Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Chính sách đối ngoại của đảng và nhà nước ta trong tiến trình thực hiện sự nghiệp đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.97 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
Từ giữa những năm 80, tình hình thế giới có nhiều diễn biến mới: Xu thế
vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong hình thái cùng tồn tại hoà bình giữa các nước
có chế độ chính trị - xã hội khác nhau ngày càng gia tăng; phát triển kinh tế trở
thành mục tiêu hàng đầu đối với các quốc gia. Quan hệ quốc tế đã chuyển từ
căng thẳng sang hoà dịu, từ đối đầu sang đối thoại, từ hai cực sang đa cực, làm
nảy sinh xu hướng nhất thể hoá quốc tế, toàn cầu hoá, phụ thuộc lẫn nhau. Tình
hình nước ta gặp nhiều khó khăn, phức tạp: Khủng hoảng kinh tế - xã hội; sự
bao vây cô lập của các thế lực thù địch, làm trầm trọng thêm khủng hoảng và
làm suy giảm vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo công cuộc
đổi mới đất nước, trải qua hơn 25 năm thực hiện đã đạt được những thành tựu
hết sức to lớn: Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài trầm
trọng, từ đó nâng cao vị thế của dân tộc, chuyển nước ta sang một chặng đường
mới của thời kỳ quá độ: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn
đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Một trong những nhân tố góp phần quyết định thành công của công cuộc
đổi mới là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng trên lĩnh vực đối ngoại. Công tác đối
ngoại đúng đắn đã cho phép Đảng - Nhà nước khai thác tốt các nhân tố quốc tế,
kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại một cách có hiệu quả. Công tác
đối ngoại của Đảng, Nhà nước thời kỳ đổi mới mang đậm bản sắc dân tộc,
truyền thống ngoại giao trong lịch sử và được nâng cao lên tầm cao mới. Việc
nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng với công tác đối ngoại trong thời kỳ đổi mới
nhằm làm rõ những quyết sách đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong 25 năm đổi
mới có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy Tôi chọn đề tài
nghiên cứu “Chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước ta trong tiến trình
thực hiện sự nghiệp đổi mới” làm tiểu luận môn Hệ thống quan điểm đổi mới
của Đảng.


NỘI DUNG


CHƯƠNG 1. ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
LÀ ĐÒI HỎI KHÁCH QUAN
1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước
1.1.1. Đặc điểm tình hình quốc tế
Từ nửa năm sau những năm 80, quan hệ Xô - Mỹ đã thực sự chuyển từ đối
đầu sang đối thoại. Để giải quyết các vấn đề tranh chấp, Xô - Mỹ đã tiến hành
nhiều cuộc gặp thượng đỉnh giữa Ri-Gan và Goóc-Ba-Chốp, giữa Busơ và
GoócBachốp. Qua đó có nhìêu văn kiện được ký kết trên các lĩnh vực kinh tế
thương mại, văn hoá, khoa học kỹ thuật, nhưng quan trọng nhất là việc ký kết
hiệp ước thủ tiêu tên lửa tầm trung ở Châu Âu năm 1987 (gọi tắt là INF). Cũng
từ năm 1987, hai nước Mỹ và Liên Xô đã thoả thuận giảm một bước quan trọng
cuộc chạy đua vũ trang, từng bước chấm dứt cuộc diện “Chiến tranh lạnh”, cùng
hợp tác với nhau giải quyết các cụ tranh chấp và xung đột quốc tế.
Cuối năm 1989, tại cuộc gặp không chính thức giữa Busơ và Gooc-BaChốp tại đảo Manta, hai nước Xô - Mỹ đã chính thức tuyên bố chấm dứt cuộc
“chiến tranh lanh” kéo dài trên 40 năm giữa hai nước này.
Mối quan hệ giữa 5 nước lớn: Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc, là 5
thành viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ có vai trò quan tọng trong việc
duy trì hoà bình, an ninh và trật tự thế giới đã được thiết lập lên. Trong “chiến
tranh lạnh” mặc dù là 5 nước lớn nhưng vẫn chỉ là thế “hai cực” Xô - Mỹ đối
đầu nhau. Mối quan hệ giữa 5 nước lớn sau năm 1989 đã chuyển từ “hai cực”
đối đầu sang đối thoại, hợp tác với nhau trong việc giải quyết những tranh chấp
và xung đột quốc tế, tiêu biểu như cuộc chiến trung vùng vịch Pecxic (1991), và
việc giải quyết các cuộc xung đột vũ trang ở nhiều khu vực trên thế giới.
Sau sự kiện xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, dẫn đến khối
quân sự Vac-Sa-Va tự giải thể (1/7/1991) và Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV)
ngừng hàng hoạt động (28/6/1991). Xã hội chủ nghĩa tạm lâm vào thoái trào,
2


việc Liên Xô sụp đổ bắt đầu từ khủng hoảng về đường lối chiến lược do nhận

thức sai lầm về đường lối đối ngoại như việc Liên Xô thoả thuận với Mỹ về việc
giải quyết vấn đề Apganictan, Campuchia, những thoả thuận nhượng bộ đó
không có lợi cho các cách mạng thế giới. Liên Xô còn thực hiện chính sách
“không can thiệp” vào vấn đề thống nhất nước Đức và các nước Đông Âu, chính
sách không thực hiện những cam kết với các đồng minh cũ của Liên Xô (ngừng
viện trợ cho Cuba, Việt Nam, Mông Cổ). Những nhượng bộ đó được các
phương Tây, nhất là Mỹ ngày các khai thác triệt để, để làm giảm thế cân bằng về
sức mạnh vũ khí hạt nhân với Mỹ và làm suy giảm sức mạnh và vị trí của Liên
Xô có ở khắp các khu vực trên thế giới.
Còn ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương kinh tế phát triển rất năng động,
đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều nhân tố có thể gây mất ổn định như xung đột ở
Triều Tiên, tranh chấp quần đảo Cu-Rin giữa Nhật Bản và Liên Xô, tranh chấp
chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải ở biển Đông và căng thẳng ở eo biển Đài Loan...
Trong khu vực Đông Nam Á cũng chứa đựng nhiều nguy cơ xung đột bất
ổn, trong đó vấn đề Campuchia. Những phản ứng từ của các ASEAN, Trung
Quốc và các nước phương Tây khác cho rằng Việt Nam xâm lược Campuchia,
họ tiến hành các hoạt động làm cho tình hình khu vực thêm căng thẳng. Trung
Quốc cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam và đưa quân vào Việt Nam gây
nên cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc nước ta. Một số nước ASEAN cô lập
nước ta ở các diễn đàn, tổ chức quốc tế... Về phía Việt Nam, chúng ta trước sau
vẫn khẳng định việc đưa quân vào Campuchia là giúp đỡ nhân dân Campuchia
đánh đuổi bọn diệt chủng PonPốt đem lại hoà bình cho nhân Campuchia.
Cùng với những biến đổi trong tình hình an ninh, chính trị, cộng đồng thế
giới cũng đang đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu cấp bách mà không có
một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết được cho nên cần phải có sự hợp tác
đa phương trong các công việc quốc tế như: bảo vệ môi trường, bùng nổ dân số,
phòng chống bệnh tật hiểm nghèo và nạn khủng bố.
Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ phát triển như vũ
bão và được gọi là nền văn minh hậu công nghiệp hay nền văn minh trí tuệ. ảnh
3



hưởng của nó ngày càng tác động sâu hơn vào đời sống kinh tế xã hội, nhất là
trong sản xuất. Các phát minh khoa học mà nội dung cơ bản là cách mạng về
công nghệ thông tin, sinh học, năng lượng, vật liệu mới... tiếp tục phát triển
nhanh với trình độ cao, làm tăng nhanh lực lượng sản xuất, thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền sản xuất và đời sống xã hội,
làm cho tính chất tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng gia tăng mạnh
mẽ. Cuộc cách mạng trên đã tác động sâu sắc đến quan hệ quốc tế, thúc đẩy quá
trình liên kết kinh tế và toàn cầu hoá. Nó vừa là thời cơ nhưng cũng là thách
thức rất lớn đối với các nước, là điểm mà bất cứ nước nào cũng không thể bỏ
qua khi xây dựng đường lối, xác định phương hướng và mục tiêu phát triển. các
nước đều đứng trước những cơ hội để phát triển, nhưng do ưu thế về vốn, công
nghệ, thị trường... thuộc về các nước tư bản chủ nghĩa và các công ty xuyên
quốc gia nên các nước chậm phát triển đang đứng trước những thử thách to lớn.
Trong tình hình đó nếu các nước không nắm bắt được cơ hội, tranh thủ những
khả năng mới để phát triển thì sẽ bị tụt hậu.
Ngược lại nếu nước nào biết đón trước, khai thác được thời cơ, nỗ lực phấn
đấu thì sẽ có thể vượt lên một cách nhanh chóng. Cuộc cạnh tranh kinh tế
thương mại, khoa học công nghệ diễn ra gay gắt trên phạm vi toàn thế giới.
Tóm lại, hoà bình ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi
hỏi búc xúc của các dân tốc và quốc gia trên thế giới. Các nước giành ưu tiên
cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc
tăng cường sức mạnh tổng hợp mỗi nước.
Tình hình đó tác động mạnh mẽ đối với việc hoạch định chính sách đối
ngoại của các nước cũng như ở Việt Nam. Kiến định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện lịch sử mới, Đảng và Nhà nước ta khởi xưởng
công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới chính sách đối ngoại trở thành
một nội dung quan trọng đối với sự nghiệp phát triển của Việt Nam.


4


1.1.2. Đặc điểm tình hình trong nước
Chiến thắng của Việt Nam sau 30/4/1975 là niềm vui thống nhất cả giang
sơn về một mối. Nhưng hậu quả của cuộc chiến tranh kéo dài để lại những khó
khăn không nhỏ cho nhân dân Việt Nam: 1,1 triệu liệt sĩ, 60 vạn thương binh, 30
vạn người mất tích, gần 2 triệu người dân bị thiệt mạng, hơn 2 triệu người dân bị
tàn tật và nhiễm chất độc hoá học...
Hai cuộc chiến tranh biến giới phía Bắc (1979) và biên giới phía Tây Nam
(1978) lấy đi thêm nhiều tài lực, vật lực của đất nước khiến cho nền kinh tế của
Việt Nam đã khó khăn lại càng thêm khó khăn. Mà hậu quả của nó là nền kinh tế
lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện, lạm phát tăng phi mã (774,7%) năm
1986, nền công nghiệp lạc hậu, nông nghiệp đình đốn.
Bên cạnh đó, do những khuyết điểm chủ quan trên các lĩnh vực nhất là việc
chỉ đạo và thực hiện xây dựng kinh tế xã hội. Mô hình kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp bộc lộ nhiềukhuyết điểm yếu kém. Nền kinh tế đất nước rơi vào
tình trạng trì trệ, lạc hậu, khủng hoảng: Công nghiệp yếu kém, manh mún thiếu
rất nhiều ngành công nghiệp tiêu dùng... Nền nông nghiệp không đủ chi dùng
trong nước, phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thường
xuyên khiến cho cán cân xuất nhập khẩu luôn thâm hụt mất cân đối, thu không
đủ chi, dẫn đến phải đi vay từ nước ngoài. Tính chung trong năm 5 năm 1981 1985, nguồn vay từ nước ngoài chiếm 22,4% thu ngân sách quốc gia. Số nợ
nhiều như vậy nhưng bội chi ngân sách vẫn lớn và tăng dần: Năm 1980 là 1,8%,
năm 1985 là 36,6%. Do bội chi nhiều như vậy nên Chính phủ buộc phải phát
hành thêm tiền mặt để bù đắp. Cùng với việc không cân đối được từ thu và chi,
do nguồn thu không có vì không có sản phẩm công nghiệp xuất khẩu. Cộng vào
đó là sai lầm về chính sách cải cách giá, lương, tiền đã làm cho nền kinh tế rơi tự
do không kiểm soát được dẫn đến xuất hiện siêu lạm phát ở mức 774,7% (1986),
kéo theo giá cả leo thang vô phương kiểm soát.
Đời sống nhân dân nhất là công nhân viên chức và lực lượng vũ trang gặp

nhiều khó khăn. Tiêu cực xã hội phát triển, công bằng bị vi phạm, pháp luật kỳ
cương xã hội không nghiêm minh, cán bộ tham nhũng lộng quyền, bọn làm ăn
5


phi pháp không bị trừng trị kịp thời và nghiêm khắc. Quần chúng giảm lòng tin
với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước.
Trên lĩnh vực đối ngoại, từ sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng Đảng
và Nhà nước ta tiếp tục giữ vững hợp tác nhiều mặt với các nước XHCN đồng
thời mở rộng hợp tác với nhiều nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau ở
trong và ngoài khu vực. Đối với khu vực Đông Nam Á sau tuyên bố 4 điểm của
Việt Nam (5-7-1976), quan hệ của Việt Nam với các nước Đông Nam Á có
chuyển biến tích cực so với trước đây. Sự kiện thống nhất Tổ quốc sau ngày 304-1975 đã tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại để xây dựng
và phát triển đất nước, đó là các điều kiện để mở rộng ngoại giao với ASEAN,
các nước Bắc Âu. Việt Nam đã là thành viên của quỹ tiền tệ quốc tế 9-1976,
thành viên của Liên Hiệp quốc 9-1977. Song thời gian để cho Việt Nam triển
khai thực hiện các chính sách đối ngoại quá ngắn. Sau sự kiện Campuchia, đế
quốc Mỹ cùng với một số thế lực phản động ở khu vực ra sức bao vây cấm vận
Việt Nam, vu cáo Việt Nam "xâm lược Campuchia". Tại thời điểm này các nước
Đông Âu, Liên Xô xuất hiện khủng hoảng kinh tế - chính trị, vì vậy nguồn viện
trợ chính và bạn hàng truyền thống không còn như trước. Bối cảnh đó khiến cho
tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam thêm phức tạp nhất là trong lúc đất nước
đang lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc.
Thực tiễn tình hình trong nước và quốc tế đặt ra một yêu cầu khách quan,
bức xúc có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp các mạng nước ta, là để làm xoay
chuyển được tình thế, tạo ra một sự chuyển biến có ý nghĩa quyết định trên bước
đường đi lên. Đại hội VI của Đảng (tháng 12 - 1986) quyết định đổi mới đưa sự
nghiệp cách mạng phát triển phù hợp với tình hình trong nước, xu thế thời đại.
Đổi mới trở thành cơ sở, nền tảng cho việc ra đời chính sách và công tác đối
ngoại đổi mới của Đảng và Nhà nước từ 1986 tới nay.


6


1.2. Quá trình hình thành và phát triển chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, xuất phát từ tinh thần nhìn
thẳng vào sự thật, đã phân tích và đánh giá đúng những thuận lợi và khó khăn
của đất nước thông qua đường lối đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới về
kinh tế. Về đối ngoại, Đại hội VI khẳng định: "Trong những năm tới, nhiệm vụ
của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực đối ngoại là ra sức kết hợp sức mạnh
của dân tộc với sức mạnh của thời đại". Trong chính sách đối ngoại, Đảng chủ
trương "kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình... ủng hộ chính sách
cùng tồn tại... giữa các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau". Đây là quan
điểm học thuyết Mác - Lênin về vai trò sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô
sản, nó thể hiện ý chí cách mạng không ngừng, phấn đấu cho mục tiêu của
CNXH, đồng thời phù hợp với lịch sử của các dân tộc, nguyện vọng các dân tộc
ngày nay. Chỉ có tồn tại trong hoà bình, chung sống thực sự mới tạo ra bầu
không khí ổn định hữu nghị và hợp tác, là điều kiện tiên quyết bảo đảm sự phát
triển của mỗi dân tộc và nhân loại. Nhiệm vụ, phương châm đối ngoại của Đảng
là tranh thủ tối đa những điều kiện quốc tế thuận lợi để thực hiện các mục tiêu
tổng quát của cách mạng nước ta. Trước hết là giải quyết những vấn đề cấp
bách: ổn định tình hình kinh tế - xã hội và tạo ra những tiền đề cần thiết cho
những chặng đường tiếp theo, đồng thời Đảng chỉ rõ phương hướng, giải pháp
đối với từng đối tác cụ thể cho phù hợp với sự thay đổi của nó trong xu thế phát
triển chung của thế giới.
Tháng 5-1988, Bộ Chính trị khóa VI đã ra Nghị quyết số 13 về "nhiệm vụ
và chính sách đối ngoại trong tình hình mới" với chủ đề "giữ vững hòa bình,
phát triển kinh tế". Nghị quyết nhấn mạnh chính sách "thêm bạn bớt thù", đa
dạng hóa quan hệ trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, cùng có lợi. Tiếp
đó, Hội nghị Trung ương 6, khóa VI (tháng 3-1989) ra Nghị quyết, trong đó chỉ

rõ cần chuyển mạnh hoạt động ngoại giao từ quan hệ chính trị là chủ yếu sang
quan hệ chính trị - kinh tế. Những đổi mới về tư duy và chính sách đối ngoại
trên đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, đem lại kết quả bước đầu trong việc phá
bỏ thế bao vây cấm vận.
7


Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (6/1991) đã đánh giá quá trình
thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, những thành công và cả những hạn chế trong
đó có lĩnh vực đối ngoại của Đảng. Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam và chiến lược ổn định phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Đảng xác định nhiệm vụ đối ngoại bao trùm
là "giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác, tạo điều kiện quốc tế
thuận lợi cho công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội". Đảng ta đưa ra đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế với tinh thần
"Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu
vì hòa bình, độc lập và phát triển". Tháng 6-1992, xuất phát từ tình hình mới,
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII) cụ thể hoá nhiệm vụ
đối ngoại của Đại hội VII, xác định mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo trong chính sách
đối ngoại của Đảng và Nhà nước là giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất
và CNXH, đồng thời phải sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều
kiện và hoàn cảnh của nước ta, cũng như diễn biến tình hình thế giới và khu vực.
Hội nghị đề ra bốn phương châm xử lý các mối quan hệ đối ngoại trên các lĩnh
vực và đối với các đối tượng là:
Một là, bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ
nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Hai là, giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ đối ngoại.

Ba là, nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.
Bốn là, tham gia hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước.
Tháng 1-1994, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khoá VII) quán
triệt sâu sắc thêm về yêu cầu vận dụng đúng đắn bốn phương châm xử lý các
quan hệ quốc tế do Hội nghị Trung ương lần thứ ba đề ra. Trên cơ sở phân tích
những khó khăn và thuận lợi của đất nước, Hội nghị nhấn mạnh 4 nguy cơ:
8


Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước khu vực và thế giới, nguy cơ
chệch hướng XHCN, nguy cơ về tham nhũng và tệ quan liêu, nguy cơ "diễn biến
hoà bình" của các thế lực thù địch. Hội nghị cho rằng: phải thấy rõ khó khăn và
thách thức cũng như thuận lợi và cơ hội của nước ta, theo dõi xét diễn biến phức
tạp trong quan hệ quốc tế để có chủ trương thích hợp, giữ vững nguyên tắc năng
động, linh hoạt. Khẳng định kết quả hoạt động đối ngoại là một trong ba thành
tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới, đồng thời Hội nghị cũng xác định rõ
nhiệm vụ đối ngoại là tiếp tục thi hành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng
mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại, phát huy các điểm đồng về
lợi ích và thu hẹp các bất đồng, tăng thêm bạn và phát triển sự hợp tác quốc tế.
Sau 10 năm đổi mới (1986-1996), nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, tình hình chính trị - xã hội ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững,
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện, quan hệ đối ngoại
phát triển mạnh mẽ, phá được bao vây, cô lập.
Trên cơ sở phân tích những thuận lợi cũng như khó khăn, thách thức mới
do bối cảnh quốc tế, khu vực và thực tế đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII của Đảng (6-1996) đề ra nhiệm vụ trọng tâm của nước ta là công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm đó,
chính sách đối ngoại phải "củng cố môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc
tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước". Đại hội khẳng định mạnh mẽ việc phải đẩy nhanh quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam theo những lộ trình phù hợp; tiếp

tục thực hiện đường lối đối ngoại tự chủ rộng mở, đa phương hoá và đa dạng
hoá các quan hệ đối ngoại. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
(khoá VIII) tháng 12-1997 đã nêu lên tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là tiếp tục đẩy
mạnh công cuộc đổi mới, phải khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu
quả hợp tác quốc tế, nâng cao ý thức tự lực tự cường, giữ vững bản sắc dân tộc
trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001), sau khi kiểm
điểm quá trình thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa
9


phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế và tiếp tục bổ sung, phát triển chủ
trương, chính sách và những nhiệm vụ của công tác đối ngoại, đã kết luận: "bối
cảnh quốc tế trong thời gian tới có nhiều thời cơ lớn đan xen với nhiều thách
thức lớn. Khả năng duy trì hoà bình, ổn định trên thế giới và khu vực cho phép
chúng ta tập trung sức mạnh vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế; đồng
thời phải đề cao cảnh giác, chủ động đối phó với những tình huống bất trắc,
phức tạp có thể xảy ra". Trên cơ sở nhận định tình hình trong một vài thập kỷ tới
ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là
xu thế lớn. Đại hội IX chủ trương tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nhấn mạnh và làm rõ việc xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ, nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Điểm mới về
chủ trương đối ngoại của Đảng ở Đại hội IX là việc nhấn mạnh vấn đề chủ yếu
và trước hết của hội nhập khu vực, quốc tế là hội nhập về kinh tế. Đại hội IX
phát triển phương châm "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển" của Đại hội VII
thành "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển". Phương châm này
thể hiện bước phát triển mới về tư duy đối ngoại của Đảng, đồng thời khẳng
định vị thế mới của đất nước trong quan hệ quốc tế.

Tháng 11-2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết riêng về hội nhập kinh tế
quốc tế. Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị quyết về
chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới nhằm đánh giá toàn diện, sâu sắc
cục diện thế giới, khu vực từ 1991 đến nay; chỉ ra một cách có hệ thống những
thành tựu, bài học kinh nghiệm về đối ngoại; đồng thời nêu ra những phương
hướng chủ yếu trong hoạt động đối ngoại trong những năm tới với việc giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, lợi ích cao nhất của đất nước.
Đại hội Đảng X đã đề ra mục tiêu, đường lối, phương châm chỉ đạo hoạt
động đối ngoại. Nhiệm vụ đối ngoại: giữ vững và củng cố môi trường hoà bình,
tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh
phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời góp phần vào
10


cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa
phương hóa các quan hệ quốc tế, đưa quan hệ quốc tế song phương và đa
phương đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Tiếp tục giương cao hơn nữa ngọn
cờ hoà bình, hợp tác và phát triển; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành
viên tích cực và xây dựng của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì
hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững; tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác
quốc tế và khu vực.
Kế thừa đường lối đối ngoại của 25 năm Đổi mới, đường lối đối ngoại Đại
hội XI có những bổ sung, phát triển phù hợp với tình hình mới. Về mục tiêu của
đối ngoại, văn kiện Đại hội XI nêu: “vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Cùng với lợi
ích quốc gia dân tộc, Đại hội XI cũng đặt mục tiêu đối ngoại là “vì một nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Hai mục tiêu này thống nhất với nhau.
Bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là cơ sở cơ bản để xây dựng một nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng một nước Việt nam xã hội chủ nghĩa giàu

mạnh là phù hợp với lợi ích quốc gia dân tộc và là điều kiện cần để thực hiện
các lợi ích đó. Lần đầu tiên, mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc”
được nêu rõ trong phần đối ngoại của Cương lĩnh và Báo cáo chính trị tại Đại
hội Đảng. Việc nêu rõ lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại trong văn
kiện Đại hội XI của Đảng có ý nghĩa rất quan trọng, khẳng định rõ hơn định
hướng: Đảng ta hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại trên cơ sở lợi ích
quốc gia, dân tộc, từ đó tái khẳng định sự thống nhất và hòa quyện giữa lợi ích
của giai cấp và lợi ích của dân tộc. Khẳng định lợi ích quốc gia, dân tộc là mục
tiêu đối ngoại cũng có nghĩa là Đại hội đặt lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên
tắc cao nhất của các hoạt động đối ngoại. Nói cách khác, bảo đảm lợi ích quốc
gia, dân tộc là nguyên tắc mà tất cả các hoạt động đối ngoại, từ ngoại giao Nhà
nước, đối ngoại Đảng đến ngoại giao nhân dân, đều phải tuân thủ.

11


CHƯƠNG 2
THÀNH TỰU VÀ BÀI HỌC TRONG
HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA NƯỚC TA THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. Những thành tựu trong hoạt động đối ngoại thời kỳ đổi mới
Một là, tạo dựng và củng cố môi trường hòa bình, ổn định cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việc củng cố và thúc đẩy các mối quan hệ song phương, nhất là quan hệ
với các nước láng giềng và các nước trong khu vực có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
đối với việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Nhận thức rõ điều đó, hoạt động
đối ngoại đã tập trung giải quyết vấn đề Campuchia và bình thường hóa quan hệ
với Trung Quốc. Đồng thời triển khai mạnh mẽ các hoạt động ngoại giao song
phương cấp cao với các nước ASEAN, chủ động tham gia các hoạt động của
Hiệp hội và năm 1995, Việt Nam chính thức tham gia ASEAN. Việc Việt Nam
gia nhập ASEAN là một quyết định đúng đắn và kịp thời. Cùng với việc giải

quyết hòa bình vấn đề Campuchia, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc,
nối lại quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế, ký Hiệp định khung với với
Liên minh châu Âu, bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ, củng cố và mở
rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập dân tộc và các
nước đang phát triển ở châu á, Trung Đông, châu Phi, Mỹ La-tinh và các nước
công nghiệp phát triển trên thế giới... việc Việt Nam gia nhập ASEAN góp phần
phá thế bị bao vây, cô lập, tạo ra môi trường hòa bình, ổn định và thuận lợi hơn
cho sự nghiệp xây dựng đất nước, đưa Việt Nam hội nhập về kinh tế với khu vực
và quốc tế. Mặt khác, để góp phần bảo đảm an ninh và ổn định cho đất nước,
hoạt động đối ngoại của Việt Nam đã góp phần chủ động và tích cực giải quyết
những vấn đề tồn tại với các nước láng giềng và các nước ở khu vực như đàm
phán và ký Hiệp định biên giới với Lào, thỏa thuận về khai thác chung với Malai-xi-a trên vùng chồng lấn, phân định vùng chồng lấn với Thái Lan, đàm phán
và ký Hiệp định về biên giới trên bộ với Trung Quốc và đang đàm phán để có
thể ký Hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc trong năm 2000,
tiếp tục đàm phán với In-đô-nê-xi-a về phân định thềm lục địa, tiếp tục đàm
12


phán với Campuchia để giải quyết những vấn đề còn tồn đọng về biên giới lãnh
thổ. Hoạt động đối ngoại cũng đã góp phần kiên quyết đấu tranh chống âm mưu
và hành động lợi dụng chiêu bài "nhân quyền", "dân chủ" và "tự do tín ngưỡng"
để can thiệp vào công việc nội bộ Việt Nam. Toàn bộ các hoạt động trên đã góp
phần quan trọng và thiết thực vào việc tạo dựng môi trường khu vực tương đối
ổn định và thuận lợi cho đất nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, tranh thủ được những điều kiện quốc tế thuận lợi góp phần vào
công cuộc phát triển đất nước, mở rộng hợp tác kinh tế
Đây là một nhiệm vụ trọng tâm của ngoại giao Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Nhờ những thành tựu quan trọng của công cuộc đổi mới và chính sách đối ngoại
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam đã làm thất bại
chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và đồng minh, đa dạng hóa thị trường, thúc

đẩy quan hệ kinh tế thương mại song phương với hơn Việt Nam có quan hệ
thương mại với gần 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, từ năm 1988 đến nay, Việt
Nam đã thu hút khoảng 98 tỉ USD với 9500 dự án đầu tư nước ngoài; tranh thủ
hàng tỷ USD viện trợ không hoàn lại của nhiều chính phủ và các tổ chức quốc tế
thuộc hệ thống Liên hợp quốc và các tổ chức phi chính phủ. Việc tạo dựng môi
trường quốc tế hòa bình, tăng cường hợp tác, mở rộng thị trường, tranh thủ vốn,
công nghệ phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước cũng là sự đóng góp trực
tiếp và thiết thực cho yêu cầu bảo đảm an ninh.
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, lực lượng sản
xuất phát triển nhanh và quốc tế hóa cao độ, đẩy nhanh xu thế toàn cầu hóa.
Trong bối cảnh đó, các nước đều tìm cách giành cho mình một vị thế xứng đáng
trong phân công lao động quốc tế, tranh thủ vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý để
phát triển, đấu tranh để bảo vệ lợi ích của mình. Nhận rõ xu thế đó, Việt Nam đã
đề ra chủ trương hội nhập và kiên trì thực hiện chủ trương đó. Đại hội lần thứ
VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định "đẩy nhanh quá trình hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới". Từ đầu những năm 90 Việt Nam đã khai thông
quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế, tiếp đó năm 1995 chính thức gia nhập
ASEAN và tham gia AFTA. Năm 1996 Việt Nam tham gia Diễn đàn hợp tác á 13


Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập và năm 1998 trở thành thành viên
chính thức của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC).
Việt Nam cũng đã đàm phán và ký Hiệp định Thương mại với Mỹ và gia nhập
WTO, mức hội nhập cao nhất, rộng nhất, có ý nghĩa quan trọng đối với việc
thiết lập môi trường buôn bán và quan hệ hợp tác kinh tế với toàn bộ thế giới.
Ba là, nâng cao vị thế nước nhà trên trường quốc tế
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa,
đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 180 trong 193 quốc gia thành
viên Liên hợp quốc; là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc
tế. Chúng ta đã có 98 cơ quan đại diện tại các quốc gia và vùng lãnh thổ khắp 5

châu lục trên thế giới; có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn, các ủy
viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Trong điều kiện quốc tế
ngày nay khi quá trình hội nhập ngày càng được xúc tiến nhanh, ngoại giao đa
phương ngày càng giữ một vị trí quan trọng, góp phần nâng cao vị thế quốc tế
của đất nước trên thế giới. Việt Nam đã hoạt động tích cực với vai trò ngày càng
tăng tại Liên hợp quốc (ủy viên ECOSOC, ủy viên Hội đồng chấp hành UNDP,
UNFPA và UPU...), phát huy vai trò thành viên tích cực của phong trào Không
liên kết, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp, ASEAN ... Việc Việt Nam
tổ chức thành công Hội nghị cấp cao Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp
năm 1997 và đặc biệt là Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 năm 1998 đã góp
phần quan trọng nâng cao uy tín và vị thế của đất nước. Có thể nói ngoại giao đa
phương là một điểm sáng trong hoạt động ngoại giao thời đổi mới. Những kết
quả đạt được trong mối quan hệ đan xen này đã củng cố và nâng cao vị thế quốc
tế của đất nước , tạo ra thế cơ động linh hoạt trong quan hệ quốc tế, có lợi cho
việc bảo vệ độc lập tự chủ và an ninh cũng như công cuộc xây dưng đất nước.
Bốn là, chủ động tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân
thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
Các hoạt động đối ngoại phong phú, đa dạng cả theo đường Đảng lẫn Nhà
nước và các hoạt động quốc tế nhân dân đã góp phần duy trì và củng cố quan hệ
đoàn kết hữu nghị với các đảng phái chính trị, trước hết là các Đảng cộng sản và
14


công nhân, các tổ chức tiến bộ đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, từ
đó tranh thủ sự hỗ trợ về chính trị có lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bên cạnh những thành tựu là hết sức to lớn, thì công tác đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta cần phải khắc phục một số hạn chế sau đó là: "khi tình
hình thế giới và quan hệ quốc tế thay đổi, có việc chưa đánh giá đầy đủ và kịp
thời để có chủ trương sát đúng; chưa tạo được sự thống nhất cao về nhận thức và
hành động giữa một số ngành trong một số trường hợp". Cũng như nhiều nước

trên thế giới, Đảng ta đã không dự báo được sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên
Xô và Đông Âu. Do đó, khi Liên Xô và Đông Âu tan rã đã tác động mạnh đến
nước ta như một "cơn chấn động chính trị và sự hẫng hụt về thị trường", làm cho
cán bộ, đảng viên lo lắng, một số người hoài ghi đối với CNXH, giảm lòng tin
đối với Đảng và Nhà nước, các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị đòi đa nguyên, đa
đảng; về kinh tế, mất nguồn viện trợ vật chất - kỹ thuật, thị trường truyền thống.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vừa qua còn bộc lộ một số yếu kém, cần
sớm có biện pháp khắc phục đó là: Chưa làm tốt công tác chuẩn bị khi công
cuộc hội nhập quốc tế chuyển sang bước mới: vấn đề nhất trí về nhận thức chưa
cao, nền kinh tế còn yếu, quá trình triển khai chậm, mới chỉ tập trung ở các cơ
quan Trung ương; Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về
hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết
quốc tế; Luật pháp, chính sách quản lý kinh tế - thương mại chưa hoàn chỉnh.
Doanh nghiệp của nước ta còn yếu khả năng cạnh tranh….
2.2. Một số bài học của công tác đối ngoại trong thời kỳ đổi mới
Một là, Đánh giá đúng sự biến đổi của tình hình quốc tế, khu vực, bám
sát thực tiễn đất nước, kịp thời điều chỉnh chính sách đối ngoại, chủ động hội
nhập quốc tế
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng diễn ra vào lúc đất nước đang
trong tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Tình hình thế giới lúc
đó có nhiều biến động với những diễn biến phức tạp, bất lợi cho cách mạng Việt
Nam; trong quan hệ quốc tế xuất hiện các xu thế mới khác với thời kỳ chiến
15


tranh lạnh. Tỉnh táo và sáng suốt, Đảng ta đã phân tích sâu sắc tình trạng đất
nước, tìm được nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội. Trên cơ sở
dó, Đảng ta có chủ trương và các chính sách đáp ứng yêu cầu thực tiễn cách
mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế khu vực và quốc tế.
Nghị quyết 13/NQ-TW của Bộ Chính trị (5-1989) về nhiệm vụ và chính

sách đối ngoại trong tình hình mới thể hiện sự đổi mới tư duy của Đảng về
đường lối đối ngoại. Tiếp đó, Đại hội VII của Đảng chỉ rõ những khuyết điểm,
yếu kém trong hoạt động đối ngoại những năm trước đó là chưa đánh giá đầy đủ
và kịp thời tình hình thế giới, trên cơ sở đó chỉ rõ nhiệm vụ cho công tác đối
ngoại là: "cần nhạy bén nhận thức và dự báo được những diễn biến phức tạp và
thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng
sản xuất và xu thế quốc tế hoá của nền kinh tế thế giới để có những chủ trương
đối ngoại phù hợp". Thực hiện nhiệm vụ đó, trên lĩnh vực đối ngoại, Đảng và
Nhà nước ta không ngừng bổ sung, phát triển chủ trương, đường lối cho sát, phù
hợp với yêu cầu của nhiệm vụ trong nước và xu thế quốc tế. Về quan hệ quốc tế,
Đảng tiến hành điều chỉnh chính sách đối ngoại, lấy mục tiêu hoà bình và phát
triển làm chuẩn mực trong mọi hoạt động quốc tế, thực hiện mở rộng liên kết
hợp tác, thu hút vốn đầu tư, khoa học công nghệ của các nước để thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, từng bước hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là, nắm vững lợi ích dân tộc, giữ vững độc lập, tự chủ là nguyên tắc
cơ bản của quá trình xác định và thực hiện chính sách đối ngoại
Ở mỗi thời đại có một chính sách đối ngoại riêng phù hợp với chế độ
đương thời nhưng đều phụ thuộc vào yếu tố có tính nguyên tắc là lợi ích dân tộc
gắn với độc lập dân tộc. Thực chất của vấn đề này là giải quyết quan hệ giữa lợi
ích dân tộc với đoàn kết quốc tế (lợi ích dân tộc khác). Trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng ta đã phát huy cao độ nhất tinh thần
độc lập tự chủ, từ đó giành thắng lợi to lớn, đất nước hoàn toàn giải phóng.
Ngay sau khi đất nước thống nhất, đi vào xây dựng CNXH với những khó
khăn chồng chất, nhất là quan hệ đối ngoại chưa được rộng mở, bị đế quốc Mỹ
bao vây, cấm vận, hệ thống XHCN hầu như "đóng kín" với thế giới bên ngoài.
16


Để phát triển đất nước, Đại hội VI đề ra đường lối đối ngoại rộng mở, xác định
nhiệm vụ hàng đầu là "tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây

dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc". Tiếp đó, nhằm phá thế bị bao vây, cấm vận do
vấn đề Campuchia gây ra, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 13/NQ-TW (5-1989)
xác định: lợi ích của Đảng và nhân dân ta sau khi giải phóng miền Nam là phải
củng cố và giữ vững hoà bình, tập trung sức xây dựng kinh tế. Đó là nhân tố
quyết định để giữ vững an ninh và độc lập. Nghị quyết là một bước ngoặt đổi
mới tư duy, nhận thức về các vấn đề quốc tế và đối ngoại, làm rõ quan điểm của
Đảng trên một loạt vấn đề về chiến tranh và hoà bình, an ninh và phát triển, lợi
ích quốc gia và nghĩa vụ quốc tế. Trên cơ sở tư duy đổi mới, nghị quyết đề ra
những điều chỉnh có ý nghĩa chiến lược về đường lối và chính sách đối ngoại,
đặt cơ sở cho các hoạt động đối ngoại nhằm tạo chuyển biến tình hình, đưa đất
nước ra khỏi khủng hoảng, cô lập.
Với phương châm "Việt Nam muốn làm bạn của tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển", nước ta đã ra khỏi
thế bị bao vây, cấm vận, ra khỏi khủng hoảng, đa dạng hoá, đa phương hoá quan
hệ quốc tế, hội nhập quốc tế và khu vực mà vẫn giữ vững lợi ích dân tộc, độc
lập, tự chủ. Giữ vững lợi ích dân tộc, độc lập, tự chủ trong thực hiện chính sách
đối ngoại, tiếp tục được Đảng ta nhấn mạnh tại Đại hội IX (4-2001) trong điều
kiện mới của đất nước và quốc tế.
Ba là, tìm ra điểm then chốt, quan trọng nhất cần tháo gỡ, những đối
tượng chính cần tác động để phá thế bị bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ
đối ngoại
Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến thành công của công tác
đối ngoại là Đảng ta đã tìm ra khâu then chốt, quan trọng nhất để tìm cách tháo
gỡ. Trở ngại lớn nhất của Việt Nam trong những năm 80 là quan hệ giữa nước ta
với phần lớn các quốc gia trong khu vực không thuận lợi, thậm chí có lúc đối
đầu, thù địch; một số nước thực hiện chính sách bao vây, cấm vận Việt Nam,
hòng làm Việt Nam suy yếu cả về kinh tế và chính trị.
17



Nhằm khắc phục tình trạng đó, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương
với đối sách khôn khéo, phù hợp với tình hình thực tế. Trước hết, Đảng chỉ đạo
rút quân khỏi Campuchia, để tránh việc các nước dùng vấn đề Campuchia gây
khó khăn cho Việt Nam. Sau khi rút quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia
về nước, Đảng tích cực tìm kiếm các giải pháp để đẩy nhanh việc giải quyết vấn
đề Campuchia.
Đối với Trung Quốc, việc bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
là một vấn đề lớn được Đảng hết sức chú trọng. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị
nêu rõ chúng ta cần có chính sách toàn diện, lâu dài và những biện pháp từng
bước khắc phục tình trạng đối đầu giữa hai nước, giải quyết những vấn đề tồn tại
giữa hai nước thông qua thương lượng, chủ động tạo điều kiện để bình thường
hoá quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
Đối với Mỹ, từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng chủ trương không
đối đầu với Mỹ, từng bước cải thiện quan hệ với Mỹ. Đại hội VII của Đảng và
các hội nghị Ban chấp hành Trung ương đã nêu rõ việc tranh thủ bình thường
hoá quan hệ với Mỹ là điều cần thiết, thúc đẩy mở rộng quan hệ kinh tế - thương
mại, tranh thủ đầu tư, viện trợ công nghệ của Mỹ và các nước phương Tây khác.
Thực tế cho thấy, việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc không
những thúc đẩy nhanh việc giải quyết vấn đề Campuchia, mà còn tạo ra những
chuyển biến tích cực cho quá trình phát triển quan hệ Việt Nam với các nước
khác. Những chuyển biến tích cực trong quan hệ Việt - Mỹ vào đầu thập niên 90
và việc Mỹ bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, cùng với kết quả cải thiện
quan hệ với Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước tư bản, công nghiệp phát triển, đã
đưa Việt Nam thoát khỏi thế bị bao vây, cấm vận, tạo điều kiện thuận lợi để
nước ta hội nhập khu vực và quốc tế.
Bốn là, đảm bảo và nâng cao sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đối ngoại
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thành công
cách mạng Việt Nam, điều này đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng
minh từ năm 1930 đến nay.
18



Thực tiễn đổi mới (1986-2013) thành công cho thấy trước hết phải giữ
vững sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và cả xã hội. Không có sự
lãnh đạo của Đảng thì không thể giữ được độc lập dân tộc vững chắc, Nhà nước
không còn là Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, không đảm bảo sự phát
triển xã hội theo đúng định hướng XHCN và càng không có CNXH đích thực,
thậm chí các thành quả cách mạng phải đổi bằng bao xương máu mới giành
được cũng bị thủ tiêu (như Liên Xô và các nước Đông Âu).
Thành công của công tác đối ngoại trước hết Đảng đã có chủ trương, đường
lối đúng đắn, đáp ứng đúng xu thế trong nước, khu vực và quốc tế. Đảng đã lãnh
đạo, chỉ đạo đường lối trên thực tiễn, từng bước phá thế bao vây, đa phương hoá,
đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; từ đó đã phát
huy được cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại vào công cuộc đổi
mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, là lực lượng chính trị duy
nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng chịu trách nhiệm về tất cả các lĩnh vực
của đất nước, về hoạt động của cả hệ thống chính trị, cả về những thất bại, tổn
thất của cách mạng. Vấn đề đặt ra không đơn thuần chỉ là bảo vệ giữ vững ngọn
cờ lãnh đạo của Đảng, mà quan trọng hơn là phải tiếp tục nâng cao chất lượng
đổi mới, hậu quả lãnh đạo của Đảng. Đổi mới lý luận chiến lược, sách lược đối
với tổ chức xây dựng Đảng và hoạt động thường nhật của Đảng. Đảng phải thực
sự dùng con mắt khoa học quan sát lịch sử, thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm vận
dụng và phát triển sáng tạo lý luận cách mạng lên ngang tầm những chuyển biến
to lớn, nhanh chóng của thế giới hiện đại. Đảng phải kiên quyết xem xét, giải
quyết những sai lầm, yếu kém của mình, thường xuyên tự đổi mới, chỉnh đốn,
nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng.

19



CHƯƠNG 3
NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI
NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1. Bối cảnh và yêu cầu mới đối với công tác đối ngoại
Dự báo tình hình thế giới và trong nước những năm sắp tới
Trên thế giới: Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng
sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những
căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, tranh chấp
lãnh thổ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt;
các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các
lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường... còn
tiếp tục gia tăng.
Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hoá trong quan
hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ
quốc tế. Toàn cầu hoá và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ,
thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Kinh tế thế
giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn nhiều khó
khăn, bất ổn; chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình thức; cơ cấu lại thể
chế, các ngành, lĩnh vực kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở các nước; tương quan sức
mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn có nhiều thay đổi. Cạnh
tranh về kinh tế - thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị
trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao... giữa các nước
ngày càng gay gắt. Những vấn đề toàn cầu như: an ninh tài chính, an ninh năng
lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai, dịch
bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước
trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp
tục phát triển. Cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp vẫn diễn biến phức tạp.

20



Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á,
vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động, nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất
ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Xuất hiện các hình
thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới. ASEAN tiếp tục đẩy mạnh liên
kết khu vực, xây dựng cộng đồng, có vai trò ngày càng quan trọng trong khu
vực, song còn nhiều khó khăn, thách thức.
Ở trong nước: Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986 2011) đã tạo ra cho đất nước lực và thế, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với
trước. Năm năm tới là giai đoạn kinh tế nước ta tiếp tục phục hồi, lấy lại đà tăng
trưởng sau thời kỳ suy giảm; sẽ thực hiện nhiều hơn các hiệp định thương mại tự
do song phương và đa phương; khắc phục những hạn chế, yếu kém trong các
lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Tuy
nhiên, nước ta đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp
và diễn biến phức tạp, không thể coi thường thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình
trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm
trọng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Các thế lực
thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử
dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị
ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có những diễn biến phức tạp.
Những thuận lợi và khó khăn, thách thức đối với nước ta luôn đan xen
nhau, tuy nhiên thuận lợi vẫn là chủ yếu. Nhân tố có ý nghĩa quyết định là tiềm
lực mọi mặt và vị thế quốc tế của nước ta được tăng cường qua hơn 25 năm đổi
mới đã củng cố thêm niềm tin vào công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo, nâng cao sự nhất trí trong toàn Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.
Trên bình diện quốc tế, mặc dù tình hình còn diễn biến phức tạp nhưng hòa bình,
hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Chúng ta có đầy đủ khả năng giữ vững

hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
21


đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là nền tảng cơ bản để
chúng ta xác định đường lối đối ngoại và triển khai mạnh mẽ hơn các hoạt động
quốc tế trong giai đoạn mới.
3.2. Một số phương hướng công tác đối ngoại trong thời gian tới
Một là, mục tiêu và lợi ích cao nhất của ta vẫn là giữ vững môi trường hòa
bình và ổn định, bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước,
tạo mọi điều kiện thuận lợi để thúc đẩy phát triển kinh tế năng động, bền vững.
Do vậy, cần tiếp tục hoàn thiện và kiên trì theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ và chủ động hội nhập
quốc tế. Theo đó, cần tích cực xây dựng và triển khai thực hiện các khuôn khổ
quan hệ ổn định, lâu dài hiện có với các đối tác theo đúng phương châm "Việt
Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng
đồng quốc tế", đưa quan hệ với các nước đi vào chiều sâu, tạo sự đan xen lợi
ích, củng cố an ninh đất nước và tạo môi trường thuận lợi nhất cho công cuộc
phát triển kinh tế.
Hai là, đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, cả song phương và đa phương,
động điều hành và thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập. Hoàn thiện chính
sách tranh thủ đầu tư, viện trợ phát triển, xúc tiến thương mại, du lịch và hợp tác
lao động với từng đối tác.
Ba là, tập trung nỗ lực tạo chuyển biến cơ bản trong công tác ngoại giao
phục vụ kinh tế. Trọng tâm là triển khai các nhiệm vụ đã được quy định trong
Nghị định 08/CP, tập trung vào công tác thông tin và dự báo vĩ mô, góp phần tạo
môi trường và khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại, thúc
đẩy các mặt hoạt động kinh tế đối ngoại, hỗ trợ có hiệu quả các yêu cầu của
doanh nghiệp, địa phương trong kinh tế đối ngoại.
Bốn là, tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt với các tổ chức

quốc tế và khu vực, trước hết với ASEAN, APEC, ASEM, Liên hợp quốc, WB,
IMF, ADB và với các tổ chức phi chính phủ, kết hợp hiệu quả của quan hệ song

22


phương với quan hệ đa phương, đẩy mạnh hoạt động và từng bước nâng cao vai
trò của Việt Nam trong các tổ chức này.
Năm là, tiếp tục phát huy vai trò quan trọng của ngoại giao nhân dân và các
hình thức ngoại giao phong phú khác cùng với ngoại giao của Đảng và Nhà
nước tạo thành sức mạnh tổng hợp trên mặt trận đối ngoại.
Sáu là, tiếp tục coi trọng và đẩy mạnh công tác vận động người Việt Nam ở
nước ngoài, mà trọng tâm là triển khai thực hiện Nghị quyết 36 của Bộ Chính
trị; sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới chính sách khuyến khích và tạo điều kiện
cho người Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương, tham gia xây dựng đất
nước; chú trọng hơn nữa công tác bảo hộ công dân; triển khai nhiều biện pháp
tích cực thực hiện chủ trương hòa hợp dân tộc, hướng tới tương lai.
Trong thời kỳ đổi mới, việc quán triệt và triển khai có hiệu quả đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế
theo phương châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển" đã
đem lại cho Việt Nam một tầm vóc mới và một vị thế mới. Chưa bao giờ sự giao
lưu giữa Việt Nam với các nước ở khắp các châu lục, ở tất cả các cấp và trên tất
cả các lĩnh vực lại diễn ra năng động như hiện nay. Sự tổng hòa các mối quan hệ
của Việt Nam với các nước láng giềng, khu vực, nước lớn, các trung tâm kinh tế
- chính trị, bạn gần, bạn xa, kết hợp giữa đa dạng hóa với xác lập và củng cố
quan hệ với các đối tác tin cậy, các thị trường chiến lược, đã tạo cho Việt Nam
thế đối ngoại cân bằng, ổn định và vững chắc, tạo môi trường quốc tế thuận lợi
cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bảo vệ đất nước.


23


KẾT LUẬN
Những diễn biến sôi động, phức tạo của tình hình chính trị thế giới và
những vẫn đề toàn cầu là những bài toán khó đòi hỏi mỗi quốc gia, dân tộc có
những lời giải riêng. Trong hơn 25 năm đổi mới vừa qua, hoạt động đối ngoại
góp phần quan trọng cho việc duy trì và củng cố môi trường hòa bình và ổn định
cho công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa. Phương cách của Việt
Nam xử lý các vấn đề mới nảy sinh xuất phát từ lợi ích và nguyên tắc đối ngoại
của chúng ta, đồng thời phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế. Hiệu
quả phục vụ phát triển kinh tế đã trở thành một trong những tiêu chí để đánh giá
công tác đối ngoại. Những hoạt động này đã góp phần không nhỏ để có những
thành tựu trong những năm qua. Kinh tế đất nước tiếp tục tăng trưởng, đời sống
mọi mặt của người dân được ổn định và phát triển, phá được thế bao vây, cấm
vận, chính trị xã hội ổn định, trật tự an toàn xã hội luôn được nâng cao, đảm bảo.
Củng cố được niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới xây dựng đất
nước đi lên chủ nghĩa xã hội do Đảng ta khởi xướng và tổ chức thực hiện.
Những thành tựu về kinh tế, chính trị và đối ngoại của Việt Nam trong
những năm đổi mới đã khẳng định vị thế của nước ta đối với khu vực và thế
giới, chứng minh sự đúng đắn, sáng tạo của đường lối đổi mới nói chung và
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ nói riêng của Đảng Cộng sản Việt Nam;
khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò lãnh đạo và tư duy chính trị nhạy cảm, sâu sắc,
bản lĩnh lãnh đạo vững vàng của Đảng.
Con đường phát triển phía trước còn nhiều gian nan vất vả, tình hình thế
giới vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp, nhưng với những bài học kinh nghiệm từ
thực tiễn, Đảng ta sẽ chèo lái con thuyền cách mạng vững vàng đến tương lai.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hoạt động đối ngoại của nước ta sẽ tiếp
tục góp phần xứng đáng vào việc thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của
dân tộc ta là “Bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc chủ quyền quốc gia, củng cố và

hoàn thiện chủ nghĩa xã hội “ đưa nước ta không ngừng phát triển, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá” đất nước.
24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương (5-1989), Nghị quyết về tình
hình thế giới và chính sách đối ngoại.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội IV, V, VI, VII, VIII, IX, X
XI Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Học viện Quan hệ quốc tế (2001), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự
nghiệp đổi mới (1975 - 2002), Lưu hành nội bộ.
4. Học viện Quan hệ quốc tế (2010), Quan hệ kinh tế của Mỹ và Nhật Bản
với Việt Nam từ năm 1995 đến nay, Nxb CTQG, Hà Nội.
5. Học viện ngoại giao (2011) “Đường lối chính sách đối ngoại Việt nam
trong giai đoạn mới”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Thúc đẩy quan hệ thương mại - đầu tư giữa liên minh châu Âu và Việt
Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI (2012), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Viện Kinh tế thế giới (2010), Đổi mới kinh tế Việt Nam và chính sách
đối ngoại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. PGS, TS Tô Huy Rứa -GS, TS. Hoàng Chí Bảo “Quá trình đổi mới tư
duy lý luận của Đảng ta từ năm 1996 đến nay” (2006). NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội

25


×