Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Vận dụng lý thuyết giá trị trong nghiên cứ hệ giá trị truyền thống người Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.79 KB, 20 trang )

Đề tài: Vận dụng lý thuyết giá trị trong nghiên cứu hệ giá trị truyền thống của người Việt
Học viên thực hiện: Hà Vương
Lớp: Cao học Văn hóa học

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
Chương 1 Lý thuyết giá trị trong nghiên cứu văn hóa........................................2
1.1. Giá trị và hệ giá trị........................................................................................2
1.1.1. Giá trị.........................................................................................................2
1.1.2. Hệ giá trị....................................................................................................3
1.2. Giá trị với chuẩn mực xã hội và bản sắc văn hoá.........................................4
1.2.1. Chuẩn mực xã hội......................................................................................4
1.2.2. Bản sắc văn hóa ........................................................................................4
Chương 2 Hệ giá trị truyền thống của người Việt...............................................6
2.1. Về những giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp của người Việt...................6
2.2. Những điều hạn chế, một số thói hư tật xấu cản trở phát triển...................8
Chương 3 Sự chuyển đổi hệ giá trị văn hóa Việt Nam......................................10
3.1. Quy luật vận động......................................................................................10
3.2. Giá trị và sự chuyển đổi hệ giá trị..............................................................10
Chương 4 Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống ............................13
4.1. Quan niệm về mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống
Việt Nam với tiếp thu tinh hoa văn hóa ............................................................13
4.2. Bảo tồn, phát huy hệ giá trị truyền thống cho phát triển............................17
KẾT LUẬN.......................................................................................................18

1


Đề tài: Vận dụng lý thuyết giá trị trong nghiên cứu hệ giá trị truyền thống của người Việt
Học viên thực hiện: Hà Vương
Lớp: Cao học Văn hóa học



MỞ ĐẦU
“Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và
hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên các giá trị, các
truyền thống và thị hiếu – những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân
tộc”. Đó là quan niệm về văn hóa của Federico Mayor (UNESCO). Còn theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống,
loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về
mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh
đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng
với biểu hiện của nó mà loài người sản sinh ra nhằm thích ứng với yêu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
Như vậy khái niệm “văn hoá” kéo theo khái niệm “giá trị, tính giá trị”.
Không phải mọi cái do con người sáng tạo ra đều là văn hoá, mà chỉ có những gì
có giá trị mới thuộc về văn hoá. Trong từ “văn hoá” thì, trong truyền thống
phương Đông,“văn” là khái niệm đối lập với “võ”, “văn” có nghĩa là “vẻ đẹp”,
là giá trị; văn hoá có nghĩa là “trở thành đẹp, thành có giá trị”. Văn hoá chỉ chứa
cái đẹp, chứa các giá trị. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con
người.
Như vậy mỗi quốc gia dân tộc đều có những giá trị, hệ giá trị được xác lập
và phân biệt với giá trị, hệ giá trị của một quốc gia, dân tộc khác. Sự khác nhau
của giá trị, hệ giá trị đó cấu thành nét riêng biêt, đặc trưng văn hóa của mỗi quốc
gia dân tộc. Nghiên cứu về giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam, xuyên suốt
theo chiều dài lịch sử dân tộc, ở mỗi giai đoạn có thể thấy khá nhiều công trình
tiêu biểu đề cập tới nội dung này bao gồm những nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước. Về cơ bản giá trị, hệ giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam được các nhà
nghiên cứu nhìn nhận và đưa ra những quan điểm tương đồng. Đề tài này hệ
thống lại những quan niệm về giá trị, hệ giá trị, từ đó đi đến việc đúc kết những
giá trị truyền thống của văn hóa Việt Nam, đồng thời chỉ ra xu thế vận động và

bảo tồn nền Văn hóa Việt Nam trong trong xu thế phát triển, hội nhập.

2


Đề tài: Vận dụng lý thuyết giá trị trong nghiên cứu hệ giá trị truyền thống của người Việt
Học viên thực hiện: Hà Vương
Lớp: Cao học Văn hóa học

Chương 1
LÝ THUYẾT GIÁ TRỊ TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HÓA
1.1. Giá trị và hệ giá trị
1.1.1. Giá trị
Có nhiều quan niệm khác nhau về giá trị. Theo nghĩa chung nhất, giá trị là
cái bộc lộ ra tường minh hay kín đáo từ bản thân sự vật, hiện tượng đối với con
người. Giá trị chính là ý nghĩa và thường là có ích đối với người thừa nhận. Một
định nghĩa giá trị được nhiều tác giả ở Việt Nam sử dụng, coi “giá trị là thuật
ngữ được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu triết học và xã hội học dùng để chỉ ý
nghĩa văn hóa và xã hội của các hiện tượng. Về thực chất, toàn bộ sự đa dạng
của hoạt động người, của các quan hệ xã hội, bao gồm cả những hiện tượng tự
nhiên có liên quan, có thể được thể hiện là các “giá trị khách quan” với tính cách
là khách thể của quan hệ giá trị, nghĩa là, được đánh giá trong khuôn thước của
thiện và ác, chân lý và sai lầm, đẹp và xấu, được phép và cấm kỵ, chính nghĩa và
phi nghĩa, v.v. Khi định hướng đối với hoạt động của con người, phương thức và
tiêu chuẩn được dùng làm thể thức đánh giá sẽ định hình trong ý thức xã hội và
trong văn hóa thành các “giá trị chủ quan” (bảng đánh giá, mệnh lệnh và những
điều cấm, mục đích và ý đồ... được thể hiện dưới hình thức các chuẩn mực). Giá
trị khách quan và giá trị chủ quan là hai cực của quan hệ giá trị của con người
với thế giới”.
Chúng tôi tiếp cận khái niệm “giá trị văn hoá truyền thống” từ góc độ văn

hoá học, một bộ môn nghiên cứu mang tính liên ngành, do vậy giá trị được hiểu
theo những ý nghĩa sau :
Giá trị cũng như tập quán, chuẩn mực, tri thức... đều là sản phẩm của quá
trình tư duy, sản xuất tinh thần của con người, nó là yếu tố cốt lõi nhất của văn
hoá. Giá trị, giá trị văn hoá là một hình thái của đời sống tinh thần, nó phản ánh
và kết tinh đời sống văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của con người. Cho
nên, quan điểm cho rằng văn hoá hay giá trị văn hoá chỉ là lĩnh vực đời sống
tinh thần thôi thì chưa thật thoả đáng.
Giá trị, trước nhất là hệ thống những đánh giá mang tính chủ quan của con
người về tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái gì là cần, là tốt, là
hay, là đẹp, nói cách khác đó chính là những cái được con người cho là chân,
thiện, mỹ, giúp khẳng định và nâng cao bản chất người. Do vậy, giá trị văn hoá

3


Đề tài: Vận dụng lý thuyết giá trị trong nghiên cứu hệ giá trị truyền thống của người Việt
Học viên thực hiện: Hà Vương
Lớp: Cao học Văn hóa học

nói ở đây là giá trị xã hội, nó gắn bó mật thiết với hoạt động sống của con người,
sự tồn tại và phát triển của mỗi xã hội.
Giá trị văn hoá (Cultural Value) do con người trong mỗi xã hội sáng tạo ra
trong quá trình lịch sử, nhưng một khi hệ giá trị văn hoá đã hình thành thì nó lại
có vai trò định hướng cho các mục tiêu, phương thức và hành động của con
người trong các xã hội ấy. Nó chính là một thứ vốn xã hội (Social Capital) .
Như thế, khi nói bản chất của giá trị hay nói tới vai trò định hướng, chi
phối, điều tiết của hệ giá trị thì về thực chất chúng ta đang nói tới mối quan
hệ đa chiều của con người. Cũng như văn hoá, giá trị được sản sinh từ các mối
quan hệ con người với tự nhiên, với xã hội.

1.1.2. Hệ giá trị
Giá trị văn hoá của mỗi cộng đồng (tộc người, quốc gia...) bao giờ cũng tạo
nên một hệ thống, với ý nghĩa là các giá trị ấy nảy sinh, tồn tại trong sự liên hệ,
tác động hữu cơ với nhau. Chúng ta nói hệ giá trị (Value System) hay bảng giá
trị văn hoá của mỗi cộng đồng thì thường hàm hai ý nghĩa: Các giá trị riêng lẻ
liên kết nhau tạo nên một hệ thống các giá trị; Có sự sắp đặt trước sau, độ nhấn
về tầm quan trọng của từng nhân tố giá trị trong một bảng giá trị. Thí dụ, với
người Việt Nam thì chủ nghĩa yêu nước là nhân tố hàng đầu trong bảng (hệ) giá
trị dân tộc, nhưng với người Nhật Bản hay một số dân tộc khác thì có thể chủ
nghĩa yêu nước lại được xếp ở các vị trí khác...Thường thì nhiều dân tộc đều có
chung những giá trị, như yêu nước, cần cù, tính cộng đồng..., tuy nhiên, trong
từng hệ giá trị của mỗi dân tộc thì việc xếp đặt thứ tự ưu tiên, độ nhấn của từng
yếu tố giá trị ấy trong bảng giá trị thì có thể khác nhau.
Giống như văn hoá, hệ giá trị cũng mang tính tương đối. Do vậy để đánh
giá tính giá trị hay phi giá trị, giá trị cao hay thấp thì phải đặt nó trong toạ độ về
mặt không gian, thời gian và chủ thể của văn hoá. Nếu thoát ly cái đó, chúng ta
rất khó đo đếm, đánh giá được tính giá trị hay phản giá trị của văn hoá của tộc
người nào đó. Bởi vì suy cho cùng, giá trị hay chân lý đều phải mang tính cụ thể.
Thí dụ, “trung với vua” là một giá trị của văn hoá Việt Nam thời quân chủ phong
kiến, nhưng nó không phải là giá trị trong xã hội Việt Nam hiện đại. “Nước,
phân, cần, giống” là hệ giá trị của những người canh tác lúa nước ở đồng bằng
Bắc Bộ, nhưng có thể không phải như vậy với người nông dân Nam Bộ. Người
Việt Nam coi việc ăn thịt chó là ngon, là bổ, nhưng với nhiều dân tộc khác thì
không hẳn là như vậy...

4


Đề tài: Vận dụng lý thuyết giá trị trong nghiên cứu hệ giá trị truyền thống của người Việt
Học viên thực hiện: Hà Vương

Lớp: Cao học Văn hóa học

1.2. Giá trị với chuẩn mực xã hội và bản sắc văn hoá
Trong văn hoá học, giá trị cùng với các khái niệm bản sắc, bản lĩnh, biểu
tượng, di sản, chuẩn mực...tạo nên một hệ thống các khái niệm, chúng khác nhau
nhưng có mối liên hệ, giao thoa với nhau, do vậy, khi tìm hiểu giá trị văn hoá,
chúng ta không thể không đề cập tới các khái niệm liên quan.
Văn hoá truyền thống hay giá trị văn hoá truyền thống được hiểu như là
văn hoá và giá trị gắn với xã hội tiền công nghiệp, phân biệt với văn hoá, giá trị
văn hoá thời đại công nghiệp hoá. Tất nhiên, khái niệm truyền thống để chỉ
những cái gì đã hình thành từ lâu đời, mang tính bền vững và được trao truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác, không chỉ xã hội tiền công nghiệp mới có mà với
cả xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì truyền thống vẫn hình thành và định
hình. Hơn thế nữa, còn có sự kết nối giữa truyền thống tiền công nghiệp với
truyền thống công nghiệp hoá thể hiện trong từng hiện tượng hay giá trị văn hoá.
1.2.1. Chuẩn mực xã hội
Chuẩn mực xã hội là hệ thống những quy định (quy tắc) cụ thể và cách
thức hành xử trong hoạt động thực tiễn giữa mọi người nói chung và trong giao
tiếp xã hội nói riêng. Mỗi xã hội, mỗi cộng đồng đều định hình các chuẩn mực
trong việc ứng xử với môi trường, ứng xử xã hội, một nhân tố quan trọng đảm
bảo tính kỷ cương, nề nếp, sự ổn định của cộng đồng ấy. Chuẩn mực xã hội bao
gồm hai dạng: Chuẩn mực pháp lý(luật) là chuẩn mực cứng bắt buộc, được thực
hiện bằng sự chế tài với sức mạnh của quyền lực Nhà nước; Chuẩn mực thói
quen (lệ, phong tục, tập quán) là chuẩn mực mềm được thực hiện bằng động
viên, khuyến khích và áp lực của dư luận xã hội.
Giá trị, bảng giá trị văn hoá có tính chất hướng dẫn các hành vi của con
người, tuy nhiên nó chưa mang tính bắt buộc, còn chuẩn mực ứng xử thì chính là
giá trị nhưng đã nâng thành quy chuẩn mang tính bắt buộc, nếu ai suy nghĩ và
hành động trái hay vượt ra ngoài các chuẩn mực đó thì bị dư luận xã hội lên án.
Nhưng chuẩn mực ấy nếu được ghi trong luật tục, hương ước và cao hơn trong

luật pháp thì ai làm trái sẽ bị xử phạt với những mức độ khác nhau. Như vậy,
trong chuẩn mực, tục lệ, luật tục, luật pháp đều chứa đựng các giá trị văn hoá
nhất định.
1.2.2. Bản sắc văn hóa
Trước nhất, bản sắc văn hoá được hiểu như là một tổng thể các đặc trưng
của văn hóa, được hình thành, tồn tại vá phát triển suốt quá trình lịch sử của dân

5


Đề tài: Vận dụng lý thuyết giá trị trong nghiên cứu hệ giá trị truyền thống của người Việt
Học viên thực hiện: Hà Vương
Lớp: Cao học Văn hóa học

tộc, các đặc trưng văn hóa ấy mang tính bền vững, trường tồn, trừu tượng và
tiềm ẩn, do vậy muốn nhận biết nó phải thông qua vô vàn các sắc thái văn hóa,
với tư cách là sự biểu hiện của bản sắc văn hóa ấy. Nếu bản sắc văn hóa là cái
trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững thì các sắc thái biểu hiện của nó tương đối cụ thể,
bộc lộ và khả biến hơn.
Bản sắc văn hoá góp phần tạo nên bản lĩnh văn hoá, bản lĩnh dân tộc. Với ý
nghĩa đó, bản lĩnh được coi là sức sống, sự từng trải, sự đáp trả một cách vững
vàng trước những thách đố của xã hội và lịch sử của một cộng đồng, một nền
văn hoá. Như vậy, trong bản sắc văn hoá, bản lĩnh dân tộc đều chứa đựng những
giá trị.
Có tình trạng như vậy chính là giữa bản sắc và giá trị tuy là các khái niệm
riêng, nhưng chúng lại có cái chung. Hiểu là bản sắc khi chúng ta coi đó như là
cái căn cước, cái đặc thù của mỗi cộng đồng, phân biệt nó với cộng cộng đồng
khác; còn coi đó là giá trị khi người ta muốn nhấn mạnh đến tính ích dụng, tính
đáp ứng của bản sắc văn hoá trước nhu cầu của xã hội. Như vậy, trong bản sắc
văn hoá đều chứa đựng những giá trị nhất định hay nói cách khác, giá trị làm

nên cái cốt lõi của bản sắc.
Như đã nói ở trên giá trị và hệ giá trị văn hoá của mỗi cộng đồng (tộc
người, quốc giá...) không phải là cái gì mang tính chuyên biệt, loại trừ và tách
biệt hoàn toàn với nhau, mà phần nhiều mang tính đồng nhất. Ít nhất, người ta
cũng có thể nêu ra các cấp độ của giá trị : giá trị văn hoá tộc người (như tộc Việt,
Thái, tày...), cấp độ giá trị văn hoá quốc gia –dân tộc (như Việt Nam, Trung
Quốc...), giá trị văn hoá khu vực (như giá trị Châu Á) và giá trị văn hoá nhân
loại. Các cấp độ trên có nhiều nét đồng nhất, tương đồng, nhưng cũng có những
khác biệt, đặc thù, thể hiện ở các giá trị văn hoá đơn lẻ và đặc biệt là sự xếp đặt
thứ tự các giá trị trong tổng thể bảng giá trị.
Từ đây, điều quan trọng mang tính phương pháp luận là, chúng ta nghiên
cứu giá trị và hệ giá trị văn hoá của một dân tộc nào, cộng đồng nào thì luôn
luôn đặt nó trong sự đối sánh với cộng đồng khác, trong sự liên hệ với các cộng
đồng khu vực và rộng hơn là nhân loại. Chỉ như vậy, chúng ta mới có thể tìm ra,
nhận diện được những nét tương đồng, đặc biệt là tính đặc thù của hệ giá trị văn
hoá của cộng đồng mà chúng ta đang nghiên cứu.

6


Đề tài: Vận dụng lý thuyết giá trị trong nghiên cứu hệ giá trị truyền thống của người Việt
Học viên thực hiện: Hà Vương
Lớp: Cao học Văn hóa học

Chương 2
HỆ GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT
C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng: “bản chất con người không phải là một
cái gì trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Chỉ dẫn kinh điển này có ý
nghĩa nhất định trong việc xác định bảng giá trị cơ bản của dân tộc hay hệ giá trị

tinh thần truyền thống của dân tộc. Các giá trị cơ bản của một dân tộc cũng như
tính cách dân tộc và tâm lý dân tộc là biểu hiện của bản chất con người của dân
tộc đó, là sản phẩm của quá trình tư duy và sáng tạo để tồn tại và phát triển, do
đó phải tìm trong các quan hệ xã hội sống còn. Những giá trị tinh thần của người
Việt Nam được hình thành và tích lũy qua quá trình lịch sử, được coi là “hạt
nhân” cơ bản và bản sắc văn hóa, nối kết các quan hệ xã hội cơ bản của lịch sử
văn hóa dân tộc.
Cho đến nay, hệ giá trị tinh thần truyền thống của người Việt đã được các
nhà nghiên cứu tiếp cận ở các góc độ khác nhau; hầu hết là ca ngợi những giá trị
tốt đẹp. Tuy vậy, cũng có những nhà nghiên cứu tiếp cận giá trị dân tộc ở những
góc khuất, những thói hư tật xấu, những điểm còn hạn chế, nhằm loại bỏ những
gì có thể cản trở dân tộc, đất nước trên đường phát triển. Xu hướng này khác với
những điều thường bắt gặp trong các sách giáo khoa và đa số công trình nghiên
cứu về lịch sử. Người làm sử phần lớn là ca ngợi và tôn vinh những chiến công
hiển hách, những thành tựu vĩ đại của dân tộc mà ít chú ý phân tích những sai
lầm, thất bại đã từng xảy ra trong lịch sử. Chúng tôi cho rằng đây là một trong
những nguyên nhân làm cho thế hệ trẻ có thể sa vào phiến diện trong nhận thức
do chỉ được nghe những cái hay, cái tốt mà ít hay không hề thấy sai lầm hay thất
bại của các thế hệ tiền nhân. Việc thiếu hiểu biết về nguyên nhân của các hạn
chế trong hệ giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc cũng từ đây mà ra.
Có thể chia hệ giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam thành hai tuyến để
khảo sát: Hệ giá trị tinh thần truyền thống và Những điểm hạn chế, các thói hư
tật xấu về văn hóa đang cản trở sự phát triển con người và đất nước.
2.1. Về những giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp của người Việt
GS. Trần Văn Giàu đã đúc kết trong hệ thống gồm bảy giá trị tinh thần cốt
lõi: “Yêu nước, Cần cù, Anh hùng, Sáng tạo, Lạc quan, Thương người, Vì
nghĩa”.

7



Đề tài: Vận dụng lý thuyết giá trị trong nghiên cứu hệ giá trị truyền thống của người Việt
Học viên thực hiện: Hà Vương
Lớp: Cao học Văn hóa học

Tác giả Nguyễn Đắc Hưng thì khẳng định, hệ giá trị truyền thống Việt Nam
là hệ giá trị mang đậm tính nhân văn được xuất phát từ lịch sử xa xưa của dân
tộc, đó là: “Yêu nước, bất khuất, tự lập, tự cường, lao động cần cù, thông minh,
hiếu học, trọng thầy, hiếu thảo, thủy chung, ý thức công đồng, nhân ái, vị tha,
rộng lượng, dễ thích ghi, thích hài hòa, không ưa cực đoan…” [9, tr. 272].
Trong nghị quyết TW 5 khóa VIII năm 1998, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khẳng định các giá trị: “lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; tinh
thần đoàn kết; ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc;
lòng nhân ái; lòng khoan dung; trọng nghĩa tình; trọng đạo lý; đức tính cần cù;
sự sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử; tính giản dị trong lối sống”.
Văn bản này có ý nghĩa như một định hướng quan trọng đối với các nhà nghiên
cứu mấy chục năm trở lại đây. Đúc kết kinh nghiệm giải quyết các vấn đề văn
hóa và con người từ khi có Nghị quyết TW 5 đến nay, Nghị quyết TW 9 khóa XI
của Đảng (tháng 6-2014) tiếp tục khẳng định: “Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị
văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về
nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã
hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự
hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia
đình, cộng đồng, xã hội và đất nước…. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân
cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng
văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt
đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết,
cần cù, sáng tạo”.
Như vậy, một lần nữa các giá trị tốt đẹp cơ bản của hệ giá trị Việt Nam
được văn kiện của Đảng nhấn mạnh chính thức là Yêu nước, Nhân ái, Nghĩa

tình, Trung thực, Đoàn kết, Cần cù, Sáng tạo.
Tìm kiếm ngược trở lại các tác giả có những suy tư sớm nhất về hệ giá trị
người Việt, chúng tôi thấy rất cần lưu ý đến nhận định của học giả Trần Trọng
Kim. Ông cho cho rằng: Người Việt có “Trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo
chân tay, sáng dạ, nhớ lâu, hiếu học, trọng học thức, quý sự lễ phép, trọng đạo
đức, yêu hòa bình, can đảm, kỷ luật, sùng lễ bái, thương người, nhớ ơn. Người
Việt Nam từ Bắc chí Nam theo một phong tục, nói một thứ tiếng, cùng giữ một
kỷ niệm, thật là cái tính đồng nhất của một dân tộc từ đầu đến cuối” [12, tr. 18].
Học giả Đào Duy Anh cho rằng: “Người Việt thông minh, giàu trí nghệ thuật,

8


Đề tài: Vận dụng lý thuyết giá trị trong nghiên cứu hệ giá trị truyền thống của người Việt
Học viên thực hiện: Hà Vương
Lớp: Cao học Văn hóa học

trực giác, ham học, thích văn chương, giỏi chịu đựng, hy sinh vì đại nghĩa, dung
hòa, trọng lễ giáo và chuộng hòa bình” [2, tr. 24].
Những giá trị được khẳng định trong Nghị quyết TW 5, Nghị quyết TW 9,
cùng với những ý kiến của các nhà văn hóa lớn của đất nước luôn là những chỉ
dẫn quan trọng. Xuất phát từ đây, những giá trị và những phẩm chất tốt đẹp khác
của người Việt có điều kiện để được phân tích, sắp xếp trong bảng tổng thể các
giá trị người Việt.
Đào Duy Anh trong “Việt Nam văn hóa sử cương” từng nói đến 7 giá trị có
thể xem là bản sắc văn hoá Việt: (1) “Sức ký ức” [trí nhớ] tốt, thiên về nghệ
thuật và trực giác; (2) Ham học, thích văn chương; (3) “Ít mộng tưởng” [thiết
thực]; (4) “Sức làm việc khó nhọc” [cần cù] ở mức độ “ít dân tộc bì kịp”; (5)
“Giỏi chịu… khổ và hay nhẫn nhục”; (6) “Chuộng hòa bình, song ngộ sự thì
cũng biết hy sinh vì đại nghĩa”; (7) Khả năng “bắt chước, thích ứng và dung hóa

rất tài”.
Trần Văn Giàu trong cuốn “Giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam” cũng
nêu lên 7 giá trị mà ông cho là đặc thù của văn hoá Việt: (1) Yêu nước; (2) cần
cù; (3) anh hùng; (4) sáng tạo; (5) lạc quan; (6) thương người; (7) vì nghĩa
Tác giả người Ý Claude Falazzoli trong cuốn “Việt Nam giữa hai huyền
thoại” nói đến 7 giá trị của người Việt là: (1) Ý thức “giữ phẩm giá, không chịu
để mất nó trong bất cứ thử thách nào”; (2) “Nết cần cù có thể lấp biển”; (3)
“Lịch thiệp, tế nhị… khiến cho không khí ở đây không thô lỗ và nặng nề”; (4)
“Một sự tinh tế cố tình chẻ sợi tóc làm tư”; (5) “Tính dè dặt, kéo dài sự cân
nhắc, xét đoán, quyết định”; (6) “Tính thực dụng… khả năng thích ứng khéo léo
và sáng suốt với mọi tình huống”; (7) “Đặc biệt lãng mạn và đa cảm”
Nghị quyết 5 (khóa VIII) của BCH Trung Ương Đảng CSVN về việc “Xây
dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” kể ra 5 “giá
trị bền vững, được vun đắp trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc” là: (1) Lòng
yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; (2) Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng
đồng (gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc); (3) Lòng nhân ái, khoan
dung; trọng nghĩa tình, đạo lý; (4) Đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; (5)
Sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống [1, tr. 23].

9


Đề tài: Vận dụng lý thuyết giá trị trong nghiên cứu hệ giá trị truyền thống của người Việt
Học viên thực hiện: Hà Vương
Lớp: Cao học Văn hóa học

2.2. Những điều hạn chế, một số thói hư tật xấu cản trở phát triển
Bên cạnh hệ giá trị tinh thần truyền thống tốt, người Việt cũng có những
thói hư tật xấu mang tính phản giá trị. Thực ra những nét hạn chế của người Việt
về văn hóa cũng ẩn giấu ngay trong bảng giá trị. Tuy nhiên vấn đề này trước đây

chưa được nghiên cứu, đánh giá nghiêm khắc. Ngay thái độ chung của cộng
đồng cũng có cái nhìn chưa thật đúng mức về vấn đề này. Người Việt không ưa
nhìn vào cái xấu của mình, không biết hay không thích tự cười nhạo mình. Điều
này không rõ nguyên nhân thuộc nét tính cách hay thuộc về trình độ phát triển.
Về những thói xấu của người Việt, học giả Đào Duy Anh nhận xét mà ông
cho rằng cũng chỉ tương đối: “chậm chạp, nông nổi, không bền chí, hay thất
vọng, hay khoe khoang, trang hoàng bề ngoài, ưa hư danh, thích chơi cờ bạc,
nhút nhát, tinh vặt, bài bác chế nhạo” [2, tr. 25]. Học giả Trần Trọng Kim viết:
“Tinh vặt, quỷ quyệt, bài bác, nhạo chế. Tâm địa thì nông nổi, làm liều, không
kiên nhẫn, hay khoe khoang, ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích
chơi bời, mê cờ bạc. Tin ma quỷ, không nhiệt tín tôn giáo nào cả, kiêu ngạo, nói
khoác” [12, tr. 18]. Điều hai học giả uyên bác này nhận xét rõ ràng là căn cứ rất
ý nghĩa để đối chiếu với con người trong cuộc sống hôm nay. Khó phủ nhận
được trong đời sống xã hội Việt Nam ngày nay giữa con người và con người với
nhau ngày càng nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc như:
+ Mưu cầu lợi ích cá nhân, tham lam, thèm khát giàu có đến mức chỉ quan
tâm đến lợi ích nhóm, tham nhũng và làm ngơ trước tham nhũng.
+ Tinh thần chia ngọt sẻ bùi, lá lành đùm lá rách, thương yêu người hoạn
nạn truyền thống không làm giảm bớt được tâm lý vô cảm. Tình trạng thờ ơ,
quay lưng lại số phận đồng loại khá phổ biến. Cái ác có mặt ở khắp nơi.
+ Tâm lý háo danh ngày càng công nhiên và với những thủ pháp nhỏ nhen,
kể cả trong tầng lớp trí thức. Giả dối tràn lan đến mức trở thành bình thường và
trắng trợn trong xã hội. Con người giả dối, cơ chế buộc phải làm dối, chính sách
cũng có chỗ cho gian dối và luật pháp cũng thực thi một cách gian dối.
+ Sự lệch lạc về giá trị, về định hướng giá trị tràn lan, ở đâu cũng thấy có,
từ gia đình đến nhà trường, cơ quan công quyền, cộng đồng và xã hội. Giàu có
và chức tước, bằng cấp và danh vọng, nổi tiếng và được tâng bốc… đã vô tình
dẫn dắt giới trẻ khiến nhiều phẩm chất tốt đẹp bị biến thành những lời sáo ngữ
vô hồn. Những hiện tượng này ngày nào cũng có thể bắt gặp trên các phương
tiện thông tin đại chúng. Những giá trị thực để làm người như: giỏi chuyên môn


10


Đề tài: Vận dụng lý thuyết giá trị trong nghiên cứu hệ giá trị truyền thống của người Việt
Học viên thực hiện: Hà Vương
Lớp: Cao học Văn hóa học

và cống hiến nhiều cho xã hội, thương người và khoan dung, khiêm tốn và cầu
thị, hy sinh cá nhân và mang lại hạnh phúc cho người khác… ngày càng ít trở
thành động lực để con người phấn đấu và phát triển.
Chương 3
SỰ CHUYỂN ĐỔI HỆ GIÁ TRỊ VĂN HÓA VIỆT NAM
3.1. Quy luật vận động
Trong lịch sử, văn hoá Việt Nam đã ba lần chuyển đổi: tiếp nhận văn hoá
Trung Hoa (TK I-XVIII), tiếp nhận văn hoá phương Tây (TK XIX-XX), tiếp
nhận văn hoá XHCN (trong những năm 50-80 TK XX). Cùng là văn hoá gốc
nông nghiệp, nhưng so với Việt Nam thuần túy nông nghiệp lúa nước, văn hoá
Triều Tiên, Nhật Bản, Trung Hoa phát triển rất khác.
Về cách tiếp thu, Triều Tiên, Nhật Bản tiếp thu theo cách của văn hoá trọng
động là đã tiếp thu thì tiếp thu nghiêm túc, đến nơi đến chốn, rồi sau đó mới
sáng tạo, phát triển theo hướng bài bản hóa(Triều Tiên tiếp thu Khổng giáo, rồi
tiếp thu công nghệ phương Tây; Nhật Bản tiếp thu văn hoá Trung Hoa, Đông
Nam Á và xây dựng các “đạo”, rồi tiếp thu công nghệ phương Tây).
Khác với Triều Tiên và Nhật Bản, Việt Nam sáng tạo ngay trong quá trình
tiếp thu, không bao giờ tiếp thu trọn vẹn, mà luôn biến báo, làm cho cái được
tiếp nhận thích nghi ngay với mình. Chính vì vậy mà ta nói văn hoá Việt Nam
bền vững – đó là tính bền vững, ổn định của văn hoá nông nghiệp.
Về cách phát triển, Trung Quốc phát triển theo lối trọng động là dùng vũ
lực, tạo đột biến: Phần thư khanh Nho thời Tần; đốt chùa đuổi sư hoàn tục thời

Tống; phê Lâm đấu Khổng, Cách mạng văn hoá thời Mao,...
Khác với Trung Quốc, Việt Nam phát triển theo lối trọng tĩnh là từ từ, ít đột
biến. Cách mạng Tháng 8 là kết quả từ từ của cả một quá trình kết hợp với sự
tận dụng cơ hội từ bên ngoài là sự kết thúc Thế chiến thứ hai mang lại; trong
khi Xô Viết Nghệ Tĩnh và Cải cách Ruộng đất là những trường hợp không điển
hình, sản phẩm du nhập của văn hoá Liên Xô và Trung Quốc mang lại.
3.2. Giá trị và sự chuyển đổi hệ giá trị

11


Đề tài: Vận dụng lý thuyết giá trị trong nghiên cứu hệ giá trị truyền thống của người Việt
Học viên thực hiện: Hà Vương
Lớp: Cao học Văn hóa học

Để hình thành nên giá trị, bảng giá trị của một cộng đồng thì phải trải qua
quá trình lịch sử lâu dài, nên giá trị thường mang tính ổn định và khá bền vững.
Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là giá trị là cái gì trường tồn, “nhất thành
bất biến”, mà giá trị với tư cách là sự đánh giá của con người về cái hay, cái tốt,
cái đẹp đối với tự nhiên, xã hội và tư duy, nó phản ánh nhu cầu của con người
trong một môi trường xã hội nhất định. Do vậy, giá trị với tư cách là thước đo
cũng mang tính biến động cùng với sự biến động xã hội. Nghiên cứu hệ giá trị
luôn đi liền với nghiên cứu sự chuyển đổi của hệ giá trị.
Chuyển đổi hệ giá trị bao giờ cũng phải đặt trong môi trường biến đổi xã
hộị, nó gắn với sự vận động của một xã hội, nhưng sự biến đổi xã hội thường
mang tính tiến hoá, sự tích luỹ về lượng, còn chuyển đổi xã hội là muốn nhấn
mạnh đến sự biến đổi đột biến, cách mạng, là sự thay đổi về chất. Trong thế kỷ
XX đã diễn ra những chuyển đổi xã hội sâu sắc. Đầu tiên, vào các thập niên đầu
thế kỷ XX, khi mà chế độ phong kiến Việt Nam đi vào giai đoạn khủng khoảng,
sự xuất hiện của xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong khung cảnh Việt

Nam trở thành thuộc địa và chịu sự thống trị của thực dân Pháp. Giai đoạn thứ
hai là thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay, khi mà CNXH kế hoạch hoá, quan liêu
bao cấp chuyển biến thành CNXH hiện thực và nhân văn hơn.
Sự khủng hoảng xã hội trên mang tính toàn diện, từ hạ tầng cơ sở đến
thượng tầng kiến trúc, trong đó có sự khủng hoảng về hệ giá trị và chuẩn mực,
đòi hỏi phải có sự chuyển đổi từ hệ giá trị truyền thống sang các giá trị mới.
Như có lần chúng tôi đã đề cập, sự chuyển đổi hệ giá trị văn hoá Việt Nam
từ đầu thế kỷ XX tới nay là sự chuyển đổi “kép”, đó là sự chuyển đổi những giá
trị từ xã hội truyền thống nông nghiệp tiểu nông phong kiến sang xã hội công
nghiệp hoá và hiện đại hoá, nhưng lại mang nặng tính thuộc địa (trước 1945); rồi
lại là sự chuyển đổi từ xã hội trong tình trạng chiến tranh (9 năm chống Pháp và
30 chống Mỹ) sang xã hội hoà bình và cuối cùng là sự chuyển đổi từ xã hội
XHCN quan liêu bao cấp, một xã hội toàn trị dần sang xã hội công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, từ xã hội thần dân sang xã hội công dân.
Như vậy là trong vòng 100 năm, xã hội Việt nay diễn ra biết bao những
biến động, những cuộc khủng khoảng, biết bao những chuyển đổi giá trị chồng
lấn lên nhau, cái này chưa hình thành thì cái kia đã ào tới phủ định. Thí dụ, vấn
đề sở hữư ruộng đất là nền tảng xã hội cơ bản, đặc biệt là với xã hội nông
nghiệp, nông thôn và nông dân. Với việc lập lại hoà bình năm 1954, miền Bắc

12


Đề tài: Vận dụng lý thuyết giá trị trong nghiên cứu hệ giá trị truyền thống của người Việt
Học viên thực hiện: Hà Vương
Lớp: Cao học Văn hóa học

tiến hành cải cách ruộng đất, đưa ruộng đất về tay nông dân, một cuộc cách
mạng vĩ đại. Nhưng ngay sau đó đầu năm 1960, với chính sách “tập thể hoá
nông nghiệp” thì lập tức ruộng đất ấy lại bị “đoạt” lại đưa vào “hợp tác xã”.

Năm 1986, để thoát ra khỏi cuộc khủng khoảng, với chính sách đổi mói nông
nghiệp, ruộng đất lại đưa về giao khoán cho nông dân, một thứ xác định “sở hữu
nửa vời”, tuy nhiên chỉ ngần ấy thôi cũng đủ làm nên cuộc cách mạng lương
thực trong nông nghiệp và hệ quả của nó còn làm hổi phục nền văn hoá truyền
thống nữa. Trong xu hướng CNH, đô thị hoá đang được đẩy mạnh như hiện nay,
thì nông dân đang đứng truớc nguy bị “đòi” lại đất đai và trở thành người nông
dân có một ít tiền “đền bù”, nhưng không còn đất canh tác.
Thời đầu thế kỷ XX, cùng với xu hướng tiếp xúc văn hoá Việt Nam và
Pháp được đẩy mạnh, thì trong xã hội Việt Nam thuộc địa dần hình thành đội
ngũ trí thức dân tộc. Cùng với sự xuất hiện tầng lớp này, thì một thứ “chủ nghĩa
cá nhân văn hoá” đã phôi thai. Trong khung cảnh xã hội quan liêu bao cấp (5060 năm trước), cùng với việc phê phán “chủ nghĩa cá nhân đạo đức học” thì
“chủ nghĩa cá nhân văn hoá” cũng bị đả phá luôn.
Sự chuyển đổi xã hội từ năm 1986 đến nay diễn ra một cách mạnh mẽ và
triệt để hơn bao giờ hết. Đó là Việt Nam từ đầu thế kỷ tới nay vẫn tiếp tục
chuyển biến từ xã nông nghiệp tiểu nông sang xã hội CNH, HĐH, nhưng hiện
nay quá trình CNH, HĐH diễn ra mạnh mẽ và quyết liệt để đạt mục tiêu đến
năm 2020 Việt Nam trở thành quốc gia CNH. Hơn thế nữa, quá trình chuyển
biến này lại đang diễn ra trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá mạnh mẽ. Đây
là thách thức ghê gớm và cũng là cơ hội để Việt Nam chuyển mình và vươn lên
trong xu hướng chung của thế giới hiện đại.
Trong bối cảnh xã hội chuyển đổi nêu trên, hệ giá trị văn hoá Việt Nam tất
nhiên cũng chịu tác động mạnh mẽ và đòi hỏi phải chuyển đổi. Quá trình chuyển
đổi hệ giá trị văn hoá đang diễn ra dưới các hình thức, sắc thái, mức độ sau:
+ Sự chuyển đổi từ hệ giá trị truyền thống sang hệ giá trị hiện đại thông qua
nhiều hình thức và mức độ khác nhau : Như thay đổi cấu trúc, thay dổi nội dung,
thay đổi hình thức. Thí dụ khái niệm “trung”, “hiếu” tuy hình thức cũ, nhưng nội
dung mới, từ “trung với vua” đến “trung với nước”, từ “hiếu với cha mẹ” nay
còn “hiếu với dân”... Ngay các giá trị “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”
tuy hình thức cũ nhưng cũng đã mang nội dung mới.


13


Đề tài: Vận dụng lý thuyết giá trị trong nghiên cứu hệ giá trị truyền thống của người Việt
Học viên thực hiện: Hà Vương
Lớp: Cao học Văn hóa học

+ Sự mất dần các hệ giá trị truyền thống lỗi thời và hình thành các hệ giá trị
văn hoá mới. Thí dụ như chủ nghĩa tập thể trên cơ sở khẳng định cá nhân thay
dần cho chủ nghĩa tập thể phi cá nhân (chủ nghĩa tập thể nguyên thuỷ), từ “lão
nông tri điền” phải chăng đang chuyển thành “lão nông bất tri điền”
+ Xuật hiện các giá trị mới của thời đại, tuy nay mới chỉ manh nha, nhưng
sẽ trở thành các giá trị chủ đạo, như dân chủ, nhân quyền, công dân, cá nhân,
bình đẳng giới, hội nhập, khoan dung, thị trường, cạnh tranh...
Chương 4
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
4.1. Quan niệm về mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển văn hóa truyền
thống Việt Nam với tiếp thu tinh hoa văn hóa
Lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam luôn luôn gắn liền với
quá trình bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống dân tộc. Trong lịch sử bảo
tồn và phát triển văn hóa truyền thống dân tộc, Việt Nam luôn luôn thể hiện bản
lĩnh vững vàng trước sự du nhập của những trào lưu văn hóa ngoại lai.
Hiện nay, xu thế mở cửa, giao lưu, hội nhập văn hóa ngày càng trở nên sâu
rộng, bản lĩnh văn hóa Việt Nam đang phái đối mặt trực tiếp với những thách
thức lớn, liên quan đến sự sống còn của dân tộc. Trong việc xử lý mối quan hệ
giữa bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc với tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế có ý
nghĩa to lớn.
Điều trước tiên là cần phân tích bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
có liên quan như thế nào đến việc xử lý mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển

hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Điều đáng chú ý là trong quá trình toàn cầu hóa, các nước phát triển đang muốn
áp đặt các giá trị văn hóa của rmình cho toàn thế giới. Cơ hội mà toản cầu hóa
đem lại cho các nước khác nhau không phải như nhau. Điều đó có nghĩa là toàn
cầu hóa sẽ đem lại cho các nước nghèo, đang phát triển nhiều thách thức hơn so
với cơ hội. Đứng về khía cạnh văn hóa, toàn cầu hóa mang lại hai bất lợi cho
Việt Nam: Những sản phẩm và dịch vụ văn hóa của chúng ta rất khó thâm nhập
vào thị trường của các nước phát triển và không thể cạnh tranh nổi với các sản
phẩm và dịch vụ văn hóa của các nước phát triển; Toàn cầu hóa có nguy cơ đe
dọa làm mất bản sắc văn hóa dân tộc.

14


Đề tài: Vận dụng lý thuyết giá trị trong nghiên cứu hệ giá trị truyền thống của người Việt
Học viên thực hiện: Hà Vương
Lớp: Cao học Văn hóa học

Trong suốt quá trình lịch sử, văn hóa Việt Nam không những không bị mất
bản sắc, mà còn tiếp thu, hoàn thiện thêm bởi các nền văn hóa nước ngoài, cả
phương Đông và phương Tây. Mặc dù vậy, không có gì bảo đảm được rằng Việt
Nam sẽ không đánh mất bản sắc của mình trước toàn cầu hóa hiện nay, nếu như
mỗi người, mỗi cơ quan, tổ chức không có những hành động cần thiết. Tuy
nhiên, nói tới thách thức đó không có nghĩa là chúng ta đóng cửa lại, từ bỏ con
đường hội nhập với thế giới. Trong thời đại ngày nay, nếu nước nào đóng cửa thì
tất yếu sẽ bị cô lập và bật ra khỏi quỹ đạo phát triển của thế giới, mà ngược lại
phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế và xử lý tốt mối quan hệ giữa bảo
tồn và phát triển giá trị văn hóa truyền thống dân tộc với tiếp thu văn hóa thế
giới.
Muốn xử lý tốt mối quan hệ đó, chúng ta phải tạo ra được một bản lĩnh

vững vàng của một nền văn hóa bao gồm tổng hợp những nhân tố thể hiện cốt
cách, khí phách, tư chất và sức mạnh khẳng định bản sắc dân tộc trước tác động
của các nền văn hóa khác trong giao lưu, hội nhập. Một nền văn hóa thiếu bản
lĩnh dễ bị đánh mất bản sắc dân tộc và khó mà bảo tồn và phát triển hệ giá trị
văn hóa truyền thống dân tộc và lại càng khó lựa chọn, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại. Bản sắc là hồn dân tộc và do vậy mất bản sắc văn hóa dân tộc chẳng
khác nào một người không còn thần sắc, không đủ bản lĩnh vững vàng để chọn
lọc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Ở đây, chủ thể phải biết ứng xử hài hòa
để văn hóa Việt Nam không cự tuyệt các giá trị văn hóa bên ngoài theo lối cực
đoan, mà sẵn sàng tiếp thu một cách có nguyên tắc, không đánh mất bản sắc văn
hóa dân tộc.
Xử lý tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền
thống Việt nam với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại là nhằm mục đích xây
dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bởi vì việc bảo tồn và phát triển
hệ giá trị văn hóa truyền thống chính là để làm cho văn hóa đậm đà bản sắc dân
tộc, còn tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại chính là để xây dựng văn hóa Việt
Nam tiên tiến, hiện đại và cũng góp phần trở thành tinh hoa văn hóa nhân loại.
Đó cũng là sự kết hợp chính sách đối nội với chính sách đối ngoại, kết hợp nội
lực với ngoại lực trong lĩnh vực văn hóa.
Trong lịch sử dân tộc, Việt Nam chưa bao giờ có cơ hội tiếp thu những giá
trị từ nhiều nền văn hóa như bây giờ, nhưng cũng chưa bao giờ chứa đựng nhiều
nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc như hiện nay. Do vậy, khi xử lý mối

15


Đề tài: Vận dụng lý thuyết giá trị trong nghiên cứu hệ giá trị truyền thống của người Việt
Học viên thực hiện: Hà Vương
Lớp: Cao học Văn hóa học


quan hệ giữa bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc với
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại phải kết hợp được giữa tính nguyên tắc với
tính linh hoạt, nghĩa là việc bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống
dân tộc phải trên cơ sở chủ động tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ,
tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác trên thế giới. Muốn phát triển vững chắc,
ngoài yếu tố mang tính quyết định là dựa vào nội lực, tức là bảo tồn và phát triển
hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, thì đồng thời phải quan tâm chú trọng
đến nhân tố ngoại lực, tức là tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Việc giao lưu
văn hóa, hợp tác quốc tế là một yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển văn
hóa Việt Nam. Thông qua giao lưu và hợp tác văn hóa mà Việt Nam tiếp thu,
nắm bắt được những thành tựu văn minh, những tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Mở rộng giao lưu văn hóa, hợp tác quốc tế, Việt Nam có điều kiện để phát huy
lợi thế so sánh của mình, đánh giá được đúng mình và nhận thức được thế giới
xung quanh để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, những tiến bộ của thế giới
nhằm mục tiêu phát triển văn hóa Việt Nam. Lênin đã từng nói phải dùng cả hai
tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài. Hợp tác, giao lưu văn hóa được tiến
hành trên cơ sở độc lập, tự chủ thực sự của quốc gia dân tộc. Ngày nay, trong
quan hệ giao lưu văn hóa, các nước phải thực hiện theo nguyên tắc: tôn trọng
độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước
khác, bình đẳng và cùng có lợi, tự chủ, tự quyết. Nguyên tắc này là cơ sở trong
giao lưu văn hóa giữa các nước.
Trong văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bên cạnh những yếu tố
vốn kế thừa từ truyền thống văn hóa dân tộc, cũng có những yếu tố tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại. Chính nhờ sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc làm cho
nhiều giá trị của bản sắc dân tộc ta được khẳng định, đồng thời qua đó chúng ta
học hỏi, tiếp thu, bổ xung thêm nhiều giá trị mới, làm cho bản sắc văn hóa dân
tộc phong phú, đa dạng hơn. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
hiện nay, Việt Nam chủ động giao lưu văn hóa và phát huy những lợi thế so sánh
của mình, giới thiệu với thế giới những tiềm năng, thành tựu văn hóa, những
hình ảnh về đất nước, về con người Việt Nam, đồng thời vừa là điều kiện để Việt

Nam có thể tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhận loại làm phong phú , đa dạng và
hoàn thiện hơn nền văn hóa Việt Nam.
Mở cửa giao lưu văn hóa, hợp tác với bên ngoài sẽ đón nhận, chọn lọc, tiếp
thu nhiều cái tốt, cái tích cực, nhưng cũng phải đối mặt với không ít cái xấu, cái

16


Đề tài: Vận dụng lý thuyết giá trị trong nghiên cứu hệ giá trị truyền thống của người Việt
Học viên thực hiện: Hà Vương
Lớp: Cao học Văn hóa học

tiêu cực. Tuy nhiên, không vì lo sợ cái xấu, cái tiêu cực để rồi chúng ta đóng
cửa, sống biệt lập. Cách làm như vậy không những kìm hãm sự phát triển mà
còn không khẳng định được bản sắc dân tộc, không phát huy được sức mạnh nội
sinh, không loại bỏ được yếu tố mang tính lạc hậu, bảo thủ.
Bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc phải đi liền
với chống lạc hậu, lỗi thời trong văn hóa tư tưởng, phong tục tập quán, lề thối
cũ. Trong truyền thống văn hóa dân tộc có những đặc điểm mang tính tích cực
của thời điểm này, nhưng ở thời điểm khác lại không còn phù hợp, có những nội
dung được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác , song cũng có những yếu tố trở
nên lỗi thời, không còn phù hợp cần được gạt bỏ. Truyền thống văn hóa dân tộc
cần luôn luôn được phát huy, bổ sung, thay thế, hoàn thiện cho phù hợp với yêu
cầu của thực tiễn cuộc sống. Muốn phát huy, bổ sung, thay thế, hoàn thiện văn
hóa truyền thống dân tộc có thể tiến hành bằng nhiều con đường, nhưng trong đó
không thể thiếu con đường tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Xử lý mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền
thống dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại phải kết hợp với việc giải
quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ với chủ động, tích cực hợp tác quốc
tế. Độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế là những nội dung hết

sức quan trọng trong quá trình phát triển của dân tộc ta. Xử lý vấn đề này và vấn
đề về mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống dân
tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải xử lý đồng thời, có kết hợp
với nhau. Nếu chỉ chú trọng một trong hai mặt đó thì đều không có lợi cho sự
phát triển kinh tế, chính trị và văn hóa của chúng ta. Về hai mối quan hệ này
đang còn những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng càng mở rộng giao lưu,
hợp tác quốc tế, trong đó có giao lưu, hợp tác văn hóa, tiếp thu tinh hoa nhân
loại thì càng khó khăn cho việc bảo vệ nền độc lập, tự chủ, giữ gìn, phát huy
truyền thống văn hóa dân tộc. Ý kiến này có cái nhìn khá nặng nề, cứng nhắc, bi
quan về việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại. Ý kiến khác lại cho rằng chủ động , tích cực hội nhập quốc tế, tiếp thu
mạnh tinh hoa văn hóa nhân loại không có ảnh hưởng tiêu cực gì đến vấn đề độc
lập, tự chủ, bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc. Cách
nhìn này phiến diện, chủ quan, không thấy hết những khó khăn, phức tạp trong
hợp tác hội nhập, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa.

17


Đề tài: Vận dụng lý thuyết giá trị trong nghiên cứu hệ giá trị truyền thống của người Việt
Học viên thực hiện: Hà Vương
Lớp: Cao học Văn hóa học

Độc lập, tự chủ, bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống dân
tộc và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa
nhân loại có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan
hệ này thì độc lập, tự chủ, bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống
dân tộc là cái quyết định, là cơ sở vững chắc để mở rộng hợp tác, giao lưu quốc
tế có hiệu quả, và ngược lại chính việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, biết
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trên cơ sở những nguyên tắc nhất định là điều

kiện quan trọng để phát triển, củng cố và giữ gìn độc lập, tự chủ quốc gia và bảo
tồn, phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc. Xử lý hài hòa những mối
quan hệ này sẽ giúp nước ta phát huy được tiềm năng lợi thế so sánh của mình,
vừa tranh thủ được các điều kiện, nguồn lực bên ngoài đề phát triển.
4.2. Bảo tồn, phát huy hệ giá trị truyền thống cho phát triển
Như đã nêu ở trên, hệ giá trị văn hoá là sản phẩm của con người, của sự
phát triển xã hội và văn hoá mỗi thời đại, tuy nhiên, khi hệ giá trị một khi đã
hình thành và định hình thì nó định hướng mục tiêu, phương thức và hành động
của con người, nó tham gia điều tiết sự phát triển xã hội. Do vậy, khi chúng ta
bàn đến việc nhận diện hệ giá trị, sự chuyển đổi hệ giá trị hiện nay, cũng như đề
xuất các giải pháp bảo tồn và phát huy hệ giá trị trong đổi mới và hội nhập thì
cũng đều nhằm đến một mục tiêu phát huy vai trò của hệ giá trị văn hoá cho sự
phát triển xã hội Việt nam hiện nay. Xung quanh vấn đề này có một số khía cạnh
cần phải đề cập tới :
Lâu nay, trên bình diện nhận thức cũng như thực tiễn, vấn đề giữa bảo
tồn và phát triển thường nảy sinh một số “xung đột”, như bảo tồn thì dẫn đến
hạn chế phát triển và ngược lại, phát triển thì khó bảo tồn. Có thực về bản chất
hai phạm trù này là hoàn toàn trái ngược với nhau hay không? Theo chúng tôi,
vấn đề đặt ra chỉ là ở chỗ, chúng ta quan niệm bảo tồn như thế nào, phát triển
như thế nào để hai phạm trù trên đi cùng hướng, bổ trợ cho nhau thúc đẩy sự
phát triển xã hội.
Chúng ta bảo tồn văn hoá truyền thống hay các giá trị văn hoá truyền thống
phải trên nguyên tắc phát triển, vì mục tiêu phát triển. Nói cách khác, cái gì
trong kho vốn giá trị truyền thống đóng vai trò động lực thức đẩy phát triển thì
chúng ta bảo tồn, phát huy, còn cái nào cản trở, kìm hãm sự phát triển thì cần
hạn chế và dần loại trừ. Do vậy, nguyên tắc phát triển phải là nguyên tắc mang ý
nghĩa chỉ đạo cho việc bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống.

18



Đề tài: Vận dụng lý thuyết giá trị trong nghiên cứu hệ giá trị truyền thống của người Việt
Học viên thực hiện: Hà Vương
Lớp: Cao học Văn hóa học

Hội nhập, toàn cầu hoá đa tuyến, một mặt, nó sẽ “cào bằng” tính đa dạng,
đặc thù văn hoá tộc người, địa phương, làm mất đi một số giá trị văn hoá truyền
thống, tuy nhiên, cũng không phủ nhận được rằng, trên cái nền mới của toàn cầu
hoá, quốc tế hoá, nhiều giá trị mới, tính đa dạng mới sẽ hình thành và định hình.
Suy cho cùng, dù trong toàn cầu hoá hay quốc tế hoá mạnh mẽ tới đâu, về
phương diện văn hoá, thế giới không bao giờ là “phẳng”. Nếu như quốc tế hoá,
toàn cầu hoá làm cho “thế giới phẳng” thì một xu hướng song trùng, đối trọng là
“dân tộc hoá quốc tế” sẽ làm cho thế giới lúc nào cũng “gồ ghề” và đa dạng.
KẾT LUẬN
Việc xác định hệ giá trị người Việt hiện đại là vô cùng hệ trọng. Hệ trọng
đối với sự phát triển con người, xây dựng nhân cách, hệ trọng đối với sự phát
triển đất nước. Tuy nhiên việc xác định hệ giá trị này không phải sẽ chỉ tạo ra
một kết quả bao gồm thuần túy những giá trị chủ quan, mà chúng ta có thể nghĩ
ra theo kiểu lý tưởng hóa hiện thực. Giá trị đích thực bao giờ cũng nằm ở đâu đó
trong mối quan hệ khách – chủ quan. Đó phải là các giá trị tồn tại thực trong đời
sống, hay đã ít nhiều được định hình trong đời sống, được xây dựng và bổ sung
thành những khuôn mẫu lý tưởng để phấn đấu và thực hiện.
Tính quan trọng và bức thiết của việc xây dựng hệ thống giá trị người Việt
còn là ở chỗ, khi thừa nhận các giá trị tồn tại trong bảng giá trị, hiện thực hóa
các giá trị đó, thì sự tồn tại của bản thân bảng giá trị đó cũng không phủ nhận,
không loại trừ, hay loại bỏ những hạn chế, những thói hư tật xấu có thật của
người Việt đã và đang tồn tại một cách thực tế trong đời sống. Hệ giá trị người
Việt là hệ thống các giá trị tốt đẹp của người Việt. Tuy nhiên điều đó không có
nghĩa là ở người Việt không có gì là hạn chế, là không tích cực, cần phải hạn chế
hoặc loại bỏ. Trong điều kiện hiện nay, việc chú ý hơn nữa đến những cái xấu,

cái tiêu cực trong đời sống giá trị, rõ ràng là nhu cầu bức thiết của sự phát triển.
Nếu không nghiêm khắc nhìn nhận cái xấu, cái tiêu cực ở trình độ giá trị người,
thì việc tiếp thu các giá trị từ bên ngoài cũng khó tránh khỏi hạn chế. Việc đề
cao bản sắc văn hóa cũng là một biểu hiện khác của đời sống giá trị. Bản sắc văn
hóa khi bị tuyệt đối hóa, khi được nhìn nhận như là một thứ hơn hẳn so với các
nền văn hóa khác, thì nguy cơ quay lưng lại với các giá trị tiên tiến từ bên ngoài
có thể xảy ra.

19


Đề tài: Vận dụng lý thuyết giá trị trong nghiên cứu hệ giá trị truyền thống của người Việt
Học viên thực hiện: Hà Vương
Lớp: Cao học Văn hóa học

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành TW
(Khoá VIII), Nxb CCQG, Hà Nội, 1998.
2. Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương (tái bản), Nxb Đồng Tháp, 1998.
3. Hoàng Ngọc Hiến, Chủ nghĩa cá nhân “văn hoá” là một giá trị lớn của văn
hoá Việt Nam, Bài tham gia hội thảo, 6/2008.
4. Hoàng Vinh, Những vấn đề văn hoá trong đời sống xã hội Việt nam hiện nay,
Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2006.
5. Hồ Sĩ Quý, Về giá trị và giá trị Châu Á, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2006.
6. Lương Gia Ban, Nguyễn Thế Kiệt, Giá trị văn hóa truyền thống dân tộc với
việc xây dựng nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2014.
7. Mác C. và Ăngghen Ph, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
8. Ngô Đức Thịnh, Tiếp cận nghiên cứu nông thôn Việt nam từ mạng lưới xã hội

và vốn xã hội, Tạp chí Dân tộc học, số 4, 2008.
9. Nguyễn Đắc Hưng, Việt Nam - văn hóa và con người, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2009.
10. Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb
KHXH, Hà Nội, 1980.
11. Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011.
12. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2008.

20



×