Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư huyện võ nhai tỉnh thái nguyên (2001 2015)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.78 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

LA THỊ ĐẠI

CUỘC VẬN ĐỘNG XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
Ở KHU DÂN CƢ HUYỆN VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN
(2001 - 2015)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN

Thái Nguyên, năm 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

LA THỊ ĐẠI

CUỘC VẬN ĐỘNG XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
Ở KHU DÂN CƢ HUYỆN VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN
(2001 - 2015)

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.03.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Xuân Minh

Thái Nguyên, năm 2017




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài Luận văn Cuộc vận động xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên (2001-2015) là kết quả
nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Xuân Minh. Nội
dung đề tài Luận văn có sử dụng tài liệu, thông tin được đăng tải trên các báo,
tạp chí và một số cuốn sách (đã nêu ở phần Tài liệu tham khảo). Nếu sai tôi
hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tôi xin cam đoan đề tài Luận văn Cuộc vận động xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên (2001-2015) đã được chỉnh
sửa theo ý kến của Hội đồng.
4 năm 2017
uận văn

La Thị Đại

i


LỜI CẢM ƠN
ầy

- TS Nguyễn

Xuân Minh

,
Nam Khoa


– Đại học
văn.

Ủy ban Nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
tỉnh Thái Nguyên, Huyện ủy, Ủy ban Nhân dân huyện Võ Nhai, Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Nguyên, Phòng Văn hóa - Thông tin
huyện Võ Nhai, Chi cục Văn thư - Lưu trữ tỉnh Thái Nguyên, Chi cục
Thống kê huyện Võ Nhai,…

,

ể trong huyện Võ

Nhai, tỉ

4 năm 2017
uận văn
La Thị Đại

ii


MỤC LỤC
Trang

Trang bìa phụ
Lời cam đoan ......................................................................................................... i
Lời cảmơn ............................................................................................................. ii
Mục lục ................................................................................................................ iii
D


..................................................................................... iv

D

............................................................................................... v

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN 13
1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên và các nguồn tài nguyên thiên nhiên ......... 13
1.1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên .............................................................. 13
1.1.2. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên ............................................................ 15
1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội huyện Võ Nhai .................................................... 18
1.2.1. Đặc điểm kinh tế ....................................................................................... 18
1.2.2. Đặc điểm xã hội ........................................................................................ 20
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................... 30
Chƣơng 2. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CUỘC VẬN ĐỘNG XÂY
DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở KHU DÂN CƢHUYỆN VÕ NHAI
TỈNH THÁI NGUYÊN (2001-2015) ............................................................... 31
2.1. Chủ trương của Trung ương về cuộc vận động xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư và sự vận dụng của địa phương ............................................. 31
2.1.1. Khái niệm văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư............. 31
2.1.2. Chủ trương của Trung ương xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư ........ 36
2.1.3. Sự vận dụng của địa phương .................................................................... 44
2.2. Quá trình thực hiện cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư huyện Võ Nhai (2001 - 2015) ................................................................. 47
iii


Chƣơng 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CUỘC VẬN ĐỘNG XÂY DỰNG

ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở KHU DÂN CƢ HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH
THÁI NGUYÊN (2001 - 2015)......................................................................... 64
3.1. Thành tựu ..................................................................................................... 64
3.1.1. Nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, của cán bộ, đảng viên và
quần chúng nhân dân về cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư được nâng cao ......................................................................................... 64
3.1.2. Tinh thần đoàn kết, giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo,
chung sức xây dựng nông thôn mới được tăng cường ....................................... 66
3.1.3. Đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân các dân tộc ngày càng lành
mạnh, phong phú ................................................................................................ 69
3.1.4. Sự nghiệp giáo dục, công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác
dân số - kế hoạch hóa gia đình được đẩy mạnh và thu nhiều kết quả ................ 71
3.1.5. Môi trường cảnh quan từng bước được xây dựng sạch đẹp ..................... 74
3.1.6. Dân chủ từng bước được phát huy, ý thức chấp hành đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong nhân dân được
nâng cao; cơ sở chính trị được xây dựng vững mạnh ........................................ 76
3.1.7. Truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” được phát huy . 78
3.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.......................................................... 81
3.2.1. Hạn chế ..................................................................................................... 81
3.2.2. Nguyên nhân của hạn chế ......................................................................... 83
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................... 84
KẾT LUẬN........................................................................................................ 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................ 90
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 98

iv


BCĐ


Ban Chỉ đạo

BVHTT&DL

Bộ Văn hóa,Thể thao và Du lịch

CLB

Câu lạc bộ

LĐLĐ

Liên đoàn Lao động



Quyết định

TDTT

Thể dục thể thao

UBND

Ủy ban Nhân dân

UBTVQH

Ủy ban Thường vụ Quốc hội


iv


Trang

Bảng 1.1: Tình hình phân bố đất đai huyện Võ Nhai ......................................... 16
Bảng 1.2: Thống kê các tộc người ở huyện Võ Nhai – Thái Nguyên ................ 21
Bảng 1.3. Kết quả thực hiện các mục tiêu của cuộc vận động Toàn dân đoàn
kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư đến hết năm 1998 .......... 25
Bảng 2.1. Kết quả xếp loại Gia đình văn hóa, Khu dân cư văn hóa giai
đoạn 2009 – 2015 .............................................................................. 55
Bảng 2.2. Tổng hợp số liệu cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư từ năm 2009 đến năm 2015 .................. 56
Bảng 3.1: Số trường, giáo viên và học sinh phổ thông trên địa bàn huyện
Võ Nhai (từ năm 2005 đến năm 2015) ............................................. 72

v


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn hoá luôn là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần của xã hội, là
nền tảng tinh thần, mục tiêu phát triển kinh tế, thể hiện trình độ phát triển
chung của một đất nước, một thời đại. Đời sống văn hoá là một bộ phận cấu
thành của nền văn hóa dân tộc; có tác động tích cực đối với các lĩnh vực khác
của đời sống. Văn hóa có chức năng xây dựng con người, bồi dưỡng nguồn
nhân lực về trí tuệ, tâm hồn, tài năng, đạo đức, nhân cách, lối sống của cá nhân
và cộng đồng. Do đó, văn hóa là động lực cho sự phát triển kinh tế, xã hội.
Nhận thức rõ về vai trò và tầm quan trọng của văn hoá, ngay từ thời kì
vận động Cách mạng tháng Tám, Đảng ta đưa ra Đề cương văn hóa Việt Nam

(năm 1943). Trong văn kiện này, Đảng ta xác định rõ: Văn hoá là một trong
ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hoá). Sau ngày Cách mạng tháng Tám
năm 1945 thành công, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng tới công tác vận
động nhân dân xây dựng đời sống mới. Tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần I
(năm 1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Văn hoá phải soi đường cho
quốc dân đi”.
Với chức năng phối hợp hành động, nhằm phát huy sức mạnh đoàn kết
của toàn dân, từng bước nâng cao chất lượng của cuộc sống của mọi người dân,
tại Hội nghị lần thứ 2 (1995), Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
(khóa IV) đã quyết định mở Cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc
sống mới ở khu dân cư; đồng thời ban hành Thông tư số 04-TT/MTTW ngày
3/5/1995 để hướng dẫn cuộc vận động. Sau 4 năm thực hiện, đến tháng 1/1999,
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ban hành
Thông tư số 01-TT/MTTW hướng dẫn tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất
lượng Cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư, bổ sung và cụ thể hóa nội dung cho cuộc vận động.
Tại Hội nghị lần thứ 5 (16/7/1998), Ban Chấp hành Trung ương khóa
VIII ra Nghị quyết về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
1


đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết nêu rõ: “Văn hóa là một mặt trận; xây
dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có
ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng” [1, tr.58]. Vậy, xây dựng đời sống
văn hóa là một nhiệm vụ không kém phần quan trọng; đó cũng là một sự
nghiệp lâu dài, gian khổ, đòi hỏi phải có quyết tâm cao của toàn xã hội và của
cá nhân từng con người.
Để thống nhất trong tổ chức thực hiện, ngày 12/6/2001, Chính phủ và
Ban Thường trực Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam quyết định: Từ nay, trên địa bàn khu dân cư như: Thôn, ấp, bản, làng, sóc,

xóm, cụm dân cư khu phố, thống nhất cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây
dựng cuộc sống mới ở khu dân cư với phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa thành tên gọi mới là cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường,
thị trấn chủ trì.
Cuộc vận động xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư trong cả nước
nói chung, ở từng địa phương - trong đó có huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên
nói riêng, đang là một trong những vấn đề được Đảng, Nhà nước Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam hết sức quan tâm. Đây là một chủ trương quan trọng,
đúng đắn, mang ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp văn hoá, giáo dục, kinh
tế, chính trị của đất nước, tạo nên một lối sống mới, phù hợp với con người
mới, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
Nhận thức sâu sắc nội dung của cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, được sự chỉ đạo của UB MTTQ tỉnh Thái
Nguyên, UB MTTQ huyện Võ Nhai đã ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng
dẫn triển khai cuộc vận động trên toàn huyện.
Võ Nhai là huyện miền núi ở phía Đông Bắc của tỉnh Thái Nguyên, cách
trung tâm thành phố 40 km về phía đông bắc. Nhân dân các dân tộc huyện Võ

2


Nhai có truyền thống cách mạng, đoàn kết xây dựng quê hương. Trải qua hơn
30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Võ Nhai đã có nhiều chuyển
biến về tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội. Điều đó khẳng định đường lối đúng
đắn của Đảng, sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt phù hợp với hoàn cảnh địa
phương của Đảng bộ huyện Võ Nhai.
Cùng với cả tỉnh, công cuộc vận động xây dựng đời sống văn hoá ở khu
dân cư ở huyện Võ Nhai đã được triển khai. Trong điều kiện nền kinh tế đất

nước chuyển sang cơ chế thị trường, việc xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân
cư có nhiều thuận lợi, nhưng cũng có nhiều khó khăn. Huyện Võ Nhai đã quán
triệt và vận dụng chủ trương của cấp trên vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương.
Nhờ đó, cuộc vận động xây dựng đời sống văn hoá khu dân cư ở huyện Võ
Nhai đã đạt được nhiều kết quả.
Để góp phần đánh giá đúng quá trình thực hiện công cuộc xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư, làm rõ hơn truyền thống lịch sử, văn hóa của nhân
dân Võ Nhai trong quá khứ và hiện tại, từ đó giáo dục thế hệ trẻ biết trân trọng,
giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, tôi lựa chọn đề tài Cuộc vận động
xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên
(2001-2015) làm Luận văn Thạc sĩ Sử học.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề xây dựng đời sống văn hóa ở Việt Nam từ trước tới nay đã từng
được đề cập dưới nhiều góc độ và mức độ khác nhau.
Năm 1943, Đảng ta đề ra bản Đề cương văn hóa Việt Nam, trình bày nội
hàm chủ yếu của văn hóa bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật, nêu rõ
văn hoá là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hoá) mà ở đó, người
cộng sản phải hoạt động, phải lãnh đạo cách mạng chính trị và cách mạng văn
hóa. Đề cương đã nêu bật những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo cách mạng văn
hóa ở Việt Nam là phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được
cuộc cải tạo xã hội. Đề cương đã xác định nền văn hóa dân chủ mới của Việt

3


Nam phải được xây dựng theo ba tính chất cơ bản: Dân tộc hóa, đại chúng hóa
và khoa học hóa.
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, bên cạnh những
nhiệm vụ xây dựng kinh tế, xã hội, Nhà nước cách mạng và Hồ Chí Minh đã rất
quan tâm đến vấn đề xây dựng đời sống mới. Năm 1946, Ủy ban Vận động đời

sống mới Trung ương được thành lập. Một năm sau, ngày 20/3/1947, Chủ tịch
Hồ Chí Minh viết tác phẩm Đời sống mới và được Ủy ban Vận động đời sống
mới Trung ương cho xuất bản, coi đây là tài liệu tuyên truyền học tập của các
cấp chỉ đạo và của toàn dân. Khái niệm đời sống mới được Hồ Chí Minh nêu ra
bao gồm cả “đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới” ba nội dung ấy, có
quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đạo đức đóng vai trò chủ yếu.
Năm 1946 tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Tiếp đó, từ ngày 16
đến ngày 20/7/1948, Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ 2 được triệu tập, thông
qua bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Đảng
Trường Chinh trình bày. Bản báo cáo nêu rõ lập trường văn hóa Mácxít, tính
chất và nhiệm vụ văn hóa dân tộc dân chủ; phê phán những khuynh hướng và
quan điểm văn hóa thực dân, phong kiến, tư sản; xác định thái độ đúng đắn của
những người làm công tác văn hóa kháng chiến. Mọi hoạt động văn hóa trong
kháng chiến đều hướng theo phương châm “văn hóa hóa kháng chiến, kháng
chiến hóa văn hóa”.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (9/1960), Đảng ta đã chỉ ra sự
cần thiết phải tiến hành cách mạng tư tưởng và văn hóa đồng thời với cách
mạng kĩ thuật và cách mạng quan hệ sản xuất. Đại hội IV năm 1976 và Đại hội
V năm 1981 tiếp tục xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn
Đảng, toàn dân trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xây dựng nền văn
hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa, có hình thức dân tộc, có tính Đảng và nhân
dân. Các văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần VI, VII, VIII; các nghị

4


quyết của Bộ Chính trị và Hội nghị Trung ương không ngừng hoàn thiện các tư
tưởng văn hóa mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt cơ sở.
Năm 1986, Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII

của Đảng đã khẳng định vai trò to lớn của văn hóa trong việc xây dựng tình
cảm lành mạnh tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con
người. Toàn bộ các văn kiện Hội nghị Trung ương đều khẳng định văn hóa sẽ
phát triển theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong nhiều năm gần đây, một số công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học trong và ngoài nước về văn hóa đã được công bố:
Năm 1998, cuốn sách Một số giá trị văn hóa truyền thống và đời sống
văn hóa ở cơ sở nông thôn của tác giả Phạm Việt Long được xuất bản.Tác giả
đã phân tích và làm rõ một số giá trị văn hóa truyền thống và đời sống văn hóa
cơ sở ở nông thôn.
Năm 1999, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phối hợp với Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam xuất bản cuốn Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở
khu dân cư. Đây là cuốn sách tuyển chọn các bài báo cáo tiêu biểu, đại diện cho
địa bàn dân cư ở các vùng, miền, thành thị cũng như nông thôn, địa bàn có các dân
tộc, các tôn giáo…để bồi dưỡng điển hình và nhân rộng điển hình.
Năm 1999, Nhà xuất bản Giáo dục phát hành cuốn sách: Cơ sở Văn hóa Việt
Nam của Trần Ngọc Thêm giúp chúng ta có cái nhìn bao quát về tiến trình phát
triển của văn hóa Việt Nam, bao gồm các lớp văn hóa và các giai đoạn văn hóa.
Năm 2001, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn cùng Đại học Quốc
gia Hà Nội công bố một số bản báo cáo khoa học tại Hội thảo Quốc tế với chủ
đề: Việt Nam trong thế kỉ XX được tổ chức tại thủ đô Hà Nội (19 - 21/9/2000).
Đáng chú ý có một số báo cáo sau đây:
Văn hóa và phát triển: Khuôn khổ UNESCO với bối cảnh những thành
tựu của Việt Nam trong quá khứ và tiềm năng tương lai của Rosamria Durand –
Đại diện UNESCO tại Việt Nam. Trong báo cáo tác giả trình bày rõ 3 vấn đề;

5


1- Khuôn khổ của UNESCO với văn hóa và phát triển; 2- Những thành tựu của

Việt Nam; 3- Tiềm năng của Việt Nam trong tương lai.
Củng cố các nền văn hóa truyền thống của Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hóa của TS. Frank Proschan, Trường Đại học Indiana, Hoa Kì. Tác
giả đề cập nhiều vấn đề về văn hóa; trong đó nhấn mạnh vấn đề văn hóa truyền
thống của Việt Nam trước những biến đổi văn hóa đang diễn ra với tốc độ
chóng mặt. "Trong bối cảnh này, rất cần xác định xem các cơ quan văn hóa
của Việt Nam đang được áp dụng có đủ để đối mặt với những thách thức mới
của xu hướng toàn cầu hóa đang tăng lên hay không...", để "đóng góp vào mục
tiêu chung là xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" [67,
tr.272].
Văn hóa truyền thống và hiện đại hóa xã hội ở Việt Nam trong thế kỉ XX
của TSKH Lương Việt Hải, Viện Triết học. Tác giả chỉ rõ: "Các giá trị của
truyền thống văn hóa là yếu tố cấu thành quan trọng của động lực hiện đại hóa
xã hội ở Việt Nam trong thế kỉ vừa qua cũng như trong những thập kỉ tới của
thế kỉ XXI" [68, tr.304].
Tác động của giao lưu văn hóa đối với sự phát triển của con người Việt
Nam trong thế kỉ XX của PGS.TS Đỗ Long, Viện Tâm lí học. Trên cơ sở trình
bày các vấn đề: Giao lưu và sự phát triển của con người; Giao lưu văn hóa và
sự chuyển biến từ con người nông dân đến con người chiến sĩ; Con người Việt
Nam bước vào thế kỉ XXI trong bối cảnh giao lưu văn hóa và phát triển thông
tin, tác giả phân tích sự chuyển biến trong đời sống văn hóa từ sau Cách mạng
tháng Tám 1945. Tác giả nêu rõ: "Phong trào xây dựng Đời sống mới đề ra
nhiệm vụ trước hết là cải tạo đời sống văn hóa cũ, khẳng định đời sống văn
hóa mới trong các tầng lớp quần chúng nhân dân, chống hủ tục, xây mĩ tục,
chống mê tín dị đoan, cờ bạc, rượu chè, xây nếp sống vệ sinh, văn minh, khoa
học, chống hành vi xâm phạm, bạo lực đối với con người, trước hết là đối với

6



phụ nữ, xây quan hệ ứng xử tốt đẹp giữa người với người từ trong gia đình,
làng xã, phố phường đến toàn xã hội" [68, tr.421], v.v...
Các Luận văn Thạc sĩ Công cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên (2001-2013) của học viên
Nguyễn Thu Hằng (2015). Công cuộc xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư
huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên (2001-2013) của học viên Phùng Trung
Kiên (2016) đã trình bày một cách khái quát quá trình thực hiện và những thành
tựu đạt được của cuộc vận động trong hai huyện nói riêng và tỉnh Thái Nguyên
nói chung.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu về cuộc
vận động xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư huyện Võ Nhai tỉnh Thái
Nguyên. Vấn đề này chỉ được đề cập rất khái quát trong một số cuốn sách và
văn kiện của Đảng bộ địa phương; trong đó đáng chú ý là cuốn sách Lịch sử
Đảng bộ huyện Võ Nhai tập II (1955 – 2000), xuất bản năm 2004. Trong
chương 4 và 5 của cuốn sách, các tác giả đã dựng lại quá trình xây dựng,
trưởng thành và kết quả lãnh đạo của Đảng bộ trên các lĩnh vực kinh tế - văn
hóa - an ninh - quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự trưởng thành của
Đảng bộ Võ Nhai và những bài học kinh nghiệm.
Mặc dù chưa có nhiều, nhưng tất cả các công trình nghiên cứu, tài liệu về
văn hóa đã được công bố là những nguồn tài liệu quý giá giúp tôi đi sâu nghiên
cứu để hoàn thành Luận văn Cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên (2001 - 2015).
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu quá trình thực hiện Cuộc vận động xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cƣ huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên
(2001- 2015).
3.2. Phạm vi nghiên cứu

7



- Phạm vi nội dung: Luận văn làm rõ khái niệm đời sống văn hóa ở khu
dân cư; quá trình thực hiện cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên (vấn đề đoàn kết giúp nhau phát triển
kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần, giáo dục – đào tạo, bảo vệ môi
trường…).
- Về không gian: Huyện Võ Nhai (Thái Nguyên) với diện tích tự
nhiên 83.950,24 ha (845,1 km2) có 15 đơn vị hành chính gồm 14 xã, 1 thị
trấn và 174 xóm, bản.
- Về thời gian: Luận văn tập trung làm rõ vấn đề nghiên cứu từ năm
2001, khi bắt đầu triển khai cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư trên cơ sở thống nhất cuộc vận động Toàn dân đoàn
kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư và phong trào Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa, đến năm 2015. Tuy nhiên, để làm nổi bật những thành
tựu của huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên trong cuộc vận động xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư, Luận văn đề cập tình hình kinh tế, xã hội của huyện
những năm trước đó.
3.3. Nhiệm vụ của đề tài
- Khái quát về huyện Võ Nhai: Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, tài nguyên
thiên nhiên, đặc điểm kinh tế, xã hội huyện Võ Nhai trước năm 2001.
- Nghiên cứu quá trình thực hiện cuộc vận động xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên (2001-2015), rút ra một số
nhận xét về thành tựu, hạn chế của cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên (2001-2015).
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đời sống văn hóa ở
khu dân cư huyện Võ Nhai.
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã tham khảo các nguồn tài liệu sau:


8


Các văn kiện của Đảng, Chính phủ, các bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, của Huyện ủy
Võ Nhai về vấn đề nghiên cứu.
Các kế hoạch, báo cáo tổng kết, báo cáo sơ kết, báo cáo thường niên,
báo cáo theo từng giai đoạn Cuộc vận động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh
Thái Nguyên, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện Võ Nhai, Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch tỉnh Thái Nguyên, Phòng Văn hóa-Thông tin huyện Võ Nhai, Chi
cục Thống kê huyện Võ Nhai.
Các sách và bài báo khoa học, các bài viết đăng trên các báo, tạp chí có
liên quan đến đề tài.
Tài liệu khảo sát thực tế tại huyện Võ Nhai.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp lịch sử và phương
pháp logic là chủ yếu. Bằng phương pháp lịch sử, dựa trên những nguồn tư liệu
chọn lọc, trình bày hệ thống quá trình xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư
huyện Võ Nhai. Trên cơ sở phân tích các sự kiện, hiện tượng lịch sử, tác giả
đưa ra những nhận xét, đánh giá thành tựu và hạn chế của cuộc vận động.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp khác như: thống kê, so
sánh, điều tra, điền dã, phân tích, phỏng vấn trực tiếp để làm sáng tỏ nội dung
nghiên cứu của đề tài.
5. Đóng góp của Luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về cuộc vận động xây dựng
đời sống văn hóa ở khu dân cư huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần tổng kết, đánh giá, khẳng
định tính đúng đắn của công cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư huyện Võ Nhai nói riêng và cả nước nói chung. Trên cơ sở nhận định

những mặt hạn chế, thiếu sót, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở địa phương trong
những năm tiếp theo.
9


Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu giảng dạy lịch sử địa phương.
6. Cấu trúc Luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết Luận, Phụ Lục và Tài liệu tham khảo, Luận
văn gồm 3 chương nội dung:
Chƣơng 1: Khái quát về huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên.
Chƣơng 2: Quá trình thực hiện cuộc vận động xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên (2001-2015).
Chƣơng 3: Một số nhận xét về cuộc vận động xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên (2001-2015).

10


BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH THÁI NGUYÊN

(Nguồn: Tác giả biên vẽ)

11


(Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Thái Nguyên)

12



Chƣơng 1

KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN
1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên và các nguồn tài nguyên thiên nhiên
1.1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên
Vùng đất Võ Nhai thời thuộc Đường có tên là huyện Vũ Lễ; thời Lý,
Trần gọi là châu Vạn Nhai. Thời thuộc Minh (đầu thế kỉ XV), châu Vạn Nhai
đổithành châu Vũ Lễ. Đầu thời nhà Lê (đời Lê Thuận Thiên), châu Vũ Lễ đổi
thành huyện Võ Nhai, thuộc phủ Phú Bình do phiên thần họ Ma nối đời cai
quản. Đến thời Nguyễn Gia Long (từ năm 1802) vẫn theo như thế.
Theo Sách Đại Nam nhất thống chí: Huyện Võ Nhai cách phủ 82 dặm về
phía bắc, đông - tây cách nhau 124 dặm, nam - bắc cách nhau 152 dặm, phía
đông đến địa giới huyện Hữu Lũng tỉnh Bắc Ninh 35 dặm, phía tây đến địa giới
huyện Cảm Hoá 89 dặm, phía bắc đến địa giới huyện Văn Quảng tỉnh Lạng
Sơn 70 dặm [19, tr.158].
Cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp đánh chiếm các tỉnh miền núi phía Bắc.
Năm 1894, chính quyền thực dân Pháp cắt các tổng Bắc Sơn, Nhất Thế, Quỳnh
Sơn, Tân Lưu, Vĩnh Yên ra khỏi huyện Võ Nhai để lập thành châu Bắc Sơn,
thuộc tỉnh Lạng Sơn. Huyện Võ Nhai được đổi thành châu Võ Nhai
Ngày 25/3/1948, Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
kí Sắc lệnh số 148/SL bỏ các đơn vị hành chính cấp phủ, châu, quận, tổng.
Châu Võ Nhai đổi thành huyện Võ Nhai gồm 17 xã. Ngày nay, huyện Võ Nhai
gồm 14 xã (Nghinh Tường, Sảng Mộc, Vũ Chấn, Thượng Nung, Thần Sa, Cúc
Đường, Lâu Thựơng, La Hiên, Phú Thượng, Tràng Xá, Liên Minh, Phương
Giao, Dân Tiến, Bình Long) và 1 thị trấn (Đình Cả) với tổng số 174 xóm bản
và 2 tổ dân phố.
Võ Nhai là một huyện miền núi thuộc vùng đặc biệt khó khăn, nằm ở
khu vực Đông Bắc tỉnh Thái Nguyên; có toạ độ địa lí 21036' đến 21056' vĩ Bắc
và 105045' đến 106017' kinh Đông. Về phía bắc, Võ Nhai giáp huyện Na Rì

(Bắc Kạn), phía đông và đông bắc giáp huyện Bắc Sơn (Lạng Sơn), phía nam

13


và tây nam giáp huyện Đồng Hỷ (Thái Nguyên) và Yên Thế (Bắc Giang), phía
tây giáp 2 huyện Đồng Hỷ và Phú Lương (Thái Nguyên). Tổng diện tích tự
nhiên của toàn huyện theo địa giới hành chính là 845,1 km2. Huyện lị đặt tại thị
trấn Đình Cả, cách thành phố Thái Nguyên khoảng 40km về phía đông bắc,
cách thị trấn Đồng Đăng - Lạng Sơn khoảng 87km về phía tây.
Điểm nổi bật của địa hình Võ Nhai là núi cao, dãy Ngân Sơn chạy từ Bắc
Kạn theo hướng đông bắc - tây nam và dãy Bắc Sơn chạy theo hướng tây bắc đông nam. Vì vậy, huyện có địa hình phức tạp. Vùng núi dốc và núi đá vôi
chiếm 92% diện tích tự nhiên. Núi đá vôi tập trung ở khu vực phía Bắc huyện,
còn xuống phía nam, độ cao giảm dần. Khu vực phía Nam huyện phổ biến là
những núi đất thấp, đặc trưng của vùng trung du.
Với địa hình chung là núi dốc và núi đá vôi nên toàn huyện có độ cao
trung bình so với mặt nước biển từ 100m đến 800m. Nhìn chung, những vùng
đất bằng phẳng thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp chiếm tỉ lệ nhỏ, tập trung
chủ yếu theo các khe suối, dọc các triền và thung lũng của vùng núi đá vôi. Căn
cứ vào địa hình, địa mạo và đất đai, địa hình huyện Võ Nhai được chia làm 3
tiểu vùng như sau:
Tiểu vùng I: Đây là vùng thấp nhất của huyện, có địa hình tương đối
bằng phẳng hơn các vùng còn lại, được tạo nên bởi những thung lũng chạy dọc
theo Quốc lộ 1B, hai bên là hai dãy núi có độ dốc lớn. Vùng này thuận lợi trong
việc trồng cây ăn quả, cây lương thực và phát triển nông nghiệp, bao gồm các
xã: La Hiên, Lâu Thượng, Phú Thượng và thị trấn Đình Cả.
Tiểu vùng II: Bao gồm 5 xã nằm ở phía Nam huyện: Tràng Xá, Liên
Minh, Phương Giao, Dân Tiến và Bình Long; chủ yếu là đồi núi bát úp, bị chia
cắt bởi nhiều khe, suối, xen kẽ núi đá vôi. Các bãi soi bằng phẳng phù hợp với
phát triển cây công nghiệp, cây lương thực và chăn nuôi đại gia súc.

Tiểu vùng III: Bao gồm 6 xã vùng cao: Nghinh Tường, Sảng Mộc,
Thượng Nung, Vũ Chấn, Thần Sa và Cúc Đường. Diện tích vùng này phần lớn
bị chiếm bởi những dãy núi đá vôi hùng vĩ, nhiều khe suối, cảnh đẹp tự nhiên.

14


Vùng này thuận lợi hơn cho việc phát triển chăn nuôi đại gia súc, lâm nghiệp,
du lịch sinh thái và di tích lịch sử, văn hoá.
Khí hậu Võ Nhai mang đặc điểm chung của khí hậu miền núi Bắc Bộ,
nhưng có phần khắc nghiệt hơn. Thời trước, Võ Nhai nổi tiếng là nơi rừng
thiêng nước độc. Sách Đồng Khánh địa dư chí, viết: “Trong huyện rừng núi
liên tiếp, khí núi nặng nề. Khí trời nhiều lạnh rét. Khí đất ẩm thấp. Cuối xuân
trời vẫn còn lạnh, mùa hè thì chỉ hơi nóng, đầu thu đã bắt đầu lạnh, đến mùa
đông thì rét đậm. Hằng ngày khoảng trước giờ Tỵ, sau giờ Thân thì không nhìn
thấy núi” [66; tr.984]. Một năm có 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa
mưa thường diễn ra từ tháng 4 đến tháng 10; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3
năm sau. Lượng mưa trung bình hằng năm 1.941,5mm và phân bố không đều,
chủ yếu tập trung vào các tháng mùa mưa, khoảng 1.765mm (chiếm 91% lượng
mưa cả năm). Lượng mưa lớn nhất thường diễn ra vào tháng 8, trung bình
khoảng 372,2mm [66, tr.985]. Mưa lớn và tập trung gây xói mòn đất, lũ lụt ảnh
hưởng xấu tới cây trồng, độ phì nhiêu của đất và các công trình thuỷ lợi, đặc biệt
là ở tiểu khu III và I, nơi có địa hình phức tạp, độ dốc cao và bị chia cắt nhiều.
Võ Nhai nằm trong vùng lạnh nhất của tỉnh Thái Nguyên. Nhiệt độ trung
bình năm trên 22,40C. Tháng nóng nhất là tháng 7 có nhiệt độ trung bình là
27,80C. Tháng lạnh nhất là tháng 1 có nhiệt độ trung bình là 14,90C. Biên độ
ngày và đêm là 70C. Chế độ nhiệt và địa hình như trên đã tạo cho Võ Nhai lợi
thế để phát triển các loại cây trồng nhiệt đới, á nhiệt đới như: hồng, táo, na,
cam, quýt, vải, nhãn,…
Tuy có phần khắc nghiệt nhưng nhìn chung khí hậu Võ Nhai vẫn tương

đối thuận lợi cho phát triển, sản xuất nông, lâm nghiệp.
1.1.2. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên
Với địa hình đa dạng và có phần phức tạp đã tạo cho vùng đất Võ Nhai
có nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên (du lịch, đất, nước, khoáng sản…)
phong phú giúp cho cư dân nơi đây khai thác, sử dụng tạo ra nét đặc trưng
riêng của đồng bào dân tộc vùng cao.
15


Tài nguyên du lịch: Võ Nhai có những thắng cảnh nổi tiếng như: Quần
thể hang động Phượng Hoàng, suối Mỏ Gà, hang Nà Kháo, hang Huyền. Ngoài
ra, Võ Nhai còn có những di tích lịch sử, văn hoá như mái đá Ngườm,
rừng Khuôn Mánh - nơi thành lập Trung đội Cứu quốc quân II…
Tài nguyên đất: Do địa hình chủ yếu là đồi núi đá vôi nên diện tích đất
cho nông nghiệp ở huyện Võ Nhai không nhiều, chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ. Với
diện tích đất tự nhiên là 845,1 km2, Võ Nhai có 561,27 km2 đất lâm nghiệp,
77,24 km2 đất nông nghiệp, 1,55 km2 đất nuôi trồng thuỷ sản, 22,13 km2 đất phi
nông nghiệp và 182,92 km2 đất chưa sử dụng.
Bảng 1.1: Tình hình phân bố đất đai huyện Võ Nhai
Loại đất
Diện tích(km2)
Tỉ lệ %

845,1

Đất
nông
nghiệp
77,24


100

9,14

Tổng số

Đất
Đất nuôi
lâm
trồng
nghiệp thủy sản
561,26
1,55
66,42

0,18

Đất phi
Đất
nông chƣa sử
nghiệp
dụng
2,13
182,92
2,62

21,64
Nguồn [10]

Qua bảng thống kê có thể thấy, dù là một huyện có diện tích rộng lớn

nhất tỉnh Thái Nguyên nhưng tiềm năng đất đai ở Võ Nhai không lớn, lại bị
chia cắt mạnh bởi những dãy núi đá vôi. Đất dành cho phát triển đô thị và giao
thông trở nên khan hiếm. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sự phân bố lại dân
cư, khu cụm công nghiệp trong tương lai. Do địa hình chủ yếu là đồi núi nên
đất đai dành cho phát triển sản xuất nông nghiệp ở Võ Nhai ít, phần lớn không
có độ phì nhiêu và đang trên đà bị suy thoái mạnh.
Tài nguyên nước: Võ Nhai có mật độ sông suối khá lớn, nhưng phân bố
không đều và không có nhiều sông lớn. Sông Nghinh Tường là sông lớn nhất,
chảy qua khu vực phía Bắc huyện, là nhánh của sông Cầu, bắt nguồn từ dãy
vòng cung Bắc Sơn, có chiều dài 46km và lần lượt chảy qua các xã: Nghinh
Tường, Sảng Mộc, Thượng Nung, Thần Sa và đổ ra sông Cầu. Sông Rong chảy
qua khu vực phía Nam huyện là nhánh của sông Thương. Dòng sông này bắt
nguồn từ xã Phú Thượng, chảy qua thị trấn Đình Cả, các xã Tràng Xá, Dân Tiến,

16


Bình Long và chảy vào địa phận tỉnh Bắc Giang. Hầu hết các sông trên địa bàn
huyện Võ Nhai đều hẹp và dốc nên trong mùa mưa thường xảy ra lũ lụt, xói mòn
và sạt lở đất, gây nhiều thiệt hại cho sản xuất và đời sống, sinh hoạt của nhân dân
trong huyện. Cùng với sông, suối, trên địa bàn huyện có 11 hồ chứa nhỏ, 50 phai
đập kiên cố, 12 trạm bơm và 122 kênh mương do Nhà nước hỗ trợ và nhân dân
đóng góp xây dựng, tạo nên nguồn nước mặt khá phong phú.
Ngoài nguồn nước mặt từ sông, suối, ao, hồ, huyện Võ Nhai còn có nguồn
nước ngầm từ các hang động trong núi đá vôi. Những năm gần đây do nạn chặt
phá rừng gần như không được kiểm soát làm nguồn tài nguyên nước của huyện
đang bị suy thoái, lũ lụt xảy ra nhanh và nhiều hơn, có cả lũ ống và lũ quét.
Tài nguyên rừng: Do diện tích đất lâm nghiệp lớn, khí hậu nhiệt đới nên
tài nguyên rừng là thế mạnh kinh tế ở Võ Nhai. Theo sách Đại Nam nhất thống
chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, ở Võ Nhai Lụa thổ, trừu thổ. Cỏ tranh, lá

cọ, các loại mây, hậu phác sa nhân, tre nứa, tre gai, tre hoa (tức ban trúc có vân
tròn, hình trôn ốc, rất cứng rắn, người ta dùng làm đòn càng) cũng có, gỗ
nghiến, gỗ táu,gỗ lim, gỗ sến, gỗ đinh, gỗ xoan. Chè nam, củ nâu, nhung, hươu,
nai, mật gấu, sáp ong, chim công đều có [61, tr.181- 182].
Dù diện tích đất lâm nghiệp lớn nhưng do nạn chặt phá rừng không được
kiểm soát nên tài nguyên rừng ở Võ Nhai còn lại rất nghèo, những loài thú quý
bị săn bắt và khan hiếm dần. Hiện nay, diện tích rừng phần lớn là rừng non mới
được phục hồi, mới trồng, trữ lượng và độ che phủ còn thấp. Những năm gần
đây, với sự hỗ trợ của Nhà nước và sự tích cực của người dân, tài nguyên rừng
đã và đang được phục hồi. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao
đời sống vật chất của đồng bào các dân tộc thiểu số, đặc biệt tại khu vực 6 xã
khu vực phía Bắc huyện.
Tài nguyên khoáng sản: Võ Nhai nằm trong vùng sinh khoáng Đông Bắc
- Việt Nam thuộc vành đai sinh khoáng Tây Thái Bình Dương. Do vậy, huyện có
nguồn tài nguyên khá phong phú về chủng loại và trữ lượng. Sử cũ chép rằng:
Huyện Võ Nhai có mỏ vàng Kim Hỷ (nay thuộc huyện Na Rì- Bắc Kạn), mỗi năm

17


×