Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SKKN2016 cấp thành phố “KINH NGHIỆM HƯỚNG DẪN HỌC SINH PHƯƠNG PHÁP GIẢI BÀI TẬP VỀ THẤU KÍNH – LỚP 9”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.76 KB, 28 trang )

Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9

CỘNG HOÀ XÀ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC
**********************

SƠ YẾU LÍ LỊCH
Họ và tên:

Hoàng Văn Giáp

Ngày tháng năm sinh:

31/7/1976

Trình độ chuyên môn:

CĐSP Lí – KTCN

Hệ đào tạo:

Cao đẳng - Chính quy

Năm vào ngành:

2008

Bộ môn giảng dạy:

Vật lí


Chức vụ:

Giáo viên

Đơn vị công tác:

Trường THCS Bình Phú

Ngày vào Đảng:

22/8/2002

Ngày vào Đảng chính thức:

22/8/2003

Trình độ chính trị:

Cử nhân chính trị

Khen thưởng cao nhất:

- Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở
- Giáo viên day giỏi cấp huyện

Kỉ luật:

Không

1/28



Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9

CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Nội dung

Trang

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Tên đề tài..........................................................................................
II. Lí do chọn đề tài………………………………………………………
III. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu…………………………………...
IV. Mục tiêu của đề tài…………………………………………………...
V. Đối tượng – Phạm vi – Thời gian nghiên cứu……………………….
VI. Nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………………...
VII. Phương Pháp nghiên cứu…………………………………………..
B- NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
I. Vai trò của bài tập vật lí.........................................................................
II. Một số nhiệm vụ mà giáo viên phải xây dựng....................................
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
I. Thực trạng ……………………………………………………………..
II. Khảo sát thực tế...............................................................................
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ THỰC HIỆN
I. Hệ thống hóa kiến thức cho học sinh................................................
II. Hướng dẫn HS tìm hiểu đề bài..........................................................
III. Hướng dẫn học sinh vạch kế hoạch giải bài tập về thấu kính một cách
logic có hệ thống
IV. Hướng dẫn học sinh áp dụng phương pháp giải một số bài tập cơ bản

V. Hướng dẫn học sinh giải một số bài tập nâng cao............................
VI. Hướng dẫn học sinh giải bài tập ở nhà...............................................
CHƯƠNG IV. KẾT QUẢ SAU KHI THỰC HIỆN.
C- KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I. Bài học kinh nghiệm.................................................................................
II. Kiến nghị.................................................................................................
III. Kết luận chung.......................................................................................

2/28

3
3
4
4
4
4
4
5
6
7
8
8
9
10
11
13
20
21
23
24

24
24
25


Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. TÊN ĐỀ TÀI
“KINH NGHIỆM HƯỚNG DẪN HỌC SINH
PHƯƠNG PHÁP GIẢI BÀI TẬP VỀ THẤU KÍNH – LỚP 9”

II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Trong việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng bộ môn
Vật lý nói riêng. Việc cải tiến phương pháp dạy học là một nhân tố quan trọng,
bên cạnh việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, việc phát huy tính tích cực của
học sinh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi vì xét cho cùng công việc giáo dục
phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động, việc khơi dậy phát
triển ý thức năng lực tư duy, bồi dưỡng phương pháp tự học là con đường phát
triển tối ưu của giáo dục. Cũng như trong học tập các bộ môn khác, học Vật lí lại
càng cần phát triển năng lực tích cực, năng lực tư duy của học sinh để không
phải chỉ biết mà còn phải hiểu để giải thích hiện tượng Vật lí cũng như áp dụng
kiến thức và kỹ năng vào các hoạt động trong cuộc sống gia đình và cộng đồng.
Trong khuôn khổ nhà trường phổ thông, bài tập Vật lí thường là những
vấn đề không quá phức tạp, có thể giải được bằng những suy luận lôgíc, bằng
tính toán hoặc thực nghiệm dựa trên cơ sở những quy tắc Vật lí, phương pháp
Vật lí đã quy định trong chương trình học. Nhưng bài tập Vật lí lại là một khâu
quan trọng trong quá trình dạy và học Vật lí.
Việc giải bài tập Vật lí giúp củng cố đào sâu, mở rộng những kiến thức cơ
bản của bài giảng, xây dựng củng cố kỹ năng kỹ xảo vận dụng lý thuyết vào

thực tiễn, là biện pháp quý báu để phát triển năng lực tư duy của học sinh, có tác
dụng sâu sắc về mặt giáo dục tư tưởng, đạo đức lớn. Vì thế trong việc giải bài
tập Vật lí không chỉ là tìm ra đáp số mà thông qua bài tập vật lý học sinh hiểu
được sâu sắc hơn các khái niệm, định luật Vật lí, vận dụng chúng vào những vấn
đề thực tế trong cuộc sống, trong lao động.
Vừa qua cùng với sự đổi mới phương pháp dạy học chung của ngành giáo
dục, đồng thời bản thân cũng tự kiểm tra, tổng kết tình hình dạy học Vật lí, cùng
với việc tiếp thu các chuyên đề, thấy được tác dụng giáo dưỡng và giáo dục rất
lớn đối với học sinh khi giải bài tập Vật lí. Từ đó vận dụng vào quá trình giảng
dạy, tôi thấy có hiệu quả hơn so với trước đây, chất lượng học sinh được nâng
cao rõ rệt.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài: kinh nghiệm
hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9” nhằm giúp
học sinh nắm chắc được kiến thức cơ bản, mở rộng và hiểu sâu kiến thức. Từ đó
nâng cao được chất lượng bộ môn Vật lí và biết vận dụng vào thực tế.

3/28


Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9

III. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
Thực tế qua các năm dạy chương trình Vật lý lớp 9 ở trường THCS nơi
tôi công tác bản thân nhận thấy:
- Việc dạy học Vật lí trong trường phổ thông hiện nay chưa phát huy được
hết vai trò của bài tập Vật lí trong thực hiện các nhiệm vụ dạy học. Dạy học sinh
giải bài tập Vật lí là một công việc khó khăn và ở đó bộc lộ rõ nhất trình độ của
người giáo viên trong việc hướng dẫn hoạt động trí tuệ của học sinh.
- Các bài toán quang hình học lớp 9 nói chung và các bài tập về thấu kính
nói riêng mặc dù chiếm một phần nhỏ trong chương trình Vật lý 9, nhưng đây là

loại toán các em hay lúng túng, nếu các em được hướng dẫn một số điểm cơ bản
thì những loại toán này không phải là quá khó.
- Kiến thức về thấu kính chính là cơ sở khoa học cho một số ứng dụng
quan trọng của phần quang học trong đời sống. Do vậy bài tập về thấu kính còn
giúp học sinh củng cố kiến thức về thấu hính từ đó hiểu và giải thích được các
ứng dụng trong cuộc sống tạo niềm tin và say mê nghiên cứu khoa học. Nếu học
sinh nắm rõ phương pháp giải bài tập này thì cũng biết cách giải về các bài tập
quang hình khác như bài tập về các ứng dụng trong máy ảnh, kính lúp, kính lão,
kính cận ….
Xuất phát từ tầm quan trọng của bài tập về thấu kính đối với bài tập
quang hình học. Tôi thấy rằng việc rèn luyện kỹ năng cho học sinh giải bài tập
về thấu kính là việc làm hết sức cần thiết.

IV. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI.
Hình thành cho học sinh một cách tổng quan về phương pháp giải một bài
tập về thấu kính, từ đó các em có thể vận dụng một cách thành thạo và linh hoạt
trong việc giải các bài tập ứng dụng quang hình học khác, nâng cao hiệu quả của
bài tập, giúp các em nắm vững kiến thức trong quá trình học tập.

V. ĐỐI TƯỢNG - PHẠM VI - THỜI GIAN NGHIÊN CỨU .
- Đối tượng nghiên cứu: Phương pháp giải bài tập về thấu kính lớp 9
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được thực hiện với học sinh khối 9 trường
THCS nơi tôi công tác.
- Thời gian thực hiện: Đầu học kỳ II năm học 2015 – 2016

VI. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
- Nghiên cứu lí luận về phương pháp giải bài tập về thấu kính.
- Nghiên cứu lí luận về sử dụng bài tập vật lí trong dạy học Vật lí.
- Nghiên cứu chương trình nội dung kiến thức các bài học phần quang học
trong vật lí lớp 9

- Nghiên cứu tình hình dạy và học Vật lí. Đặc biệt quan tâm đến hoạt động sử
dụng bài tập về thấu kính.

VII. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
1. Nghiên cứu lí luận. Cụ thể là nghiên cứu các vấn đề:
- Các tài liệu liên quan tới việc sử dụng bài tập thấu kính trong dạy học Vật lí.
- Lí luận về sử dụng bài tập về thấu kính trong dạy học.
- Các tài liệu nói về phương pháp giải bài tập Vật lí nói chung.
4/28


Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9

2. Phương pháp điều tra sư phạm.
- Điều tra gián tiếp bằng cách sử dụng các bài kiểm tra có nội dung kiến thức
và thời gian ngắn.
- Điều tra gián tiếp bằng cách giao bài tập về nhà.
3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
- Áp dụng đề tài vào dạy học thực tế thông qua các tiết bài tập hoặc phần vận
dụng trong bài lí thuyết từ đó thu thập thông tin để điều chỉnh cho phù hợp.

B. NỘI DỤNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
Những về bài thấu kính trong chương trình vật lí lớp 9 nằm trong 4 tiết lí
thuyết nhưng lại có vai trò quan trọng trong cả chương Quang học và đặc biệt nó
là nền tảng kiến thức cho các bài ứng dụng như: Sự tạo ảnh trong máy ảnh, Mắt,
Mắt cận và mắt lão, kính lúp. Mặc dù các em đã học phần quang ở năm lớp 7,
nhưng chỉ là những khái niệm cơ bản, cho nên những bài toán loại này vẫn còn
mới lạ đối với học sinh. Mặc dù không quá phức tạp đối với học sinh lớp 9
nhưng vẫn tập dần cho học sinh có kỹ năng định hướng về kiến thức và bài giải

một cách có hệ thống, có khoa học, dễ dàng thích ứng với các bài toán quang
hình học đa dạng hơn ở các lớp cấp trên sau này .

I. VAI TRÒ CỦA BÀI TẬP VẬT LÍ.
1. Bài tập Vật lí giúp cho học sinh ôn tập, đào sâu, mở rộng kiến thức.
Bài tập vật lý giúp học sinh hiểu sâu hơn những qui luật vật lý, những hiện
tượng vật lý, tạo điều kiện cho học sinh vận dụng linh hoạt, tự giải quyết những
tình huống cụ thể khác nhau, để từ đó hoàn thiện về mặt nhận thức và tích lũy
thành vốn riêng của mình. Muốn làm được bài tập vật lý, học sinh phải biết vận
dụng các thao tác tư duy, so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa.... để xác
định được bản chất vật lý, trên cơ sở đó chọn ra các công thức thích hợp cho
từng bài tập cụ thể. Vì thế bài tập vật lý còn là phương tiện tốt để phát triển tư
duy, óc tưởng tượng, sáng tạo, tính tự lực trong suy luận.
Bài tập vật lí là một phương tiện củng cố, ôn tập kiến thức sinh động. Khi
giải bài tập vật lí học sinh phải nhớ lại các kiến thức đã học, có khi phải sử dụng
tổng hợp các kiến thức của nhiều chương nhiều phần của chương trình.
2. Bài tập có thể là điểm khởi đầu để dẫn đến kiến thức mới.
Nhiều khi bài tập được sử dụng khéo léo có thể dẫn học sinh đến những
suy nghĩ về một hiện tượng mới hoặc xây dựng một khái niệm mới để giải thích
hiện tượng mới do bài tập phát hiện ra.
Bài tập về Thấu kính hội tụ giúp học sinh hiểu, khắc sâu thêm phần lý
thuyết và đặc biệt giúp học sinh có phương pháp giải tốt các bài tập về quang
hình học. Biết vận dụng kiến thức về Thấu kính hội tụ để giải quyết các nhiệm
vụ học tập và những vấn đề thực tế của đời sống có liên quan như máy ảnh, mắt,
kính lúp, kính lão … là thước đo mức độ hiểu biết, kĩ năng của mỗi học sinh.
5/28


Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9


3. Giải bài tập vật lý rèn luyện kỹ năng vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, rèn
luyện thói quen vận dụng kiến thức khái quát.
Bài tập vật lý là một trong những phương tiện rất quý báu để rèn luyện kỹ
năng vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, rèn luyện thói quen vận dụng kiến thức
khái quát đã thu nhận được để giải quyết các vấn đề của thực tiễn. Ví dụ thấu
kính hội tụ cho ảnh thật thì ứng dụng trong máy ảnh, giải thích được quá trình
tạo ảnh trong mắt; Còn cho ảnh ảo ứng dụng trong kính lúp, kính lão ....
4. Giải bài tập là một trong những hình thức làm việc tự lực cao của học
sinh.
Trong khi làm bài tập do phải tự mình phân tích các điều kiện của đầu bài,
tự xây dựng những lập luận, kiểm tra những kết luận mà học sinh rút ra được
nên từ duy của học sinh được phát triển năng lực làm việc tự lực nâng cao, tính
kiên trì được phát triển.
5. Giải bài tập góp phần làm phát triển tư duy sáng tạo của học sinh.
Có nhiều bài tập vật lý không chỉ dừng lại trong phạm vi vận dụng những
kiến thức đã học mà còn giúp bồi dưỡng cho học sinh tư duy sáng tạo.
Đặc biệt là những bài tập giải thích hiện tượng, bài tập thí nghiệm.
6. Giải bài tập vật lý là một phương tiện để kiểm tra mức độ nắm vững kiến
thức của học sinh.
Tuỳ theo cách ra bài tập ta có thể phân loại được các mức độ nắm vững
kiến thức của học sinh giúp việc đánh giá chất lượng học sinh được chính xác.
Bài tập vật lý giúp học sinh hiểu sâu hơn những qui luật vật lý, những hiện tượng
vật lý, tạo điều kiện cho học sinh vận dụng linh hoạt, tự giải quyết những tình
huống cụ thể khác nhau, để từ đó hoàn thiện về mặt nhận thức và tích lũy thành
vốn riêng của mình.

II. MỘT SỐ NHIỆM VỤ MÀ GIÁO VIÊN PHẢI XÂY DỰNG
Trước hết muốn hướng dẫn tốt một tiết bài tập cho học sinh, người giáo
viên phải xây dựng cho mình một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Chọn lọc và nhóm các bài tập về thấu kính theo dạng, xây

dựng phương pháp giải chung cho mỗi dạng; biên soạn bài tập mẫu, bài tập vận
dụng và nâng cao. Các bài tập phải đa dạng về thể loại, các kiến thức toán lý
phải phù hợp với trình độ của học sinh. Số lượng bài tập phải phù hợp với thời
gian. Ngoài ra phải dự đoán trước những sai lầm mà học sinh có thể mắc phải và
cách khắc phục.
Thứ hai: Phải phân tích thật kỹ kiến thức trong sách giáo khoa và các
kiến thức có liên quan đến phần bài tập mà bài tập yêu cầu.
Thứ ba: Phải tìm hiểu kỹ, vận dụng một cách linh hoạt vào việc lĩnh hội
kiến thức của học sinh của một số trường lân cận và trường mình công tác. Nhất
là giáo viên phải biết phần lý thuyết mà học sinh ở những năm trước thường
hiểu nhầm ở phần bài tập này như thế nào. Nay phải đặt câu hỏi như thế nào cho
6/28


Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9

học sinh tránh những sai lầm đó. Nếu học sinh nói đúng (hoặc sai) giáo viên cần
nhấn mạnh và lưu ý cho các em về vấn đề đó.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
I. THỰC TRẠNG.
Chương trình sách giáo Vật lý hiện nay kiến thức rất tinh giản. Đòi hỏi
giáo viên phải có kiến thức thật vững, hiểu rõ từng ý, từng phần trong SGK, làm
sao trong mỗi bài học học sinh phải tự phát hiện, tự lĩnh hội kiến thức một cách
đầy đủ và liên hệ được nội dung bài học với thực tiễn.
Việc đổi mới phương pháp dạy học đã đem lại nhiều kết quả rất khả quan:
học sinh từ tiếp thu kiến thức một cách thụ động sang tự động lĩnh hội kiến thức,
tích cực thảo luận, chia sẽ kiến thức với các bạn trong lớp, trong giờ học các em
có sự say mê tìm tòi kiến thức. Trước khi thực hiện đề tài qua giảng dạy ở
trường THCS nơi tôi công tác, qua tìm hiểu và trao đổi với đồng nghiệp tôi nhận

thấy một số nhược điểm của học sinh khi giải các bài tập phần thấu kính lớp 9
như sau:
- Do tư duy của nhiều học sinh còn hạn chế nên khả năng tiếp thu bài còn
chậm, lúng túng từ đó không nắm chắc các kiến thức, kĩ năng cơ bản do đó khó
mà vẽ ảnh của một vật qua thấu kính và hoàn thiện được một bài toán quang
hình học lớp 9.
- Kiến thức toán hình học còn hạn chế (đặc biệt là kiến thức về các cặp
tam giác đồng dạng) nên không thể giải được bài tập dẫn đến ngại học phần này.
- Do những hạn chế của thiết bị thí nghiệm, thực hành nên các tiết dạy
chất lượng chưa cao, dẫn đến học sinh tiếp thu kiến thức còn hời hợt.
Với mục đích là rèn luện khả năng sáng tạo Vật lý, trước mỗi bài tập Vật
lý nói chung và bài tập về thấu kính nói riêng tôi đã tập cho học sinh tìm ra
nhiều cách giải nhất, đồng thời gợi ý để học sinh thấy được đâu là cách giải tối
ưu nhất cho bài toán đó và nhược điểm của mỗi cách giải. Trên cơ sở đó học
sinh có thể khái quát thành bài toán tổng quát và xây dựng các bài toán tương tự.
Theo tôi thực trạng trên là do một số nguyên nhân sau:
- Về phía chương trình: Kiến thức phần quang học lớp 9 được gói gọn ở
chương III từ tiết 43 đến tiết 63, trong đó số tiết dành cho phần hướng dẫn bài
tập mà khối lượng bài tập trong SGK và SBT thì nhiều, điều này gây ra sự bị
động về quỹ thời gian cho việc học tập bộ môn của học sinh cũng như sự chủ
động kiến thức của giáo viên.
- Về phía giáo viên: Vẫn còn một số giáo viên dạy theo phương pháp đổi
mới chưa được nhuần nhuyễn, chưa chủ động được lượng kiến thức cũng như
lập kế hoạch cho một tiết bài tập. Thông thường là yêu cầu học sinh giải các bài
tập trong SGK, rất ít hoặc không có các bài tập điển hình mang tính tổng hợp.
- Về phía học sinh: Một số nhược điểm của học sinh trong quá trình giải
toán quang hình học và bài tập về thấu kính hội tụ ở lớp 9:
+ Đọc đề hấp tấp, qua loa, khả năng phân tích đề, tổng hợp đề còn yếu,
lượng thông tin cần thiết để giẩi toán còn hạn chế.
7/28



Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9

+ Vẽ hình còn lúng túng. Một số vẽ sai hoặc không vẽ được ảnh của vật
qua thấu kính, qua mắt, qua máy ảnh… do đó không thể giải được bài toán.
+ Một số chưa nắm được kí hiệu các loại thấu kính, các đặc điểm của tiêu
điểm, các đường truyền của tia sáng đặc biệt, chưa phân biệt được ảnh
thật hay ảnh ảo.
+ Chưa có thói quen định hướng cách giải một cách khoa học trước những
bài toán quang hình học lớp 9.
+ Phần lớn học sinh chưa tổng hợp được kiến thức vật lý từ lớp 6, 7, 8,
đặc biệt là kiến thức phần quang học ở lớp 7 các em hầu như không nhớ chính
xác dẫn đến sự tiếp cận kiến thức lớp 9 còn rất nhiều hạn chế. Trong khi làm bài
tập nhiều học sinh vẫn còn thờ ơ, chỉ chú trọng kết quả mà không quan tâm tới
trình bày có cơ sở.

II. KHẢO SÁT THỰC TẾ.
Đề bài (15 phút)
Một vật sáng hình mũi tên AB đặt vuông góc với trục chính
của một thấu kính hội tụ có tiêu cự f = 18cm, cách thấu kính 24cm, A
nằm trên trục chính. Tính khoảng cách từ ảnh tới thấu kính và chiều
cao của ảnh, biết vật cao 7mm.
Kết quả khảo sát trước khi thực hiện đề tài
Lớp

Sĩ số

Năm học


9A
9B
9C
9D

41
42
42
42

2015-2016
2015-2016
2015-2016
2015-2016

Giỏi, khá
SL
%
9
21,9
3
7,1
4
9,5
4
9,5

TB trở lên
SL
%

34
82,9
15
35,7
16
38,1
18
42,8

Qua bảng thống kê ta thấy: Số lượng học sinh đạt điểm giỏi, khá, trung
bình trở lên còn thấp.

CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ THỰC HIỆN







Hệ thống hóa kiến thức cho học sinh.
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài.
Hướng dẫn học sinh vạch kế hoạch giải bài tập về thấu kính một cách
logic có hệ thống.
Hướng dẫn học sinh áp dụng phương pháp giải một số bài tập cơ bản.
Hướng dẫn học sinh giải một số bài tập nâng cao.
Hướng dẫn học sinh giải bài tập ở nhà.

8/28



Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9

I. HỆ THỐNG HÓA KIẾN THỨC CHO HỌC SINH.
Thực tế trong giảng day kiến thức trên lớp bao gồm nhiều mảng kiến thức
khác nhau nên việc nắm kiến thức của các em rất dàn trải, lẫn lộn nhất là đối với
các thấu kính học sinh dễ bị nhầm lẫn nhau.
Khi thực hiện đề tài vào việc giảng dạy, trước hết tôi củng cố về lý thuyết,
hướng dẫn các em phương pháp khai thác, phân tích đề để biết cách xác định
dạng bài rồi từ đó hướng dẫn cho các em cách xây dựng phương pháp chung để
giải các bài tập dạng đó, cụ như sau:
Trong các bài về thấu kính giáo viên tổng hợp kiến thức cho học sinh ghi
nhớ một cách tổng quát và ngắn gọn nhất theo dạng sơ đồ tư duy, từ đó học sinh
có thể áp dụng kiến thức vào phần bài tập một cách linh hoạt và có logic.
Qua việc nắm vững kiến thức cơ bản. Sẽ giúp học sinh vẽ ảnh của một
điểm sáng, ảnh của một vật sáng, nhận biết và phân biệt được thấu kính hội tụ
với thấu kính phân kì, định hướng trước được đặc điểm của ảnh của một vật
trong từng trường hợp. Từ những trường hợp cơ bản học sinh có thể vẽ ảnh hoặc
đường đi của tia sáng qua thấu kính trong các trường hợp mở rộng. Và cũng từ
việc hệ thống hóa kiến thức này học sinh dễ dàng tiếp cận các ứng dụng của mỗi
loại thấu kính trong thực tế thông qua các đặc điểm đặc trưng của nó.
Khi học xong các mỗi bài về thấu kính và thấu kính phân kỳ giáo viên hệ
thống hóa kiến thức cho học sinh theo sơ đồ tư duy như sau:
Hệ thống kiến thức về Thấu kính hội tụ:

9/28


Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9


Hệ thống kiến thức về Thấu kính phân kì:

II. HƯỚNG DẪN HỌC SINH TÌM HIỂU ĐỀ BÀI.
Thông thường học sinh chỉ đọc đề bài qua loa, chỉ chú ý đến đề bài hỏi gì
nên rất lúng túng khi. Điều này càng khó khăn khi các em giải các bài tập liên
quan đến hình học. Do vậy giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài
theo các bước sau:
- Đọc kĩ đề bài (Có thể 2 đến 3 lần)
- Hỏi theo trình tự sau:
+ Bài toán cho biết gì? (Loại thấu kính, vật đặt trong hay ngoài tiêu điểm,
các khoảng cách đã biết ...)
+ Cần tìm gì? Yêu cầu gì? (Tính chất ảnh, khoảng cách nào?)
+ Vẽ hình như thế nào ? Ghi tóm tắt (Chú ý đổi đơn vị để đồng nhất)
+ Cho học sinh đọc lại đề (dựa vào tóm tắt để đọc).
Ví dụ:
Đặt vật sáng AB cao 6mm trước một thấu kính phân kì có tiêu cự 12cm.
Vật AB vuông góc với trục chính của thấu kính, A nằm trên trục chính và cách
quang tâm O một đoạn bằng 8cm. Tính:
a. Khoảng cách từ ảnh đến thấu kính?
b. Chiều cao của ảnh ?
Giáo viên cho học sinh đọc vài lần. Hỏi:
* Bài toán cho biết gì?
- Thấu kính đã cho là thấu kính gì? Tiêu cự là bao nhiêu ?
- Vật AB được đặt như thế nào với trục chính của thấu kính? Cách kính
bao nhiêu ?
- Vật AB có kích thức bao nhiêu, được đặt ở vị trí nào so với tiêu cự ?
10/28


Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9


* Bài toán cần tìm gì? Yêu cầu gì?
- Để dựng ảnh của vật sáng AB ta phải sử dụng các tia sáng đặc biệt nào ?
- Đề bài yêu cầu tính những đoạn nào ?
* Một học sinh lên bảng ghi tóm tắt sau đó vẽ hình . (cả lớp cùng làm)
Cho biết
OF = 12 cm
AB = 6mm
OA = 8cm
a. OA’ = ?
b. A’B’ = ?

I

B
B’
F
A

A’

O

* Với việc ghi tóm tắt và vẽ hình như trên học sinh có dễ dàng nắm được
yêu cầu của đề bài. Học sinh dựa vào hình vẽ và kiến thức hình học có thể tính
toán được các đoạn mà đề bài yêu cầu. Bài toán vật lí lúc này giống như một bài
về hình học mà các em đã quen.
Giáo viên có thể cho 1-2 học sinh dựa vào tóm tắt đọc lại đề.(có như vậy
học sinh mới hiểu sâu đề bài).


III. HƯỚNG DẪN HỌC SINH VẠCH KẾ HOẠCH GIẢI BÀI
TẬP VỀ THẤU KÍNH MỘT CÁCH LOGIC CÓ HỆ THỐNG.
Xét về tính chất thao tác của tư duy, khi giải các bài tập vật lí, người ta
thường dùng phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp.
1. Giải bài tập bằng phương pháp phân tích.
- Theo phương pháp này, xuất phát điểm của suy luận đại lượng cần tìm.
Người giải phải tìm xem đại lượng chưa biết này có liên quan với những đại
lượng Vật lí nào khác và một khi biết sự liên hệ này thì biểu diễn nó thành
những công thức tương ứng. Nếu một vế của công thức là đại lượng cần tìm còn
vế kia chỉ gồm những dữ liệu của bài tập thì công thức ấy cho ra đáp số của bài
tập. Nếu trong công thức còn những đại lượng khác chưa biết thì đối với mỗi đại
lượng đó, cần tìm một biểu thức liên hệ với nó với các đại lượng Vật lí khác; cứ
làm như thế cho đến khi nào biểu diễn được hoàn toàn đại lượng cần tìm bằng
những đại lượng đã biết thì bài toán đã được giải xong.
Như vậy cũng có thể nói theo phương pháp này, ta mới phân tích một bài
tập phức tạp thành những bài tập đơn giản hơn rồi dựa vào những quy tắc tìm lời
giải mà lần lượt giải các bài tập đơn giản này. Từ đó tìm dần ra lời giải của các
bài tập phức tạp nói trên.
Ví dụ: Đặt vật AB cao 12cm vuông góc với trục chính của một thấu kính
hội tụ (A nằm trên trục chính) và cách thấu kính 24cm thì thu được một ảnh thật
cao 4cm. Tính khoảng cách từ ảnh đến thấu kính và tính tiêu cự của thấu kính?
Để hướng dẫn học sinh phân tích, tìm hiểu bài toán phải cho học sinh đọc
kĩ đề, ghi tóm tắt sau đó vẽ hình.
11/28


Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9

Cho biết:
TK hội tụ

AB = 12cm
OA = 24cm
A'B' = 4cm (ảnh thật)

I

B

F'
A


F

O



A'
B'

OA' = ?
OF = OF' = ?
Theo phương pháp phân tích ta có thể giải bài tập như sau:
- Ở đây đề bài yêu cầu tính OA’ mà ta đã biết các đoạn OA; AB; A’B’ ta phải tìm
mối liên hệ giữa bốn đoạn này.
+ Ta thấy OA’ và A’B’ nằm trong ∆ OA’B’ còn OA và AB nằm trong ∆ OAB
+ Mà ∆ OAB ~ ∆ OA'B' ( HS dễ dàng nhân ra điều này )
+ Áp dụng tỉ số đồng dạng ta có:


OA ' A ' B '
OA. A ' B ' 24.4
=
=> OA ' =
=
= 8(cm)
OA
AB
AB
12

- Tương tự: Muốn tính OF hoặc OF’ theo hình vẽ thì: OF’ = OA’- F’A’(1)
+ Mà F’A’ nằm trong ∆ F’A’B’
+ Ta thấy: ∆ F’A’B’ ~ ∆ F’OI
=>

F ' A' A' B '
F ' O. A ' B '
=
=> F ' A ' =
F 'O
OI
OI

+ Từ hình vẽ ta thấy: OI = AB do BI là tia song song với trục chính nên:
F ' A' =

F ' O. A ' B '
(2)
AB


+ Từ (1) và (2) ta có:
OF' = OA '+

F ' O. A ' B '
AB

+ Thay số: OF' = 8 +

OF '.4
=> OF' = 6(cm)
12

2. Giải bài tập bằng phương pháp tổng hợp.
Theo phương pháp này, suy luận không bắt đầu từ các đại lượng cần tìm
mà bắt đầu từ các đại lượng đã biết có nêu trong bài. Dùng công thức liên hệ các
đại lượng này với các đại lượng chưa biết, ta đi dần đến công thức cuối cùng
trong đó chỉ có một đại lượng chưa biết là đại lượng cần tìm.
Từ yêu cầu của đề bài và hình vẽ giáo viên cho học sinh tìm các cặp tam giác
đồng dạng có liên quan đến các đoạn đã biết và các đoạn chưa biết. Học sinh dễ
dàng nhận ra hai cặp tam giác đồng dạng là:
∆ OAB ~ ∆ OA'B' và ∆ OIF' ~ ∆ A'B'F'
Từ đó suy ra các tỉ số:
AB
OA
AB
OF'
OF'
=
=

=

A ' B ' OA '
A ' B ' F'A OA'-OF'

Thông qua các tỉ số học sinh tìm được mối liên hệ giữa các giái trị đã biết
và giái trị chưa biết.
Theo phương pháp tổng hợp ta có thể giải bài tập trên như sau:
- Khoảng cách từ ảnh đến thấu kính hội tụ là:
12/28


Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9
∆ OAB ~ ∆ OA'B' suy ra

AB
OA
A' B '.OA 4.24
=
⇒ OA' =
=
= 8(cm)
A' B ' OA'
AB
12

- Tiêu cự của thấu kính:
OI
OF'
OF'

=
=
Do OI = AB nên:
A ' B ' F'A OA'-OF'
AB
OF'
12
OF'
=

=
⇒ OF' = f = 6(cm)
A' B ' OA'-OF'
4 8 - OF'

∆ OIF' ~ ∆ A'B'F' ⇒

ĐS:

OA’ = 8cm
OF’= OF = 6cm
Nhìn chung, khi giải bất kỳ một bài toán về thấu kính nào ta đều có thể
dùng cả hai phương pháp: phân tích và tổng hợp. Phép giải bắt đầu bằng cách
phân tích các điều kiện của bài tập để hiểu được đề bài. Phải có một sự tổng hợp
kèm theo ngay để kiểm tra lại mức độ đúng đắn của sự phân tích các điều kiện
ấy. Muốn lập được kế hoạch giải, phải đi sâu vào phân tích nội dung vật lí của
bài tập. Tổng hợp những dữ kiện đã biết, ta mới xây dựng được lời giải và kết
quả cuối cùng. Phương pháp phân tích giúp học sinh hiểu được vấn đề cần giải
quyết, phương pháp này chủ yếu áp dụng trong khi ta hướng dẫn học sinh tìm
cách giải còn phương pháp tổng hợp cho ta lời giải ngắn gọn khoa học.

Như vậy ta có thể nói là trong quá trình giải bài tập về thấu kính cũng là
phương pháp giải các bài tập vật lí nói chung, ta đã dùng phương pháp phân tích
- tổng hợp.

IV. HƯỚNG DẪN HỌC SINH ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP GIẢI
MỘT SỐ BÀI TẬP CƠ BẢN.
1. Hướng dẫn học sinh giải các bài tập về dựng ảnh của một điểm sáng, của
một vật sáng.
Vì các bài tập này có vai trò quan trọng sau:
+ Qua bài tập học sinh được nhắc lại các tia sáng đặc biệt, đặc điểm của ảnh,
đặc điểm nhận biết của thấu kính.
+ Các bài tập này không thể thiếu được khi làm các bài tập định lượng như
tính khoảng cách từ ảnh đến thấu kính, tiêu cự, chiều cao ảnh …. nó có tác dụng
giống như một bài hình học mà bắt bộc học sinh phải vẽ được hình mới chứng
minh được.
+ Bài tập liên quan đến dựng ảnh còn có tác dụng học sinh phát hiện vấn đề
mới trong các bài ứng dụng của thấu kính trong đời sống thông qua các dụng cụ
quang học như mắt, máy ảnh, kính lúp, kính cận, kính lão.
*Ví dụ 1: Dựng ảnh S’ của các điểm sáng S tạo bởi TKHT ở các hình vẽ sau:
Phương pháp dựng: Từ điểm sáng S vẽ 2 trong 3 tia sáng đặc biệt qua TK:
S
F’



F

O

13/28


S’


Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9

*Ví dụ 2: Dựng ảnh A’B’của vật sáng AB tạo bởi TKHT và TKPK ở các hình vẽ
sau:
Phương pháp dựng: Chỉ cần dựng ảnh của điểm sáng B là B’. Từ B’ dựng
đường vuông góc xuống trục chính ta được A’. A’ là ảnh của A qua TK
+ Đối với TKHT
B’
B
F’



A’

A

F

O

+ Đối với TKPK
B B’
F’




A A’

F

O

Từ kiến thức cơ bản về dựng ảnh và nắm được các định nghĩa học sinh có
thể giải được bài tập sau
* Ví dụ 3: Cho hình vẽ sau:
S’
S


a. Thấu kính là loại nào? Vì sao ?
b. Hãy xác định quang tâm và các tiêu điểm của thấu kính ?
* Hướng dẫn giải: Để giải được bài tập này rõ ràng học sinh phải nắm được về
đặc điểm của ảnh tạo bởi TKHT, các tia sáng đặc biệt qua thấu kính, các khái
niệm về quang tâm, tiêu điểm và tiêu cự.
a. Từ hình vẽ ta thấy: S’ là ảnh của S mà S’ và S nằm cùng một phía so
với trục chính nên S’ là ảnh ảo của S (ảnh cùng chiều với vật)
Mà: S’ xa thấu kính hơn vật. Từ đó ta thấy thấu kính này cho ảnh ảo cùng chiều
và lớn hơn vật. Nên thấu kính đã cho là TKHT.
b. Như ta biết: Các tia sáng đi qua quang tâm thì tiếp tục truyền thẳng.
Nên ta nối S’ với S cắt trục chính ở đâu thì đó là quang tâm O.
14/28


Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9


Từ S vẽ tia sáng song song với trục chính thì tia ló phải có đường kéo dài qua S’
(vì S’ là ảnh của S ). Tia ló cắt trục chính ở đâu thì đó là tiêu điểm F’. Lấy F đối
xứng với F’ qua quang tâm O ta được tiêu điểm F.
S’
I

S



F’
O

F

* Do vậy ta thấy muốn giải được các bài tập này học sinh phải nắm
vững về đặc điểm của ảnh, đặc điểm nhận biết thấu kính, các tia sáng đặc
biệt, các khái niệm. Nên khi giải các bài tập này học sinh lại được nhắc lại
kiến thức một cách tự nhiên hơn.
Trong chương trình quang học lớp 9. Các thấu kính đều không xây dựng
công thức và không áp dụng công thức. Học sinh giải các bài tập liên quan đều
dựa vào kiến thức hình học để giải. Do vậy hướng dẫn học sinh giải các bài tập
này là rất quan trọng. Qua bài tập học sinh nắm được hướng giải và có thể coi là
kỹ năng giải bài toán phụ cho các bài tập nâng cao.
2. Hướng dẫn học sinh phương pháp giải về các bài tính khoảng cách liên
quan đến thấu kính.
2.1. Bài tập về thấu kính hội tụ
Căn cứ vào đặc điểm của ảnh tạo bởi thấu kính có thể chia bài tập này
thành 2 dạng như sau:
a. Dạng thấu kính hội tụ cho ảnh thật.

*Ví dụ: Vật AB = 3cm đặt vuông góc với trục chính của TKHT tại A và cách
thấu kính một đoạn d = 12 cm. Biết thấu kính có tiêu cự f = 9 cm. Tính chiều
cao của ảnh và khoảng cách từ ảnh đến thấu kính ?
Từ cách dựng ảnh học sinh chỉ cần vẽ 2 trong 3 tia sáng đặc biệt qua thấu
kính do vậy sẽ có 3 hình vẽ tương ứng tùy theo cách vẽ chính vì điều này học
sinh sẽ gặp lúng túng. Do vậy giáo viên chỉ cần hướng dẫn trên lớp một cách
còn các cách khác giao cho học sinh về nhà làm tương tự nhưng kết quả ba cách
phải bằng nhau.
Ta có các cách giải theo hình vẽ như sau:
Cách1:
B
A

•F

I
O

•F’

A’
B’

15/28


Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9

Vẽ hình : sử dụng 2 tia:
+ Tia tới quang tâm O.

+ Tia tới song song với trục chính:
A' B ' A' F '
A' B ' A'O − OF'
=

=
(1)
OI
OF'
AB
OF'
A' B ' A'O
A'O A'O − OF'
=
=
(2). Từ (1) và (2) ⇒
(3)
∆A' B 'O ∽ ∆ABO ⇒
AB
AO
AO
OF'
'
∆A' B ' F ' ∽ ∆OIF ⇒

Thay AO=12 cm; OF’=9 cm vào (3) ta được:
A'O A'O − 9
=
⇔ 9 A'O = 12 A'O − 108 ⇒ 3 A'O = 108 ⇒ A'O = 36(cm)
12

9
A' B ' 36
=
⇒ A' B ' = 9(cm)
Thay A’O = 36 cm vào (2) ta được:
3
12

Cách 2:
B
A

I

•F

O

•F'

K

A’

B


Vẽ hình: Sử dụng
+ Tia tới qua tiêu điểm F.
+ Tia tới // với trục chính.


2 tia.

OK OF
A' B '
OF
=

=
(1) ( Vì OK=A’B’)
AB AF
AB AO − OF
A' B '
9
=
⇒ A' B ' = 9(cm)
Thay AB=3cm; AO=12cm,OF=9cm vào (1) ta được:
3
12 − 9
' '
' '
' '
'
'
AB AF
A B A O − OF
'
=

=

(2) ( Vì OI = AB)
∆A' B ' F ' ∽ ∆OIF ⇒
'
OI
OF
AB
OF'
∆ABF ∽ ∆OKF ⇒

Thay AB=3cm; A’B’= 9cm, OF=9cm vào (1) ta được:
9 A'O − 9
=
⇔ 27 = A'O − 9 ⇒ A'O = 36(cm)
3
9

Cách 3:
B
A

•F

F

O




K


A’

B’

Vẽ hình: Sử dụng 2 tia .
+ Tia tới quang tâm O
+ Tia tới qua tiêu điểm F
16/28


Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9
OK OF
A' B '
OF
=

=
(1) ( Vì OK=A’B’)
AB AF
AB AO − OF
A' B '
9
=
⇒ A' B ' = 9(cm)
Thay AB=3cm; AO=12cm,OF=9cmvào (1)ta được:
3
12 − 9
' '
'

A B AO
=
(2)
∆A' B 'O ∽ ∆ABO ⇒
AB
AO
9 A'O
⇒ A'O = 36(cm)
Thay A’B’= 9cm; AB=3cm;AO=12cm vào (2) ta được: =
3 12
'
OA ' A ' B '
AO
A'O − OF'
=
=
* Vậy trường hợp TKHT cho ảnh thật ta có:

OA
AB
AO
OF'
∆ABF ∽ ∆OKF ⇒

d ' d '- f
d ' h'
=
=

d

f
d h
b. Dạng thấu kính hội tụ cho ảnh ảo.
*Ví dụ: Vật AB = 3 cm đặt vuông góc với trục chính của TKHT tại A và cách
TK một đoạn d = 6cm. Biết TK có tiêu cự f = 9 cm. Tính chiều cao của ảnh và
khoảng cách từ ảnh đến thấu kính ?
Từ cách dựng dựa vào 2 trong 3 tia sáng đặc biệt ta có các cách giải theo
hình vẽ như sau:
Cách 1:
Thay ký hiệu ta có:

B’

K
B

A’


F

A

I
O

•F’

Vẽ hình: Sử dụng 2 tia:
+ Tia tới // với trục chính

+ Tia tới qua tiêu điểm F
OK OF
A' B '
OF
=

=
(1) (Vì OK = A’B’)
AB AF
AB OF − AO
A' B '
9
=
⇒ A' B ' = 9(cm)
Thay AB= 3cm; AO= 6cm; OF=9cmvào(1) ta được:
3
9−6
' '
' '
' '
'
'
AB AF
A B A O + OF
=

=
(2) (Vì OI = AB)
- ∆A' B ' F ' ∽ ∆OIF' ⇒
'

OI
OF
AB
OF'

Ta có: - ∆ABF ∽ ∆OKF ⇒

Thay AB= 3 cm; A’B’= 9 cm; OF=9 cm vào (2) ta được:
9 A'O + 9
=
⇒ 27 = A'O + 9 ⇒ A'O = 18(cm)
3
9

17/28


Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9

Cách 2:
B’

A’


F

I

B


F’

A



O

Vẽ hình: Sử dụng 2 tia.
+ Tia tới // với trục chính
+ Tia tới quang tâm O
A' B ' A' F '
A' B ' A'O + OF'
=

=
(1) (Vì OI = AB)
OI
OF'
AB
OF'
'
A' B ' A'O
AO
A'O + OF'
' '
=
(2) Từ (1) và (2) suy ra:
=

- ∆A B O ∽ ∆ABO ⇒
( 3)
AB
AO
AO
OF'

Ta có: - ∆A' B ' F ' ∽ ∆OIF' ⇒

Thay AO=6cm;OF’=9cm vào (3) ta được:
'
AO
A'O + 9
=
⇒ 9 A'O = 6 A'O + 54 ⇒ A'O = 18 ( cm )
6
9
A' B ' 18
= ⇒ A' B ' = 9(cm)
Thay A’O= 18cm;AB=3cm; AO=6cm vào (2) ta được:
AB
6

Cách 3:
K

B’
B
A’



F

A

O

•F’

Vẽ hình: Sử dụng 2 tia.
+ Tia tới quang tâm O
+ Tia tới qua tiêu điểm F
OK OF
A' B '
OF
=

=
(1) (Vì OK = A’B’)
Ta có: - ∆ABF ∽ ∆OKF ⇒
AB AF
AB OF − AO
A' B '
9
=
⇒ A' B ' = 9(cm)
Thay AB= 3cm; AO= 6cm; OF=9cm vào(1) ta được:
3
9−6
A' B ' A'O

=
(2)
- ∆A' B 'O ∽ ∆ABO ⇒
AB
AO
9 A'O
’ ’
⇒ A'O = 18(cm)
Thay AB=3cm; A B =9cm; AO=6 cm vào (2) ta được: =
3
6
'
OA ' A ' B '
AO
A'O + OF'
=
=
* Vậy trường hợp TKHT cho ảnh ảo ta có:

OA
AB
AO
OF'
18/28


Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9

d ' d '+ f
d ' h'

=
=

d
f
d h
2.2. Bài tập về thấu kính phân kì
Ví dụ: Đặt vật AB cao 12cm vuông góc với trục chính của một thấu kính
hội tụ (A nằm trên trục chính) và cách thấu kính 24cm thì thu được một ảnh thật
cao 4cm. Tính khoảng cách từ ảnh đến thấu kính và tính tiêu cự của thấu kính?
Thay ký hiệu ta được:

Cho biết
OF = 12 cm
AB = 6mm
OA = 8cm
a. OA’ = ?
b. A’B’ = ?

I

B
B’
F
A

A’

O


* Ta cã: ∆OA′B ′ ∽ ∆OAB
A ' B ' OA '
=
(1)
AB
OA
* Ta cã: ∆FA′B ′ ∽ ∆FOI
A' B ' A' F
A ' B ' OF − OA '
=

=
(2)
OI
OF
AB
OF

Tõ (1) vµ (2) ta cã:
OA ' OF − OA '
=
OA
OF

Thay sè: OA’ = 4,8cm
Thay OA’ vµo (1) => A’B’=0,36cm
'
OA ' A ' B '
AO
OF' − OA '

=
=
* Vậy trường hợp TKPK ta có:

OA
AB
AO
OF'

d' f +d'
d ' h'
=
=

d
f
d h
Vậy qua các bài tập trên ta thấy:
+ Phương pháp chung là sử dụng các cặp tam giác đồng dang từ đó suy ra
các cặp tỉ số đồng dạng, dựa vào đó ta tìm được kết quả.
+ Đối với một bài tập vật lý nói chung hay bài tập về thấu kính nói riêng,
có thể cho ta nhiều cách giải khác nhau. Từ đó rút ra được cách giải nào đơn
giản nhất, dễ hiểu hơn. Hơn thế nữa học sinh phải biết tổng quát hoá các bài toán
cùng dạng và đưa ra phương pháp giải.
+ Từ cách giải trên học sinh có thể vận dụng vào các bài khác như tính
khoảng cách vật đến thấu kính, tính tiêu cự của thấu kính ...
* Chú ý phần này là phần cốt lõi để giải được một bài toán quang hình
học, nên đối với một số học sinh yếu toán hình học thì GV thường xuyên nhắc
nhở về nhà rèn luyện thêm phần này :
+ Một số vẽ sai ảnh, kí hiệu không đúng về tính chất ảnh.

Thay ký hiệu ta được:

19/28


Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9

+ Một số học sinh mặc dù đã nêu được các tam giác đồng dạng , nêu được
một số hệ thức nhưng không thể biến đổi suy ra các đại lượng cần tìm.
+ Một số còn viết sai hệ thức do các em nêu cặp tam giác đồng dạng
không đúng theo thứ tự đỉnh của nó.
Trường hợp trên GV phải nắm cụ thể từng học sinh. Sau đó giao nhiệm
vụ cho một số em khá trong tổ, nhóm giảng giải, giúp đỡ để cùng nhau tiến bộ.

V. HƯỚNG DẪN HỌC SINH GIẢI MỘT SỐ BÀI TẬP NÂNG CAO.
Phần bài tập về TKHT nói riêng và phần quang bài tập quang hình học nói
chung có trong kiến thức ôn thi học sinh giỏi cấp thành phố. Nên ngoài việc
hướng dẫn cho học sinh các bài tập cơ bản thì việc hướng dẫn cho học sinh thi
cấp thành phố là hết sức quan trong. Nên trong phần ôn tập giáo viên cho học
sinh làm các bài tập nâng cao trên cơ sở kiến thức của các bài tập cơ bản. Thông
qua đó học sinh sẽ thấy hứng thú hơn ( nhất là đối với học sinh khá giỏi ) vì
được áp dụng từ bài tập cơ bản đến các bài tập mở rộng gắn liền với thực tế. Nó
kích thích sự sáng tạo của các em trong vận dụng kiến thức tránh sự nhàm chán
khi phải giải các bài lặp đi lặp lại theo một phương pháp đã hình thành.
* Ví dụ 1: Một vật sáng AB cao 3cm đặt cách màn một khoảng L = 160cm.
Trong khoảng giữa vật sáng và màn có một TKHT có tiêu cự f = 30cm sao cho
trục chính của thấu kính vuông góc với vật AB.
a. Tìm vị trí đặt thấu kính để ta có được ảnh rõ nét của vật trên màn.
b. Tính độ cao của ảnh.
*Hướng dẫn giải :

a. Ta thấy thấy: Do ảnh hứng được trên màn nên ảnh là ảnh thật và luôn ở khác
bên với thấu kính so với vật.
d ' d '- f
=
Dựa vào bài tập cơ bản dạng thấu kính hôi tụ cho ảnh thật ta có:
(1)
d
f
Mà: d + d ' = L ⇒ d ' = L − d (2)
Thay (2) vào (1) ta được: fL = dL − d 2
⇒ d 2 − dL + fL = 0 . Thay số vào ta được: d 2 − 160d + 4800 = 0
Giải phương trình bậc hai trên ta được: d1 = 40 (cm) d2 = 120 (cm)
Vậy có hai vị trí đặt thấu kính để ta có được ảnh rõ nét của vật trên màn:
+ Vị trí thứ nhất vật đặt cách thấu kính một đoạn 40 cm.
+ Vị trí thứ hai vật đặt cách thấu kính một đoạn 120 cm.
A' B ' d '
d'
' '
=

A
B
=
×AB
b. Ta cũng có:
AB d
d

L−d
160 − 40

×AB =
×3 = 9(cm)
d
40
L−d
160 − 120
×AB =
×3 = 1(cm)
Khi d = 120cm thì độ cao của ảnh là: A' B ' =
d
120

Khi d = 40cm thì độ cao của ảnh là: A' B ' =

Ví dụ 2: Vật là đoạn thẳng sáng AB được đặt vuông góc với trục chính của một
TKHT (điểm A nằm trên trục chính) cho ảnh thật A 1B1 cao 1,2cm. Khoảng cách
từ tiêu điểm đến quang tâm của thấu kính là 20cm. Dịch chuyển vật đi một đoạn
15cm dọc theo trục chính thì thu được ảnh ảo A2B2 cao 2,4cm.
20/28


Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9

a. Xác định khoảng cách từ vật đến thấu kính trước khi dịch chuyển.
b. Tìm độ cao của vật.
*Hướng dẫn giải:
Gọi khoảng cách từ vật đến TK trước khi dịch chuyển là d1 và khoảng cách từ
ảnh đến TK khi đó là d1' . Khoảng cách từ vật đến TK sau khi dịch chuyển là d2
và khoảng cách từ ảnh đến TK khi đó là d 2' .
Vì sau khi dịch chuyển cho ảnh ảo nên vật được dịch chuyển lại gần thấu kính,

do đó: d 2 < d1 ⇒ d 2 = d1 − 15(cm)
Dựa vào bài toán cơ bản:
A1 B1 d1'
1, 2 d1'
=

=
* Trường hợp cho ảnh thật, ta có:
AB d1
AB d1
d1 ' d1 '- f
fd1
d1'
fd1
f
'
=
Þ
d
=
Þ
=
=
Và:
1
d1
f
d1 - f
d1 (d1 - f )d1 d1 - f
1, 2

f
1, 2
20
Nên: ⇒ AB = d − f ⇒ h = d − 20 (1)
1
1
A2 B2 d 2'
2, 4 d 2'
=

=
* Trường hợp cho ảnh ảo, ta có:
AB
d2
AB d 2
d 2 ' d 2 '+ f
fd 2
d 2'
fd 2
f
f
'
=
⇒ d2 =

=
=
=
Và:
d2

f
f − d2
d 2 ( f − d 2 )d 2 f − d 2 f − (d1 − 15)
2, 4
f
2, 4
20
20
Nên: ⇒ AB = f − (d − 15) ⇒ h = 20 − (d − 15) = 35 − d (2)
1
1
1
40
20
Từ (1) và (2) ⇒ d − 20 = 35 − d ⇔ 40(35 − d1 ) = 20(d1 − 20) ⇒ d1 = 30(cm)
1
1
1, 2(d1 − 20) 1, 2(30 − 20)
=
= 0, 6(cm)
Từ (1) ⇒ h =
20
20

Vậy khoảng cách từ vật đến thấu kính trước khi dịch chuyển là 30 cm và độ
cao của vật là 0,6 cm.
Vậy qua 2 ví dụ trên ta thấy: Mặc dù đối với lớp 9 học sinh không có
công thức tính toán cho phần này. Nhưng dựa vào các bài toán cơ bản học sinh
có thể xây dựng nên công thức tính để áp dụng cho các bài phức tạp. Lúc này
các bài tập cơ bản có thể coi là các bài tập phụ bổ trợ cho bài tập nâng cao.


VI. HƯỚNG DẪN HỌC SINH GIẢI BÀI TẬP Ở NHÀ.
Qua thực tế giảng dạy Vật lí lớp 9 phần quang học, tôi nhận thấy với cấu trúc
của chương trình có rất ít các tiết bài tập, thêm nữa thời lượng của một tiết học
trên lớp có hạn, học sinh chủ yếu tham gia vào các hoạt động tiếp thu kiến thức
về lí thuyết một cách cơ bản hoặc giải các bài tập đơn giản. Như vậy không có
đủ lượng thời gian để giáo viên mở rộng và nâng cao kiến thức cũng như rèn
luyện kỹ năng giải bài tập cho học sinh. Do đó bên cạnh việc hướng dẫn học
sinh trên lớp thì một trong những biện pháp tốt nhất để rèn luyện kỹ năng giải
bài tập cho học sinh để học sinh có thể thường xuyên được luyện giải nhiều
dạng bài tập khác nhau, cũng như tiếp xúc với các dạng bài tập có tính chất mở
21/28


Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9

rộng và nâng cao, để từ đó học sinh có thể vận dụng một cách linh hoạt các cách
giải từng dạng bài tập đó là : “Hướng dẫn học sinh học tập vật lí ở nhà.”
Việc học sinh tự học ở nhà có một ý nghĩa lớn lao về mặt giáo dục và giáo
dưỡng. Nếu việc học ở nhà của học sinh được tổ chức tốt sẽ giúp các em rèn
luyện thói quen làm việc tự lực, giúp các em nắm vững tri thức, có kỹ năng, kỹ
xảo. Ngược lại nếu việc học tập ở nhà của học sinh không được quan tâm tốt sẽ
làm cho các em quen thói cẩu thả, thái độ tắc trách đối với việc thực hiện nhiệm
vụ của mình dẫn đến nhiều thói quen xấu làm cản trở đến việc học tập.
Công việc học tập của học sinh ở nhà có những đặc điểm riêng sau:
+ Tiến hành trong một thời gian ngắn, không có sự hướng dẫn trực tiếp của
giáo viên, mặc dù đấy là công việc do chính giáo viên giao cho học sinh phải tự
mình hoàn thành, tự kiểm tra công việc mình làm.
+ Công việc này được thực hiện tuần tự theo hứng thú, nhu cầu và năng lực
của học sinh.

+ Dễ bị chi phối bởi ngoại cảnh khác.
Có thể coi quá trình học tập của học sinh ở nhà bao gồm các giai đoạn :
Trước hết phải nhớ lại những điều đã học ở lớp sau đó rèn luyện sáng tạo. Mỗi
giai đoạn có một nội dung công việc cụ thể.
Việc học tập của học sinh ở nhà phụ thuộc phần lớn vào việc dạy học trên
lớp của giáo viên. Vì vậy giáo viên cần phải căn cứ vào tình hình tiếp thu kiến
thức của học sinh mà giao cho các em những công việc có tính chất bổ sung
phục hồi tài liệu đã học như : nghiên cứu sách giáo khoa, vẽ hình ….
Trong khi dạy về vần đề nào đó cần suy nghĩ việc giao cho học sinh các
bài tập ở nhà. Chính việc giao bài làm một cách có hệ thống đảm bảo cho việc
học tập của học sinh có một quy luật chặt chẽ, nhờ đó mà học sinh có thể tự lực
giải quyết các bài tập kể cả những bài tập khó, vì đã có sự chuẩn bị ở các bài tập
dễ. Việc học sinh hoàn thành tốt các bài tập ở nhà không những chỉ giúp các em
nắm vững tri thức đã học cũng như rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo cần thiết, mà còn
giúp các em chuẩn bị tốt nhất cho việc tiếp thu kiến thức mới. Vì thế bên cạnh
những bài làm phục hồi, luyện tập và sáng tạo trên cơ sở kiến thức đã học cần
phải giao cho học sinh những bài làm mang những yếu tố chuẩn bị cho việc tiếp
thu chi thức mới. Có như vậy mới đảm bảo được việc tiếp thu một cách tích cực,
tự lực đối với những tri thức mới.
Ta có thể giao bài tập về nhà cho học sinh bằng nhiều hình thức :
+ Giao bài tập trong thời gian truy bài đầu giờ.
+ Giao bài tập sau tiết học.
+ Giao bài tập theo hệ thống bài tập SGK, SBT, sách tham khảo …
+ Giao bài tập theo dạng, theo chuyên đề .
Một biện pháp quan trọng nữa để đảm bảo công tác hướng dẫn học ở nhà
có kết quả là cần có những biện pháp kiểm tra, động viên, khích lệ kịp thời và
phù hợp :
+ Kiểm tra vở ghi, vở bài tập.
+ Cho điểm khuyến khích những học sinh có nhiều cố gắng hoặc
chuyển biến trong học tập.

22/28


Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9

CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ SAU KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các bước trên để hướng dẫn học
sinh giải các bài tập về thấu kính, tôi nhận thấy học sinh nắm vững lý thuyết
hơn, khi giải bài tập có định hướng rõ ràng, biết cách phân tích đề, xác định
dạng bài tập, vẽ được ảnh của vật tạo bởi thấu kính, cơ bản vận dụng được kiến
thức về tam giác đồng dạng trong tính toán, tính toán nhanh, chính xác. Chất
lượng học tập của học sinh đại trà được nâng lên rõ rệt.
Cụ thể thông qua khảo sát chất lượng học sinh sau khi “Kinh nghiệm
hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài về thấu kính – lớp 9” tôi thu được
kết quả như sau:
*Kết quả so sánh đối chứng. (Thông qua bài kiểm tra một tiết học kì II
phần quang học)
* Kết quả khảo sát trước khi thực hiện đề tài.
Giỏi, khá
TB trở lên
Lớp
Sĩ số
Năm học
SL
%
SL
%
9A
41
2015-2016

9
21,9
34
82,9
9B
42
2015-2016
3
7,1
15
35,7
9C
42
2015-2016
4
9,5
16
38,1
9D
42
2015-2016
4
9,5
18
42,8
* Kết quả khảo sát sau khi thực hiện đề tài.
Lớp

Sĩ số


Năm học

9A
9B
9C
9D

41
42
42
42

2015-2016
2015-2016
2015-2016
2015-2016

Giỏi, khá
SL
%
27
65,8
10
23,8
11
26,1
13
30,9

TB trở lên

SL
%
41
100
35
83,3
36
85,7
33
78,5

Qua so sánh đối chứng kết quả tôi thấy tỉ lệ điểm: Khá, Giỏi tăng, điểm trung
bình trở lên tăng rõ dệt :

C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
23/28


Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9

I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Để giúp học sinh hứng thú và đạt kết quả tốt trong việc giải toán về thấu
kính lớp 9, điều cơ bản nhất mỗi tiết dạy giáo viên phải tích cực, nhiệt tình,
truyền đạt chính xác, ngắn gọn nhưng đầy đủ nội dung, khoa học và lô gích
nhằm động não cho học sinh phát triển tư duy, độ bền kiến thức tốt.
Những tiết lý thuyết, thực hành cũng như tiết bài tập giáo viên phải chuẩn
bị chu đáo bài dạy, hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài theo ý định của giáo viên,
có như vậy giáo viên mới cảm thấy thoải mái trong giờ giải và chữa các bài tập
thấu kính từ đó khắc sâu được kiến thức và phương pháp giải bài tập của học
sinh.

Thường xuyên nhắc nhở các em yếu, động viên, biểu dương các em khá
giỏi, cập nhật vào sổ theo dõi và kết hợp với giáo viên chủ nhiệm để có biện
pháp giúp đỡ kịp thời, kiểm tra thường xuyên vở bài tập vào đầu giờ trong mỗi
tiết học, làm như vậy để cho các em có một thái độ đúng đắn, một nề nếp tốt
trong học tập.
Đối với một số học sinh chậm tiến bộ thì phải thông qua GVCN kết hợp
với gia đình để giúp các em học tốt hơn, hoặc qua giáo viên bộ môn toán để giúp
đỡ một số HS yếu toán có thể giải được một vài bài toán đơn giản về thấu kính.
Từ đó gây sự đam mê, hứng thú học hỏi bộ môn vật lý.
Trong quá trình giảng dạy bộ môn vật lý ở trường THCS việc hình thành
cho học sinh phương pháp, kỹ năng giải bài tập Vật lý nói chung, kỹ năng giải
bài tập về thấu kính nói riêng là rất cần thiết,từ đó giúp các em đào sâu, mở rộng
những kiến thức cơ bản của bài giảng, vận dụng tốt kiến thức vào thực tế, phát
triển năng lực tư duy cho các em, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Để
làm được điều này: Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nghiên cứu kỹ các kiến
thức cần nhớ để ôn tập, nhớ lại kiến thức cơ bản, kiến thức mở rộng, lần lượt
nghiên cứu kỹ các phương pháp giải bài tập sau đó giải các bài tập theo hệ thống
từ dễ đến khó, so sánh các dạng bài tập để khắc sâu nội dung kiến thức và cách
giải trên cơ sở đó học sinh tự hình thành cho mình kỹ năng giải bài tập, kỹ năng
vận dụng các kiến thức toán học liên quan vào giải bài tập vật lý.

II. KHUYẾN NGHỊ
1. Đối với các cấp quản lí giáo dục
Cần trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, trường lớp cho các trường đặc biệt là
thiết bị thí nghiệm nhất là môn học Vật lí là môn khoa học thực nghiệm, nó tạo
niềm tin sự yêu thích môn học cho học sinh.
Mở các lớp tập huấn cho giáo viên về việc áp dụng phương pháp dạy học
mới, triển khai các chuyên đề, phổ biến những sáng kiến kinh nghiệm có tính
thực tiễn và đạt giải cao. Tạo điều kiện cho giáo viên giao lưu học hỏi lẫn nhau.
Nhà trường cần giao nhiệm vụ cho các tổ khối chuyên môn thực hiện các

chuyên đề có đánh giá, tổng kết và rút kinh nghiệm thường xuyên.
Tạo mọi điều kiện để giáo viên tự học tập nâng cao chuyên môn nghiệp
vụ cho bản thân.
2. Đối với gia đình
24/28


Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kính - lớp 9

Cần giám sát chặt chẽ việc học tập của con em mình. Tạo cho con, em
mình có thời gian đầu tư vào việc học tập ở nhà, thường xuyên quan tâm, an ủi
động viên con cái trong học tập.
Thường xuyên liên hệ với giáo viên và nhà trường để biết được tình hình
học tập của con em mình.

III. KẾT LUẬN CHUNG
Dạy học nhằm góp phần quan trọng để hình thành nhân cách con người
lao động mới, sáng tạo, thích nghi với xã hội ngày càng phát triển. Do vậy
phương pháp dạy học bộ môn phải thực hiện được các chức năng nhận thức,
phát triển và giáo dục, tức là lựa chọn phương pháp dạy học bộ môn sao cho học
sinh nắm vững tri thức, kỹ năng và vận dụng tri thức vào thực tiễn.
Đặc biệt Vật lí là một môn khoa học thực nghiệm đòi hỏi phát huy cao độ
tính tích cực, độc lập sáng tạo của học sinh trong quá trình lĩnh hội tri thức.
Chính vì vậy lựa chọn phương pháp dạy học bộ môn vật lí, người giáo viên cần
căn cứ vào phương pháp đặc thù của khoa học lấy hoạt động nhận thức của học
sinh làm cơ sở xuất phát.
Sau thời gian nghiên cứu tìm hiểu, được sự quan tâm giúp đỡ của ban
giám hiệu nhà trường cũng như tổ chuyên môn tôi đã thực hiện thành công việc:
“Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập về thấu kínhlớp 9” với mong muốn: Phát triển năng lực duy rèn luyện kỹ năng, cho học sinh
trong việc học tập bộ môn Vật lí.

Những kinh nghiệm nêu trong đề tài có tác dụng giúp cho đa số học sinh
giải được dễ dàng một số dạng bài tập thường gặp về thấu kính; vừa có tác dụng
bồi dưỡng, rèn luyện các kiến thức kỹ năng giải bài tập vật lý một cách sâu sắc
và vững chắc qua đó phát huy được tính tích cực và sáng tạo của học sinh. Đề tài
còn có tác động lớn đến việc phát triển tìm lực trí tuệ, nâng cao năng lực tự học,
năng lực tư duy độc lập và khả năng tìm tòi sáng tạo cho học sinh giỏi.
Tuy nhiên vì điều kiện thời gian, cũng như tình hình thực tế nhận thức của
học sinh ở địa phương nơi tôi công tác và năng lực cá nhân có hạn, nên việc
thực hiện đề tài này chắc hẳn không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong các đồng
chí và các bạn đồng nghiệp, trao đổi và góp ý để giúp tôi hoàn thiện hơn trong
chuyên môn.
Tôi xin chân trọng cảm ơn !
Hà Nội, ngày 15 tháng 5 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
(Người viết)

Hoàng Văn Giáp
Ý KIẾN NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
25/28


×