Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lãnh đạo của đảng trong thời kỳ 1986 – 2006 tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.29 KB, 23 trang )

MỤC LỤC

1


PHẦN MỞ BÀI
Từ năm 1986, Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước. So với công cuộc cải cách và chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch tập trung
sang kinh tế thị trường ở các quốc gia khác, đổi mới ở Việt Nam có những
nét đặc thù riêng. Đổi mới ở Việt Nam diễn ra từ hai chiều: “từ dưới lên” tức
là ở các hợp tác xã, doanh nghiệp và “từ trên xuống” tức là các quyết định
của Đảng và Nhà nước. Mối liên hệ hai chiều ấy đã làm cho công cuộc đổi
mới ở Việt Nam diễn ra không có sự xung đột giữa “phía trên” và “phía
dưới”, cũng như không có các “cú sốc” quá mạnh được tạo ra bởi các chính
sách và biện pháp điều chỉnh vĩ mô cứng rắn và duy ý chí của bộ máy lãnh
đạo “phía trên”. Đó là đặc điểm nổi bật của quá trình đổi mới ở Việt Nam,
vừa có sự chỉ đạo từ trên xuống, vừa có sự sáng tạo của nhân dân từ bên
dưới. Do đó, đổi mới đã dẫn đến thành công.
Khác với các nước Đông Âu và Liên Xô, ở Việt Nam nhu cầu đổi mới
các chính sách xuất phát từ chính lĩnh vực kinh tế, chứ không phải là hệ quả
của những biến động chính trị.
Sự chuyển từ chiến tranh sang hòa bình đã làm bùng nổ các nhu cầu về
đời sống, từ đó làm nảy sinh yêu cầu tháo gỡ các cản trở về quản lý kinh tế
và sau đó dẫn đến những thay đổi trong quan niệm từ sự vận hành của nền
kinh tế. Nói cách khác, thực tiễn đã làm “tan băng” các quan niệm xơ cứng
và thúc ép hoàn thành hệ thống lý thuyết và quan niệm phù hợp hơn.
Đổi mới ở Việt Nam diễn ra trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi
lớn lao, hầu như tất cả các nước đều có sự điều chỉnh chính sách của mình.
Những kinh nghiệm cải cách của các nước cũng là sự gợi mở cho Việt Nam
trong sự nghiệp tìm tòi con đường đổi mới. Vì vậy, những quan điểm đổi


2


mới của Việt Nam được hình thành không chỉ đúc kết kinh nghiệm của nước
mình mà còn từ những kinh nghiệm thành công và không thành công của các
nước xã hội chủ nghĩa khác.
Đây chính là lý do tôi chọn đề tài: “Thành tựu, hạn chế và kinh
nghiệm lãnh đạo của đảng trong thời kỳ 1986 – 2006”.

3


PHẦN NỘI DUNG
1. Những thành tựu của công cuộc đổi thời kỳ 1986 - 2006
Đổi mới ở Việt Nam là quá trình thử nghiệm, trong quá trình này cái
mới và cái cũ xen kẽ nhau, cái cũ không mất đi ngay mà lùi dần, có lúc, có
nơi còn chiếm ưu thế hơn cái mới, nhưng xu hướng chung là cái mới dần
dần được khẳng định và đưa tới thành công.
Điểm nổi bật của công cuộc đổi mới ở Việt Nam là luôn luôn lấy sự ổn
định chính trị - xã hội làm tiền đề, làm điều kiện tiên quyết cho sự nghiệp
đổi mới, phát triển và chính sự phát triển đó sẽ tạo ra sự ổn định mới vững
chắc hơn.
Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn và
có ý nghĩa lịch sử.
Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm,
khắc phục được nạn lạm phát có lúc trên 700% (năm 1986) xuống mức lạm
phát 12% (năm 1995) và từ đó đến nay lạm phát chỉ còn một con số; khắc
phục được nạn thiếu lương thực trước đây và hiện nay kinh tế phát triển liên
tục, đặc biệt là sản xuất lương thực, Việt Nam trở thành một nước xuất khẩu
gạo thứ hai, thứ ba trên thế giới.

Cùng với tăng trưởng kinh tế, trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã chú ý
đến việc thực hiện chính sách công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo. Nhờ
đó, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện một bước
đáng kể. Tính riêng trong 5 năm (1993-1998), thu nhập bình quân đầu người
của Việt Nam đã tăng 2,45 lần.
Một đặc điểm khác đáng chú ý nữa là sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đã
xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm, trước hết phải đổi mới tư duy về kinh
tế. Nhờ định hướng đúng đắn mà những yêu cầu cấp thiết của nhân dân ta về

4


sản xuất và đời sống được giải quyết, đem lại sự tin tưởng của nhân dân đối
với sự nghiệp đổi mới, tự nó trở thành động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới
giành nhiều thắng lợi.
Song song với đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới về chính trị, xã hội,
văn hóa với mục tiêu phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, xây
dựng và phát huy đại đoàn kết toàn dân, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Khoa học - công nghệ cùng với giáo dục
- đào tạo được Nhà nước hết sức chăm lo. Nhà nước coi chính sách phát
triển khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhờ
vậy, trong những năm vừa qua, khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo
đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Năm 2000, Việt Nam đã hoàn thành
phổ cập giáo dục tiểu học, hiện nay chương trình đào tạo sau đại học với hai
học vị thạc sĩ và tiến sĩ đang được thực hiện ở hầu hết các ngành học thuộc
khoa học tự nhiên và công nghệ cũng như khoa học xã hội và nhân văn.
Trong lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam thực hiện chính sách mở rộng quan
hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa
các quan hệ quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Trên cơ sở

đường lối đó, Việt Nam đã kiên trì phấn đấu đẩy lùi và làm thất bại chính
sách bao vây cấm vận, cô lập Việt Nam của các thế lực thù địch, tạo được
môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước.
Tháng 7-1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Tháng 3-1996, Việt Nam đã tham gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM)
gồm 10 nước châu Á và 15 nước châu Âu với tư cách thành viên sáng lập.

5


Tháng 10-2004, Hội nghị ASEM lần thứ năm đã họp tại Thủ đô Hà Nội của
Việt Nam.
Tháng 11-1998, Việt Nam đã gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á
- Thái Bình Dương (APEC) gồm các nước và lãnh thổ thuộc châu Á, châu
Mỹ và châu Đại Dương ở ven hai bờ Thái Bình Dương.
Chính trong quá trình hội nhập kinh tế, Việt Nam đã nhanh chóng mở
rộng xuất khẩu, thúc đẩy phát triển, tạo thêm việc làm cho người lao động,
tăng nguồn thu ngân sách nhà nước. Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam đạt 2,404 tỷ USD và nhập khẩu đạt 2,752 tỷ USD, tính chung bốn
năm từ năm 2001 đến năm 2004, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 77 tỷ
USD, tốc độ tăng xuất khẩu bình quân bốn năm khoảng 14,6%. Kim ngạch
xuất khẩu bình quân đầu người năm 2004 đạt trên 305 USD/người.
Đổi mới ở Việt Nam đã kết hợp được nội lực và ngoại lực. Tháng 121987, Việt Nam đã ban hành Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ thời gian
ấy đến nay, đất nước ta đã thu được hàng chục tỷ USD vốn đầu tư nước
ngoài với hàng nghìn dự án, trong số đó đã thực hiện khoảng 21 tỷ USD. Có
thể nói rằng, nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài giữ một vị trí quan trọng
trong nền kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới. Ngoài ra, Việt Nam còn tranh
thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng cao.

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra cơ hội để Việt Nam tiếp cận
với những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát
triển mạnh mẽ trên thế giới. Đồng thời, thông qua các dự án hợp tác với
nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh
nghiệm quản lý tiên tiến.
Những thành tựu đổi mới trên bắt nguồn từ đổi mới tư duy. Việc đổi
mới tư duy mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) của Đảng
Cộng sản Việt Nam đề ra rất khái quát, nhưng hết sức cơ bản và có ý nghĩa
6


quan trọng cho việc tiếp tục đổi mới về sau. Khi công cuộc đổi mới được
triển khai và đi vào chiều sâu thì đổi mới tư duy càng được đẩy mạnh. Bất
cứ một sự ngưng trệ nào trong tư duy cũng đều làm ngưng trệ sự đổi mới
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực tiễn đổi mới về kinh tế,
chính trị, xã hội vừa là kết quả đổi mới tư duy, lại vừa đặt ra những yêu cầu
mới cho việc tiếp tục đổi mới tư duy ở trình độ cao hơn.
Ở Việt Nam, đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà
làm cho chủ nghĩa xã hội đi tới thắng lợi. Đổi mới không phải là phủ định
quá khứ mà khẳng định những gì hiểu đúng, làm đúng, loại bỏ những gì hiểu
sai, làm sai, bổ sung những nhận thức mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình
nhiệm vụ mới.
Thực hiện được những điều trên đây thực sự là cuộc đấu tranh phức tạp
giữa cái đúng và cái sai, giữa tiến bộ và lạc hậu, lỗi thời, giữa cái mới thúc
đẩy sự phát triển và cái cũ cản trở sự phát triển. Tiêu chuẩn để phân biệt
những mặt trái ngược đó chính là thực tiễn - kết quả về kinh tế, xã hội giành
được trong thời kỳ đổi mới.
*Thành tựu đổi mới ở Việt Nam đã được thể hiện rõ nét trên một số vấn
đề sau đây:
Thứ nhất, chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung chỉ có hai

thành phần kinh tế (nhà nước và tập thể) sang mô hình mới - kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần (nhà nước, tập thể, cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư
bản nhà nước, có vốn đầu tư nước ngoài), trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo trong sự thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở
hữu, đa dạng các hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động
và hiệu quả kinh tế là chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất. Đây là đổi
mới căn bản mà ý nghĩa sâu xa của nó là tôn trọng quy luật khách quan về sự
7


phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Điều đó đã mở đường giải phóng mọi tiềm năng xã hội, giải phóng sức sản
xuất. Nhân tố quan trọng bậc nhất của lực lượng sản xuất là con người:
Người lao động làm chủ, được thúc đẩy bởi quy luật lợi ích, trong đó lợi ích
cá nhân của người lao động là động lực trực tiếp và là cơ sở để thực hiện
phát triển lợi ích của tập thể và của toàn xã hội.
Thứ hai, từ mô hình quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung
chuyển sang mô hình quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường. Điểm nổi bật
trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là xóa bỏ chế độ tập trung quan liêu bao
cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới có tính chất đột phá là từ
chỗ về cơ bản không sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, chuyển sang coi thị
trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch. Còn kế hoạch mang
tính định hướng, điều tiết ở tầm vĩ mô, thị trường có vai trò trực tiếp hướng
dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản
xuất kinh doanh.
Cơ chế thị trường thừa nhận cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất phát triển,
nhưng đồng thời dẫn tới sự chênh lệch, sự phân hóa giàu nghèo. Đây là mặt
trái của cơ chế thị trường.
Vấn đề đặt ra là Nhà nước phải có chính sách đúng đắn để cho cơ chế

thị trường đẩy sự phân hóa giàu nghèo vượt qua giới hạn cho phép. Việt
Nam đã giải quyết vấn đề này bằng chính sách xóa đói, giảm nghèo được
thực hiện tương đối hiệu quả.
Tại cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa đói, giảm nghèo: Kinh
nghiệm Việt Nam và một số nước châu Á do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ
chức tại Hà Nội vào giữa tháng 6-2004, đại diện của nhiều tổ chức và nhà tài
trợ quốc tế đã đánh giá cao những thành tựu của Việt Nam trong công cuộc
8


xóa đói, giảm nghèo. Việt Nam là nước có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất
khu vực Đông Nam Á.
Thứ ba, đổi mới hệ thống chính trị từ chế độ tập trung quan liêu, với
phương thức quản lý kinh tế hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hóa các
lĩnh vực của đời sống xã hội, thực hiện dân chủ gắn liền với tôn trọng luật
pháp, kỷ cương xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đổi mới trong
lĩnh vực này đã góp phần quan trọng vào việc tháo gỡ những lực cản đối với
tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa xã hội, nảy sinh ra những nhân tố
mới, động lực mới, thúc đẩy công cuộc đổi mới ở Việt Nam giành được
nhiều thành quả.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam gồm ba phần cấu thành: Đảng, Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Nói đổi mới hệ thống chính trị
thực chất là đổi mới tổ chức, cán bộ và phương thức hoạt động của các tổ
chức chính trị đó. Cụ thể là:
- Đảng Cộng sản Việt Nam “lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là
một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức
nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết

thống nhất trong Đảng... Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè
phái”.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Nhà nước thể hiện và thực
hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, định ra pháp luật, tổ chức quản lý mọi
mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, kế hoạch và các chính sách cụ thể. Lắng
9


nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, nhờ vậy đã có cơ
chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và chống tệ nạn quan liêu, tham
nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền và lợi ích của nhân
dân.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện
của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá
nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn
giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng
trong sự nghiệp đoàn kết toàn dân tộc nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam. “Các đoàn thể nhân dân, tùy theo tính chất, tôn chỉ và mục đích
đã xác định, vừa vận động đoàn viên, hội viên giúp nhau chăm lo, bảo vệ các
lợi ích thiết thực; vừa giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt cho đoàn viên, hội
viên, vừa tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội”.
Thành tựu đạt được trong việc thực hiện đổi mới hệ thống chính trị là
đáng kể. Đổi mới đã tạo ra bầu không khí dân chủ và cởi mở trong xã hội, đã
thiết lập được các cơ chế và chính sách để thực hiện quyền dân chủ của nhân
dân. Tất cả những điều vừa trình bày trên đây đã góp phần quan trọng vào
việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới
toàn diện đất nước.

Thành tựu này được các nước trong khu vực cũng như các đối tác có
quan hệ với Việt Nam thừa nhận và xem đây là một thuận lợi trong xu thế
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

10


2. Những hạn chế của công cuộc đổi thời kỳ 1986 - 2006
2.1. Trên lĩnh vực kinh tế
Về nhận thức, chưa hình thành được một khung lý luận chắc chắn về
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên nhiều khi chưa
tôn trọng đầy đủ và nhất quán những nguyên tắc của kinh tế thị trường trong
xây dựng, vận hành và xử lý các vấn đề của nền kinh tế. Chưa xác định rõ và
tạo được sự nhất trí cao về những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là về tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức chưa rõ về vị trí, vai trò và mối quan hệ giữa các nhân tố cấu
thành chủ yếu của nền kinh tế thị trường. Nhà nước, thị trường và doanh
nghiệp, nên chưa phát huy tốt tác dụng của các nhân tố đó.
Hiện nay, chúng ta chưa xác định được cụ thể tiêu chí khi nước ta trở
thành một nước công nghiệp để làm đích hướng tới. Nếu theo tiêu chí của
các nước đã hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì nước ta khó có thể
đat tới năm 2020.
Nói chung, các bước đi của cả quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
chưa được làm rõ. Chậm cụ thể hóa mô hình, dẫn đến còn nhiều lúng túng
trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Nhận
thức thế nào là nền kinh tế độc lập tự chủ và sự tùy thuộc giữa các nền kinh
tế trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề còn
nhiều ý kiến khác nhau.
- Về thực tiễn, tốc độ tăng trưởng chưa xứng với tiềm năng: chất lượng
tăng trưởng còn thấp; các cân đối vĩ mô của nền kinh tế còn thiếu vững chắc;

đời sống nhân dân ở nhiều vùng còn khó khăn. Tăng trưởng những năm qua
chủ yếu dựa vào những nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng, với những
ngành, những sản phẩm truyền thống, công nghệ thấp, tiêu hao vật tư cao;
chưa đi mạnh vào chất lượng, còn phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư công và
11


bảo hộ, bao cấp dưới nhiều hình thức của Nhà nước, làm giảm tính cạnh
tranh.
Kinh tế nhà nước chưa làm thật tốt vai trò chủ đạo, chất lượng, hiệu
quả và sức cạnh tranh còn thấp. Kinh tế tập thể phát triển chậm và còn nhỏ
bé. Kinh tế tư nhân chưa phát triển mạnh đúng với tiềm năng. Kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài còn gặp khó khăn về môi trường đầu tư và một số vướng
mắc về cơ chế, chính sách…
Thể chế kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được
hình thành đồng bộ. Hệ thống thị trường còn bất cập. Hệ thống pháp luật
trên lĩnh vực kinh tế còn thiếu toàn diện, chưa đồng bộ và thiếu ổn định,
chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật, còn thiếu
nhiều văn bản dưới luật.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, làm ảnh hưởng đến nâng cao hiệu
quả kinh tế, sức cạnh tranh trong hội nhâp kinh tế quốc tế. Sản xuất nông
nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn; tỷ trọng lĩnh vực dịch vụ có phần chững lại.
Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm trong từng ngành theo hướng phát huy lợi thế
so sánh chưa được đẩy mạnh; chưa hình thành rõ nét các ngành, sản phẩm
động lức, mũi nhọn, có sức cạnh tranh và hiệu quả cao, tỷ lệ giá trị mới tạo
ra còn thấp. Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy tốt lợi thế so sánh và
vai trò thúc đẩy các vùng khác phát triển. Các vùng có khó khăn vươn lên
còn chậm.
Chuyển dịch lao động từ nông nghiệp và nông thôn sang các ngành
khác còn rất khó khăn. Tỷ lệ lao động được đào tạo còn thấp. Vai trò quản lý

nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa
được xác định thật rõ ràng, phương pháp quản lý còn nặng nề về can thiệp
hành chính, thiếu căn cứ thị trường, thiếu dự báo tin cậy, thiếu chủ động và
chưa có chiến lược để đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.
12


2.2. Trên lĩnh vực văn hóa, xã hội, con người
Đổi mới các vấn đề văn hóa xã hội, về cơ chế quản lý văn hóa, xã hội
và hội nhập văn hóa, xã hội còn chậm; vẫn nặng nề tư tưởng coi việc giải
quyết các vấn đề xã hội là trách nhiệm của Nhà nước, chưa thu hút được các
thành phần kinh tế, các nguồn lực cho phát triển.
Chưa có quan niệm thống nhất về vấn đề xã hội hóa các hoạt động dịch
vụ, về công bằng và bình đẳng, về sự phân hóa giàu nghèo ở nước ta.
Nhận thức về hội nhập văn hóa và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, vấn
đề thị trường trong văn hóa – giáo dục, chăm sóc sức khỏe…cũng còn nhiều
ý kiến khác nhau.
Việc kết hợp phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội còn
nhiều hạn chế. Khoảng cách giữa đổi mới chính sách kinh tế và đổi mới
chính sách văn hóa, xã hội bộc lộ rõ nét, nhiều vấn đề xã hội nổi lên.
2.3. Trên lĩnh vực hệ thống chính trị
Chưa làm sáng tỏ “tính độc lập tương đối” của mỗi quyền, về sự chế
ước lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực; vấn đề kiểm tra, giám sát quyền lực,
đảm bảo quyền lực không bị tha hóa và bị lạm dụng. Còn chưa có nhận thức
đầy đủ về vấn đề làm sao để tránh chồng chéo cũng như tránh lạm quyền
trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, về cơ chế đảm bảo quyền kiểm
tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Nhà nước.
Việc đổi mới nền hành chính quốc gia còn rất hạn chế. Bộ máy hành
chính còn nhiều tầng nhiều nấc làm cho việc quản lý các quá trình kinh tế xã hội chưa thật nhanh, nhạy và có hiệu quả cao. Tình trạng quan lieu, hách
dịch, nhũng nhiễu của một bộ phận công chức nhà nước chưa được khắc

phục; kỷ cương, phép nước bị xem thường ở nhiều nơi.

13


2.4. Trên lĩnh vực đối ngoại
Còn chậm đổi mới tư duy trên một số vấn đề quốc tế và đối ngoại;
nghiên cứu các vấn đề quốc tế chưa sâu; dự báo tình hình thế giới, khu vực,
về chiến lược các nước lớn còn hạn chế.
Chưa tạo dựng được quan hệ hợp tác với các nước lớn thật sự ổn định,
lâu dài, vững chắc; chưa xây dựng được quan hệ lợi ích đan xen, tùy thuộc
lẫn nhau với họ. Công tác thông tin đối ngoại còn bị động, thiếu sắc bén,
chưa có sức thuyết phục, hình thức còn nghèo nàn.
2.5. Trên lĩnh vực an ninh – quốc phòng
Vấn đề mối quan hệ giữa vai trò lãnh đạo trực tiếp , toàn diện, tuyệt đối
của Đảng trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh và vai trò quản lý của Nhà nước
trên lĩnh vực này còn chưa được cụ thể hóa và quy chế hóa.
Sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng chưa ngang tầm với đòi hỏi của
nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trước tình hình mới; một số cán bộ, đảng viên chưa
thấy hết âm mưu của các thế lực thù địch, còn mơ hồ, chủ quan, mất cảnh
giác; chưa thấy hết tác động của mặt trái cơ chế thị trường và hội nhập quốc
tế đến cán bộ, đảng viên và nhân dân, kể cả đến lực lượng vũ trang.
2.6. Trên lĩnh vực xây dựng Đảng
Không ít vấn đề lý luận về Đảng cầm quyền trong điều kiện kinh tế thị
trường, dân chủ hóa và mở cửa chưa được làm sáng tỏ.
Công tác xây dựng Đảng chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Công tác tư tưởng chưa chuẩn bị đầy đủ và có biện pháp tích cực cho
bước chuyển căn bản trên những lĩnh vực phát triển kinh tế và mở rộng đối
ngoại. Một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị đạo

14


đức, lối sống, biểu hiện rõ nhất là tình trạng phai nhạt lý tưởng, dao động
niềm tin về chủ nghĩa xã hội trước sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu…
Công tác tổ chức chậm giải quyết một số vấn đề tồn tại trong hệ thống
tổ chức của Đảng. Công tác tổ chức cán bộ còn thiếu những cơ chế, chính
sách để thật sự phát huy dân chủ, để đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng hiệu quả
đội ngũ cán bộ; dân chủ hóa công tác cán bộ còn rất chậm; chưa có biện
pháp khắc phục tình trạng hẫng hụt cán bộ ở các cấp.
Phương thức lãnh đạo của Đảng còn lúng túng, hạn chế, chưa phát huy
đầy đủ vai trò của chính quyền và các đoàn thể nhân dân. Việc phối hợp giữa
kiểm tra của Đảng với thanh tra nhà nước chưa chặt chẽ.
Những yếu kém, khuyết điểm trên tác động lẫn nhau, đan xen nhau rất
phức tạp, làm cản trở công cuộc đổi mới, hạn chế việc phát huy thành quả
của đổi mới.
3. Những bài học kinh nghiệm của công cuộc đổi mới thời kỳ 1986
-2006
Từ thực tiễn đổi mới, Đảng và Nhà nước ta càng tích lũy thêm nhiều
kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý. Có thể rút ra một số bài học sau đây:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội và trong tám thập kỷ qua, Đảng ta luôn kiên trì mục tiêu đó.
Trong hơn 20 năm đổi mới, tình hình thế giới biến động rất phức tạp. Cuối
những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, chế độ xã hội chủ nghĩa ở
các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ. Chủ nghĩa xã hội hiện thực bị lâm
vào thoái trào, phong trào cách mạng thế giới gặp những khó khăn to lớn
15



chưa từng thấy. Tình hình đó đã tác động đến cách mạng nước ta. Đứng
trước tình thế hiểm nghèo đó, với bản lĩnh chính trị vững vàng, Đảng ta vẫn
kiên định con đường xã hội chủ nghĩa đã chọn - con đường hợp quy luật
phát triển của cách mạng Việt Nam để xây dựng một nước Việt Nam giàu
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, phù hợp với con đường phát triển của
nhân loại.
Trong những năm đổi mới, Đảng ta đã có sự nhận thức sâu sắc hơn,
đúng đắn hơn đối với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được Đại hội VII của
Đảng thông qua năm 1991 Đảng ta đã đưa tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với
chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho cách
mạng nước ta.
Trên cơ sở đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, Đảng ta đặt vấn
đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân,
vì dân.
Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng, nhất là trong thời kỳ đổi
mới đã khẳng định giá trị, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là
kiên định tính biện chứng, là điều kiện cơ bản bảo đảm cho thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới vô cùng phức tạp
của tình hình thế giới.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và
cách làm phù hợp.
Công cuộc cải tổ, cải cách ở một số nước xã hội chủ nghĩa cho thấy, nếu
xác định đúng mục tiêu, song không xác định đúng phương hướng, bước đi
thì vẫn có thể không thành công. Đối với nước ta, đổi mới là một sự nghiệp
16



có tính chất cách mạng, toàn diện, tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội.
Đổi mới toàn diện phải tiến hành đồng bộ trên tất cả các mặt, tuy nhiên
phải xác định trọng tâm, trọng điểm và phải có các bước đi, hình thức, cách
làm phù hợp, phải nắm lấy khâu then chốt trong mỗi thời kỳ, phải nắm vững
các mối quan hệ biện chứng chủ yếu trong đời sống xã hội, đó là quan hệ
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa kinh tế và chính trị, giữa
kinh tế và quốc phòng - an ninh, trong đó xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có ý nghĩa hết
sức quan trọng.
Trong quá trình đổi mới, nước ta kế thừa những kinh nghiệm dựng nước
và giữ nước của lịch sử dân tộc, những thành tựu của cách mạng, giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời kế thừa, tiếp thu có chọn lọc
những tinh hoa của văn hóa nhân loại, trong đó có mặt tích cực của kinh tế
thị trường, những giá trị tư tưởng về nhà nước pháp quyền.
Để đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, nước ta đã bảo đảm tốt
nhiệm vụ phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm
vụ then chốt với phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Gắn kết
chặt chẽ kinh tế với văn hóa và bảo đảm môi trường sinh thái. Tăng trưởng
kinh tế đi đôi với thực hiện công bằng xã hội trong từng bước phát triển, gắn
kết phát triển kinh tế với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và đối ngoại.
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy
vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, phù hợp thực tiễn, luôn luôn nhạy
bén với cái mới.
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo và tổ chức thực
hiện về bản chất mang tính nhân dân sâu sắc thể hiện ở chỗ nó bắt nguồn từ
nhân dân, vì lợi ích của nhân dân và do nhân dân thực hiện. Chính những
17



sáng kiến của nhân dân, của cơ sở nảy sinh từ cuộc sống thực tiễn là cơ sở,
nguồn gốc để hình thành chủ trương đổi mới của Đảng. Đường lối đổi mới
phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, thể hiện ý Đảng lòng dân nên được
toàn dân ủng hộ và thực hiện một cách sáng tạo đã giải phóng được mọi tiềm
năng của lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định sự phát triển xã hội, khơi
dậy được tài sức của nhân dân để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Hiện nay, công cuộc đổi mới đang đặt ra nhiều vấn đề cả về lý luận và
thực tiễn mà Đảng ta phải nghiên cứu giải quyết. Vì vậy, phải tiếp tục nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Những bài học rút ra trong sự nghiệp đổi mới
vừa qua sẽ góp phần thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đi tới thành công, nhất là
phải đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và nhiều vấn đề cấp
bách khác như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, v.v..
Do tác động mặt trái của kinh tế thị trường, nạn quan liêu, tham nhũng,
lãng phí đang tiếp tục diễn ra ở một số cán bộ và một số cơ quan quan trọng
làm cho quan hệ giữa Đảng và nhân dân có mặt bị giảm sút. Vì vậy, phải
củng cố và tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân.
Lợi ích chính đáng của nhân dân phải là cơ sở để hoạch định chính sách của
Đảng và Nhà nước. Có như vậy những sáng kiến, kinh nghiệm của quần
chúng, tiếng nói, nguyện vọng của nhân dân mới có thể được biến thành
những quyết sách chính trị trong quá trình đổi mới.
Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời khai thác ngoại lực, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn coi trọng việc phát huy sức mạnh
tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trong đó phát huy nội
lực là nhân tố quyết định, khai thác nhân tố ngoại lực là quan trọng, kết hợp
sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.

18



Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như
vũ bão, kinh tế tri thức ngày càng phát triển, chúng ta phải chủ động sử dụng
những thành tựu khoa học và công nghệ (công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu mới...) cùng với những thành tựu của kinh tế tri
thức để phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền đề để phát triển và ứng dụng khoa
học - công nghệ hiện đại của thế giới.
Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế đã trở thành một xu thế khách
quan, tác động đến tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, Đảng ta đã đề ra
chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Vì thế, chúng ta đã xác lập
được quan hệ ổn định với các nước lớn, đã thiết lập ngoại giao với 167 nước,
có quan hệ thương mại với 221 nước và vùng lãnh thổ, chúng ta đã gia nhập
AFTA, ASEM, APEC và năm 2006 đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO). Nhờ vậy, chúng ta đã thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước
ngoài FDI và ODA. Chúng ta cũng đã thiết lập được quan hệ tín dụng với
các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, tranh thủ được số lượng vốn vay ưu
đãi của Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng
Phát triển châu Á (ADB), đồng thời tranh thủ kinh nghiệm quản lý của nước
ngoài, mở rộng thị trường để phát triển đất nước.
Sự khai thác ngoại lực làm tăng lên sức mạnh của nội lực. Việc phát
huy nội lực tạo cơ sở cho việc sử dụng ngoại lực có hiệu quả hơn. Trong
việc khai thác ngoại lực, sử dụng sức mạnh của thời đại, chúng ta phải đứng
vững trên các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, giữ
vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát triển
nền văn hóa dân tộc.

19



Năm là, phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Thực tiễn công cuộc đổi mới đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới. Nhờ có đường lối đổi
mới đúng đắn, ngày càng hoàn thiện, vai trò lãnh đạo và năng lực cầm quyền
của Đảng được tăng cường, do đó, công cuộc đổi mới do Đảng ta đề xướng
được đông đảo nhân dân hưởng ứng biến thành hành động sôi nổi, rộng khắp
của quần chúng.
Trong quy trình đổi mới, Đảng ta rất coi trọng công tác xây dựng Đảng,
coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, coi việc nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện mới là nhiệm vụ sống còn
trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta rất coi trọng việc xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vì dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của công cuộc đổi mới. Dân chủ hóa đời sống xã hội sẽ làm cho mọi
tiềm năng của con người được phát huy, tính tích cực, chủ động của nhân
dân được tăng lên, sự tham gia của nhân dân vào quá trình sáng tạo ra xã hội
mới sẽ ngày càng có hiệu quả hơn.
Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa phải tăng cường vai trò của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân
dân, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở lợi ích
chung của đất nước, lấy việc giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc, vì sự
nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm
tương đồng. Phải tạo điều kiện và cơ chế cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội đối với
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
20



Trên đây là những bài học lớn được rút ra từ công cuộc đổi mới. Những
bài học này có ý nghĩa chỉ đạo tiếp tục cho công cuộc đổi mới đi vào chiều
sâu. Vì vậy, nắm vững và quán triệt chúng để đẩy mạnh toàn diện công cuộc
đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là yêu cầu quan trọng hiện
nay và sắp tới.

21


PHẦN KẾT LUẬN
Như vậy, sau 20 năm đổi mới, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu
to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu đó đã chứng tỏ đường lối
đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Điều rất quan trọng là,
sau 20 năm lãnh đạo và chỉ đạo công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta
ngày càng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn.
Tuy vậy, chúng ta cũng còn nhiều yếu kém và khuyết điểm. Không ít
vấn đề về nhận thức lý luận còn chưa đủ rõ, nhất là trong việc nhận thức và
giải quyết quan hệ giữa tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững; giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; đổi mới giữa hệ thống chính trị và kinh tế,
đổi mới giữa độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế…
Phát huy những thành tựu, khắc phục những nhược điểm để đưa đất
nước vững bước phát triển là đòi hỏi bức xúc đối với Đảng và dân tộc ta.
Hiện nay Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước nhằm mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.


22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chỉ đạo tổng kết lý luận, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận
– thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 – 2006), Nxb.CTQG, H.2005.
2. Ban tư tưởng - văn hoá Trung ương, Tài liệu tham khảo phục vụ
nghiên cứu nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng,
Nxb.CTQG, H.2006, tr.77-87.
3. Ban tư tưởng - văn hoá Trung ương, Chuyên đề nghiên cứu nghị
quyết Đại hội X của Đảng (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo
viên), Nxb.CTQG, H.2006, tr.35-41.
4. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, Đảng lãnh đạo
cách mạng XHCN và bài học kinh nghiệm tổng quát của cách mạng
VN, Dùng cho đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội - bậc đại học,
Nxb. QĐND, H.2008, tr.133-151.
5. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, Đảng lãnh đạo
cách mạng XHCN, Dùng cho đào tạo chức danh cán bộ chính trị cấp
chiến thuật - chiến dịch, Nxb. QĐND, H.2005, tr.225-280.
6. Văn kiện Đại hội X, Nxb.CTQG, H.2006, tr.13-20.

23



×