạy học của nhà trường muốn phong phú, các hoạt động trải nghiệm của học sinh
chỉ có được khi được gia đình đồng thuận, ủng hộ, hỗ trợ.
Gia đình còn có thể tham gia vào góp ý chương trình, kế hoạch dạy học qua
các ý kiến, kiến nghị cho phù hợp thực tế học sinh ở từng môi trường cụ thể. Nhà
trường tiếp nhận các đóng góp đó để điều chỉnh kế hoạch hoạt động cho phù hợp
nếu thấy hợp lý. Học sinh, ngoài giờ học ở trường thì thông thường sẽ có nhiều
thời gian nhất ở gia đình, do đó giáo dục gia đình góp phần không nhỏ trong việc
giáo dục đạo đức và trí tuệ cho học sinh. Mọi hoạt động của nhà trường đều có sự
tham gia của cha mẹ học sinh qua Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp, trường. Thực
tế cho thấy, trường nào làm tốt công tác cha mẹ học sinh thì các phong trào của
trường đều được ủng hộ, đạt hiệu quả cao.
Gia đình tham gia cùng nhà trường tổ chức các hoạt động giáo dục, thực
hiện chương trình ngoại khóa, chương trình giáo dục dịp hè, giáo dục trên địa bàn
dan cư thông qua các hoạt động như tham quan dã ngoại, lễ hội, phong trào từ
thiện tình nguyện, tổ chức vui chơi, thể dục thể thao…Những hoạt động này sẽ
không thực hiện được nếu không có sự ủng hộ của gia đình. Hàng năm, hoạt động
dạy học ở nhà trường không chỉ có sự cung cấp từ nguồn kinh phí giáo dục do nhà
nước và một phần lớn còn nhờ vào sự đóng góp của gia đình học sinh, nhất là

trong giai đoạn đầu tư cho giáo dục của ta tuy đã được chú ý rất nhiều nhưng cũng
chưa thể bằng các nước có nền giáo dục tiên tiến và mức đầu tư cho giáo dục lớn.
Gia đình có những đóng góp không nhỏ cho hoạt động dạy học trong nhà trường.
Mặt khác, gia đình sẽ giám sát các hoạt động dạy học của nhà trường và có ý kiến.
24


×