Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN ÁN LỆ TRONG HỆ THỐNG NGUỒN PHÁP LUẬT THÀNH VĂN CỦA CÁC HỆ THỐNG PHÁP LUẬT THUỘC DÒNG HỌ CIVIL LAW VÀ LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.97 KB, 20 trang )

BÀI TẬP CÁ NHÂN
MÔN LUẬT SO SÁNH
ĐỀ TÀI : ANH/CHỊ HÃY BÌNH LUẬN VỀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN ÁN
LỆ TRONG HỆ THỐNG NGUỒN PHÁP LUẬT THÀNH VĂN CỦA CÁC HỆ
THỐNG PHÁP LUẬT THUỘC DÒNG HỌ CIVIL LAW VÀ LIÊN HỆ VỚI VIỆT
NAM.
MỤC LỤC:
Trang:

I.LỜI NÓI ĐẦU:
Có thế nói, cộng đồng quốc tế hiện nay với hàng trăm quốc gia, mỗi quốc gia
đều xây dựng cho mình một hệ thống pháp luật- điều chỉnh hoạt động của cư dân
và các mối quan hệ của quốc gia đó với bên ngoài. Những nhà nghiên cứu pháp
luật đã phân chia các hệ thống này thành các “dòng họ” pháp luật khác nhau trên
thế giới. Trong số đó, Civil law là dòng họ pháp luật lớn và điển hình với những
điểm đặc thù, tạo nên những điểm đặc trưng pháp lý riêng biệt.
Nếu như Common law ít nhiều chịu ảnh hưởng bởi pháp luật Anh và thừa
nhận án lệ như pháp luật chính thống, thì Civil law lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của
luật La Mã với trình độ hệ thống hóa và pháp điển hóa cao. Nói như vậy không có
nghĩa là Civil law chỉ coi trọng pháp luật thành văn. Trong hệ thống nguồn luật của
các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ này, ở những giai đoạn khác nhau,vẫn thừa
nhận “án lệ” như là cơ sở để thẩm phán và những người có thẩm quyền áp dụng để
đưa ra pháp quyết của mình. Lịch sử áp dụng án lệ ở các hệ thống dân ở Châu Âu
(civil law) đã trải qua các thời kỳ từ chỗ thừa nhận án lệ đến thời kỳ vai trò của án
lệ bị từ bỏ trong xu hướng pháp điển hóa pháp luật ở thế kỷ XIX. Nhưng trong suốt
thế kỷ XX đến nay, vai trò của án lệ ngày càng được đề cao.

1


Nhận thức được tầm quan trọng này, bài tiểu luận sẽ đi sâu vào “ Bình luận


các xu hướng phát triển án lệ trong hệ thống pháp luật thành văn thuộc dòng
họ pháp luật civil law”, để thấy được án lệ đã có một lịch sử tồn tại và phát triển
như thế nào trong hệ thống pháp luật thành văn của các nước Pháp, Đức và Châu
Âu. Từ đó có liên hệ đối với thực tiễn ở Việt Nam.
Bài viết chắc hẳn còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự góp ý của thầy cô và
bạn đọc để bài viết ngày càng được hoàn thiện hơn!

II.NỘI DUNG:
2.1.KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ÁN LỆ:
2.1.1.Khái niệm án lệ:
Trong tiếng Anh, án lệ là "precedent”, thuật ngữ này phát sinh từ hệ thống
thông luật (common law) với hệ thống quan điểm lý luận pháp lý đặc trưng.Theo
đó, ở những hệ thống pháp luật thuộc các dòng họ khác nhau, quan điểm về án lệ
cũng ít nhiều có sự khác biệt.
•Quan điểm của các nhà luật học theo hệ thống pháp luật luật Anh -Mỹ
(Common law), thì án lệ được hiểu theo hai nghĩa1:
i)Theo nghĩa hẹp, án lệ bao gồm toàn bộ các quyết định, bản án được tuyên bố
bởi Tòa án và có giá trị như nguồn luật, đưa ra những nguyên tắc, nền tảng áp dụng
cho các vụ việc xảy ra tương tự sau này.

ThS Lê Văn Sua-Án lệ và vai trò của án lệ trong hoạt động xét xử của Tòa án.
/>1

2


ii)Theo nghĩa rộng, án lệ là nguyên tắc bắt buộc đòi hỏi Thẩm phán trong hệ
thống các cơ quan Toà án khi xét xử một vụ việc cụ thể cần phải căn cứ ngay vào
các bản án, các vụ việc trước đó.
• Với những nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (hệ thống pháp luật

Dân sự - Civil Law), tiêu biểu một số nước như Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản,…:
Án lệ được xem như một cách giải thích pháp luật hay tạo ra các giải pháp
pháp luật2. Ở những quốc gia này, án lệ được tạo ra để khắc phục những hạn chế
của luật thành văn khi giải thích các quy định của luật thành văn không rõ ràng hay
khi có những vấn đề chưa được luật thành văn quy định.
• Ở một số nước khác, khái niệm án lệ (Case Law) còn được gọi là tiền lệ pháp3
(Precedent) là một trong những nguồn luật chính thức và quan trọng trong hệ thống
pháp luật của quốc gia và được áp dụng rộng rãi. Hay riêng như ở Việt Nam, cũng
có nhiều quan điểm khác nhau khi trình bày về khái niệm án lệ. 4
Như vậy,qua quá trình tìm hiểu quan điểm của các nước trên thế giới, có thể
hiểu một cách khái quát: “Án lệ là bản án, quyết định của Tòa án chứa đựng sự
2 Trương Hòa Bình.Bí thư TW Đảng, Chánh án TANDTC-Thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển

án lệ, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án.
/>p_page_id=1&p_cateid=1751909&item_id=111127517&article_details=1
3 Tuy

nhiên, cũng có rất nhiều quan điểm cho rằng “án lệ “ và “tiền lệ pháp” là hai khái niệm
độc lập.
Từ điển tiếng Việt không định nghĩa án lệ nhưng có giải thích về từ “án” và từ “lệ”; từ "án"
có nghĩa "vụ phạm pháp hoặc tranh chấp quyền lợi cần được xét xử trước Tòa án hoặc quyết
định của Tòa xét xử vụ án", còn từ "lệ" được hiểu "Điều quy định có từ lâu đã trở thành nề
nếp, mọi người cứ theo thế mà làm hoặc điều đó được lặp đi lặp lại nhiều lần, tự nhiên đã
thành thói quen".
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì án lệ được hiểu là: “quyết định hoặc bản án của tòa
cấp trên có giá trị bắt buộc đối với tòa án cấp dưới; tòa phá án cũng phải tôn trọng quyết
định trước đó của bản thân mình ”.
Theo Từ điển Luật học thì án lệ được hiểu là: “Bản án đã tuyên hoặc một sự giải thích, áp
dụng pháp luật được coi như một tiền lệ làm cơ sở để các Thẩm phán sau đó có thể áp dụng
trong các trường hợp tương tự”.

4

3


giải thích, áp dụng pháp luật được Tòa án vận dụng giải quyết vụ án có nội dung
tương tự”.
2.1.2.Một số giá trị cơ bản cũng như hạn chế của nguồn luật án lệ:
• Thứ nhất, án lệ mang tính thực tiễn cao :
Nói cách khác án lệ được xây dựng dựa vào thực tiễn, tập trung vào việc giải
quyết những vấn đề cụ thể của đời sống thực tế chứ không phải giải quyết vấn đề
bằng các lý thuyết chung chung trừu tượng.
• Thứ hai, án lệ có khả năng khắc phục những lỗ hổng pháp luật một cách
nhanh chóng và kịp thời:
Đời sống xã hội luôn vận động, phát triển còn các quy phạm trong các văn bản
pháp luật mang tính ổn định, dẫn đến hệ quả là luật pháp có thể lạc hậu hay có thể
thiếu hụt để giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Để khắc phục tình trạng này, các
luật gia dân luật đã tìm đến những nguồn bổ trợ khác như áp dụng tập quán hoặc sử
dụng án lệ.
• Thứ ba, án lệ thể hiện tính khách quan và công bằng:
Trước hết, một quy tắc án lệ không phải hình thành từ một bản án cụ thể, mà nó
phải được hình thành qua hàng loạt các vụ việc tương tự về sau, bản án đầu tiên chỉ
là hình mâu phác thảo lên một quy tắc án lệ. Các quy tắc án lệ trong pháp luật
thông luật là kết quả của quá trình đưa ra những lý lẽ và tranh luận lâu dài. Hơn
nữa, các quy tắc án lệ phải được thừa nhận là giá trị chung (common value) hay là
lý lẽ chung (common reason).
•Bên cạnh đó, so với luật thành văn, án lệ vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất
định: Án lệ không mang tính thống nhất và hệ thống cao như nguồn văn bản; Có
thể khó thống nhất về một quy tắc án lệ trong nhận thức pháp lý quá nghiêm khắc;
một quy tắc án lệ được hình thành phải trải qua hàng loạt các vụ việc tuơng tự về

sau…
Theo quan điểm lý luận phổ biến của các hệ thống pháp luật ở lục địa châu Âu,
các nguyên tắc, các giải pháp pháp lý rút ra từ án lệ không có cùng giá trị như luật
thành văn. Đó là các giải pháp không chắc chắn, có thể bị hủy bỏ và sửa đổi bất cứ
lúc nào phụ thuộc vào vụ việc mới.
4


2.2.XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN ÁN LỆ TRONG HỆ THỐNG NGUỒN
LUẬT THÀNH VĂN CỦA CÁC HỆ THỐNG PHÁP LUẬT THUỘC DÒNG
HỌ PHÁP LUẬT CIVIL LAW:
Án lệ không phải là một điều gì quá xa lạ với những nước áp dụng các hệ
thống pháp luật phổ biến trên thế giới như hệ thống thông luật (Common law) hay
hệ thống dân luật (Civil law). Trong lịch sử lập pháp thế giới, án lệ là nguồn chủ
yếu và quan trọng của hệ thống pháp luật án lệ (Anh, Mỹ, Australia…) , nhưng lại
chỉ được coi là nguồn thứ yếu trong hệ thống pháp luật dân sự (Pháp, Đức,
Italya..). Mặc dù lịch sử áp dụng án lệ có nhiều thăng trầm, nhưng đối với các hệ
thống pháp luật thuộc dòng họ Civil law hiện nay, án lệ đang dần trở thành nguồn
pháp luật quan trọng. Khi nói đến xu hướng phát triển án lệ trong hệ thống nguồn
luật thành văn của các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil law, có thể chia ra
các giai đoạn sau:
2.2.1.Án lệ trong truyền thống dân luật La Mã đến cuối thế kỷ XVIII:
Đây được xem là thời kỳ đầu tiên trong quá trình hình thành và phát triển của
các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil law, bao gồm giai đoạn pháp luật tập
quán ( trước thế kỷ XIII) và giai đoạn pháp luật thành văn (từ thế kỷ XIII đến cuối
thế kỷ XVIII).
• Giai đoạn pháp luật tập quán: đúng như tên gọi của nó , nhìn chung pháp
luật thời kỳ này còn đơn giản, được hình thành từ các tập quán địa phương và còn
lẫn lộn giữa quy phạm đạo đức, tôn giáo và pháp luật. Lúc bấy giờ, tồn tại các luật
tập quán của Pháp, Đức, của các dân tộc Slavian, luật La Mã. Đặc biệt, phần lớn

các bộ tộc ở Tây Âu đã bị người La Mã đô hộ trong suốt 4 thế kỷ nên luật La Mã
cổ đại đã có ảnh hưởng lớn ở đây.
Sẽ thú vị nếu chúng ta biết rằng, án lệ đã được nhận thức là có một vai trò quan
trọng trong pháp luật La Mã, bằng chứng là việc Hoàng đế Severus (cai trị La Mã
từ năm 193 đến năm 211) đã cho phép các thẩm phán bổ sung những lỗ hổng của
luật thành văn bằng tập quán và thực tiễn xét xử của các vụ việc tương tự (có thể
coi như là hình thức án lệ).
5


Mặc dù đế chế Tây La Mã đã sụp đổ vào năm 476 nhưng đế chế Đông La Mã
vẫn tồn tại. Năm 528, Hoàng đế Đông La Mã Justinian đã ra lệnh hệ thống hóa và
củng cố luật La Mã 5. Theo đó, năm 529, Hoàng đế Justinian đã cấm các thẩm
phán La Mã quyết định các vụ việc mà không dựa vào luật thành văn. Tuy nhiên,
bốn năm sau, Justinian đã khôi phục lại chính sách của Severus bằng việc cho phép
các thẩm phán bổ sung những kẽ hở của pháp luật thành văn khi áp dụng nó. Vì
vậy mà trong lịch sử pháp luật La Mã, các văn bản tập hợp các bản án và lời phân
tích nó được coi là có giá trị pháp lý như là luật khi thẩm phán sử dụng nó.
•Giai đoạn phát triển pháp luật thành văn: giai đoạn này gắn liền với sự gia
tăng các hoạt động thương mại và giao lưu giữa các dân tộc châu Âu lục địa. Đáng
chú ý là giai đoạn văn hóa Phục Hưng bắt đầu từ thế kỷ XIII-XIV xuất phát từ
Italia sau đó lan dần sang các nước lục địa châu Âu. Quan điểm pháp luật thời kỳ
này là luật pháp phải là công cụ,là mô hình tổ chức xã hội. Các triết gia, luật gia,
các nhà tư tưởng mà chủ yếu là các giáo sư đại học lúc này muốn các quan hệ xã
hội cơ bản phải được điều chỉnh bằng các quy định của pháp luật. Lúc bấy giờ, án
lệ thực sự không được coi trọng.
Sau thời kỳ trên, thế kỷ XIV, Toà án tối cao của giáo hội Công giáo (Rota
Romana) ở Roma đã vận dụng các án lệ vào hoạt động xét xử và các án lệ của nó
đã được toà án cấp dưới tuân thủ. Cho đến thế kỷ XVIII, khi luật La Mã được hồi
sinh ở Châu Âu lục địa, hình thức pháp luật chung ở Châu Âu ra đời thì án lệ vẫn

được áp dụng phổ biến ở hệ thống pháp luật các nước Châu Âu sử dụng luật La Mã
Như vậy, để nói về xu hướng phát triển án lệ trong hệ thống nguồn luật thành
văn của các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil law lúc bấy giờ, có thể nói, có
những thời điểm án lệ được quan tâm thừa nhận, có những thời điểm án lệ bị cấm
áp dụng. Nhưng nhìn chung, dù bị cấm hay được áp dụng, án lệ vẫn chỉ được nhìn
nhận như một giải pháp để khắc phục những lỗ hổng của pháp luật, án lệ lúc bấy
giờ chưa được nhìn nhận như một nguồn cơ bản .Điều này phù hợp với thực tiễn
Kết quả là đã tạo nên một công trình pháp luật lớn mang tên Corpus Juris Civil bao gồm 4
phần: Code, Digeste, Institutes và Novels được công bố từ năm 529-534
5

6


pháp luật của các nước thuộc dòng họ Civil law thời kỳ này chưa thực sự hoàn
thiện và còn nhiều thiếu sót khi thực hiện chức năng điều chỉnh xã hội của nó, nhận
thức về tầm quan trọng của án lệ chưa cao.
2.2.2.Án lệ trong thời kỳ pháp điển hóa pháp luật ,cuối thế kỷ XVII đến thế
kỷ XIX:
Thực tiễn áp dụng án lệ đã từng bị đánh giá thấp khi xu hướng pháp điển hoá
pháp luật diễn ra mạnh mẽ ở Châu Âu bắt đầu từ đầu thế kỷ XIX.Giải thích cho xu
hướng phát triển án lệ trong các hệ thống pháp luật lúc bấy giờ bởi đây được xem
là giai đoạn đánh dấu sự ra đời của những văn bản pháp luật quan trọng, là cuộc
cách mạng lớn trong sự phát triển tư tưởng pháp luật nhân loại.
Trước hết phải kể đến Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789 của
Pháp.Những quy định cơ bản của Bản tuyên ngôn nổi tiếng này đã trở thành những
nguyên tắc cơ bản của các bản Hiến pháp của các quốc gia châu Âu lục địa và
nhiều nước khác trên thế giới. Ngày 3/9/1791 bản Hiến pháp đầu tiên của nước
Pháp ra đời. Vào đầu thế kỷ XIX các bộ luật quan trọng của nước Pháp đã được
ban hành như : Bộ luật dân sự Napoleon năm 1804, Bộ luật tố tụng dân sự 1806,

Bộ luật thương mại 1807, Bộ luật tố tụng hình sự 1808. Vào thế kỷ XIX, các bộ
luật cơ bản của Đức cũng đã được xây dựng 6. Pháp luật của Đức (chủ yếu là Bộ
luật Dân sự năm 1896 ) do tính khoa học và hợp lý của nó cũng đã ảnh hưởng đến
nhiều quốc gia ngoài châu Phi.
Với các bộ luật nổi tiếng trên đây, dòng họ Civil law đã đạt được những thành
tựu lớn, đánh giấu giai đoạn phát triển rực rỡ của khoa học pháp lý. Có thể nói, hệ
thống pháp luật của các quốc gia thuộc dòng họ này có trình độ hệ thống hóa, pháp
điển hóa cao nhất trong các hệ thống pháp luật lớn trên thế giới. Các quốc gia
thuộc dòng họ pháp luật này xây dựng được khá nhiều bộ luật, đưa luật thành văn
trở thành một trong những nguồn luật cơ bản và quan trọng hàng đầu.
Thời kỳ này, hầu hết các quan hệ phổ biến và phát triển trong xã hội lúc bấy giờ
đều có luật thành văn điều chỉnh, hơn nữa với hệ thống luật thành văn đồ sộ có
Bộ luật thương mại 1866; Bộ luật hình sự 1871 ; Bộ luật tố tụng hình sự 1877; Bộ luật tố
tụng dân sự 1877; Bộ luật dân sự 1896…
6

7


trình độ pháp điển hóa cao, hầu như đã tương đối khắc phục được những lỗ hổng
không đáng có của những thời kỳ trước đó và hiển nhiên, án lệ trong thời kỳ ngày
với tính chất là những phán quyết của Thẩm phán tại Tòa đối với những vụ việc đã
xảy ra, không được coi trọng. Thực tiễn xét xử của Tòa án không bị ràng buộc bởi
những quy phạm do chính nó tạo ra và cũng không có thể dựa vào các quy phạm
đó để biện luận cho quyết định của mình. Án lệ chỉ được áp dụng khi mà thẩm
phán thấy nó phù hợp với vụ án đang xét xử. Án lệ không được coi là nguồn cơ
bản của pháp luật
Bộ luật dân sự Napoleon của Pháp đã thiết lập một số quy định gây cản trở cho
việc phát triển án lệ. Điều 5. Bộ luật dân sự Napoleon đã quy định “Cấm các
thẩm phán đặt ra các quy định chung và có tính lập quy để tuyên án đối với những

vụ việc được giao xét xử”. Điều 1351 Bộ luật này cũng xác định “Bản án chỉ có
hiệu lực pháp luật đối với một vụ việc .Chỉ được xem là cùng một vụ việc khi yêu
cầu về cùng một vấn đề, dựa trên cùng một căn cứ và giữa cùng các bên tranh
chấp”. Giai đoạn pháp điển hóa pháp luật được xem là thời kỳ mà xu hướng án lệ
trong hệ thống nguồn luật thành văn của các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ
Civil law dường như bị lu mờ đi.
2.2.3.Án lệ sau thời kỳ pháp điển hóa ở Châu Âu, từ thế kỷ XX đến nay:
2.2.3.1. Khái quát chung về xu hướng phát triển án lệ trong các hệ thống
pháp luật thuộc dòng họ Civil law:
Trong lịch sử pháp lý của các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil law, luật
thành văn với tư cách là nguồn luật chính thức và cơ bản, đã và đang hoàn thành
nhiệm vụ điều chỉnh các quan hệ xã hội một cách có hiệu quả. Hình thành và phát
triển qua hàng ngàn thế kỷ, dòng họ Civil law đã xây dựng cho mình một hệ thống
nguồn luật phong phú và đa dạng, không chỉ luật thành văn mà còn bao gồm cả :
tập quán pháp luật (custom), các học thuyết pháp luật (legal doctrine) và các
nguyên tắc pháp luật (legal principle)…trong đó có án lệ (case law, judge – made
law).
Mặc dù có nhiều cản trở như đã trình bày ở trên, ý nghĩa quan trọng của án lệ
ngày càng được thừa nhận và được chứng minh trong quá trình phát triển của pháp
8


luật. Về mặt lý luận, Luật thành văn và các Bộ luật vẫn giữ vai trò là nguồn chính
trong hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil law, nhưng án lệ cũng có vai trò và
tầm quan trọng riêng ở các nước này. René David , một luật sư người Pháp đã từng
nhận xét : “ Bắt đầu từ thế kỷ XX, ảo tưởng về giá trị của luật thành văn là nguồn
luật thuần nhất đã dần bị xóa bỏ” 7.Điều này được chứng minh qua các biểu hiện
sau:
• Thứ nhất, trong những quy định của hệ thống pháp luật dân sự, án lệ cũng
được coi là những căn cứ pháp luật mà thẩm phán được quyền sử dụng trong

trường hợp không có luật thành văn hoặc luật tục tương tự 8. Trong quá trình xét
xử, đảm bảo tính đúng đắn về chuyên môn nghiệp vụ cũng như sự tôn trọng của
tòa cấp trên, tòa cấp dưới luôn có xu hướng tham khảo những bản án đã được
tuyên, căn cứ vào đó để đưa ra quyết định cho bản án cụ thể của mình. Các phán
quyết của tòa án rất hay quy chiếu tới các phán quyết đã tuyên trước đó. Đây cũng
có thể coi là những biểu hiện của việc sử dụng án lệ trong hệ thống pháp luật của
các nước thuộc dòng họ Civil Law.
• Thứ hai, thế kỉ XIX, cơ chế bảo hiến đã ra đời, do đó đã tồn tại các tổ chức
bảo hiến (ở Đức là tòa án bảo hiến). Chính vì thế, phán quyết của tổ chức bảo hiến
có tính rằng buộc đối với các tòa án cấp dưới. Ở các nước có hiến pháp thành văn
và Tòa án hiến pháp riêng như ở Italia và ở Đức tồn tại những điều khoản lập pháp
cho phép những loại phán quyết nhất định có hiệu lực bắt buộc 9. Tòa án cấp dưới
Hans W. Baade, Stare Decisis In Civil-law Countries: The Last Bastion, in ‘The Themes In
Comparative Law In Honour Of Bernard Rudden, Edited by Peter Birks and Arianna Pretto,
Oxford University Press, 2000.p.4.
7

8 Điều 5 Bộ luật dân sự pháp lại chỉ dẫn rằng: “ những phán quyết mang tính bắt buộc để đặt

thành những nguyên tắc chung là những án lệ có tính chất quyết định”.
Điều 1 Bộ luật dân sự Thụy Sỹ cũng hướng dẫn các Thẩm Phán rằng: “Trong trường hợp
không có luật thành văn, hoặc luật tục tương tự thì Thẩm phán có quyền quyết định tuân theo
những nguyên tắc mà anh ta đã đặt ra và nếu anh ta ‘tự hành động như nhà lập pháp’ thì anh
ta phải chứng minh ‘bằng những nguyên tắc luật pháp đã được công nhận và các án lệ”.
Đoạn 31 luật về tòa án hiến pháp liên bang
Bundesverfassungsgericht) cũng đề cập đến tình huống này.
9

9


Đức

(Gesetz

uber

das


có nghĩa vụ phải thực hiện án lệ của tòa án này, nếu không bản án của họ có thể bị
giám đốc thẩm.
• Thứ ba, trong các phán quyết kiểu mẫu của các toà án khu vực Châu Âu lục
địa với tư cách là các kiểu phán quyết trái ngược với kiểu phán quyết của toà án
nước Anh, thì việc sử dụng “án lệ” lại là một ngoại lệ đối với những nguyên tắc
chung này . Ngoại lệ của nguyên tắc chung này là khi tồn tại một chuỗi tiền lệ
thống nhất mà những tiền lệ này cùng xuất phát từ một cách nhìn về một câu hỏi
xác định, thì ở quốc gia nói ngôn ngữ French, Mexico, và Spanish, hiện tượng tồn
tại một chuỗi các quyết định tương tự có tác động thực tiễn đối với tiền lệ án hoặc
các án lệ có tính bắt buộc. Lambert và Wasserman cũng đã tuyên bố một cách đúng
đắn rằng: “Nước Pháp cũng có nhiều án lệ như ở Anh”, và các tiếp cận của Tòa án
phụ thuộc vào từng tình huống cụ thể xảy ra ở tòa.
2.2.3.2.Xu hướng phát triển án lệ ở một số quốc gia điển hình có hệ thống
nguồn luật thành văn thuộc dòng họ Civil law:
• Án lệ trong pháp luật Cộng hoà Pháp:
Dưới ảnh hưởng của Cách mạng tư sản Pháp và các quan điểm tiến tiến của chủ
nghĩa triết học khai sáng, nước Pháp đã mở đầu cho xu hướng pháp điển hoá pháp
luật ở Châu Âu. Các học giả Pháp đã chỉ ra, bên cạnh những ưu việt mà pháp điển
hoá đem lại như tính thống nhất, bao quát, tính dễ tiếp cận, pháp điển các bộ luật
còn bộc lộ các hạn chế cố hữu như: tính không khả thi do các qui định mang tính
chung chung, không rõ; tính lạc hậu do không được cập nhật. Nhìn chung, sẽ là sai

lầm nếu ai đó cho rằng, Bộ luật dân sự (BLDS) nước Pháp được pháp điển hoá rất
chi tiết và đầy đủ, nó sẽ là cơ sở để giải quyết được tất cả những vấn đề pháp luật
dân sự nảy sinh trong xã hội. Theo Portalis “luật pháp đứng yên trong khi đời sống
xã hội của con người luôn thay đổi, vì lý do đó mà không ai có thể qui định tất cả
mọi vấn đề có thể phát sinh” 10.
Điều 136 hiến pháp Italia cũng quy định rằng: “ Khi tòa án tuyên bố một điều khoản pháp
luật không phù hợp với Hiến pháp, thì điều khoản đó sẽ hết hiệu lực kẻ từ sau ngày phán
quyết của tòa án được tuyên bố”.

10


Án lệ trong lĩnh vực luật dân sự: Có thể nói, án lệ trong lĩnh vực luật dân sự
đã và đang đóng một vai trò quan trọng cho sự phát triển pháp luật dân sự ở Pháp.
Điều này có thể hiểu là, các Thẩm phán nên giải thích các qui định, nguyên tắc của
BLDS Pháp một cách linh hoạt để nó phù hợp với sự thay đổi của đời sống xã hội.
Nhiều điều luật trong BLDS được giải thích bởi các toà án. Điều này làm cho các
án lệ trong lĩnh vực luật dân sự trở thành phương tiện để hiểu được BLDS. Những
án lệ quan trọng nhất trong lĩnh vực luật dân sự ở Pháp được thiết lập bởi Toà phá
án 11.
Án lệ trong lĩnh vực luật hành chính: Không giống như lĩnh vực luật dân sự,
luật hành chính của Pháp không được pháp điển hoá. Thực tiễn cho thấy, luật hành
chính ở Pháp được phát triển trên cơ sở án lệ. Cũng có thể nói rằng, án lệ đóng vai
trò quan trọng cho sự phát triển ngành luật hành chính hơn bất cứ ngành luật nào
trong hệ thống pháp luật của Pháp. Với tư cách là toà án cấp cao nhất trong ngạch
toà hành chính, Tham chính viện đã đưa ra rất nhiều quyết định được coi là những
án lệ của luật hành chính. Khi không có văn bản pháp luật điều chỉnh những vấn đề
cụ thể, các toà hành chính ở Pháp đã tự đặt ra những quy tắc, giải pháp đối với các
tranh chấp hành chính trước toà. Các cơ quan hành chính nhà nước luôn tôn trọng
các quyết định của Tham chính viện và coi đó như là nguồn của luật hành chính.

Thực tế pháp luật hành chính ở Pháp thừa nhận “mặc dù ngày càng có sự gia tăng
John Bell, Sophie Boyron, and Whittaker ( with contributing authors Andrew Bell, Mark
Freeland and Helen Stalford), Principles of French Law, Second Edition, Oxford University
Press, 2008,p.26.
10

11 Tòa phá án: Pháp, cũng như các quốc gia theo dân luật khác (và cả của Việt Nam dưới thời

thuộc Pháp), tổ chức một cấp Tòa phá án, có nhiệm vụ xem xét lại vấn đề áp dụng pháp luật
của các tòa cấp dưới. Ở đây, Tòa Phá án Pháp (Cour de Cassation) được xem như Tòa án tối
cao trong nhánh Tòa tư pháp. Trụ sở ở Pari, gồm có 6 tòa (5 tòa dân sự và 1 tòa hình sự) để
xét lại những bản án chung thẩm của các tòa thượng thẩm và các tòa đại hình mà bị kháng
nghị trong toàn nước Pháp và Đông Dương cùng các thuộc địa khác của Pháp. Tòa phá án
không xét xử về nội dung sự việc mà chỉ xem xét bản án bị kháng nghị về 3 yếu tố để hủy án
là: có vi phạm pháp luật không; có vô thẩm quyền không và có vô căn cứ pháp luật không.
Nếu xét thấy có 1 trong 3 yếu tố nói trên, Tòa phá án sẽ tuyên hủy và trả về cho một cấp tòa
án khác xét xử lại, Tòa phá án không có quyền giữ lại vụ án để xét xử.
Nguồn: http://lawsoft. thuvienphapluat.vn/Default.aspx?ct=TVBT (Chú thích của BTV)

11


các văn bản quy phạm luật hành chính, nhưng án lệ vẫn là nguồn quan trọng của
luật hành chính” 12
• Án lệ trong hệ thống pháp luật CHLB Đức:
Không giống với nước Pháp, cho đến năm 1871, nước Đức vẫn chưa có một hệ
thống pháp luật thống nhất. Phải đến năm 1900, BLDS Đức mới chính thức ra đời.
Trong xu hướng pháp điển hoá pháp luật ở Đức, vị trí của án lệ chưa bao giờ bị
đánh giá thấp trong hệ thống pháp luật. Trong trường hợp không có sẵn văn bản
pháp luật hay tập quán, các các thẩm phán Đức đã áp dụng linh hoạt các nguyên

tắc của luật La Mã trong xét xử. Trong thế kỷ thứ XIX, Friedrich Carl von Savigny
đã thừa nhận án lệ là một nguồn luật tồn tại cùng với những nguồn luật khác như
luật thành văn, tập quán. Những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, đã có
nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của án lệ ở Đức. Không ai có thể phủ nhận
vai trò quan trọng của các bộ luật và luật thành văn ở Đức, tuy nhiên trong rất
nhiều lĩnh vực, chúng ta không thể hiểu được nội dung thực sự của các văn bản
luật nếu không tìm hiểu các án lệ liên quan đến việc giải thích pháp luật 13.
Án lệ trong lĩnh vực dân sự, hình sự: Sự hiểu biết và thông thạo các án lệ
trong lĩnh vực dân sự có lẽ là cách tốt nhất để các thẩm phán và luật sư ở Đức áp
Tuy nhiên cần lưu ý rằng, mặc dù án lệ được thừa nhận và một nguồn của luật hành chính,
nhưng nó không có giá trị bắt buộc. Án lệ trong luật hành chính được sử dụng rất linh hoạt để
nó thích hợp với sự phát triển của các quan hệ pháp luật hành chính. Trong mối quan hệ giữa
các văn bản quy phạm pháp luật hành chính và án lệ, thì văn bản luật bao giờ cũng có hiệu
lực cao hơn. Nhưng trong một số rất ít trường hợp, các án lệ hành chính lại có hiệu lực cao
hơn văn bản quy phạm. Ví dụ, Tham chính viện đã tạo ra án lệ nổi tiếng trong bản án Koné
ngày 03/07/1996 về vấn đề “Nhà nước phải từ chối dẫn độ người nước ngoài trong trường
hợp việc dẫn độ được yêu cầu vì mục đích chính trị”.
12

13 Ví dụ, từ “vũ khí” (weapon) trong Bộ luật Hình sự Đức năm 1871, đã không chi tiết hoá

tất cả những loại vũ khí mà người phạm tội sử dụng khi phạm tội được qui định trong bộ luật
này. Trường hợp một người dùng hydrochloric acid để tấn công người khác thì có phải là sử
dụng vũ khí hay không? Toà án tối cao CHLB Đức đã giải thích về thuật ngữ này trong án lệ
năm 1971 như sau: “Theo Bộ luật Hình sự Đức được ban hành năm 1871, vũ khí chỉ bao gồm
các công cụ máy móc được sử dụng làm công cụ tấn công. Sau thời điểm này, khái niệm này
đã thay đổi. Ngày nay, các chất hoá học dùng làm phương tiện để tấn công cũng được coi là
vũ khí. Vì vậy hydrochloric acid được xếp là một loại vũ khí”.

12



dụng đúng các qui định của BLDS Đức năm 1900. Trong BLDS Đức, các quy định
về hợp đồng, bồi thường thiệt hại v.v.. đã được hỗ trợ bởi hàng loạt những án lệ 14.
Án lệ của Tòa án tối cao CHLB Đức (về dân sự và hình sự) luôn được các toà án
cấp dưới tuân theo khi áp dụng trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Nếu toà án cấp
dưới không tuân theo cách giải thích và áp dụng pháp luật của các bản án mà Tòa
án tối cao CHLB Đức đã tuyên, thì các toà án cấp dưới có nghĩa vụ giải thích rõ vì
sao nó không tuân theo17. Thậm chí các luật sư cũng phải thực sự quan tâm đến án
lệ, bởi nếu không chú ý đến các án lệ của các toà án cấp cao, thì luật sư có thể sẽ
phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng vì tư vấn không đúng.
Án lệ trong lĩnh vực luật Hiến pháp: các án lệ của Toà án Hiến pháp CHLB
Đức có hiệu lực như luật, nó bắt buộc các toà án cấp dưới phải tuân theo. Điều
31.1 của Luật Toà án Hiến pháp Đức quy định “Các quyết định của Toà án Hiến
pháp CHLB Đức có hiệu lực bắt buộc với các cơ quan của chính quyền liên bang
và các tiểu bang cũng như tất cả những toà án và các cơ quan nhà nước khác”.
Toà án Hiến pháp CHLB Đức có vị trí đặc biệt trong hệ thống toà án của nước
Đức. Các quyết định của nó có hiệu lực cao hơn luật liên bang, trừ Hiến pháp. Đây
là một đặc trưng cơ bản khi đề cập tới vai trò của án lệ trong hệ thống pháp luật
nước Đức hiện nay.
Có thể nói, tiến trình khẳng định vai trò của án lệ trong hệ thống pháp luật Pháp
và Đức cho thấy, mặc dù không có truyền thống pháp luật phát triển dựa trên cơ sở
các án lệ là nguồn luật cơ bản như hệ thống pháp luật các nước trong hệ thống
thông luật, nhưng án lệ đã trở thành xu hướng phát triển của hai hệ thống pháp luật
Pháp và Đức, là một bộ phận không thể thiếu trong pháp luật của những nước này.
Tuy nhiên, cách áp dụng án lệ trong pháp luật Pháp và Đức vẫn có điểm khác biệt
so với cách sử dụng án lệ ở các nước thông luật. Do bị ảnh hưởng bởi truyền thống
Ví dụ, Điều 181 BLDS Đức 1900 quy định một chi nhánh không được cam kết, khi không
có sự đồng ý của Công ty mẹ của nó, các hợp đồng nhân danh công ty mẹ, trừ những giao
dịch trong phạm vi nghĩa vụ của chi nhánh. Tòa án tối cao CHLB Đức đã giải thích điều 181

với cách hiểu là: các chi nhánh không thể tham gia các giao dịch dân sự khi không có sự cho
phép, trừ trường hợp các giao dịch đó chỉ đem lại lợi ích cho công ty mẹ.
14

13


coi trọng luật thành văn để luận giải các quyết định trong bản án, nên các phán
quyết của các toà án Pháp, Đức thông thường không sử dụng phương pháp phân
tích tương tự các án lệ để làm cơ sở cho các quyết định của bản án 15. Hơn nữa,
trong một không gian pháp luật của Liên minh Châu Âu rộng lớn hơn phạm vi
pháp luật quốc gia, cách thức sử dụng và áp dụng án lệ của Toà án công lý Châu
Âu đã tác động không nhỏ đến tư duy pháp luật của các thẩm phán ở Pháp và Đức.
Bởi vì khi giải quyết các vấn đề có liên quan đến pháp luật của Liên minh châu Âu,
thẩm phán của cả hai hệ thống pháp luật Pháp và Đức không thể tránh khỏi việc sử
dụng các án lệ của Toà án công lý Châu Âu. Điều này đã tác động đến văn hoá
pháp lý trong xét xử của các thẩm phán các nước thành viên. Việc vận dụng án lệ
với vai trò là nguồn luật bổ trợ để tăng tính thuyết phục cho các bản án đã và đang
trở thành một xu hướng nổi bật trong nội dung các bản án của Toà án các nước
thuộc hệ thống pháp luật dân luật ở Châu Âu.
2.3.LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM:
2.3.1. Án lệ trong lịch sử pháp lý Việt Nam:
• Có thể nói, “án lệ” không phải là thuật ngữ hoàn toàn mới trong khoa học
pháp lý hay là nền lập pháp Việt Nam, lịch sử pháp lý nước ta đã có những quy
định về án lệ:
Ở Việt Nam dưới chế độ Sài Gòn trước năm 1975, tiền lệ pháp cũng được coi
là một nguồn trong lĩnh vực dân sự, Bộ Tư pháp đã xuất bản án lệ theo định kỳ ba
tháng. Ấn phẩm đăng tải những trích dẫn về quan điểm hay định hướng xét xử
trong các bản án của Tối cao pháp viện, Tòa hành chính, Tòa thượng thẩm...
Những bản án này là một trong những căn cứ pháp lý để xét xử cho các tranh chấp

tương tự về sau. Hệ thống luật pháp của chế độ Sài Gòn trước đây vốn chịu ảnh
15 Tuy nhiên xu hướng này đang có thay đổi mạnh mẽ. Bằng chứng là hiện nay trong các

phán quyết của Toà án Hiến pháp CHLB Đức, việc viện dẫn trực tiếp các án lệ đó trở nên phổ
biến. Đặc biệt, Toà án Hiến pháp Đức cũng cho phép công bố các ý kiến bất đồng (dissenting
oponions) của các thẩm phán trong hội đồng xét xử cùng với nội dung của bản án.

14


hưởng của luật pháp châu Âu, nhất là luật pháp của Pháp, đặc biệt là pháp luật dân
sự, nên cũng rất quan tâm việc xây dựng án lệ.
Trong giai đoạn miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, để thống nhất
việc xử phạt một số loại tội phạm, ngày 19/01/1955 Thủ tướng Chính phủ ban hành
Thông tư số 442/TTg về việc trừng trị một số tội phạm, mà theo đó, Thông tư nêu
rõ: “…Kinh nghiệm xét xử về một số loại phạm pháp đã được trở thành án lệ. Tuy
nhiên, án lệ ấy còn khác nhau giữa các địa phương. Đường lối xét xử do đó không
được thống nhất, rõ ràng và có nơi không được đúng. Cần phải thống nhất những
án lệ ấy trong quy định chung sau đây để hướng dẫn các tòa án trừng trị một số tội
phạm thông thường”.
• Tuy nhiên về sau, án lệ lại không được chính thức thừa nhận và áp dụng.
Hiến pháp 2013 và các văn bản pháp luật hiện nay của Việt Nam như Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân, Bộ luật Tố tụng dân sự, Tố tụng hình sự, Luật Tố tụng hành
chính…đều thừa nhận nguyên tắc: “Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật”. Pháp luật ở đây được hiểu là các văn bản quy phạm pháp
luật do Quốc Hội ban hành, các văn bản quy phạm pháp luật khác do Chính phủ và
các cơ quan chức năng hướng dẫn. Hiểu chung nhất, nó có nghĩa là luật thành văn.
Như vậy, việc xét xử, áp dụng pháp luật vào các vụ án cụ thể phải dựa trên luật đã
được ban hành và còn hiệu lực, chứ không dựa trên án lệ. Nói như vậy, không có
nghĩa là án lệ không còn xuất hiện trong thực tiễn pháp lý ở Việt Nam.

Hệ thống pháp luật của chúng ta được thiết lập theo quan niệm của Nhà nước
xã hội chủ nghĩa, bắt nguồn từ Liên Xô. Dưới góc độ học thuật, nền pháp luật Việt
Nam không thừa nhận thuộc về trường phái Civil Law hay Common Law một cách
cụ thể, mà là hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, có sự giao thoa giữa nhiều hệ
thống pháp luật trên thế giới, được xây dựng một cách đặc biệt và hài hòa phù hợp
với đặc thù riêng của thể chế chính trị. Từ năm 2004, Toà án nhân dân tối cao
(TANDTC) nước ta đã thường xuyên chọn lọc và công bố các Quyết định giám đốc
thẩm của Hội đồng thẩm phán TANDTC hay việc công khai các bản án trên nhiều
kênh thông tin đại chúng hoặc trong sổ tay thẩm phán. TAND TC cũng có những
văn bản tổng kết hướng dẫn nghiệp vụ xét xử hằng năm. Tuy nhiên, việc sử dụng
15


những bản án được công khai trong thực tiễn pháp lý hiện nay chỉ mang tính chất
tham khảo trong quá trình nghiên cứu, giải quyết vụ án chứ không dùng làm căn cứ
pháp lý cho việc xét xử. Việc tồn tại “nguyên tắc bắt buộc tuân theo án lệ”
(nguyên tắc stare decisis) là chưa từng xuất hiện trong thực tiễn pháp lý ở Việt
Nam, có nghĩa án lệ từ trước đến nay là một nguồn để tham khảo chứ không phải
là một nguồn để áp dụng.
Nghị quyết số 49/NQ-TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ
Chính trị ngày 02/06/2005 đã đề ra mục đích xây dựng và hoàn thiện từng bước
hoạt động của Toà án nhân dân là “TANDTC có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét
xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc
thẩm và tái thẩm”. Việc sử dụng thuật ngữ án lệ trong Nghị quyết 49/NQ-TW 2005
là chuyển biến lớn về mặt đường lối. Sau đó với Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP về
quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ là một bước tiến dài về mặt thực tiễn
đối với việc áp dụng pháp luật tại Việt Nam.
Khoản 1.Điều 8 Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP quy định rõ ràng về nguyên
tắc áp dụng án lệ trong xét xử: “ Án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử
sau 45 ngày kể từ ngày công bố hoặc được ghi trong quyết định công bố án lệ của

Chánh án Toà án nhân dân tối cao.”
2.3.2.Sự cần thiết áp dụng án lệ trong pháp luật Việt Nam hiện nay:
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, với tư cách là một thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam cần phải tuân thủ các nguyên tắc về minh
bạch hoá, trong đó yêu cầu các toà án cần phải công bố công khai các bản án của
mình. Ở Việt Nam không tồn tại một truyền thống sử dụng các án lệ. Vì vậy, nên
hay không nên chấp nhận án lệ ở Việt Nam đang là vấn đề được tranh luận.
Một số luật gia cho rằng, nếu án lệ được chấp nhận trong hệ thống pháp luật, nó
sẽ tạo ra một sự tuỳ tiện trong vai trò quyết định của thẩm phán, điều này sẽ làm
ảnh hưởng đến nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 16,

Xem Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư
pháp, H, 2006, tr354-355.
16

16


Tuy nhiên, với ý nghĩa và giá trị đã được thừa nhận của án lệ theo kinh nghiệm
quốc tế, việc áp dụng án lệ ở Việt Nam là cần thiết. Nó sẽ giúp cho Toà án kịp thời
giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử, khắc phục tình trạng
quá tải và chậm ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật, đặc biệt là trong
bối cảnh đòi hỏi của người dân và xã hội đối với công tác Tòa án ngày càng cao;
những vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án đang gia tăng cả về số
lượng và mức độ phức tạp; nhiều quy định của pháp luật còn mang tính định tính,
chưa rõ, còn có những cách hiểu chưa thống nhất; còn có những vấn đề chưa có
quy định cụ thể của pháp luật để điều chỉnh. Áp dụng án lệ chính là phương thức
hiệu quả để khắc phục các khiếm khuyết của pháp luật, bảo đảm việc áp dụng pháp
luật thống nhất trong xét xử, tạo lập tính ổn định, minh bạch và tiên liệu được trong
các phán quyết của Tòa án, qua đó có tác dụng hướng dẫn các hành vi ứng xử

không chỉ đối với các bên trong vụ án, mà còn đối với cả cộng đồng xã hội.
Như vậy, việc cải cách nếu cần thiết là điều hợp lý để phục vụ cho mục đích
xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam phù hợp với sự phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN. Những tư duy theo lối mòn và mang tính chất bảo
thủ cần phải được thay đổi bởi xã hội không bao giờ dừng lại để chiều theo suy
nghĩ của bất cứ cá nhân nào. Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết
03/2015/NQ-HĐTP thừa nhận việc áp dụng án lệ vào xét xử là một bước đi tiến bộ,
nhưng đấy chưa phải là điểm dừng bởi đằng sau đó là một quá trình dài xem xét về
việc lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ một cách phù hợp, chính xác để quy định
này đảm bảo tính hiệu quả cao nhất trong thực tiễn thì mới đem lại lợi ích cho xã
hội.

17


2.3.3.Một số giải pháp để phát triển án lệ ở Việt Nam:
Để triển khai thi hành quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và
để đưa án lệ đi vào cuộc sống, cần thực hiện các giải pháp đồng bộ; cụ thể là các
giải pháp sau17:
Trước hết, cần xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc ban hành án lệ;
cụ thể là cần bổ sung quy định của pháp luật tố tụng về giá trị pháp lý và nguyên
tắc áp dụng, viện dẫn án lệ trong xét xử án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh - thương mại, lao động, hành chính; xây dựng Nghị quyết của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình ban hành và áp dụng án lệ, trong
đó xác định cụ thể các tiêu chí đối với những bản án, quyết định có thể được lựa
chọn, công nhận là án lệ; quy trình phát hiện, tuyển chọn án lệ; việc công bố các
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật dự kiến sẽ hình thành án lệ trong tương lai
trên các diễn đàn khoa học và phương tiện truyền thông để các đại biểu các cơ
quan dân cử, các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn (như:
Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Luật sư v.v...) và nhân dân tham gia ý

kiến; đồng thời, phải tiến hành việc thẩm định, thông qua và công bố án lệ; nguyên
tắc áp dụng án lệ trong xét xử; việc thay thế, hủy bỏ án lệ.
Hai là, cần chuẩn bị tổ chức bộ máy và cán bộ chuyên trách làm công tác tham
mưu, giúp việc cho Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong công tác
này theo hướng xác định rõ trách nhiệm và quan hệ phối hợp giữa các đơn vị chức
năng trong việc giúp Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thực hiện quy
trình lựa chọn, ban hành và công bố án lệ trong từng lĩnh vực xét xử cụ thể (gồm
án lệ về hình sự; án lệ về dân sự; án lệ về hôn nhân và gia đình; án lệ về kinh

17 Thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển án lệ, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt
động xét xử của tòa án nhân dân-Trương Hòa Bình-Bí thư TƯ Đảng, Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao
/>p_page_id=1&p_cateid=1751909&item_id=111127517&article_details=1

18


doanh, thương mại, sở hữu trí tuệ, phá sản, lao động và án lệ về hành chính ...);
chuẩn bị đầy đủ các điều kiện, phương tiện để tuyển chọn và phát hành án lệ (trong
đó cần phải tăng cường năng lực cho Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân
tối cao, Tòa án quân sự trung ương; mở các trang thông tin điện tử của các Tòa án
nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án
nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh).
Ba là, nâng cao trình độ của Thẩm phán. Việc xây dựng và sử dụng án lệ luôn
đặt vai trò của Thẩm phán lên hàng đầu vì họ là người trực tiếp xây dựng và sử
dụng án lệ. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay số lượng các Thẩm phán chưa nhiều,
trình độ chuyên môn còn hạn chế. Đây là thực tế mà không ít lần những người
đứng đầu ngành tư pháp đã phát biểu công khai và thừa nhận. Vì vậy, đây sẽ là một
trở ngại vô cùng lớn cho việc chấp nhận sử dụng án lệ. Vì vậy, cần bồi dưỡng nâng
cao trình độ nói chung và chuyên sâu về án lệ cho thẩm phán. Bên cạnh đó, cũng

cần thiết tổ chức tập huấn, đào tạo kỹ năng viết bản án; kỹ năng biên tập án lệ; kỹ
năng nghiên cứu, phân tích, áp dụng án lệ cho Thẩm phán, Hội thẩm và các chức
danh tư pháp khác trong và ngoài Tòa án nhân dân.
III.KẾT LUẬN:
Nói tóm lại , việc áp dụng án lệ ngoài ý nghĩa giải quyết một vụ án cụ thể còn
thiết lập ra một tiền lệ để xử những vụ án tương tự sau này, do đó, sẽ tạo bình đẳng
trong việc xét xử các vụ án giống nhau, giúp tiên lượng được kết quả của các vụ
tranh chấp, tiết kiệm công sức của các Thẩm phán, Người tham gia tố tụng, Cơ
quan tiến hành tố tụng, tạo ra sự công bằng trong xã hội. Án lệ là khuôn thước mẫu
mực để các thẩm phán tuân theo vì được đúc kết, chọn lọc kỹ và mang tính chuyên
nghiệp.
Như vậy, vấn đề đa dạng hóa hình thức pháp luật, thừa nhận tập quán pháp và
tiền lệ pháp trong hoạt động áp dụng pháp luật luôn một chủ đề rất lớn, do đó, cần
phải được tiếp tục nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp
với thực tiễn cuộc sống. Khi ấy thẩm phán chỉ cần đối chiếu để đưa ra phán quyết,

19


nó không chỉ tránh chuyện mỗi người nhìn nhận, đánh giá vấn đề một kiểu, mà còn
góp phần tích cực trong việc đảm bảo công bằng xã hội.
Danh mục tài liệu tham khảo:
1.

Hiến pháp 2013; Bộ luật dân sự Pháp; Bộ luật dân sự Thụy Sỹ, Luật

về tòa hiến pháp liên bang Đức;
2. Thông tư số 422/TT-TTg ngày 19/01/1955 của Thủ tướng Chính phủ
về việc trừng trị một số tội phạm;
3. Nghị quyết số 49/NQ-TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020 của Bộ Chính trị ngày 02/06/2005;
4. Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp
dụng án lệ;
5. TS.Nguyễn Quốc Hoàn (cb)-Giáo trình luật so sánh-Trường đại học
luật Hà Nội-Nxb Công an nhân dân-Hà Nội-2015;
6. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luận Nhà nước và pháp
luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội-2006;
7. Một số bài viết:
•ThS Lê Văn Sua-Án lệ và vai trò của án lệ trong hoạt động xét xử của
Tòa án.
•Trương Hòa Bình.Bí thư TW Đảng, Chánh án TANDTC-Thực hiện tốt
nhiệm vụ phát triển án lệ, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt
động xét xử của Tòa án.
9.Một số trang web:
/> /> />p_page_id=1&p_cateid=1751909&item_id=111127517&article_details=1

20



×