Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tư tưởng của c mác, ph ăngghen về chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân và sự vận dụng ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.25 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
C.Mác và Ph.Ăngghen là lãnh tụ vĩ đại của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, người sáng lập chủ nghĩa cộng sản khoa học và đề xướng những quan
điểm cơ bản về xây dựng chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Học
thuyết về chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân là một trong những bộ
phận cấu thành của chủ nghĩa xã hội khoa học. Học thuyết đó chỉ ra tính tất yếu,
quy luật về sự ra đời của Đảng Cộng sản, những nguyên tắc xây dựng Đảng về
chính trị, tư tưởng, tổ chức và về sự lãnh đạo của Đảng nhằm cải tạo xã hội cũ,
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Học thuyết
này đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài, quá trình đó gắn liền với những
điều kiện lịch sử cụ thể của cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình của giai cấp
công nhân ở mỗi nước và của quá trình ra đời và phát triển của các chính Đảng
Cộng sản trên thế giới.
Những luận điểm khoa học của C.Mác, Ph.Ăngghen về chính đảng cách mạng
của giai cấp công nhân đã có ảnh hưởng to lớn, trực tiếp đến sự phát triển của
toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, góp phần to lớn vào việc phát
triển phong trào cách mạng và sự ra đời hàng loạt chính đảng cách mạng của giai
cấp công nhân trên thế giới, trong đó có sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong phạm vi tiểu luận em chỉ tập trung trình bày “Tư tưởng của C.Mác,
Ph.Ăngghen về chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân và sự vận dụng
ở Việt Nam”.

1


Chương 1.
TƯ TƯỞNG CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN VỀ
CHÍNH ĐẢNG CÁCH MẠNG CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1.1. Tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngnghen về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân


Chủ nghĩa Mác với hai phát hiện vĩ đại là quan niệm về duy vật lịch sử và
học thuyết giá trị thặng dư đã chứng minh một cách khoa học rằng với sự ra đời
và phát triển của chủ nghĩa tư bản, những điều kiện vật chất đó và lực lượng
sản xuất xã hội đó đã được tạo ra. Đó là nền sản xuất đại công nghiệp đảm bảo
cho lực lượng xã hội phát triển đến trình độ hết sức cao khiến xã hội loài
người có thể và tất yếu chuyển lên xã hội cộng sản văn minh. Gắn liền với
điều kiện vật chất ấy, một lực lượng xã hội cũng đã hình thành và phát triển,
có sứ mệnh lịch sử xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội
chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Lực lượng xã hội đó chính là giai cấp
công nhân. Chủ nghĩa xã hội cộng sản từ không tưởng đã trở thành khoa học.
Những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân là sự luận chứng khoa học về địa vị kinh tế - xã hội khẳng định có vai
trò lịch sử của giai cấp đó, về những mục tiêu và con đường để giai cấp công
nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Những tư tưởng ấy chứng minh rằng,
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được qui định bởi những điều kiện kinh
tế - xã hội khách quan : “Sự phát triển của đại công nghiệp, chính cái nền tảng
trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiếm hữu sản phẩm của nó, phá sập dưới
chân giai cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sản sinh ra những người “đào
huyệt” chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô
sản đều là tất yếu như nhau”1.
Khám phá khoa học về vai trò lịch sử sứ mệnh toàn thế giới của giai cấp vô
1

C.Mác - Ph.Ăng-ghen : Tuyển tập, tập 1, Nxb ST, HN, 1980, tr.556-557

2


sản với tư cách là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và là người sáng lập ra
xã hội mới, đó là nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác. Hai ông đã luận giải vai trò

lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân được quyết định bởi các nhân tố
khách quan. Vai trò ấy trước hết là do địa vị của giai cấp công nhân trong nền sản
xuất xã hội chứ không phải chỉ vì số lượng của giai cấp công nhân, hoặc giai cấp
công nhân là giai cấp bị bóc lột nhiều nhất trong xã hội tư bản. Tư tưởng này của
hai ông được thể hiện rõ ở tác phẩm “những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”
và “những người cộng sản và Karl HeinZen”.
Giai cấp công nhân là giai cấp tiêu biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ, đã
được rèn luyện trong nền sản xuất công nghiệp và là sản phẩm của chính nền đại
công nghiệp, là giai cấp bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất buộc phải làm thuê cho
nhà tư sản, giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, có tinh thần triệt để cách
mạng nhất, có khả năng hành động cách mạng kiên quyết nhất, có tính tổ chức kỷ
luật cao nhất, do đó giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất giữ vai trò lãnh đạo
cách mạng. Tính chất của xã hội tư bản với phương thức sản xuất của nó đã tạo
điều kiện cho việc thống nhất tổ chức và giáo dục giai cấp công nhân. Phát hiện
ra những vấn đề cốt lõi đó C.Mác đã khẳng định “trong tất cả các giai cấp hiện
đang đối lập với giai cấp tư sản, thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách
mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển
của đại công nghiệp; giai cấp vô sản, trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại
công nghiệp”2.
Do địa vị khách quan của mình, giai cấp công nhân là giai cấp dễ dàng tiếp
thu nhất những tư tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học. Những tư tuởng đó
không những đáp ứng được lợi ích của giai cấp công nhân, mà nó còn chỉ ra cho
giai cấp công nhân con đường đấu tranh đúng đắn để đi đến thắng lợi cuối cùng.
Giai cấp công nhân đặc biệt quan tâm đến việc thực hiện những tư tưởng của
khoa học và phấn đấu biến nó thành hiện thực.
2

Sđd, tập 1, tr. 554

3



Giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có lợi ích căn bản đối lập trực tiếp
với giai cấp tư sản, do đó nó có tinh thần triệt để cách mạng, chiến đấu đến cùng
cho sự nghiệp giải phóng giai cấp, xóa bỏ áp bức, bất công xã hội. Trong cuộc
đấu tranh với giai cấp tư sản “những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài xiềng
xích trói buộc họ. Trong cuộc cách mạng ấy, họ giành được cả một thế giới cho
mình”3.
Giai cấp công nhân có lợi ích cơ bản phù hợp và thống nhất với lợi ích của
quần chúng nhân dân lao động và các giai tầng xã hội khác. Do vậy, nó có khả
năng đại biểu cho quyền lợi cơ bản của quần chúng nhân dân lao động; có khả
năng đoàn kết, tổ chức, giáo dục, lôi cuốn quần chúng nhân dân lao động tham
gia vào cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản. Giai cấp công nhân có khả năng
lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng khỏi
áp bức bóc lột, cũng như trong sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công
xã hội mới – xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa .
Như vậy sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được qui định một cách
khách quan do sự vận động nội tại của những mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội
tư bản, do yêu cầu của sự phát triển của nền sản xuất đại công nghiệp chứ không
hoàn toàn do ý muốn chủ quan của ai gán ghép cho nó. C.Mác và Ph.Ăngghen
viết: “Sự phát triển của đại công nghiệp đã phá sập, dưới chân của giai cấp tư sản,
chính ngay cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã dựng nên chế độ sản xuất và
chiếm hữu của nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản
là tất yếu như nhau”4 và “giai cấp tư sản không những rèn vũ khí giết mình; nó
còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy – những công nhân hiện đại, những
người vô sản”5. Địa vị xã hội, điều kiện sinh hoạt vật chất và bản chất giai cấp đã
qui định tính chất cách mạng triệt để và vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản trong
cuộc đấu tranh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản.
3


Sđd, tập 1, tr.586
Sđd, tập 1, tr.556-557
5
Sđd, tập 1, tr.549
4

4


1.2. Tính tất yếu của sự ra đời Đảng Cộng sản
C.Mác, Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng toàn bộ lịch sử xã hội loài người
từ khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã đến nay là lịch sử đấu tranh giai cấp.
Cũng như vậy, giai cấp công nhân đấu tranh với giai cấp tư sản ngay từ lúc họ
mới ra đời. Qua đấu tranh, dần dần người công nhân có nhận thức đúng đắn hơn
về kẻ thù của mình, làm cho tính chất của cuộc đấu tranh chuyển từ đấu tranh vì
mục tiêu kinh tế sang mục tiêu chính trị.
Theo C.Mác, Ph.Ăngghen, sự ra đời của Đảng cộng sản – chính đảng cách
mạng của giai cấp công nhân cũng không nằm ngoài quy luật chung, tức là đều
bắt nguồn từ những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội. Trong đó, đặc biệt là cuộc
đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, mà trước hết và chủ yếu là
xoay quanh những mâu thuẫn về lợi ích vật chất. Những mâu thuẫn này là nguồn
gốc của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản.
Cùng với lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, C.Mác,
Ph.Ăngghen cũng đã khẳng định: giai cấp công nhân muốn thực hiện được vai trò
lịch sử thế giới thì điều kiện tiên quyết là giai cấp công nhân phải tổ chức ra
chính đảng độc lập của mình, một đảng giai cấp tự giác; vì chỉ khi nào giai cấp vô
sản tổ chức được chính đảng chính trị độc lập của mình, thì khi đó cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh tự phát, lẻ tẻ, rời rạc sang đấu
tranh tự giác, có tổ chức lãnh đạo, và cũng chỉ khi đó giai cấp vô sản mới chuyển
từ giai cấp “tự mình” thành giai cấp “vì mình”.

Thành công của C.Mác và Ph.Ăngghen là ở chỗ: bằng sự phân tích và lý
giải của mình để giai cấp vô sản thấy rõ sứ mệnh lịch sử của họ: là người đào
huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và có khả năng tổ chức xây dựng một xã hội mới –
xã hội cộng sản chủ nghĩa; có nghĩa là C.Mác, Ph.Ăngghen đã đem lại cho giai
cấp vô sản một ý thức về địa vị của mình, cũng như ý thức về những điều kiện
để giải phóng mình. Điều kiện đó chính là: giai cấp vô sản muốn đánh đổ được
kẻ thù của mình, muốn giành được chính quyền, và động viên được đông đảo
5


quần chúng cùng với mình để xây dựng một xã hội mới thì giai cấp vô sản
phải đoàn kết và liên hiệp lại. Điều quan trọng có tính chất sống còn đó là giai
cấp vô sản phải có một trung tâm hướng dẫn chỉ đạo, hay nói cách khác là phải
có một chính đảng của giai cấp vô sản dẫn dắt, chỉ đường.
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản trải qua các
giai đoạn phát triển từ thấp đến cao. Thoạt đầu, những cuộc đấu tranh mang tính
chất đơn lẻ do từng người (hay nhóm công nhân) riêng lẻ tiến hành mang tính tự
phát. Mục tiêu đấu tranh của họ là những tên tư sản trực tiếp thống trị họ. Nhìn
chung, trong giai đoạn này, giai cấp vô sản chưa đánh vào kẻ thù của chính mình
là giai cấp tư sản, mà chỉ đánh vào kẻ thù của kẻ thù đó là chế độ quân chủ,
chuyên chế, địa chủ. “Nếu có lúc, công nhân hỗ trợ nhau bằng hành động có tính
chất quần chúng, thì đó cũng chưa phải là kết quả của sự liên hiệp chính của họ,
mà là kết quả của sự liên hợp của giai cấp tư sản, nó muốn đạt những mục đích
chính trị của nó, nên phải huy động toàn thể giai cấp vô sản và tạm thời còn có
khả năng huy động được như vậy. Bởi vậy suốt trong giai đoạn này, những người
vô sản chưa đánh kẻ thù của chính mình mà mới đánh kẻ thù của kẻ thù”6.
Từ thực tiễn đấu tranh, những người vô sản bắt đầu liên hiệp lại và đi đến
thành lập các đoàn thể chuẩn bị trước cho những cuộc đấu tranh. Sự tổ chức ấy
của những người vô sản tạo điều kiện cho sự ra đời của chính đảng vô sản. Sự ra
đời của chính đảng vô sản là do sự cần thiết khách quan và sự trưởng thành của

phong trào vô sản, đưa phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đi từ tự phát đến
tự giác. Giai cấp công nhân cần thiết phải tổ chức ra Đảng của giai cấp mình.
Đó là một tổ chức đảng độc lập mà bản chất của nó khác hẳn với bản chất của
các đảng phái khác.
Quá trình kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công
nhân là một quá trình đấu tranh cách mạng gay gắt, quyết liệt chống các trào lưu
tư tưởng tư sản, cơ hội, vô chính phủ. Sự kết hợp đó phải được thực hiện một
6

Sđd, tập 1, tr.551

6


cách khoa học thì đảng mới ra đời được. Có thể nói, chính đảng cộng sản của giai
cấp công nhân ngay từ khi ra đời đã mang bản chất cách mạng và khoa học.
Từ hoạt động lý luận và thực tiễn của mình, C.Mác, Ph.Ăngghen đã cho chúng ta
thấy rằng điều kiện ra đời của Đảng phải đảm bảo có những yếu tố: Giai cấp công
nhân phải được giác ngộ lý luận cách mạng và phải có lý luận tiên tiến soi đường;
Phong trào công nhân ở đó phải đạt đến độ chín muồi.
Như vậy Đảng ra đời là từ việc kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn của tư
tưởng chủ nghĩa cộng sản khoa học với phong trào công nhân. Quan điểm tư
tưởng này đã được C.Mác bắt đầu đề cập đến trong tác phẩm Góp phần phê phán
triết học pháp quyền của Hê ghen: “Cũng giống như triết học thấy giai cấp vô sản
là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản thấy triết học là vũ khí tinh thần của
mình. Và khi mà ánh chớp của tư tưởng đã đánh một cách triệt để vào cái mảnh
đất nhân dân còn trong trắng ấy thì việc giải phóng người Đức thành con người
sẽ được hoàn toàn”7.
Trên cơ sở phân tích luận giải một cách khoa học hai ông đã chỉ ra cho giai
cấp vô sản thấy rằng muốn đánh đổ giai cấp tư sản để trở thành giai cấp thống trị

xã hội và tổ chức xây dựng một xã hội mới hoàn toàn khác về chất so với xã hội
tư bản thì giai cấp vô sản nhất thiết phải tổ chức đảng của mình để lãnh đạo, giáo
dục và tổ chức động viên toàn bộ giai cấp và các tầng lớp nhân dân đứng lên làm
cách mạng vô sản, đó là một tất yếu khách quan.
1.3. Khái quát những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về chính đảng
cách mạng của giai cấp công nhân
C.Mác, Ph.Ăngghen đã đề ra những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt
động của Đảng Cộng sản. Mà cụ thể là các tổ chức “Đồng minh những người
cộng sản” (1847-1852), “Hội liên hiệp công nhân quốc tế” tức là Quốc tế I được
thành lập dựa trên những nguyên tắc đó. Có thể khái quát các tư tưởng cơ bản của
2 ông như sau:
7

C.Mác - Ph.Ăng - ghen : Tuyển tập, tập 1, Nxb ST, HN, 1980, tr.34-35

7


Thứ nhất, giai cấp công nhân chỉ có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử
của mình khi tự nó thành lập ra được một chính đảng độc lập.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp công nhân đã phát triển nhờ "được
tuyển mộ trong tất cả các giai cấp của dân cư"8. Giai cấp công nhân vừa là chủ thể
trực tiếp nhất, vừa là sản phẩm căn bản nhất của nền sản xuất hiện đại. Giai cấp
công nhân có lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản;
nhưng đồng thời, giai cấp công nhân lại có lợi ích thống nhất về cơ bản và lâu dài
với lợi ích của nhân dân lao động và các dân tộc. Giai cấp công nhân là giai cấp
cách mạng nhất, tiên tiến nhất trong xã hội do tính chất của giai cấp công nhân
quyết định. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cũng như hành động giai
cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo.
Tuy nhiên, theo C.Mác, Ph.Ăngghen, giai cấp công nhân chỉ có thể thực

hiện được sứ mệnh lịch sử của mình khi tự nó thành lập ra được một chính đảng
độc lập của nó, đó chính là Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, chính là nhân tố chủ quan hàng đầu - nhân tố tự giác cao nhất
đóng vai trò lãnh đạo cả giai cấp công nhân cùng nhân dân lao động thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là hoàn thành cách mạng xã hội chủ nghĩa
và xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Thứ hai, Đảng là của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công
nhân.
Đảng bao giờ cũng mang bản chất của một giai cấp, đại biểu trung thành
và bảo vệ lợi ích của giai cấp đó, không có đảng siêu giai cấp và phi giai cấp. Bản
chất giai cấp là ranh giới để phân biệt rạch ròi và dứt khoát không được lẫn lộn lập
trường của giai cấp khác.
Điều lệ “Đồng minh của những người cộng sản” đã nhấn mạnh: Đảng
Cộng sản không phải là hội kín tách rời nhân dân lao động, là tổ chức chiến đấu
của những người cách mạng. Như vậy, về bản chất, Đảng là của giai cấp công
8

C.Mác - Ph.Ăng ghen: Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H.1995, tr.607.

8


nhân, Đảng luôn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân để xử lý, giải quyết
mọi vấn đề của cách mạng, mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đều
phải xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân.
Đảng không chỉ đại biểu quyền lợi của giai cấp công nhân mà còn đại biểu
quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động. Bởi vì, giai cấp công nhân chỉ có thể tự
giải phóng mình nếu đồng thời giải phóng các tầng lớp nhân dân lao động khác
khỏi ách áp bức, bóc lột. Trong “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” chỉ rõ rằng, sự
nghiệp của giai cấp công nhân chỉ có thể thực hiện với điều kiện công nhân các

nước phải liên kết lại và đồng thời giải phóng cho toàn thể nhân dân lao động.
Bởi vì, quyền lợi giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhìn chung là thống
nhất về mục tiêu là xóa bỏ bóc lột, xây dựng thành công xã hội mới.
Thứ ba, Đảng là đội tiên phong cách mạng của giai cấp công nhân.
Về lý luận, Đảng phải được vũ trang bằng lý luận tiên tiến, có trình độ giác
ngộ cao. Vì vậy, việc trang bị lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học là yếu tố rất quan
trọng để nâng cao giác ngộ cách mạng cho giai cấp công nhân, là nội dung đặc biệt
quan trọng trong công tác xây dựng Đảng về tư tưởng. C.Mác và Ph.Ăngghen cho
rằng: Họ có ưu thế hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ họ có một nhận
thức sáng suốt về điều kiện, bước tiến và kết quả chung của phong trào vô sản; ở
chỗ có một thế giới quan mới làm cơ sở lý luận, thế giới quan mới ấy cho phép
giai cấp vô sản nhận thức được sứ mệnh lịch sử của mình, biết tổ chức đoàn kết
đội ngũ mình, trang bị cho mình một cương lĩnh hành động.
Vì Đảng có lý luận tiên tiến và trình độ giác ngộ cao nên trong thực tế, Đảng
là người kiên quyết nhất, biết lôi cuốn quần chúng cùng hành động cách mạng thực
hiện những mục tiêu tốt đẹp, giải phóng nhân dân lao động và toàn nhân loại.
Trong suốt cuộc đời hoạt động lý luận và thực tiễn, C.Mác và Ph.Ăngghen
luôn khẳng định vai trò to lớn của quần chúng trong lịch sử. Hai ông cho rằng:
"Đảng chỉ có thể trở thành chân chính và cách mạng, khi phong trào cách mạng
của quần chúng và lực lượng cách mạng của phong trào ấy đã phát triển mạnh mẽ
9


và đã làm cho sự phân hoá của các giai cấp và các tầng lớp trong xã hội sâu sắc,
làm lộ rõ kẻ thù chủ yếu, kẻ thù chính và chiến đấu với nó" 9. C.Mác, Ph.Ăngghen
căn dặn những người cộng sản: Phải thường xuyên chiến đấu giành lấy quần
chúng. Phải quan tâm đến nhu cầu và tâm trạng của họ. Phải tích cực làm việc
trong các tổ chức và đoàn thể của người lao động, biết lãnh đạo các tổ chức và
đoàn thể đó.
Thứ tư, Đảng là đội ngũ có tổ chức tập trung chặt chẽ và là một khối thống

nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Dưới sự chỉ đạo của C.Mác và Ph.Ăngghen, Điều lệ của “Đồng minh
những người cộng sản” đã được khởi thảo. Điều lệ quy định: Đảng phải là một
đội ngũ có tổ chức tập trung chặt chẽ, các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải được
bầu cử một cách dân chủ và họ có thể bị bãi miễn bất kỳ lúc nào nếu họ không
hoàn thành được nhiệm vụ của tổ chức trao cho; Đảng còn phải là một khối thống
nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng phải thường xuyên tẩy trừ những
phần tử cơ hội ra khỏi Đảng.
Rõ ràng, ta thấy Đảng là một đội ngũ tập hợp nhiều cá nhân ưu tú vào một tổ
chức chặt chẽ. C.Mác khẳng định: Nếu không có một Đảng vô sản có tổ chức đoàn
kết thì giai cấp công nhân không thể đập tan được giai cấp tư sản và thiết lập chuyên
chính của mình.
Các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải được bầu cử một cách dân chủ và họ có
thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào nếu họ không hoàn thành được nhiệm vụ của tổ chức
trao cho. C.Mác đã nêu vấn đề này từ rất lâu và cho đến nay thì điều ấy vẫn còn
nguyên giá trị lý luận và thực tiễn.
C.Mác và Ph.Ăng ghen lần đầu tiên trong lịch sử nêu lên một kiểu đấu tranh
có nguyên tắc để giữ vững Đảng. Hai ông đã đấu tranh không khoan nhượng
chống những quan điểm cơ hội chủ nghĩa của phái Bacunin và khai trừ đội ngũ
Bacunin ra khỏi Quốc tế I. C.Mác lý giải: Vì bọn họ không tôn trọng kỷ luật và
9

1 C.Mác - Ph.Ăng ghen: Tuyển tập, Tập 2, NXB Sự thật, H. 1962, tr.190.

10


tính tập trung, mưu toan xây dựng không phải là một Đảng vô sản mà là một tổ
chức bí mật hẹp hòi của những người cách mạng đầy âm mưu. Bọn họ sẽ phá hoại
phong trào ở tất cả các nước, ở nơi nào mà họ kiếm được mảnh đất.

Thứ năm, thực hiện chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Theo C.Mác, quốc tế vô sản có tình đoàn kết với anh em của giai cấp vô sản
các nước. Khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại” trong Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản đã trở thành phương châm hoạt động cho phong trào quốc tế vô sản.
C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng không có sự phối hợp nỗ lực của công nhân các nước,
không có tinh thần đoàn kết vô sản, không thể chiến thắng được giai cấp tư sản thế
giới, không thể xây dựng thắng lợi một xã hội mới. Hai ông coi nhiệm vụ dân tộc và
nhiệm vụ quốc tế của giai cấp vô sản là một thể thống nhất biện chứng có liên hệ
chặt chẽ và quy định lẫn nhau.
Thứ sáu, Đảng cộng sản là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi sứ
mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.
Theo C.Mác, Ph.Ăngghen, mục tiêu trước mắt của giai cấp công nhân là
tập hợp lực lượng, thành lập chính đảng để đấu tranh giành chính quyền: “Mục
đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất
cả các đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự
thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền” 10; mục
tiêu lâu dài là giải phóng toàn bộ giai cấp, toàn bộ xã hội khỏi áp bức bất công.
Điều đó có nghĩa là mục tiêu đấu tranh của Đảng không chỉ là làm thay đổi chế
độ tư hữu, mà là thủ tiêu chế độ đó, không phải là xoá nhoà các mâu thuẫn giai
cấp, mà là thủ tiêu các giai cấp, không phải hoàn thiện xã hội hiện tại, mà là
xây dựng một xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Đảng cộng sản ra đời có vai trò lớn là lãnh đạo phong trào công nhân, bồi
dưỡng giáo dục họ, giúp họ đấu tranh có tổ chức, chiến lược và sách lược hành
động cụ thể, lãnh đạo giai cấp vô sản dùng sự thống trị của mình để từng bước
10

Sđd, tập 1, tr.558

11



đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản để tập trung tất cả những công cụ
sản xuất vào nhà nước và để tăng thật nhanh lực lượng sản xuất. Trong cuộc đấu
tranh chống giai cấp tư sản, giai cấp vô sản thông qua con đường cách mạng mà
trở thành giai cấp thống trị, giành chính quyền, thiết lập và sử dụng nhà nước
chuyên chính vô sản như một công cụ, phương tiện quan trọng để tiếp tục thực
hiện cuộc cách mạng toàn diện, triệt để nhất trong lịch sử nhằm cải tạo xã hội cũ,
xây dựng chế độ xã hội mới không còn đối kháng giai cấp. Nhiệm vụ này chỉ có
thể thực hiện được dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Chương 2.
VẬN DỤNG NHỮNG TƯ TƯỞNG CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN
VỀ CHÍNH ĐẢNG CÁCH MẠNG CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN Ở
VIỆT NAM
Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo những tư
tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân
vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
2.1. Tính tất yếu ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy được con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc là con đường cách mạng vô sản. Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái
Quốc đã nghiên cứu kỹ, thấm nhuần những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin,
trong đó có Tuyên ngôn Đảng cộng sản. Thấm nhuần tư tưởng của C.Mác,
Ph.Ăngghen đối với những người cộng sản: “Bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc
vận dụng những nguyên lý đó cũng phải tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử đương
thời”11. Vì vậy, khi truyền bá và vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin, Người luôn căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam vận dụng sáng tạo, đề
11

C.Mác - Ph.Ăng - ghen : Tuyển tập, tập 1, Nxb ST, HN, 1980, tr. 504

12



ra cương lĩnh, đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn. Sự vận dụng và phát
triển sáng tạo Tuyên ngôn Đảng cộng sản của Hồ Chí Minh được thể hiện trên
nhiều lĩnh vực, nổi bật nhất là về qui luật ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Hồ Chí Minh
đánh giá cao vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam nói
chung và đối với quá trình hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. Người
cũng đánh giá rất cao vai trò của giai cấp công nhân và phong trào công nhân
Việt Nam, xếp giai cấp công nhân Việt Nam vào vị trí lãnh đạo và là một đội
quân chủ lực, là “gốc” của cách mạng mặc dù trong những năm 30 của thế kỷ
XX, giai cấp công nhân Việt Nam còn non trẻ, nhỏ bé, công nhân đại công nghiệp
hầu như không có. Không dừng lại ở đó, trong sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam còn có thêm thành tố thứ ba: phong trào yêu nướcViệt Nam. Bởi vì:
Thứ nhất, chủ nghĩa yêu nước vốn là giá trị văn hóa truyền thống trường
tồn của dân tộcViệt Nam: phong trào yêu nước đã trở thành dòng văn hóa chủ lưu
của cộng đồng người Việt Nam. Không chỉ là tinh thần yêu nước, lòng yêu nước,
tư tưởng yêu nước mà là cái có giá trị văn hóa bền vững hơn – đó là chủ nghĩa
yêu nước. Hồ Chí Minh đem chủ nghĩa yêu nước từ truyền thống nhập vào chủ
nghĩa cộng sản trở thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, rồi tác động vào tiến trình
lịch sử của dân tộcViệt Nam: yêu nước gắn liền với con đường phát triển chủ
nghĩa xã hội.
Thứ hai, phong trào yêu nước và phong trào công nhân kết hợp được ngay
từ đầu, tuyệt đối không có sự bài xích nhau, như một số phong trào yêu nước,
phong trào công nhân ở Châu Âu. Lý giải một cách hợp lý nhất cho điều này là
giữa hai phong trào có điểm chung: độc lập, tự do cho dân tộc. C.Mác,
Ph.Ăngghen cho rằng chỉ có giải phóng được giai cấp thì mới giải phóng được
dân tộc. Điều đó đúng, nhưng ở Việt Nam, với một nước thuộc địa, khi vấn đề

13



dân tộc nổi lên trên hết và trước hết thì cái vế đó của chủ nghĩa Mác - Lênin được
Hồ Chí Minh đổi lại cho phù hợp hơn.
Bàn đến đấu tranh giai cấp, Hồ Chí Minh cho rằng “cuộc đấu tranh giai cấp
ở Việt Nam không diễn ra như ở phương Tây” 12. Ngay từ năm 1924, trong “Báo
cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ” viết tại Mát-xcơ-va bằng tiếng Pháp, Người
đã khẳng định: “công nhân dân tộc là động lực lớn của đất nước” 13 rồi Người lại
cho rằng phương hướng chung là “phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh
Quốc tế cộng sản… Một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời”14.
Thứ ba, ở Việt Nam, khi đề cập đến phong trào yêu nước phải kể đến
phong trào của nông dân. Nhiều người đánh giá nông dân có hai mặt: mặt cách
mạng (tích cực) và mặt tư hữu (không tích cực). Còn ở Việt Nam, Hồ Chí Minh
xếp nông dân cùng với công nhân làm thành đội quân chủ lực của cách mạng.
Trong một nước nông nghiệp, con đường hình thành người công nhân Việt Nam,
gốc gác của người công nhân Việt Nam lại là trực tiếp từ người nông dân mà ra.
Vì thế, việc hình thành khối liên minh công nông trong cách mạng Việt Nam
không khó như ở phương Tây. Bằng chứng là các cao trào cách mạng từ khi
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam trở đi, đều ghi đậm dấu ấn khối đoàn kết liên
minh công – nông, ngay cả trận “ra quân” đầu tiên do Đảng cộng sản lãnh đạo là
cao trào 1930 – 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Ngoài ra, nói đến phong trào yêu nước Việt Nam cũng phải nói đến phong
trào của trí thức. Họ ghi dấu ấn lớn vào tiến trình cách mạng Việt Nam. Chính
tầng lớp trí thức chứ không phải ai khác, tuy số lượng không nhiều so với tổng số
dân cư ở một nước thuộc địa, nhưng lại là những “ngòi nổ” cho các phong trào
yêu nước. Phong trào yêu nước của tầng lớp trí thức có dịp hòa nhịp cùng phong
trào công nhân và phong trào yêu nước của các tầng lớp khác.
Chính việc đưa thêm yếu tố phong trào yêu nước vào kết hợp với chủ
12


Hồ Chí Minh : Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, HN, 1995, tr.464
Sđd, tập 1, tr.466
14
Sđd, tập 1, tr. 467
13

14


nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân đã làm cơ sở cho tư tưởng chiến lược
của Đảng cộng sản Việt Nam trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
tạo nên sức mạnh của toàn dân tộc trong tiến trình cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là
Đảng của dân tộc Việt Nam. Ngay từ khi ra đời đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam
luôn là người đại diện xứng đáng cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và cả dân tộc.
Nghị quyết Đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ: “Khẳng định bản chất giai cấp
công nhân của Đảng, chúng ta không tách rời Đảng và giai cấp với các tầng lớp
nhân dân lao động khác, với toàn thể dân tộc. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta
đã mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Chính
lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc.
Đảng tìm thấy nguồn sức mạnh không chỉ ở giai cấp công nhân mà còn ở các
tầng lớp nhân dân lao động, ở cả dân tộc”.
2.2. Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách
mạng của dân tộc ta đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác: giải quyết tốt mối
quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giải phóng dân tộc khỏi ách sự thống trị của chủ
nghĩa thực dân kiểu cũ và mới, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thực tế
cách mạng nước ta đã chứng minh rằng: Đảng cộng sản Việt Nam, Người lãnh

đạo và tổ chức mọi hoạt động của cách mạng, nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
Với đường lối lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt, Đảng ta đã tập hợp khối đại
đoàn kết toàn dân, lãnh đạo toàn dân tộc giành được những thắng lợi to lớn trong
thế kỷ XX : chiến thắng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ giành độc lập dân tộc, thống
nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của cuộc chiến
tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc cùng với đánh bại những âm mưu
15


không ngừng chống phá cách mạng Việt Nam, âm mưu diễn biến hòa bình chứng
minh rằng việc xác định đường lối chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền
với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của Đảng ta là đúng đắn.
Thẳng thắng nhìn nhận những hạn chế, khuyết điểm của mình, Đảng cộng
sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước (1986) và
đến nay đã giành được nhiều thành tựu quan trọng. Chính vì vậy, vị thế chính trị
của Đảng và Nhà nước được nâng lên, củng cố và tăng cường uy tín với nhân dân.
Những thành tựu và hạn chế trong sự nghiệp cách mạng gắn liền với vai trò lãnh
đạo của Đảng ta, vì vậy, Đảng luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh ngang tầm với yêu cầu của nhiệm vụ mới. Đảng đã xác định nhiệm
vụ “phát triển kinh tế là trung tâm”, “xây dựng Đảng là then chốt”, “xây dựng
văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội”.
Thực tiễn đã cho thấy, trong tám mươi năm tồn tại và phát triển của mình,
Đảng cộng sản Việt Nam là người duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam; cách
mạng Việt Nam hơn tám mươi năm qua luôn cần có sự lãnh đạo của một Đảng
cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân
để đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ
nghĩa đến thành công.
2.3. Khẳng định tính cách mạng, khoa học, bảo vệ và phát triển những tư
tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về Đảng Cộng sản hiện nay

Với sự ra đời của học thuyết cách mạng và khoa học của mình, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khẳng định chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, chứ
không phải là một “bóng ma” nữa. Sau gần bảy mươi năm khi tuyên ngôn đảng
cộng sản ra đời, chủ nghĩa xã hội đã trở thành hiện thực ở nước Nga, sau đó đã
phát triển rộng ra nhiều châu lục và đã có những đóng quan trọng vào cuộc đấu
tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ.
Ta thấy rằng, sự phát triển không phải theo con đường thẳng mà bao giờ
cũng trải qua những khúc quanh, thậm chí có bước lùi tạm thời, nhưng xu hướng
16


vận động đi lên, tiến bộ là tất yếu và nhất định nó sẽ giành được thắng lợi. Cách
mạng xã hội chủ nghĩa không thể làm một lần là đủ, mà nó phải không ngừng
được bổ sung, phát triển thông qua tổng kết thực tiễn liên tục, lâu dài từ cả những
kinh nghiệm thành công và những sai lầm thất bại của cách mạng.
Lịch sử thế giới đã chứng minh những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen
về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là khoa học và cách mạng. Tuy nhiên,
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình không phải diễn ra một cách bằng phẳng, thuận buồm xuôi gió. Phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân tuy đang đứng trước những thử thách hết sức
nặng nề, nhưng bức tranh toàn cảnh của sự phát triển lực lượng sản xuất thế giới
vẫn đang chuẩn bị những tiền đề khách quan cho giai cấp vô sản thực hiện sứ
mệnh lịch sử của nó.
Giai cấp công nhân hiện nay vẫn không ngừng tăng lên, ngày càng phát
triển về lượng và chất. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất lên trình độ
cao do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đem lại, nhiều ngành công nghiệp
mới ra đời, làm cho số lượng công nhân ngày càng tăng, trình độ nghề nghiệp
ngày càng cao, cơ cấu giai cấp công nhân ngày càng phong phú.
Ngày nay trong điều kiện chủ nghĩa xã hội đã phát triển thành hệ thống thế
giới thì những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về Đảng của giai cấp vô sản

vẫn còn nguyên giá trị. Trong cuộc đấu tranh để giành chính quyền và lãnh đạo,
xây dựng xã hội mới, giai cấp công nhân không có vũ khí nào quan trọng hơn là
tổ chức. Hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân là Đảng cộng sản.
Để làm tốt vai trò lãnh đạo đối với xã hội, Đảng phải thường xuyên rèn
luyện mình theo lập trường giai cấp công nhân, lấy hệ tư tưởng giai cấp công nhân
làm nền tảng tư tưởng của Đảng. Nếu lệch khỏi lập trường đó, Đảng sẽ trở thành
biệt pháo, thành nơi dung dưỡng cho những đặc quyền đặc lợi của một số người và
do đó, Đảng sẽ mất vai trò lãnh đạo xã hội, sẽ tan rã. Thực tế trên thế giới đã chứng
minh điều đó và là bài học kinh nghiệm của Đảng chân chính cách mạng.
17


Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng
những người cộng sản khác quần chúng nhân dân ở hai điểm cơ bản: gương mẫu
trong thực tiễn và phải có trình độ lý luận. Vì thế, nâng cao trình độ lý luận và sự
gương mẫu trong hoạt động thực tiễn luôn luôn là đòi hỏi đối với đảng viên và là
một nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng, nhất là trong điều kiện
ngày nay.
Những quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về chính đảng vô sản và quan
điểm của Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân đã trở thành
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam. Dựa
trên chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng ta đã đưa ra những lý luận cơ bản về Đảng
Cộng sản Việt Nam:
- Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam.
- Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực
hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

- Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; phát huy truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế
thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách
mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất về ý chí và
hành động; lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, thương yêu đồng chí;
thực hiện kỷ luật nghiêm minh, đoàn kết, thống nhất trên cơ sở Cương lĩnh chính
trị và Điều lệ Đảng.
18


- Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền. Đảng gắn bó mật thiết với
nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân;
dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự
nghiệp cách mạng.
- Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống
ấy. Đảng lãnh đạo tôn trọng và phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ thống
chính trị và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Đảng Cộng sản Việt Nam kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
Thực tế cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam trong hơn tám mươi năm qua và những thành tựu của hơn hai mươi năm đổi
mới đã chứng minh giá trị của những tư tưởng của các nhà sáng lập chủ nghĩa
cộng sản, đồng thời cũng chứng minh sự vận dụng tài tình của Đảng cộng sản
Việt Nam. Trong suốt chặng đường tồn tại và phát triển, Đảng luôn trung thành
với mục đích, lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch ra;
không ngừng tìm tòi, đổi mới để khẳng định sức sống của chủ nghĩa C.Mác, góp

phần không nhỏ vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

19


KẾT LUẬN
Những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về chính đảng cách mạng của giai cấp
công nhân bắt nguồn từ luận điểm khoa học về vai trò lịch sử toàn thế giới của
giai cấp công nhân với tư cách là người “đào huyệt” chôn chủ nghĩa tư bản,
sáng tạo ra xã hội mới không có người bóc lột người - xã hội cộng sản - mà giai
đoạn thấp của nó là chủ nghĩa xã hội. Hai ông đã chứng minh một cách khoa
học rằng sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của giai cấp vô sản “là
tất yếu như nhau”. Những tư tưởng đó còn được rút ra từ sự phân tích một cách
biện chứng những điều kiện lịch sử cụ thể của quá trình phát triển của xã hội
loài người nói chung và giai cấp công nhân nói riêng. Chính đảng của giai cấp
công nhân ra đời là một đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp
cần có lực lượng lãnh đạo giai cấp để thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử thế
giới của mình.
C.Mác và Ph.Ăngghen, trong các tác phẩm của mình đã dùng quan điểm duy vật
lịch sử, xuất phát từ cơ sở kinh tế, xã hội để phân tích, rút ra những kết luận về
vai trò, bản chất và tính tất yếu ra đời của Đảng cộng sản. Quá trình nghiên cứu
lý luận và hoạt động thực tiễn của hai ông, đồng thời cũng là quá trình chuẩn bị,
đấu tranh cho sự ra đời và hoạt động của Đảng cộng sản. Do hoàn cảnh và điều
kiện lúc đó hai ông đã sớm đề ra nguyên lý xây dựng Đảng độc lập của giai cấp
vô sản và bản thân hai ông đã tích cực xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và
tổ chức. Việc nghiên cứu tư tưởng C.Mác, Ph.Ăngghen về tính tất yếu và quy
luật hình thành chính đảng vô sản và sự vận dụng ở Việt Nam (Đảng cộng sản
Việt Nam) là nhiệm vụ cần thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn sâu
sắc./.


20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác - Ph.Ăngghen: Tuyển tập, tập 1, Nxb.ST, HN.1970.
2. C.Mác - Ph.Ăngghen: Tuyển tập, tập 1, Nxb.ST, HN.1980.
3. C.Mác - Ph.Ăngghen: Tuyển tập, tập 2, Nxb.ST, HN.1981.
4. C.Mác - Ph.Ăngghen: Tuyển tập, tập 4, Nxb.ST, HN.1983.
5. V.I.Lênin: Toàn tập, Tập 2, Nxb TB, Mát-xcơ-va.1974.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 1, Nxb.CTQG, HN.1995
7. Đảng Cộng sản việt Nam, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua
tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011).
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb.CTQG, H.2011.
9. Học viện CTQG HCM, Giáo trình Xây dựng Đảng, Nxb.CTQG, H.2004.
10. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề Đảng và xây dựng Đảng.
11. TS. Nguyễn Đức Ái, Học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
và xây dựng Đảng, Nxb.CT-HC, H.2010.
12. GS.TS Dương Xuân Ngọc, Giá trị bền vững của Tuyên ngôn Đảng cộng
sản và khát vọng vươn tới của nhân loại tiến bộ (Tạp chí Cộng sản).

21



×