Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng theo tư tưởng của chủ tịch hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.78 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
Bước vào thời kỳ đổi mới Đảng ta khẳng định: phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, trong đó đổi mới và chỉnh
đốn tổ chức cơ sở đảng là khâu đột phá. Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XI Đảng ta đề ra chủ đề của đại hội “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại” Như vậy lại một lần nữa Đảng ta
khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của TCCSĐ đối với sự tồn tại và phát
triển của bản thân Đảng cũng như đối với sự phát triển của toàn xã hội.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm đến việc xây
Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Người căn dặn: Đảng phải luôn nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, phải luôn tự chỉnh đốn để hoàn thành
nhiệm vụ vẻ vang. Trong những năm qua, công tác xây dựng Đảng nói chung,
xây dựng tổ chức cơ sở đảng nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng kể,
các tổ chức cơ sở đảng yếu kém đã giảm, hình thức hoạt động khá phong phú,
đa dạng đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, Đảng ta đú nghiêm túc, thẳng thắn chỉ ra
những mặt còn hạn chế, tồn tại. Đó là còn nhiều tổ chức cơ sở đảng chưa thể
hiện rừ chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị đối với chính quyền, đoàn
thể, các tổ chức kinh tế, sự nghiệp. Đó là sự suy thoái về chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống, nạn tham nhũng, quan liêu của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên.
Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay việc “Tiếp tục nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng theo tư tưởng của
chủ tịch Hồ Chí Minh” là vô cùng quan trọng.

1


CHƯƠNG 1:


NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG - MỘT SỐ
KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1 Tổ chức cơ sở đảng
Theo Điều 21(Chương V) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (được
thông qua tại Đại hội XI ) quy định: Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng
bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
Ở xã, phường, thị trấn, cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp, đơn vị sự
nghiệp, đơn vị cơ sở trong quân đội, công an và các đơn vị cơ sở khác có từ
ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng; nếu chưa đủ ba đảng
viên chính thức thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ
chức cơ sở đảng thích hợp.
Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ
đảng trực thuộc, tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng
bộ cơ sở, có các chi bộ trực thuộc đảng uỷ.
Những quy định này là căn cứ để chúng ta rút ra khái niệm tổ
chức cơ sở đảng như sau:
Tổ chức cơ sở đảng là tổ chức đảng ở đơn vị cơ sở (xã, phường, thị
trấn, cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, đơn vị cơ sở
trong quân đội, công an và các đơn vị cơ sở khác) có từ 3 đảng viên chính
thức trở lên thì thành lập chi bộ cơ sở hoặc đảng bộ cơ sở gọi chung là tổ
chức cơ sở Đảng.
1.2. Năng lực lãnh đạo
Năng lực lãnh đạo là tổng hợp các thuộc tính cơ bản của chủ thể lãnh
đạo nhằm đáp ứng yêu cầu về hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, đảm bảo cho
hoạt động của tổ chức phù hợp với yêu cầu khách quan của tình hình chung
và tình hình cụ thể của từng địa phương, đơn vị để hoàn thành nhiệm vụ chính

2



trị đã đề ra. Năng lực lãnh đạo bao gồm 2 thuộc tính cơ bản: Nănng lực hiểu
biết và năng lực tổ chức thực tiễn:
Năng lục hiểu biết: Thể hiện ở khả năng của mỗi người trong việc nhận
thức và nắm bắt các quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy con
người
Trình độ hiểu biết và năng lực vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quy luật khách quan vào thực tiễn. Năng lực hiểu biết
phải được đưa vào thực tiễn, gắn liền với hoạt động thực tiễn thì sự hiểu biết
đó mới có giá trị.
Năng lực thực tiễn: Có vai trò quan trọng nhằm biến sự hiểu biết thành
hành động hiện thực và quyết định sự thành công hay thất bại của hành động
là thước đo nhận thức của mỗi người.
Năng lực thực tiễn bao gồm nhiều yếu tố: Từ việc đề ra chủ trương,
nhiệm vụ đến việc giải quyết những yêu cầu đặt ra trong quá trình thực hiện
các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tiến hành, sơ
kết, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm sau từng giai đoạn công việc hoặc theo
từng thời gian nhất định. Năng lực tự kiểm tra và kiểm tra việc thực hiện vai
trò lãnh đạo của Đảng, việc thực hiện Điều lệ Đảng, Pháp luật của Nhà nước
của từng đảng viên, từng tổ chức đảng. Khả năng đoàn kết tập hợp quần
chúng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.
1.3. Sức chiến đấu của Tổ chức cơ sở đảng
Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng là khả năng vượt mọi khó khăn,
gian khổ để giành thắng lợi trong quá trỡnh lãnh đạo cơ quan, đơn vị hoạt
động đúng định hướng, đạt hiệu quả cao. Sự thống nhất ý chí và hành động
của mỗi đảng viên; Tinh thần đấu tranh thẳng thắn chống lại những biểu hiện
sai trái để bảo vệ cái đúng, phê phán những biểu hiện lệch lạc trong hoạt động
thực tiễn
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng là 2 yếu tố
tạo thành sức mạnh của tổ chức cơ sở đảng, có mối quan hệ hữu cơ tác động
3



qua lại lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau. Năng lực càng cao thì sức chiến đấu
càng mạnh và ngược lại.

CHƯƠNG 2:
TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ TIẾP TỤC NÂNG CAO
NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ
SỞ ĐẢNG
2.1. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, trước hết phải coi trọng
giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, xây dựng lập trường, quan điểm giai cấp
công nhân cho mọi cán bộ, đảng viên, quần chúng.
Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt. Đảng mà không có chủ
nghĩa làm cốt cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.
Đối với tổ chức cơ sở đảng, Người yêu cầu: “Phải học tập tinh thần của
Chủ nghĩa Mác-Lênin, học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của
Chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp
ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng
của chúng ta” [1, tr.250]. Đồng thời, phải giáo dục, động viên, tổ chức cho
nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng. Lãnh đạo nhân dân
bằng cách tuyên truyền, cổ động, giáo dục, tổ chức nhân dân, dựa vào nhân
dân để thực hiện nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Công việc càng khó
khăn thì sự lãnh đạo càng phải liên hợp chặt chẽ với quần chúng, càng phải
liên hợp chặt chẽ chính sách chung với chỉ đạo riêng. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin
là đỉnh cao của tư duy nhân loại; là thế giới quan, phương pháp luận khoa học
và cách mạng, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, của
các đảng cộng sản và công nhân trong đấu tranh xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột,
xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa

4



Chủ tịch Hồ Chí Minh từng phát biểu về V.I.Lênin như sau: "Khi còn
sống, Người là cha, thầy học, đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay,
Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cuộc cách mạng xã
hội" [2, tr.239]
Khi trả lời phỏng vấn của một nhà báo Pháp năm 1969, Người khẳng định:
"Chính là do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lênin, nhưng vận dụng
một cách sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam ngày nay, mà chúng tôi
đã chiến đấu và giành được những thắng lợi đó, trước hết là nhờ cái vũ khí
không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác-Lênin"[3, tr.476]
Ngày nay, khi mà hàng ngày, hàng giờ người cán bộ, đảng viên phải đối
mặt với nhiều vấn đề mới của cơ chế và tác động của những điều kiện trong
và ngoài nước như : Sự cám dỗ về vật chất của cơ chế thị trường, cơ chế mở;
trước sự phá hoại của kẻ thù thông qua chiến lược "Diễn biến hoà bình”…tất
cả những điều đó đang đặt ra vấn đề tiêu chuẩn đạo đức lối sống của cán bộ,
đảng viên lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, trước yêu cầu đó, Nghị
quyết Trung ương 3( khoá VIII) đã khẳng định : Người cán bộ phải có phẩm
chất và năng lực, có đức và tài, trong đó đức là gốc.
Xuất phát từ vai trò của đội ngũ đảng viên và đạo đức cách mạng của
đội ngũ đảng viên trong công tác xây dựng ,chỉnh đốn Đảng. Ta biết rằng
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng lên bởi
số lượng và chất lượng của đội ngũ đảng viên của Đảng. Theo Hồ Chí Minh,
sức mạnh của toàn Đảng là sức mạnh tổng hợp của đội ngũ đảng viên tạo nên:
"Đảng mạnh là do chi bộ tốt; chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”.
Tăng cường công tác giáo dục đạo đức lối sống cho cán bộ, đảng viên
hiện nay còn xuất phát từ vai trò của giáo dục đạo đức lôí sống cho cán bộ,
đảng viên trong công tác xây dựng Đảng. Hồ Chí Minh căn dặn "Đảng ta là
một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng; thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ


5


gìn Đảng ta thật sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân"[4, tr.510]
Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải trung thành và vận dụng sáng tạo
Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam, góp phần làm tốt hơn nữa công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện
nay.
2.2. Trong Đảng, thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và
nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát
triển sự đoàn kết và thống nhất.
Hồ Chí Minh là người sáng lập và lãnh đạo Đảng ta. Trong công tác
xây dựng đảng, Người đặc biệt coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ
Chí Minh gọi tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng, là nguyên tắc
cơ bản nhất để xây dựng Đảng Cộng sản thành một tổ chức chiến đấu chặt
chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi cá nhân, vừa phát huy sức mạnh của tập
thể phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng đã đề ra. Hồ Chí Minh cho
rằng dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau
trong một quá trình tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Dân chủ vừa là bản chất, vừa là động lực, mục tiêu của xã hội mới mà
Đảng ta lãnh đạo nhân dân xây dựng nên. Dân chủ trong Đảng là tất cả đảng
viên đều được tự do bày tỏ chính kiến của mình về các vấn đề trong sinh hoạt
đảng để góp phần thống nhất về quan điểm, chủ trương trong lãnh đạo, chỉ
đạo; để xây dựng nghị quyết, đưa được nghị quyết vào cuộc sống. Vì vậy, dân
chủ phải đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung. Phải tránh dân chủ theo kiểu
tùy tiện, phân tán, vô tổ chức, dân chủ hình thức. Những kiểu dân chủ như thế
là rất nguy hại, làm suy giảm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mỗi tổ
chức đảng.

Về tập trung, Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong Đảng phải thống nhất về
tư tưởng, tổ chức và hành động. Biểu hiện của tập trung là thiểu số phục tùng
đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên… Tập trung trên cơ sở phát huy dân chủ
6


chứ không phải tập trung quan liêu, độc đoán, chuyên quyền.
Hiểu và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ làm cho Đảng ta
ngày càng vững mạnh, thống nhất trong tư tưởng và hành động “Đảng ta tuy
nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”[5, tr.553]
Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, cùng với nguyên tắc
tập trung dân chủ, Người còn đề cập tới nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách.

Đây là biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trên phương

diện lãnh đạo, quản lý.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ
trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập
trung”[6, tr.505]
Theo Hồ Chí Minh thì một người dù tài giỏi đến mấy cũng không thể
nào thấy hết mọi mặt của một vấn đề, càng không thể thấy hết được mọi việc,
hiểu hết được mọi chuyện. Vì vậy, để lãnh đạo được sát, đúng cần phải có sự
tham gia ý kiến của nhiều người. Nhiều người thì nhiều kiến thức, người thấy
mặt này, người thấy mặt kia, do đó hiểu được toàn diện, mọi vấn đề. Khi tập
thể đã bàn bạc kĩ lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì giao cho một người phụ
trách chính. Làm như vậy thì kế hoạch mới được thực hiện đầy đủ, tránh dựa
dẫm, chồng chéo nhau, công việc mới đạt kết quả cao. Khi đánh giá công việc
mới có cơ sở để biểu dương những người làm giỏi, phê bình những người làm
kém, mới xác định rõ trách nhiệm của từng cá nhân. “Lãnh đạo mà không

tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng
việc. Phụ trách không có cá nhân thì sẽ đi đến tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính
phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần
phải luôn luôn đi đôi với nhau” [6, tr.505]
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình được xem là
nguyên tắc, quy luật phát triển Đảng, là biện pháp tốt nhất để củng cố sự đoàn
kết, thống nhất trong Đảng. Mục đích của tự phê bình và phê bình là để làm

7


cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân, làm cho mỗi một
tổ chức tốt lên, phần xấu bị mất dần đi.
Trong từng hoàn cảnh cụ thể, Hồ Chí Minh có cách nói khác nhau để
đạt được mục đích song Người thường đặt lên trước tự phê bình, sau đó mới
đến phê bình. Người cho rằng mỗi cán bộ, đảng viên trước hết tự mình phải
thấy rõ mình, để phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, cũng như phải tự
soi gương, rửa mặt hằng ngày. Hơn nữa, nếu biết tự phê bình tốt thì mới phê
bình người khác tốt được. Người luôn nhắc nhở, yêu cầu mỗi cán bộ, đảng
viên phải "Luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình đã nói,
những việc mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết
điểm của mình". Người coi tự phê bình và phê bình là công cụ đắc lực để rèn
luyện cán bộ, đảng viên nhằm làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn và tăng
cường đoàn kết nội bộ hơn. Người thẳng thắn chỉ rõ "Một Đảng mà giấu
giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa
nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết
điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để
sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc
chắn, chân chính".
Người cũng lưu ý để làm được việc đó thì không dễ, "vì người ta hay

có lòng tự ái. Thừa nhận cái sai, cái dốt, cái kém của mình, thì sợ mất thể
diện, mất uy tín, mất địa vị". Người lưu ý cán bộ, đảng viên và các tổ chức
Đảng từ trên xuống dưới không những phải "luôn luôn dùng" mà còn "khéo
dùng cách phê bình và tự phê bình". Để tự phê bình và phê bình có kết quả
thì mỗi cán bộ, đảng viên phải trung thực, chân thành với bản thân mình cũng
như với người khác, phải tiến hành thường xuyên, nghiêm túc, không nể
nang, qua loa đại khái, hình thức, không giấu giếm và cũng không thêm bớt
khuyết điểm, đặc biệt "phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau", "phải
học tập chủ nghĩa Mác- Lênin và thấm nhuần chính sách của Đảng".
Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng mạnh mẽ lên án, phê phán những ai giấu
8


khuyết điểm, không dám thẳng thắn nhận khuyết điểm "Giấu khuyết điểm
thì khuyết điểm càng ngày càng to, đến khi to quá, không sửa chữa được,
thì mọi việc đều hỏng".
Về nâng cao sức chiến đấu của Đảng, Người dạy: “Để lãnh đạo tốt,
các cấp ủy phải thật đoàn kết, thật dân chủ, phải thực hành chế độ tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách”[7, tr.496]
Thực hành dân chủ rộng rãi nghĩa là phải dân chủ thực sự, dân chủ
thường xuyên, dân chủ từ Trung ương đến cơ sở. Nhưng, dân chủ phải gắn
với tập trung. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản và cũng là biện pháp tốt
nhất để xây dựng Đảng ta. Trước khi đi xa, Người căn dặn: "Nhờ đoàn kết
chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ
quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng đã đoàn kết, tổ chức và lãnh
đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác".
Chỉ trên cơ sở đoàn kết Đảng mới có sự thống nhất về ý chí và hành động,
triệu người như một để chiến thắng bất cứ kẻ thù nào, vượt qua bất cứ khó
khăn trở ngại nào.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là cẩm nang thần kỳ giúp cho Đảng hoạch định

đường lối chiến lược để xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Tự phê bình và phê bình vẫn là nguyên tắc cơ bản, không thể thiếu trong xây
dựng và phát triển Đảng ngang tầm nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.
2.3. Để lãnh đạo cách mạng thì Đảng phải mạnh, Đảng mạnh là do
chi bộ tốt, chi bộ tốt là do cán bộ Đảng viên đều tốt
Hồ Chí Minh từng khẳng định Đảng ta phải là một tổ chức cách mạng
chân chính. Từ Ban Chấp hành Trung ương đến mỗi đảng viên đều phải toàn
tâm, toàn ý xây dựng, giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh, xứng đáng
là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Người còn căn
dặn, nhờ có lý luận cách mạng tiền phong mà Đảng ta làm tròn nhiệm vụ của
Đảng tiền phong. Nhưng Đảng không phải từ trên trời rơi xuống, Đảng cũng ở
trong xã hội, trong quần chúng, song Đảng là tổ chức cao nhất của quần
9


chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, đạo đức, lương tâm và danh dự của dân
tộc.
Đảng do nhiều đảng viên hợp lại mà thành. Mọi đảng viên bất kỳ ở
cương vị nào từ Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội…
đến đảng viên thường đều sinh hoạt trong một chi bộ nơi mình công tác, đều
phải chịu sự giáo dục, giúp đỡ của chi bộ, đều phải làm tròn nghĩa vụ trách
nhiệm của người đảng viên. Càng ở cương vị cao, càng phải gương mẫu,
nghiêm túc sinh hoạt đảng. Khi thực hiện nhiệm vụ Chủ tịch đảng và Chủ tịch
nước, biết bao công việc bộn bề, nhưng Hồ Chí Minh đã thường xuyên nhắc
nhở thư ký phải sắp xếp, bố trí để Người dự họp chi bộ. Cũng không chỉ họp
cho có mặt mà Người còn nêu cao ý thức tự phê bình và phê bình, khích lệ
các đồng chí văn phòng, bảo vệ, phục vụ… “phê bình đảng viên Hồ Chí
Minh”. Tháng nào Người cũng tự mình mang tiền đến nộp đảng phí. Khi đi
công tác lâu ngày không kịp về sinh hoạt chi bộ, Người đều có báo cáo
nghiêm túc.

Để quản lý công tác cán bộ, Đảng có sự phân cấp, có đồng chí thuộc
diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, có đồng chí thuộc diện tỉnh, thành ủy
quản lý. Nhưng phân cấp không có nghĩa là các đồng chí thuộc diện cấp trên
quản lý chỉ “sinh hoạt hờ” ở chi bộ, hoặc ỷ vào “bận công tác” mà không
tham gia sinh hoạt chi bộ một cách nghiêm túc, tự mình tách ra khỏi sự giám
sát, kiểm tra, phê bình của chi bộ về tư tưởng, đạo đức, nhân cách, quan hệ
công tác. Một thực tế cần chấn chỉnh là không ít ban chi ủy và chi bộ còn tự
ti, e dè, né tránh, không thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình đối với đảng
viên thuộc diện cấp trên quản lý. Nếu có thì cũng chỉ là hình thức, nặng về ca
ngợi chứ ít khi dám phê bình những sai lầm, khuyết điểm của họ, cho rằng
“đó là việc của cấp trên”. Còn cấp trên thì thường chỉ đặt vấn đề kiểm điểm
phê bình cán bộ, đảng viên thuộc diện quản lý khi “câu chuyện đã vỡ lở”, khi
quần chúng tố cáo và báo chí đã vào cuộc.

10


Bản thân nhiều đồng chí đảng viên thuộc diện cấp trên quản lý đã coi
thường sinh hoạt chi bộ, tự coi mình như loại đảng viên “đặc biệt”, “siêu
hạng”, đứng trên, đứng ngoài tầm kiểm soát của chi bộ. Không ít người đã
không tham gia đầy đủ các kỳ sinh hoạt chi bộ theo Điều lệ Đảng, thậm chí
quên cả nghĩa vụ tự mình đóng đảng phí mà thường là do thư ký nộp hộ. Có
lẽ cũng cần nhắc lại rằng việc đóng đảng phí không chỉ có ý nghĩa về tài
chính đối với Đảng mà quan trọng hơn là để thường xuyên nhắc nhở ý thức
của từng đảng viên đối với Đảng, để thấy rằng dù ở cương vị, cấp bậc nào thì
thực chất mình vẫn chỉ là một chiến sĩ cộng sản, một đảng viên của một chi
bộ. Chi bộ là nơi sinh thành, dưỡng dục người đảng viên và người đảng viên
phải có trách nhiệm xây dựng chi bộ, phải gương mẫu, làm gương sáng cho
các đảng viên khác và quần chúng noi theo.
Hầu hết các vụ việc tiêu cực trong những năm qua đều xảy ra ở các chi

bộ, chi ủy, đảng ủy cơ sở thiếu dũng khí trong việc duy trì chế độ sinh hoạt
đảng, tự mình hạ thấp vai trò lãnh đạo tư tưởng, chính trị, giáo dục đạo đức tư
cách cho đảng viên của chi bộ. Còn các đảng viên thuộc diện cấp trên quản lý
đã xa rời sự giáo dục của Đảng, không khép mình vào tổ chức và coi thường
nghĩa vụ của người đảng viên.
Chi bộ tốt là do từng đảng viên tốt. Lẽ ra các chi bộ có nhiều cán bộ
trung, cao cấp phải là những chi bộ thật mạnh, chi bộ kiểu mẫu. Lẽ ra những
vụ việc tiêu cực phải tỷ lệ nghịch với số lượng đảng viên thuộc cấp trên quản
lý. Trên thực tế lại không hoàn toàn như thế. Đây là hiện tượng cần có sự suy
nghĩ nghiêm túc. Đảng cần bổ sung các quy định thật chặt chẽ về sinh hoạt
đảng ở chi bộ đối với đảng viên thuộc diện cấp trên quản lý để việc sinh hoạt
chi bộ đối với các đồng chí đó có thực chất chứ không hình thức, chiếu lệ. Hồ
Chí Minh đã có chỉ dẫn cụ thể về vấn đề này: “Để hoạt động cách mạng
thực hiện nhiệm vụ, đường lối của Đảng, mỗi đảng viên phải hoạt động
trong một tổ chức cơ sở của Đảng. Cho nên các cô, các chú phải hiểu rõ
vai trò, nhiệm vụ của chi bộ, cố gắng góp phần của mình vào việc xây dựng
11


chi bộ “bốn tốt”. Phải hiểu rõ quyền hạn, nhiệm vụ của người đảng viên,
nâng cao tinh thần trách nhiệm của mình với Đảng”[8, tr.468]. Người còn
nhấn mạnh, bất kỳ đảng viên nào cũng cần phải nắm được phương pháp cách
mạng của Đảng, mà một trong những phương pháp quan trọng nhất là cách
vận động quần chúng, mà quần chúng gần gũi, cần thiết nhất cho công tác của
Đảng là quần chúng ở địa bàn, cơ quan, công sở… trong phạm vi hoạt động
của chi bộ
Muốn tiến bộ, muốn xứng đáng là người chiến sĩ tiên phong gương
mẫu của dân tộc thì đảng viên phải không ngừng học tập, tu dưỡng, phải luôn
được giáo dục và biết tự giáo dục. Môi trường giáo dục ấy chính là chi bộ, là
TCCS đảng. Hồ Chí Minh đã dặn “Chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt. Cho nên

các cô, các chú phải quan tâm đến việc xây dựng chi bộ… phải làm thiết
thực, đừng hình thức, đừng báo cáo sai”[8, 506]. Người còn nói đại ý rằng:
Mỗi đảng viên chỉ là một giọt nước, một phần tử nhỏ bé của Đảng. Nhưng
từng giọt nước nhỏ thấm vào lòng đất, chảy về một hướng mới thành suối,
thành sông. Biết bao nhiêu giọt nước nhỏ hợp lại mới thành biển cả.
Chủ tịch Hồ chí Mình đòi hỏi mỗi đảng viên cộng sản cùng với phẩm
chất cách mạng cao quý còn phải có năng lực, vì có năng lực mới hoàn thành
tốt được nhiệm vụ của Đảng giao cho. Người dạy rằng, "Đảng yêu cầu cán
bộ và đảng viên chẳng những thạo về chính trị, mà còn phải giỏi về chuyên
môn, không thể lãnh đạo chung chung” [8, tr.366]. Muốn vừa thạo về chính
trị, vừa giỏi về chuyên môn, mỗi đảng viên phải ra sức "học tập chủ nghĩa
Mác - Lênin và đường lối, chính sách của Đảng, học tập văn hoá, kỹ thuật
và nghiệp vụ; không ngừng nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng và năng
lực công tác của mình”[9, tr.368]. Bởi vì, có học tập lý luận Mác - Lênin
mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao hiểu
biết và trình độ chính trị, mới làm tốt được công tác Đảng giao cho mình; “có
nắm vững đường lối cách mạng mới hiểu rõ mình phải làm gì và đi theo
phương hướng nào để thực hiện mục đích của Đảng trong giai đoạn cách
12


mạng hiện nay”. Người cũng chỉ rõ rằng, muốn học tập có kết quả tốt, phải
có thái độ đúng và phương pháp đúng, lý luận phải liên hệ với thực tế, phải
“biến những điều đã học thành hành động cách mạng thực tế. Học phải đi
đôi với hành, chứ không phải học để nói suông”. [9, tr.488].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách đảng viên cộng sản luôn nhấn
mạnh vấn đề xây dựng ý thức tổ chức và kỷ luật, phục tùng nghiêm chỉnh kỷ
luật của Đảng, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Bởi lẽ, sức mạnh
vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm. Người
chỉ rõ: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người.

Đó là nhờ có kỷ luật. Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự
giác”. Người đòi hỏi mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu về phục tùng kỷ
luật, chẳng những kỷ luật của Đảng mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân
và của cơ quan chính quyền. Trong giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật, người yêu
cầu mọi đảng viên phải ra sức góp phần xây dựng và giữ vững sự đoàn kết
nhất trí trong Đảng. Bởi lẽ, đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công.
"Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân,
phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ
chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác". Do đó, tất cả cán bộ, đảng viên, dù ở cương vị khác nhau,
làm công tác khác nhau, cũng đều phải đoàn kết nhất trí để làm tròn nhiệm vụ,
"giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình"
Trong giai đoạn hiện nay, khi cả nước đứng trước những vận hội mới
và thách thức mới, tiếp tục sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, hơn bao giờ hết chúng ta phải giương cao ngọn cờ lãnh đạo của
Đảng, xây dựng các tổ chức chi bộ vững mạnh, rèn luyện tư cách đảng viên
với phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ. Việc nghiên cứu, quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Đảng nói chung, trong rèn luyện
phẩm chất, tư cách đảng viên cộng sản nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan
trọng nhằm củng cố tổ chức đảng, xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị,
13


tư tưởng và tổ chức, thực sự xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

CHƯƠNG 3:
TIẾP TỤC NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC
CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI
MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

3.1. Thực trạng tổ chức cơ sở đảng ở nước ta hiện nay
14


3.1.1 Những ưu điểm và nguyên nhân
3.1.1.1 Ưu điểm
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, hầu hết các tổ chức đảng
và đội ngũ cán bộ, đảng viên đã thể hiện tốt vai trò lãnh đạo, vững vàng trước
những khó khăn, thử thách. Nhiều tổ chức cơ sở đảng đã giữ vững và phát
huy được vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở; lãnh đạo cán bộ, đảng viên và
nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước và sự chỉ đạo của cấp uỷ cấp trên; thực hiện có kết quả nhiệm vụ
chính trị, công tác chuyên môn của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở được triển khai và
bước đầu đem lại kết quả tích cực, dân chủ trong Đảng và trong xã hội bước
đầu được mở rộng hơn. Nhiều cấp uỷ cơ sở đã coi trọng xây dựng quy chế
làm việc và thực hiện quy chế; duy trì chế độ giao ban định kỳ giữa thường
trực cấp uỷ với chính quyền, các tổ chức chính trị- xã hội ở cơ sở.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch đội ngũ cán bộ cơ sở được
quan tâm, chú ý hơn. Đội ngũ cấp ủy và cán bộ, đảng viên ở cơ sở được tăng
thêm về số lượng và chất lượng; trình độ, kiến thức các mặt được nâng lên.
Nhiều cấp ủy viên và cán bộ, đảng viên ở cơ sở đã được rèn luyện, thử
thách, trưởng thành qua thực tiễn công tác; kiên định lập trường giai cấp công
nhân, trung thành với chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường
lối đổi mới của Đảng, thể hiện vai trò tiền phong gương mẫu, có tinh thần
trách nhiệm; có quan hệ mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.

3.1.1.2 Nguyên nhân của ưu điểm
Những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
đã có nhiều chủ trương, nghị quyết, chỉ thị và giải pháp lớn về xây dựng tổ

chức cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.

15


Các quy định của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ của các loại hình
tổ chức cơ sở Đảng cơ bản phù hợp, sát thực tiễn, là định hướng quan trọng
để các tổ chức cơ sở Đảng xây dựng quy chế làm việc, giữ vững và phát huy
vai trò hạt nhân chính trị cơ sở.
Nhiều cấp ủy cấp trên đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đối với cơ sở, có
những chủ trương, giải pháp, chính sách sát với thực tế. Bản thân các cấp ủy,
tổ chức cơ sở Đảng nhận thức đầy đủ hơn về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của tổ
chức cơ sở Đảng, từ đó quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng tổ chức cơ
sở Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Đa số cán bộ, đảng viên đã được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn, có ý
thức rèn luyện, phấn đấu vươn lên tự hoàn thiện mình; trình độ, kiến thức các
mặt của đội ngũ cán bộ, đảng viên từng bước được nâng lên. Cơ sở vật chất,
phương tiện và điều kiện làm việc của cơ sở được trang bị tốt hơn.
3.1.2 Những khuyết điểm, hạn chế và nguyên nhân
3.1.2.1 Khuyết điểm, hạn chế
Nhiều cấp uỷ chưa thực sự coi trọng vị trí then chốt của công tác xây
dựng Đảng. Chưa dành thời gian, tập trung công sức tập trung chỉ đạo xây
dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng. Không ít tổ chức cơ sở đảng chưa nhận
thức và thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng,
đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở chưa đúng mức, tính định
hướng, tính chiến đấu và tính giáo dục, thuyết phục chưa cao. Năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu, khả năng nhận thức, vận dụng, cụ thể hoá và tổ chức thực
hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước
và của cấp uỷ cấp trên của nhiều tổ chức cơ sở đảng còn yếu, chưa đủ sức

phát hiện, giải quyết những vấn đề phức tạp xảy ra ở cơ sở, có tổ chức đảng bị
mất sức chiến đấu.
Trong sinh hoạt đảng ở cơ sở còn tồn tại những yếu kém sau: Nhiều cấp
uỷ, chi bộ, đảng bộ chưa thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ
16


trong Đảng. Chưa thực hiện có nền nếp chế độ sinh hoạt đảng, nội dung sinh
hoạt chi bộ chậm đổi mới. Chưa coi trọng đổi mới phương thức lãnh đạo và
phong cách, lề lối làm việc; bệnh thành tích còn năng và khá phổ biến.
Chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên còn nhiều hạn chế, yếu kém. Một
bộ phận đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí phấn đấu; hiện tượng nể
nang, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh đang phổ
biến trong Đảng. Tình thương yêu đồng chí bị giảm sút. Bệnh cơ hội, thực
dụng và tình trạng mê tín dị đoan trong đội ngũ cán bộ, đảng viên có xu
hướng ngày càng tăng.
Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán
bộ, đảng viên ở cơ sở bị buông lỏng. Cấp ủy và chi bộ không nắm chắc tình
hình tư tưởng và phẩm chất của cán bộ, đảng viên; chưa chủ động dự báo và
chuẩn bị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên trước những vấn đề mới; chưa có
biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa, phát hiện, đấu tranh và xử lý kịp thời những
đảng viên vi phạm. Công tác kết nạp đảng viên còn chạy theo thành tích, số
lượng theo kế hoạch; chưa quan tâm đúng mức việc giáo dục, bồi dưỡng động
cơ, lý tưởng cách mạng và rèn luyện thủ thách đối với quần chúng phấn đấu
vào Đảng.
3.1.2.2 Nguyên nhân của khuyết điểm
Do những diễn biến nhanh chóng, phức tạp của tình hình thế giới; sự
chống phá, tiến công thâm độc của bọn phản động và các thế lực thù địch,
nhất là trên lĩnh vực tư tưởng chính trị; những mặt trái của kinh tế thị
trường…đã tác động nhiều mặt đến công tác xây dựng Đảng và đội ngũ cán

bộ, đảng viên ở cơ sở.
Đất nước ta đã có những biến đổi sâu sắc trong quá trình phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, nhưng
công tác xây dựng đảng nói chung, xây dựng đảng ở cơ sở nói riêng tuy đã
dược đổi mới nhưng chưa theo kịp sự biến đổi của tình hình

17


Chưa nhận thức đúng, đầy đủ nhiệm vụ then chốt của công tác xây
dựng đảng; chưa quán triệt sâu sắc vị trí, vai trò và chức năng, nhiệm vụ của
chi bộ, của tổ chức cơ sở đảng.
3.2. Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng hiện nay.
3.2.1 Quan điểm chỉ đạo của Đảng
Quán triệt theo tinh thần của Nghị Quyết trung ương 6 khóa X:
Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là cầu nối giữa Đảng với
dân, có vị trí rất quan trọng trong hệ thống tổ chức của Đảng.
Toàn Đảng phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo để nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội ở cơ sở, nhất là ở những
địa bàn, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn. Lấy hiệu quả hoạt động của
hệ thống chính trị ở cơ sở làm thước đo kết quả tổng hợp của công tác xây
dựng Đảng.
Tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân trong xây
dựng Đảng ở cơ sở.
Dựa vào dân để xây dựng Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị trong việc tham gia xây dựng Đảng. Tôn tọng và phát huy
quyền làm chủ của dân. Tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên phải tôn trọng sự
giám sát của nhân dân. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng

phải kết hợp chặt chẽ với thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh"; với xây dựng chính quyền, các tổ chức chính
trị - xã hội ở cơ sở vững mạnh; với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng
viên, trước hết là bí thư đảng bộ, chi bộ,người đứng đầu và các cấp uỷ viên.
3.2.2.Những giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng hiện
nay.
3.2.2.1 Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng
đội ngũ cán bộ, Đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ, có
18


phẩm chất đạo đức cách mạnh, có ý thức tổ chức kỷ luật, thực sự tiền
phong gương mẫu, có năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao chất lượng sinh
hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật, tăng cường đoàn
kết, thống nhất trong Đảng. Thường xuyên giáo dục, rèn luyện , nâng cao
phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, trình độ, kiến thức và năng lực công
tác cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Các cấp ủy phải chủ động hơn trong công tác chính trị tư tưởng, chủ
động dự báo để trang bị kịp thời những thông tin chính thống, có định hướng
của Đảng cho cán bộ, đảng viên; đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, biện
pháp giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyên truyền sâu
rộng đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
thường xuyên bồi dưỡng lý tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Chủ động khắc phục những biểu hiện phai nhạt lý tưởng, cơ hội, thực
dụng, vụ lợi, cá nhân, trung bình chủ nghĩa; kiên quyết đấu tranh với những
luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, phản động, góp phần làm thất bại âm mưu
“diễn biến hòa bình”, chống phá, bạo loạn, lật đổ của bọn phản động và các
thế lực thù địch.

Xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong cấp ủy, đảng bộ, chi bộ trên cơ sở
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chính sách của Đảng và tình
thương yêu đồng chí; kiên quyết đấu tranh với những quan điểm, việc làm sai
trái với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giảng dạy và học tập
lý luận chính trị; chú ý bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, giải quyết những tình
huống cụ thể xảy ra cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở; tăng cường sự lãnh đạo
của tổ chức cơ sở Đảng trong các cơ quan làm công tác chính trị, tư tưởng

19


3.2.2.2 Hoàn thiện mô hình tổ chức của các loại hình tổ chức cơ sở
đảng theo hướng gắn tổ chức cơ sở đảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
chính trị và lãnh đạo các tổ chức chính trị- xã hội.
Tiếp tục kiện toàn, sắp xếp tổ chức của các tổ chức cơ sở đảng cho
đồng bộ, thống nhất với các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở theo hướng
quy định rõ tổ chức cơ sở đảng có trách nhiệm lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Đồng thời xây dựng mô hình tổ
chức, phương thức hoạt động phù hợp với những tổ chức cơ sở đảng có tính
đặc thù riêng, vừa tạo sự thống nhất chung, vừa phù hợp với đặc điểm cụ thể
của từng địa phương, cơ quan, đơn vị.
Từng bước thực hiện chủ trương thành lập tổ chức đảng toàn tập đoàn,
tổng công ty; đồng thời cũng cho phép một số mô hình có tính đặc thù. Gắn
công tác xây dựng đảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh,
công tác cán bộ của các doanh nghiệp. Có quy định cụ thể về mối quan hệ
giữa đảng uỷ tập đoàn, đảng uỷ tổng công ty với các cấp uỷ địa phương có
liên quan.
Những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, số lượng công nhân và
đảng viên ít thì thành lập chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở xã, phường, thị trấn

hoặc đảng bộ cơ sở khối doanh nghiệp tư nhân trực thuộc quận, huyện ủy.
Những địa phương còn nhiều thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố, trường
học, doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng viên thì cấp uỷ cấp
trên trực tiếp của cơ sở phân công cấp uỷ viên và các ban, nghành, đoàn thể
phụ trách từng đơn vị cụ thể để chỉ đạo công tác kết nạp đảng viên, xây dựng
tổ chức đảng và các tổ chức chính trị- xã hội.
3.2.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở,
nhất là các cấp uỷ viên. Từng bước nhất thể hoá chức danh cán bộ; tạo
bằng được bước chuyển có tính đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức ở cơ sở.

20


Đội ngũ cấp ủy viên là yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng của
tổ chức cơ sở đảng, bởi họ là hạt nhân lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng. Vì
vậy, cần phải lựa chọn những người tiêu biểu nhất, những người có đủ phẩm
chất, năng lực, kiến thức thực tiễn, bám sát đơn vị cơ sở và am hiểu về công
tác xây dựng Đảng để bầu vào cấp ủy.
Cần có chế độ chính sách phù hợp với đội ngũ cán bộ, đảng viên cấp cơ
sở để tạo điều kiện thuận lợi cho họ hoạt động. Nghị quyết Trung ương 6 khóa
X của Đảng đã đặc biệt nhấn mạnh đến việc xây dựng hệ thống chính sách
phù hợp và đồng bộ đối với đội ngũ cán bộ công chức cơ sở cấp xã theo
hướng: một số chức danh cán bộ chuyên trách ở cấp xã nếu cần và có đủ điều
kiện thì xem xét chuyển thành công chức nhà nước; các chức danh cán bộ
chuyên trách khác không đủ điều kiện, tiêu chuẩn thì thực hiện theo chế độ
hiện hành, khi được giữ chức vụ do bầu cử thì hưởng chế độ phụ cấp trách
nhiệm và thực hiện chế độ bảo hiểm
Thực hiện thí điểm chủ trương nhất thể hoá hai chức danh cán bộ chủ
chốt ở cơ sở. Thực hiện thí điểm từng bước đại hội đảng bộ cơ sở bầu cấp uỷ,

ban thường vụ, bí thư và phó bí thư.
Các tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự
nghiệp, thực hiện thống nhất chủ trương thủ trưởng cơ quan, đơn vị hoặc một
đồng chí lãnh đạo của cơ quan, đơn vị trực tiếp làm bí thư cấp ủy. Đối với các
doanh nghiệp nhà nước, thực hiện thống nhất chủ trương chủ tịch hội đồng
quản trị hoặc tổng giám đốc đồng thời là bí thư cấp ủy. Đối với những công ty
cổ phần có vốn nhà nước, cấp ủy và lãnh đạo cấp trên của doanh nghiệp cần
lựa chọn những cán bộ, đảng viên có phẩm chất, năng lực và có đủ điều kiện
đại diện phần vốn của nhà nước để tham gia cấp ủy và hội đồng quản trị của
công ty.
3.2.2.4. Nâng cao chất lượng, đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương
thức hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng theo hướng vừa mở
rộng dân chủ, vừa tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
21


Tập trung củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh về chính
trị, tư tưởng, tổ chức
Về sinh hoạt đảng ở cơ sở: Thực hiện nghiêm túc, có nền nếp chế độ
sinh hoạt đảng, nội dung sinh hoạt phải cụ thể, thiết thực, giải quyết kịp thời
những vấn đề bức xúc xảy ra ở địa phương, cơ quan, đơn vị. Mỗi quý phải tổ
chức sinh hoạt chuyên đề ít nhất một lần để bồi dưỡng, cập nhật kiến thức
mới cho đảng viên. Thực hiện nghiêm túc việc tự phê bình và phê bình trong
sinh hoạt đảng. Định kỳ 6 thàng một lần, cấp uỷ cấp trên trực tiếp của tổ chức
cơ sở đảng kiểm tra việc thực hiện việc sinh hoạt đảng
3.2.2.5. Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, quản lý
Đảng viên; dựa vào dân để xây dựng Đảng.
Thực hiện nghiêm túc quy định của Bộ Chính trị về công tác kiểm tra,
giám sát cán bộ, đảng viên ở cơ sở; về thi hành kỷ luật trong Đảng và những
điều đảng viên không được làm.

Các chi bộ phải thực hiện tốt việc phân công công tác cho đảng viên,
bảo đảm mọi đảng viên trong chi bộ đều được phân công công tác đảng phù
hợp với trình độ, năng lực, sức khỏe. Cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ
sở đảng phải chỉ đạo các ban, ngành có liên quan tiến hành kiểm tra, thẩm
định chặt chẽ kết quả đánh giá chất lượng tổ chức đảng và đảng viên của cấp
ủy cơ sở; thông báo rộng rãi, công khai để cán bộ, đảng viên và nhân dân biết,
tham gia ý kiến trước khi cấp ủy quyết định công nhận và chịu trách nhiệm
trước cấp trên về quyết định công nhận đó. Biểu dương, khen thưởng kịp thời
những điển hình tiên tiến, những tổ chức cơ sở đảng, đảng viên có thành tích
xuất sắc và tuyên truyền, phổ biến kinh nghiệm trên các phương tiện thông tin
đại chúng.

22


KẾT LUẬN
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
không chỉ là sự khẳng định về vị trí vai trò nền tảng, hạt nhân chính trị ở cơ
sở của tổ chức cơ sở đảng mà còn cho thấy rõ được vai trò trách nhiệm của
mỗi cán bộ đảng viên, đặc biệt là ở cơ sở trong việc phát huy tính tiên phong
gương mẫu trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị cũng như các hoạt động
xây dựng Đảng ở địa phương đơn vị mình, để không ngừng tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới.
Thực tiễn hơn 81 năm qua đó khẳng định ý nghĩa to lớn của việc nâng cao
năng lực lónh đạo, sức chiến đấu, góp phần quan trọng xây dựng Đảng ta luôn
trong sạch, vững mạnh, thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, hầu hết các tổ chức đảng và
đội ngũ cán bộ, đảng viên đó thể hiện tốt vai trũ lónh đạo, vững vàng trước
những khó khăn, thử thách. Kết quả của Cuộc vận động “Học tập và làm theo

tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” cho thấy những chuyển biến tích cực trong
công tác xây dựng đảng, xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu của đảng viên.
23


Những kinh nghiệm trong hoạt động “Nâng cao năng lực lónh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng” mà người nói đó, đang và sẽ là ngọn đèn
sáng rọi đường cho ngọn cờ lãnh đạo của Đảng ta.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H. 2000
2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.1, NXBCTQG, HN 1996.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.12, NXBCTQG, HN 1996
4. Hồ Chí Minh toàn tập, tập12, Nxb CTQG, HN 2002.
5. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5.
6. Hồ Chí Minh, Sđd, tập 5
7. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H. 2000
8. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H. 2000.
9. Giáo trình Xây dựng Đảng, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, NXB.CTQG,
H.2004
10. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam ( Thông qua tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI )
11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
NXB.CTQG, N.2006 (Phần Xây dựng Đảng, tr.259)

24


12. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu BCH Trung ương
khóa X, NXB. CTQG, H.2008

13. Giáo trình Xây dựng Đảng, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, NXB.CTQG,
H.2004
14. Tổ chức cơ sở Đảng với cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng,
PGS.TS Nguyễn Cúc, NXB. CTQG, H.2004.
15. 360 câu hỏi và trả lời về tổ chức cơ sở Đảng và Đảng viên, NXB. CTQG,
H.2004
16. Đảng Cộng sản Việt Nam, Về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, NXB. CTQG, H. 2005
17. Một số vấn đề về xây dựng tổ chức cơ sở Đảng hiện nay, Nguyễn Đức Hà,
NXB. CTQG, H.2010

MỤC LỤC
Trang
Mở

đầu

1
Chương 1: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở

đảng



một

số

khái


niệm



bản

2
1.1.

Tổ

chức



sở

đảng

2
1.2.

Sức

chiến

đấu

của


tổ

chức



sở

đảng

sở

đảng

2
1.3.

Năng

lực

lãnh

đạo

của

3
25


tổ

chức




×