Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Ảnh hưởng của phật giáo đến chính trị trong hai triều đại lý trần ở việt nam TIỂU LUẬN CAO HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.66 KB, 35 trang )

A. MỞ ĐẦU.
1. Lý do và mục đích chọn đề tài.
Trải qua suốt chiều dài lịch sử gần 20 thế kỉ du nhập vào Việt Nam,
Phật giáo đã trở thành một trong những tôn giáo có vai trò đặc biệt quan
trọng trong đời sống tâm linh của người Việt. Lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt đã chứng minh Phật giáo luôn đồng hành, đồng
cam cộng khổ, gắn liền với sự thăng trầm của dân tộc, trở nên thân quen
và gần gũi trong cuộc sống mỗi người dân Việt. phật giáo đã thực sự gắn
bó với sự phát triển của dân tộc trên nhiều chặng đường lịch sử và có sự
đóng góp đáng kể vào công cuộc dựng nước và giữ nước. Trong di sản
văn hóa và trong những giá trị truyền thống mà ông cha ta để lại cho
chúng ta ngày nay có dấu án rõ nét của Phật giáo.
Trong lịch sử Việt Nam, đạo Phật đã ăn sâu, hội nhập vào các mặt
sinh hoạt trong đời sống nhân dân từ tư tưởng văn hóa đến chính trị xã hội
đặc biệt dưới hai triều đại nhà Lý và nhà Trần… Đạo Phật có lúc được
xem là quốc giáo của dân tộc, song hành cũng dân tộc, cùng với dân tộc
đạt được những thành tựu nổi bật …Mỗi lần lật ngược trang sử lịch sử,
chúng ta không thể không tự hào về các chiến công của hai triều đại nhà
Lý- Trần, và tự hỏi tư tưởng nào được áp dụng vào việc trị nước, an dân.
Ngày nay, thế hệ học sinh, sinh viên là những chủ nhân tương lai
của đất nước Việt Nam, kế thừa gia tài sản nghiệp của Tổ tiên, vậy mà với
một lý do nào đó họ biết quá ít hoặc biết sơ sài về lịch sử của cha của
mình, nhất là lịch sử Phật giáo Việt Nam. Họ đâu biết rằng Phật giáo Việt
Nam là bạn song hành với dân tộc, cùng nếm trải gian lao, cùng thịnh suy
với đất nước, cùng hát khúc ca khải hoàng. Một lần nữa để khắc sâu kiến
thức lịch sử Phật giáo và cũng mong khơi dậy những trang sử vàng son
rực rỡ của dân tộc, những nét đặc thù của Phật giáo đời Lý- Trần, để thế hệ
các bạn trẻ và chúng tôi, thế hệ mai sau cùng có chung niềm tự hào và xúc
cảm, cùng thấy rõ những đóng góp tích cực của Phật giáo Việt Nam trong



công cuộc trường chinh dựng nước và giữ nước. Đó là lí do và mục đích
mà người viết đã chọn đề tài “Ảnh hưởng của Phật giáo đến chính trị
trong hai triều đại Lý- Trần ở Việt Nam” để nghiên cứu và trình bày.
2. Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Trong triều đại Lý- Trần, Phật giáo cón được xem là quốc giáo, nên
sự phát triển của Phật giáo là đạt tới sự hưng thịnh, vì thế nên ảnh hưởng
của nó đến toàn bộ kinh tế, chính trị, văn hóa, đời sống của người dân…là
rất mạnh mẽ. Nhưng trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, người viết
chỉ đi sâu vào tìm hiểu những ảnh hưởng của Phật giáo trong tư tưởng trị
nước của hai triều đại Lý- Trần là như thế nào, đạt được những thành quả
tích cực ra sao. Và sự vận dụng phát huy tính tích cực ấy của Phật giáo
trong yêu cầu phát triển đất nước thời kỳ toàn cầu hóa, cơ chế thị trường.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Đây là tiểu luận mang tính cách lịch sử, đã gắn liền với Phật giáo
Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử trên dưới bốn ngàn năm, đặc biệt là
gắn nó với ngay chính hoàn cảnh cụ thể ở hai triều đại nhà Lý- Trần. Ở
đây người viết sử dụng phương pháp chủ yếu là trích lục, thống kê và đối
sánh. sử, có dân gian v.v Từ việc tìm hiểu các tài liệu có lien quan đến nội
dung đề tài như: Các tạp chí Triết học, Tạp chí nghiên cứu tôn giáo, Việt
Nam phật giáo sử luận- Nguyễn Khang, hay Lịch sử Phật giáo Viêt
Nam… đều là những tài liệu có uy tín và giá trị, từ đó người viết tìm ra
những điểm cơ bản của Phật giáo đời Lý- Trần, và ảnh hưởng của nó đến
chính trị hai triều đại ấy. Đồng thời đưa ra các tư tưởng trị nước của các
thiền sư nhà Lý- Trần đóng góp vào sự phát triển của dân tộc ta.
4. Kết cấu của đề tài.
Với đề tài này, ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài. Trong phần
nội dung của đề tài, người viết xin được chia và tìm hiểu theo 3 chương.
2



- Chương 1: Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam và đặc điểm
Phật giáo Việt Nam.
- Chương 2: Phật giáo Việt Nam thời Lý- Trần và ảnh hưởng của nó
đến chính trị trong hai triều đại ấy.
- Chương 3: Tiếp tục phát huy vai trò ảnh hưởng của Phật giáo trong
mục tiêu phát triển quốc gia dân tộc Việt Nam trong giai đoạn ngày
nay.
Do trình độ năng lực của người viết còn hạn chế có thể do tư duy
không đúng hướng nghiên cứu đề tài hoặc là hiểu nhưng không thế diễn
dạt ra hết trong phạm vi một bài tiểu luận được. Nên chắc chắn bài nghiên
cứu này còn rất nhiều những thiếu sót không đang có. Rất mong quý thầy
cô và các bạn đọc góp ý thẳng thắn ý kiến của mình để người viết co thể
rút kinh nghiệm và nghiên cứu tốt hơn nữa cho những đề tài sau.

3


B. NỘI DUNG.
Chương 1:
Sự du nhập Phật giáo vào Việt Nam và đặc điểm của Phật
giáo Việt Nam.
1. Quá trình du nhập Phật giáo ở Việt Nam
Phật giáo truyền vào Việt Nam từ đầu Công nguyên đến nay đã 2.000
năm. Trong suốt chiều dài lịch sử, với nhiều biến động, Phật giáo đã bám
dễ sâu sắc trong đời sống tinh thần, sinh hoạt văn hóa, tư tưởng, tình cảm
và phong tục, tập quán, tín ngưỡng của các thế hệ người dân Việt Nam
Sự du nhập của Phật giáo vào nước ta ở những bước căn bản đầu tiên
thật ra không phải xuất phát từ Trung Hoa, mà chính là được truyền sang
trực tiếp từ Ấn Độ. Dựa trên những chứng liệu lịch sử đáng tin cậy, một số
nhà nghiên cứu chuyên sâu, có uy tín về Phật giáo đã khẳng định điều này

Quốc gia Âu Lạc đã bị Nam Việt của Triệu Đà thôn tính vào năm 179
TCN, và lập thành quận Giao Chỉ. Năm 110 TCN, Nam Việt trở thành nội
thuộc của nhà Hán, Giao Châu theo đó mà cũng quy về, và được chia
thành hai quận là Giao Chỉ và Cửu Chân.
Trên lãnh thổ của nhà Hậu Hán, sau đó đã tồn tại ba trung tâm Phật
giáo là Luy Lâu, Lạc Dương và Bành Thành. Sử liệu cổ của Trung Hoa
cũng không ghi nhận được rõ ràng sự hình thành của hai trung tâm Lạc
Dương và Bành Thành, chỉ có Luy Lâu thuộc Giao Chỉ là được xác định
rõ ràng và sớm nhất, và còn là bàn đạp cho việc hình thành hai trung tâm
kia.
Từ nửa sau thế kỷ thứ hai, Luy Lâu đã tồn tại như một trung tâm Phật giáo
quan trọng và phồn thịnh. Điều này cho thấy việc du nhập Phật giáo vào
Giao Châu là rất sớm, có lẽ từ đầu công nguyên.
4


Vào đầu công nguyên, Ấn Độ đã có được sự giao thương mạnh mẽ với
Trung Đông, và gián tiếp với vùng Địa Trung Hải, do đó họ cần có một
nguồn cung cấp nguyên vật liệu, vật phẩm cho sự giao thương này. Họ
giong buồm, theo gió mùa tây nam mà đi về đông. Họ đến Giao Chỉ, rồi
có thể từ Giao Chỉ mà lại theo tiếp đường biển hay đường bộ vào trong nội
địa Trung Hoa. Trong khi đợi gió mùa đông bắc để quay về Ấn, sự lưu trú
của số thương gia này đã lan truyền dần những nét văn hóa Ấn Độ, trong
đó có việc thờ cúng Phật, tụng kinh… Những tăng sĩ mà các thương nhân
đem theo trên thuyền buôn nhằm làm công việc cầu khấn sự phù trợ của
đức Phật, là những người đã trực tiếp truyền bá Phật học và lập nên trung
tâm Phật giáo Luy Lâu. Như vậy, từ những năm đầu Công nguyên tại Luy
Lâu – Thuận Thành – Bắc Ninh đã có một trung tâm Phật giáo và là trung
tâm Phật học phát triển nhất cả nước, đồng thời Phật giáo du nhập vào
Việt Nam theo con đường biển cùng với các thương nhân người Ấn đến

Việt Nam để buôn bán đưa theo Phật để thuận tiện cho việc sinh hoạt.
Từ thế kỉ II đên thế kỉ V, Phật giáo vào Việt Nam gắn với tên tuổi của
các nhà sư Ấn Độ và Trung Quốc.
Thế kỉ II, Phật giáo vào Việt Nam gắn với tên tuổi của nhà sư: Ma - ha
- kì - vực; Khưu – đà – la ( Ấn Độ); Mâu – bác – cư – sĩ (Trung Quốc )
Thế kỉ III Phật giáo vào Việt Nam gắn với tên tuổi các nhà sư : Khương
Tăng Hội và chi – lương – cương ( Ấn Độ )
Thế kỉ IV Phật giáo vào Việt Nam gắn với tên tuổi các nhà sư : Du
Pháp Lan và Du Đạo Toái ( Trung Quốc )
Thế kỉ V Phật giáo vào Việt Nam gắn với tên tuổi các nhà sư : Đàm
Hoang ( TRung Quốc )
Từ thể kỉ VI đến thế kỉ X, vai trò truyền giáo của các nhà sư Ấn Độ
giảm, vai trò của các nhà sư Trung Quốc tăng đặc biệt là trong giai đoạn
này có hai phái thiền từ Trung Quốc du nhập vào Việt Nam đó là thiền Tỳ
- na – đa – lưu – chi và thiền Vô ngôn thông.

5


Có thể nói đến thế kỉ X xem như qua trình Phật giáo du nhập vào Việt
Nam kết thúc, về sau có những Phật giáo vào Việt Nam nhưng chỉ là
những hiện tượng đơn lẻ.
2. Quá trình phát triển của Phật giáo ở Việt Nam
Quá trình phát triển của Phật giáo ở Việt Nam được chia thành các
giai đoạn sau:
2.1 Giai đoạn đầu từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ XI
Thế kỉ X, Việt Nam giành độc lập tự chủ sau hàng ngàn năm Bắc
thuộc kéo theo sự biến đổi của các tôn giáo trong đó có Phật giáo. Phật
giáo bước vào giai đoạn phát triển mới. Dưới các triều Đinh và Tiền Lê có
chính sách nâng đỡ tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển. Thí dụ, Đinh

Tiên Hoàng sau khi lên ngôi đã triệu tập các tăng già để định rõ phẩm trật
và mời tham gia triều chính, phong cho sư Ngô Chân Lưu chức tăng
thống. Lê Đại Hành đã cử phái đoàn sang Trung Quốc thỉnh kinh, mời sư
Đỗ Thuận phụ trách việc đối nội, đối ngoại của triều đình.
Như vậy, nếu trong giai đoạn trước Phật giáo chỉ ảnh hưởng tới đời
sống tâm linh thì giai đoạn này Phật giáo còn khẳng định vai trò nhập thế
của nó tới đời sống chính trị - xã hội của đất nước lúc bấy giờ.
2.2 Phật giáo dưới thời Lí – Trần ( thế kỉ XI đến đầu thế kỉ XV)
Là giai đoạn phát triển cực thịnh của Phật giáo ở Việt Nam được ví
là giai đoạn vàng son của Phật giáo Việt Nam, thể hiện dưới hai triều đại
Lí – Trần. Ở cả hai triều đại Lí và Trần, phật giáo không chỉ ảnh hưởng tới
đời sống tâm linh của người dân mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng
của nhiều nhà vua.
Triều Lí: Lí Công Uẩn – người sáng lập ra nhà Lí, nguyên là một
sadi;

Lí Thái Tông được suy tôn làm sư tổ đời thứ 12 của phái thiền vô

ngôn thông; Lí Thánh Tông được suy tôn là sư tổ đời thứ 2 của thiền thảo
đường.
Triều Trần: Trần Nhân Tông; Pháp Loa; Huyền Quang đều là sư tổ
của thiền trúc lâm Yên Tử.
6


Các nhà sư thời Lý Trần không chỉ có công lao với đạo pháp, mà còn
có những đóng góp lớn với đất nước. Họ đã tham gia triều chính, góp phần
xây dựng nhà nước đương thời và cùng với nhân dân ta thành công trong
việc thắng Tống, bình Nguyên. Vạn Hạnh quốc sư đã có công lớn trong
việc rời Hoa Lư ra Thăng Long. Viên Chiếu, Thông Biện, Pháp Loa, Tuệ

Trung thương sĩ, Huyền Quan và nhiều nhà sư tiêu biểu khác không chỉ
công lao trong công cuộc giữ nước, họ còn là những nhà văn hóa góp công
tạo dựng nền văn hóa Việt Nam với các thành tựu về văn học nghệ thuật,
kiến trúc, điêu khắc có giá trị lớn, đồng thời học còn tham gia đào tạo
nhân tài cho đất nước.
Dưới hai triều đại Lí và Trần Phật giáo giữ vai trò là hệ tư tưởng chỉ
đạo năng động và sâu sắc. Hệ tư tưởng phát huy được vai trò dựng nước
và giữ nước.
2.3 Phật giáo Hậu Lê và nhà Nguyễn (thế kỉ XV đến XVIII)
Giai đoạn này các triều đại phong kiến Việt Nam đã sử dụng Nho giáo
làm chỗ dựa chính trị - tư tưởng – đạo đức, Phật giáo không còn là quốc
giáo, vì thế vị trí, vai trò của Phật giáo giảm dần tuy nhiên Phật giáo còn
tồn tại trong đời sống tâm linh của người dân. Với tinh thần từ bi, Phật
giáo vẫn tồn tại và chung sống với Nho giáo và Đạo giáo.
2.4 Giai đoạn từ thế kỉ XVIII cho đến nay
Dưới triều Nguyễn, Phật giáo tiếp tục suy vi cho đến những năm 30
của thế kỉ XX Phật giáo bắt đầu khởi sắc nhờ phong trào chấn hưng Phật
giáo. Một số tổ chức Phật giáo đi vào hoạt động có tổ chức, các cơ sở đào
tạo tăng ni ra đời, phong trào này kéo dài đến 1954 thực dân Pháp cũng lôi
kéo ảnh hưởng của phật giáo tuy nhiên do số tăng ni, phật tử vẫn giữ nếp
tu theo sơn môn của mình ủng hộ cách mạng, ở miền Bắc nhiều chùa trở
thành cơ sở cách mạng, ở miền Nam phong trào yêu nước cũng thu hút
được tăng ni, phật tử tham gia.
Năm 1954, đất nước ta lúc bấy giờ bị chia cắt thành hai miền lịch sử có
nhiều biến động vì thế mà tôn giáo cũng có biến đổi, trong đó có Phật
7


giáo. Phật giáo hai miền cũng có sự khác nhau. Ỏ miền Bắc 1958 ra đời tổ
chức “ Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam”, chính với mục đích thống

nhất Việt Nam nên hội đã quy tụ được giới tăng ni, phật tử ở cả miền
Nam. Ở miền Nam diễn biến Phật giáo diễn biến phức tạp nổi lên hai nét
chính:
Một là ra đời nhiều tổ chức hệ phái trong dó dáng nói là sự ra đời của
tổ chức giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất ( 1964 ) mang tính chất
tập hợp hệ phái Phật giáo trong cả nước đó là mục đích tôn giáo khác miền
Bắc ở đây chỉ mang tính chất mục đích tôn giáo. Tổ chức này quy tụ được
hệ phái tổ chức, tuy nhiên sau thời gian hoạt động lại có sự phân rẽ một bộ
phận nhỏ tách ra hoạt động và bị Đế quốc Mỹ lợi dụng đi ngược lại với tổ
chức tăng ni phật tử trong cả nước.
Hai là trong một thời gian dài Phật giáo miền Nam đã triển khai lực
lượng mới mở trường đào tạo, tri thức hóa tăng ni, mở rộng những đoàn
thể Phật tử, xây dựng các cơ sở kinh tế - văn hóa – xã hội, xây dựng đền
chùa tạo ra không khí phát triển rầm rộ đột xuất chưa từng thấy trong suốt
mấy thế kỉ phát triển của Phật giáo Việt Nam.
Trước xu hướng này Đế quốc mỹ can thiệp tới tôn giáo để lợi dụng tôn
giáo kéo các phật tử xa rời phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Như vây, từ năm 1954 đến năm 1975 một bộ phận nhỏ Phật giáo đã bị
chi phối bởi xu hướng tiêu cực, đại bộ phận các tăng ni phật tử thì vẫn tiếp
tục tham giai ủng hộ cách mạng, do đó mà tầm ảnh hưởng của Phật giáo
trong lòng dân tộc luôn được duy trì.
Năm 1975, đất nước thống nhất, điều kiện lịch sử xã hội biến động là
cơ duyên cho các tổ chức hệ phái thống nhất trong cả tổ chức chung.
Tháng 11/1981, Đại hội đại biểu Phật giáo lần thứ nhất được long
trọng tổ chức tại thủ đô Hà Nội và gần 200 đại biểu cho các tổ chức hệ
phái phật giáo trong cả nước về dự. Đại hội lập ra tổ chức giáo hội Phật
giáo Việt Nam, bầu ra Hội đồng chứng minh và Hội đồng trị sự là cơ quan
lãnh đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Đại hội mang ý nghĩa thống
8



nhất tất cả các hệ phái tổ chức Phật giáo trong cả nước vào một tổ chức
chung đáp ứng nguyện vọng tình cảm của các phật tử trong cả nước, tạo
tiền đề cho Phật giáo tiếp tục đồng hành cùng dân tộc.
Như vậy, cỏ thể nói rằng Phật giáo có mặt ở Việt Nam từ khá sớm,
trên cơ sở tiếp thu ảnh hưởng từ cả hai phía Ấn Độ và Trung Quốc. Phật
giáo Việt Nam quy tụ cả hai dòng Phật giáo là Đại thừa và Tiểu thừa và
chịu ảnh hưởng của ba tông phái lớn là Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật
tông trong đó Thiền tông là sâu sắc hơn cả. Đồng thời Phật giáo Việt Nam
còn chịu ảnh hưởng của Nho giáo, Lão giáo, những phong tục tập quán và
tín ngưỡng dân gian, tạo ra những nét riêng biệt. Phật giáo Việt Nam có bề
dầy lịch sử gần hai chục thế kỉ, trong quá trình đó Phật giáo Việt Nam đã
xây dựng cho mình truyền thống yêu nước gắn bó dân tộc góp phần quan
trọng trong việc xây dựng văn hóa của dân tộc, những tư tưởng, đạo đức,
tâm lí lối sống của nhân dân ta. Ngày nay tín đồ, tăng ni phật tử trong cả
nước được tụ hội trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoạt động theo
đường hướng tiến bộ “ Đạo pháp, dân tộc, chủ nghĩa xã hội” đang có
những đóng góp quan trọng trong quá trình đổi mới của đất nước.
3. Đặc điểm của Phật giáo ở Việt Nam
Do đạo Phật đến Việt Nam bằng con đường hòa bình, do giáo lí của
Phật giáo về bình đẳng, bác ái, cứu khổ, cứu nạn..., gần gũi với tín
ngưỡng, văn hóa truyền thống của cư dân Việt Nam, nên Phật giáo dễ
dàng được người dân Việt Nam chấp nhận. Trải qua qua trình lịch sử
của dân tộc Việt Nam, Phật giáo cũng có những bước thăng trầm lúc
thịnh, lúc suy, và cũng đã có thời kì được coi là quốc đạo. Trong thời Lí
và Trần các nhà sư vừa là nhà tu hành vừa là nhà chính trị, nhà thơ, nhà
văn. Các vua triều Lí, Trần rất sùng kính đạo Phật, thường trao quyền
cho con để đi tu. Qua gần 20 thế kỉ, tư tưởng, đạo đức, văn hóa Phật
giáo đã bén dễ sâu và trở thành một bộ phận quan trọng trong tư tưởng,
văn hóa, đạo đức, hành vi ứng xử của người Việt Nam. Đặc điểm Phật


9


giáo Việt Nam từng bước được định hình trong quá trình du nhập và
phát triển ở Việt Nam.
3.1 Phật giáo vào Việt Nam mang đậm nét tính chất dân gian.
Từ khi mới du nhập vào Việt Nam, một mặt Phật giáo đồng nguyên
với Nho giáo và Đạo giáo, mặt khác nó còn kết hợp để hòa trộn với các tín
ngưỡng dân gian của người Việt. Phật giáo ở Việt Nam được đặt cạnh và
đồng nhất với các mẫu. Nghi lễ thờ cúng và rước sách các bà dâu- với tư
cách là Phật là nghi lễ có tính chất dân gian, vừa uy nghi vừa rộn ràng náo
nhiệt. Tín đồ thì có tín đồ thực thụ ( nhà tu hành) và tín đồ quần chúng
( các Phật tử). Tư tưởng từ bi của Phật được diến đạt một cách dân gian là
sự cứu khổ cứu nạn.
3.2 Phật giáo Việt Nam mang tính thống nhất nhưng không thuần nhất
Ở Ấn Độ và Trung Quốc, các môn phái Phật giáo được xác định rất
rõ ràng vì ở đó nhà tu hành rất chú ý đến giáo lý. Trái lại ở Việt Nam, các
nhà tu hành lại chú ý chủ yếu đến hành động và mục đích cứu hộ chúng
sinh của phật giáo nên sự phân biệt giữa các môn phái là không rõ ràng.
Nhiều nhà nghiên cứu kể cả một số nhà sư cho rằng Phật giáo Việt Nam
chỉ là một, học còn đồng nhất một cách đơn giản giữa Phật giáo và phái
thiền tông. Các phật tử thì chỉ tuyên bố quy Phật chứ không quan tâm đến
phái nào.
Tuy nhiên Phật giáo không thuần nhất. Mỗi giai đoạn lịch sử với
những khu vực miền, địa phương khác nhau Phật giáo mang những nết
riêng, đặc thù rất đa dạng.
3.3 Phật giáo Việt Nam là tôn giáo nhập thế
Đặc điểm nổi bật của Phật giáo Việt Nam là kết hợp giữa việc đời và
việc đạo. Tuy bản chất của tôn giáo là xuất thế, nhưng Phật giáo Việt

Nam là Phật nhập thế. Ngay ở thời đầu Phật giáo Việt Nam thì giới
tăng sĩ là giới trí thức, họ không chỉ hoạt động truyền bá Phật giáo mà
còn đi dạy học và chữa bệnh. Các cao tăng được Nhà nước tham chính
hoặc cố vấn về các vấn đề đại sự quốc gia. Mặt khác, thời Lí, Trần còn
10


có các vua quan quý tộc đi tu. Từ truyền thống gắn đạo với đời, nên
Phật giáo luôn theo sát lịch sử dân tộc. Khi đất nước có ngoại xâm Phật
giáo Việt Nam luôn góp phần tham gia chống giặc giữ nước. Trong thời
kì chống Pháp và Mỹ, ở Việt Nam nhiều tăng ni phật tử tham gia cầm
súng chiến đấu. Thực tế này khẳng định thêm rằng, trước kia là tăng ni,
phật tử họ là người Việt Nam yêu nước.

Chương 2:
Phật giáo Lý- Trần và ảnh hưởng của nó tới chính trị trong
hai triều đại ấy.
1. Vài nét cơ bản của Phật giáo Việt Nam dưới triều đại Lý- Trần.
Phật giáo có mặt ở Việt Nam trong hơn 20 thế kỷ qua đã có một vai
trò, một vị trí quan trọng nhất định trong lịch sử dân tộc. Nhất là Phật giáo
Lý – Trần đã thể hiện trí tuệ và từ bi sâu sắc bằng sự nhập thế sinh động
và đa dạng qua tư tưởng, lời nói, hành động gắn bó với cuộc sống an vui
hạnh phúc của dân tộc. Cả hai triều đại Lý – Trần, Phật giáo đã trở thành
quốc giáo. Lúc bấy giờ, cả nước từ vua, quan đến thứ dân đều theo Phật,
đến chùa quy y, giữ giới, tụng kinh, Thiền định nên mới có được một tinh
thần an lạc, hòa hợp.
1.1 Thấm nhuần tư tưởng nhân đạo của Phật giáo trong trị nước.
Thâm nhập giáo lý nhà Phật qua chính sách an dân trị nước nên các
vua Lý – Trần đã chinh phục trái tim, khối óc con người bằng đức trị thay
pháp trị. Đạo đức vô ngã đã tạo cho con người một cuộc sống hòa hợp,

giản

dị

nhưng

tạo

lực

tác

động

mạnh

mẽ



cùng.

Muốn đất nước thái bình, thịnh trị. Chính nơi bản thân các vua đã tự
trau dồi bằng đạo đức vị tha, triết lý sống nhập thế trên tinh thần từ, bi, hỷ,
xả của đạo Phật các vua không ngừng học hỏi, tu tập cho đến khi thấu rõ
giáo lý Phật Đà, góp phần tạo một sức sống mạnh mẽ, không khép kín mà
phổ biến khắp nơi trong dân chúng, khiến họ cùng học tập theo và sống
đúng. Một đời sống hướng thượng, hướng con người đến Chân – Thiện –
11



Mỹ và đạt được chân lý ngay trong đời sống thực tại này chứ không phải
nơi một thế giới xa xăm nào khác. Đạo Phật đã tạo cho dân tộc Việt Nam
đương thời một niềm tin mạnh mẽ vào tự lực, vào khả năng trong sáng
thuần khiết của bản thân để sống đúng và sống đẹp theo tinh thần Chánh
kiến, Chánh tư duy và Chánh mạng. Đây chính là nguyên nhân làm cho
triều đại Lý – Trần phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử với những chiến
công vẻ vang và sự thành tựu to lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa. …
Chính đạo Phật đã chan hòa vào lòng dân tộc góp phần hình thành một
quan niệm, một lối sống tích cực, hữu ích cho con người và cho cuộc
sống.
1.2. Những thiền sư là những quốc sư trị nước.
Ngay trong Phật giáo đời Lý đã có những Thiền sư nổi tiếng. Đặc
biệt là Thiền sư Vạn Hạnh – Ngài vì dân vì nước, muốn cứu nước khỏi
lâm nguy nên đã làm một cuộc đảo chính năm 1009 phế Lê lập Lý mở ra
một trang sử mới cho triều đại nhà Lý. Lời nhận xét của Hoàng Xuân Hãn
là một minh chứng triều đại nhà Lý vững chắc và thịnh vượng ngự trị trên
200 năm thực thi nhờ tinh thần Phật giáo: “ Sau các đời vua hung hãn họ
Đinh – Lê, ta thấy xuất hiện ra những người cầm quyền có lòng độ lượng
khoan dung, những cận thần đức độ trung thành. Đời Lý có thể gọi là đời
thuần từ nhất trong lịch sử nước ta”. Như vậy, Phật giáo đời Lý đã un đúc
nên những ông vua Phật tử thuần thành làm cầu nối cho Phật giáo đời Trần
đạt đến đỉnh cao trong lịch sử để khẳng định quyền tự chủ tự cường của
một đất nước. Vì vậy, dân tộc Việt Nam sẵn sàng chống lại bất cứ sức
mạnh nào muốn phá hoại nền hòa bình, hạnh phúc của mình. Và Phật giáo
Lý – Trần đã đáp ứng nguyện vọng ấy, góp phần vĩ đại vào công cuộc xây
dựng bảo vệ đất nước. Chiến công hiển hách còn ghi lại trong lịch sử. Nếu
Lý Thái Tông đã đánh giặc Nùng rồi bình được Chiêm Thành. Lý Thường
Kiệt đem binh đánh Tống thì Trần Thái Tông cũng thu phục được đất
Chiêm và cuộc chiến thắng Nguyên Mông vẻ vang này dưới sự lãnh đạo

tài tình của vua Trần Nhân Tông và Hưng Đạo Vương.
12


Xưa nay, các bậc đế vương thâu phục giang sơn bằng con đường
gươm đao, chế ngự dân bằng quyền hành, bạo lực. Còn thời đại Lý – Trần
thì khác, lên ngôi vua không hề có một giọt máu rơi, quần thần trong triều
đình đều nhất trí và cũng không nghe dân tình than oán. Sức mạnh nào đã
tạo nên một quốc gia hưng thịnh hùng cường, có phải chăng chính đức từ,
bi, hỷ, xả của nhà Phật đã thấm nhuần từ vua quan cho đến thứ dân.
Các ông vua thời Lý – Trần đã dùng chính sách trị dân có tính
khoan hồng kết hợp pháp trị với đức trị. Như chúng ta thấy, sau khi Lý
Công Uẩn lên ngôi, là một Phật tử thuần thành, ông liền ra lệnh hủy bỏ hết
mọi hình cụ trong ngục và cho xây dựng nhiều chùa mới trong nước. Lý
Thánh Tông, vị vua thứ 3 nhà Lý, nổi tiếng là một ông vua nhân từ. Một
hôm thiết triều, ông chỉ vào công chúa Động Thiên đứng cạnh mà bảo các
quan rằng: “Lòng trẫm yêu dân như yêu con trẫm vậy. Hiềm vì trăm họ
làm càng cho nên phải tội, trẫm lấy làm thương lắm, vậy từ nay về sau tội
gì cũng giảm bớt đi …”
Nói chung, các ông vua Phật tử thuần thành đời Lý và đời Trần đều
có tấm lòng thương yêu dân như vậy là nhờ thấm nhuần tinh thần từ, bi,
hỷ, xả, vô ngã vị tha của đạo Phật. Đường lối lấy đức trị dân của hai triều
đại Lý – Trần đã minh chứng sự hội nhập của Phật giáo vào đời sống văn
hóa, chính trị và xã hội của dân tộc Việt Nam.
1.3. Tính dân tộc và tính sáng tạo trong phật giáo Lý- Trần.
Đặc điểm nổi bật của Phật giáo Lý – Trần là nó cung cấp một triết
lý sống, chứ không phải là những tín điều chết, các Phật tử Lý – Trần đã
quán triệt, đã thực hiện triết lý đó bằng cả cuộc sống của chính mìmh. Đạo
Phật đời Lý – Trần không chấp tướng, không giáo điều, không vướng mắc
vào hình thức, không bó hẹp trong chùa chiền, tu viện, càng không phải là

sở hữu riêng của giới Tăng, Ni mà là của tất cả mọi người biết lấy nó làm
lẽ sống, dù người đó là vua chúa, Thiền sư, quan lại, hay là người dân bình
thường. Ai cũng học và tu đạo Phật được, ở đâu, làm gì cũng học và tu
theo đạo Phật được, miễn là biết nhìn rõ tâm mình, chuyển hóa tâm và sử
13


dụng tâm cho tốt. Trong “Khóa Hư Lục”, Trần Thái Tông gọi đó là biện
tâm, Trần Thái Tông viết: “Không kể là sống ẩn trên núi hay giữa thành
thị, không phân biệt tại gia hay xuất gia, tăng hay tục, điều chủ yếu là biện
tâm, vốn không có phân biệt nam nữ sao còn chấp tướng”. Vì không chấp
tướng nên Phật giáo đời Trần mới có được một nhân vật đặc biệt như Tuệ
Trung Thượng Sĩ, tuy là một cư sĩ tại gia, nhưng lại được mọi người Tăng
cũng như tục tôn kính, học hỏi như là một bậc Thầy lớn trong đạo. Thậm
chí Trần Nhân Tông và Pháp Loa là hai vị Tổ thứ nhất và thứ hai của Phái
Thiền Trúc Lâm cũng suy tôn Tuệ Trung Thượng Sĩ là Thầy của mình. Với
tinh thần không chấp tướng, vua Trần Nhân Tông sau khi xuất gia, đã
không quản gian khổ nhọc nhằn, đi khắp nơi trong nước khuyên mọi
người sống theo năm giới, mười thiện là những nguyên lý căn bản của
Đạo Đức Phật giáo. Nhờ vậy, ngay giữa lòng của xã hội Phong kiến, đạo
Phật đời Lý – Trần đã tạo ra những mẫu người tuyệt vời, mà con người ở
vào thời đại nào cũng cảm thấy tự hào.
Đạo Phật thời Lý – Trần là đạo Phật của từ bi và trí tuệ, là hai đức
hạnh hàng đầu của Phật giáo. Tinh thần từ bi của Phật giáo thời Lý – Trần
là đường lối trị nước bằng đức trị còn hạnh trí tuệ là nó không hướng đến
giải quyết các vấn đề thuần túy lý luận hay là siêu nghiệm, như chúng ta
có thể thấy ở một số luận sư Phật giáo Ấn Độ, mà hướng tới giải quyết các
vấn đề rất cụ thể, rất bức xúc, có tầm quan trọng đối với đời sống con
người và trong công cuộc xây dựng bảo vệ đất nước.
Hai triều đại Lý – Trần đánh dấu đỉnh cao của sự hội nhập Phật

giáo vào giòng sống của đất nước và xã hội Việt Nam. Một sự hội nhập
được trải dài trên mọi bình diện của đời sống. Phật giáo thời Lý – Trần đã
hình thành một nước Việt Nam thật sự độc lập, tự chủ, có đủ sức mạnh tự
thân để đánh đuổi mọi cuộc xâm lăng của ngoại ban.
Tóm lại, tính độc đáo và sáng tạo của Phật giáo Lý – Trần chính là
ở chỗ luôn luôn chủ động gạn lọc, tiếp thu cái hay, gạt bỏ cái dở, từ đó
sáng tạo ra một xã hội thường xuyên đổi mới, trẻ trung, cập nhật với thời
14


thế, có nhiều sinh khí. Đó là điểm nổi bật nhất của Phật giáo thời Lý –
Trần trong những thế kỷ đầu xây dựng nền độc lập, tự chủ. Qủa thật, Phật
giáo thời đại Lý – Trần đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng nền
độc lập quốc gia trong lịch sử nước nhà. Các vua trị vì đã thực sự thấm
nhuần lời dạy của đức Phật trong kinh Trường A Hàm: “Biết đoàn kết, biết
ăn ở hòa hảo cùng nhau và thường hội họp nhau lại để lo bàn việc nước thì
không sợ gì sẽ bại vong mà nhất định sẽ được cường thịnh, phong phú
thêm”. Đây là những nhân tố tư tưởng góp phần tích cực vào sự tồn tại lâu
dài của hai triều đại Lý – Trần.khá lâu. Triều Lý hơn 200 năm (1010 –
1225) và Triều Trần gần 200 năm (1226 – 1400). Như vậy, hai triều đại Lý
– Trần tồn tại gần 400 năm. Có thể nói đây là thời đại cực thịnh của Phật
giáo Việt Nam mà cũng là thời đại đất nước hùng mạnh nhất trong trang
sử nước nhà. Các vua thời đại Lý – Trần được thừa hưởng những thành
qủa tốt đẹp của thế hệ trước, đồng thời biết phát huy những tinh hoa gạn
lọc được từ bên ngoài biến thể sao cho phù hợp với quốc dân thủy thổ mà
không đánh mất bản sắc dân tộc.
2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến chính trị trong triều đại nhà
Lý.
2.2.1. Lấy tư tưởng của Phật giáo làm hướng đi trongchính sách trị
nước, an dân.

Nhìn lại suốt chiều dài lịch sử dân tộc kể từ khi Phật giáo được
truyền bá vào nước ta, Phật giáo luôn gắn liền với sự phát triển của lịch sử
dân tộc, lấy sứ mệnh của dân tộc làm sứ mệnh của mình. Đó là tính nhất
quán của lịch sử Phật giáo Việt Nam, được biểu hiện qua những bước
chuyển mình, đáp ứng yêu cầu của từng chặng đường lịch sử cụ thể, vì lợi
ích chung của dân tộc. Tinh thần phóng khoáng, siêu việt trong giáo lý
Phật đã được các bậc Tổ đức Thiền sư kết hợp hài hòa với bản sắc Văn
hóa dân tộc đã tạo nên những nét tinh hoa rực rỡ, trong đó phải kể đến
“Tinh hoa Phật giáo thời Lý qua văn hóa, chính trị và các nhân vật Phật
giáo”.
15


Với biến cố chính trị năm 1009 chấm dứt thời kỳ rối ren của nhà
Tiền Lê, nhà Lý (1009 – 1225), bắt đầu với sự kiện vua Lý Thái Tổ ( Lý
Công Uẩn) lên ngôi tháng 10 âm lịch năm 1009. Sự kiện nổi bật nhất của
thời Lý chính là việc rời đô từ Hoa Lư về Đại La, rồi đặt tên mới là Thăng
Long theo hình tượng con rồng, một hình tượng đặc thù của thời này, quốc
hiệu Đại Việt ra đời. Từ đây, lịch sử Phật giáo chúng ta bước vào một thời
kỳ phát triển rực rỡ.
Trước thời Lý, dân tộc ta đã trải qua đêm dài man rợ, rùng rợn của
thời kỳ Bắc thuộc, sau một thời kỳ loạn lạc suy tàn của ba chế độ Pháp trị
và bạo trị ngắn ngủi Ngô, Đinh, Lê; tất cả phải được làm lại, tất cả phải
được bắt đầu lại. Đó là một sứ mạng của thời đại. Nhưng sự nghiệp khôi
phục và xây dựng một quốc gia độc lập và thái bình là một sự nghiệp vĩ
đại! và phải chờ sự xuất hiện của một nhân duyên vĩ đại và một con người
vĩ đại mới thành tựu nổi. Đại nhân duyên đó chính là Phật giáo với trí tuệ
và tình thương vô lượng cho nhân dân Đại Việt và con người ấy chính là
Thiền sư Vạn Hạnh.
Từ trong lòng những chế độ hà khắc hung dữ của tiên triều, Thiền

sư Vạn Hạnh xuất hiện, thần tốc vung tay, siêu việt chuyển hóa , dũng ,
mãnh hành hoạt, đem “trụ tích trấn vương kỳ” (dùng gậy của nhà Phật để
trấn giữ kinh kỳ của nhà vua), hoàn thành cuộc cách mạng bất bạo động để
đưa Lý Công Uẩn – một Phật tử thấm nhuần tinh thần từ bi, bao dung,
nhân bản, khai phóng của đạo Phật – lên nắm chính quyền. Để từ đó mở ra
một phương trời mới cho Đại Việt, từ bạo trị sang đức trị và thăng hoa đất
nước từ một xã hội bị kìm kẹp, sắt máu sang một xã hội từ bi, thuần hậu.
Nền đạo đức Phật giáo không những là nền đạo đức để tu dưỡng nội
tâm, để đánh thức giải thoát khổ đau cho con người mà còn là một nền đạo
đức có tính mỹ học thuần hậu để cải thiện và thăng hoa đời sống xã hội.
Chính nền đạo đức có tính nhân bản ấy của đạo Phật chứ không phải
16


nguyên nhân nào khác đã làm cho xã hội Việt Nam thời đại nhà Lý trở nên
thuần từ, thái hòa và thịnh trị mà Thăng Long là một tiêu biểu. Chính vì
thế mà tư tưởng chủ đạo thời Lý là tư tưởng Phật giáo – tư tưởng Từ bi hỷ
xả, vô ngã vị tha. Tư tưởng này đã được các vua thời Lý thấm nhuần sâu
săc. Vì vậy mà các vua thời Lý từ Lý Thái Tổ đến Lý Nhân Tông đều nổi
tiếng là những ông vua nhân từ, đức độ, yêu thương nhân dân và gần gũi
dân chúng . Đại Việt Sử Ký toàn thư chép : năm 1044 vua Lý Thái Tông
đánh Chiêm Thành, dân Chiêm bị loạn binh giết rất nhiều, vua thương xót
xuống chiếu “ Hữu vong sát Chiêm Thành nhân, quả sát vô xá” Nghĩa là ai
giết nhầm người Chiêm thì sẽ bị chém không tha. Đức hiếu sinh của các
nhà vua Lý thể hiện rõ đức từ bi của đạo Phật, coi trọng sinh mệnh của tất
cả các loài hữu tình, vì vậy mà không xử chém em của Lý Thái Tổ là Khai
Quốc Vương họ Bồ làm phản. Vua thân chinh bắt được đem về kinh,
không những tha tội không giết mà còn được phục chức cũ. Nùng Trí Cao
bị vua Lý Thái Tông thân chinh bắt được nhưng tha tội không giết. Lý
Thánh Tông đánh chiêm thành bắt được vua Chiêm là Chế Củ cũng khoan

hồng cho về nước. Vua Lý Thánh Tông không những thương dân, yêu dân
mà còn quan tâm đến những tội phạm đang ở trong ngục khi vua chỉ vào
công chúa Động Thiên đang đứng bên cạnh mà bảo viên quan coi ngục
rằng: “ lòng ta yêu dân cũng như yêu con ta vậy, dân không biết mà mắc
vào hình phạt , ta rất lấy làm thương, từ nay về sau không cứ gì tội nặng,
nhẹ đều nhất luật khoan giảm”. Do vậy mà nhà Lý đã đoàn kết được dân
tộc, phát huy được sức mạnh và trí tuệ của toàn dân trong sự nghiệp bảo
vệ và xây dựng đất nước phồn vinh.
“ Với những nhà chính trị có từ tâm và những người xuất gia biết lo giáo
dục sự thực hành đạo từ bi trong dân chúng. Đời sống xã hội thời Lý trở
thành thuần từ và đẹp đẽ. Đạo đức và Từ bi đã không Làm cho dân nghèo,
nước yếu. Trái lại những yếu tố này tạo nên phú cường. Những chiến
thắng Chiêm Thành và Tống quốc, sự vắng mặt của bạo động trong nhân
17


gian và trong cung khuyết, sự gần gũi giữa vua với dân, những điều đã nói
lên đặc tính xã hội Thời Lý. Thiền sư Pháp Thuận đã nói trước điều đó:
“ Vận nước như giây quấn
Trời nam ôm thái bình
Đạo đức ngụ cung điện
Muôn xứ hết đao binh”.
( Việt Nam Phật giáo sử luận – Nguyễn Lang), tập 1. NXB Văn học, Hà
Nội.
Triều đại nhà Lý, tám đời vua, trải qua 216 năm là một trong những
triều đại mở đầu cho việc xây dựng nền độc lập tự chủ lâu dài của dân tộc.
Sau hơn một ngàn năm sống trong màn đêm thống trị của phong kiến
phương Bắc, với bao nỗi oan hờn chồng chất, nên khi đã thật sự tự do, ý
thức được sự nhục nhã của bị cai trị nên dân ta trên dưới một lòng để kiến
thiết đất nước, mang thái bình về cho dân tộc. Triều Lý cũng là triều đại có

tuổi thọ lớn nhất so với các triều đại khác trong dòng lịch sử của đất nước
Việt nam. Các vị vua đều là Phật tử, trị vì một cách nhân từ, khoan dung
theo đúng tinh thần Phật giáo. Đạo đức Phật giáo đã thấm nhuần trong
lòng dân tộc và xã hội, đạo dức ấy đã trở thành linh hồn của nền chính trị,
thành bản chất của mọi chính sách quốc gia, thành chính nghĩa và sự chính
thống của chính quyền và chế độ nhà Lý.
2.2.2. Những đóng góp của những thiền sư nhà Lý trong chính trị.
Lịch sử đã ghi nhận công cuộc xây dựng đất nước và hoà bình thịnh
trị trong triều đại nhà Lý thành tựu rực rỡ như thế là bởi nhờ những nhà sư
Phật giáo đã tích cực nhập thế, áp dụng những chiến lược sáng suốt để ổn
định đất nước, khai sáng một xã hội đức trị huy hoàng của dân tộc. Các
18


Thiền sư thời Lý là những người giỏi Phật Pháp, thông Nho lão và Y Toán
Ngoài vai trò hướng dẫn tâm linh, hoằng dương Phật Pháp, họ còn là
những nhà giáo dục lỗi lạc. Các thiền sư đã góp công dạy bảo người đời,
đào tạo những thế hệ tri thức cởi mở, không những thông hiểu Phật pháp
mà cả Lão – Nho để có người hiền tài giúp nước, để sống với ý thức trách
nhiệm làm người chứ không phải làm quan để mưu cầu danh lợi phú quý.
Ngoài Thiền sự Vạn Hạnh đào tạo nên Lý Công Uẩn sách Thiên Uyển Tập
Anh ghi lại người theo học với Thiền sư Định Hương, thiền sư Mãn Giác,
thiền sư Không Lộ… đông đến hàng ngàn người. Họ không chỉ truyền dạy
giáo lý nhà Phật mà còn dạy học trò những tri thức về xã hội, định hướng
của một cuộc cải cách giáo dục hoàn thiện. Mỗi ngôi chùa thời Lý là một
diễn đàn, một chốn học đường, số người học không những chỉ thường dân
mà còn có cả con em hoàng gia, quý tộc. chẳng hạn như Lý Công Uẩn là
con nuôi của thiền sư Khánh Văn và thụ giáo với Thiền sư Vạn Hạnh.
Tương truyền, thiền sư Vạn Hạnh đã cho lưu truyền bài kệ “Thập bát tự
thành” giúp Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) thu phục nhân tâm, đăng quang

ngôi vua, dời đô ra thăng Long xây dựng nền móng phát triển văn hoá Đại
việt. Người Kế vị là vua Lý Thái Tông (1028 – 1054) cũng là một vị minh
quân và là đệ tử xuất sắc của thiền sư Thảo Đường làm thầy, lập nên thiền
phái Thảo Đường mang màu sắc dân tộc Việt nam, nhà vua đã đắc đạo và
được truyền tâm pháp, trở thành Tổ thứ hai của dòng thiền Thảo Đường.
Vua Lý Nhân Tông (1072 – 1127), sắc hong thiền sư Khô Đậu là Quốc sư.
Từ năm 1129 đến 1225, nhà Lý vẫn thịnh trị và Phật giáo luôn là Quốc
giáo. Những vị vua kế tiếp đều phát tâm tu hành theo đạo Phật. Ông vua
cuối cùng của nhà lý là Lý Huệ Tông (1211 – 1225), vì chán đời sống
vương giả, từ bỏ ngai vàng, xuất gia ở chùa Chân Giáo và tự xưng là Huệ
Quang Đại Sư. Công chùa Phật Kim tức Lý Chiêu Hoàng lên nối ngôi, sau
truyền ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Thế là triều đại nhà Lý chấm dứt,
triều Trần bắt đầu và Phật giáo theo đó cũng bước qua một giai đoạn mới

19


và cùng với cuộc chiến thắng Bắc phương lừng lẫy, bảo vệ được sự tự do,
hạnh phúc của dân tộc ở một phương diện khác.
Thương đời, thương người, thương nước tha thiết, lại uyên bác phi
thường, tài năng siêu thế, các Thiền sư thời Lý đã cống hiến nguồn trí tuệ
vô lượng để kiến thiết một quốc gia, một triều đại huy hoàng, làm vẻ vang
cho Dân tộc. Dấn thân, nhập thể hùng tráng và vĩ đại như thế, các Thiền sư
đã cho dân tộc, cho chúng ta thấy được giá trị đích thực của Phật giáo. Với
phong thái hành xử tự tại và trong sáng các Thiền sư thời Lý luôn là bài
học lớn cho hậu thế. Tuy có thế lực, nhưng không mượn thế để dương
phong cho tông môn hay cho riêng Phật giáo, mà luôn lấy đại cuộc xây
dựng đất nước làm trọng, luôn cởi mở đối với những tôn giáo hoặc các
trào lưu tư tưởng khác. Nếu nhìn riêng ở một góc độ nào đó, có thể gọi họ
là những nhà ngoại giao, nhà giáo dục, kiến trúc sư, lương y, tác giả

vănhọc… nhưng trên tất cả họ chính là những nhà tu hành chân chính. Là
những người xuất gia, các thiền sư vào đời giúp vua trị nước nhưng không
hề bị bó buộc bởi thuyết trung quân của nhà Nho. Hành trang của các vị
Thiền sư đã cho thấy phong cách khi tham gia chính trị của họ rất ung
dung tự tại không cố chấp, vô tư, không bị vướng vào những danh lợi tầm
thường. Đời sống các Thiền sư thanh cao, tự tại như vậy đã ảnh hưởng
không ít đến nền chính trị thời Lý, từ các hàng vua chúa, quan lại cho đến
việc định hướng một chính sách Phật giáo làm tư tưởng chỉ đạo sớm nhất
và thành tựu nhất trong lịch sử các quốc gia phong kiến phương Đông.
Các vị vua Nhà Lý cùng với những vị Thiền sư, Quốc sư của họ đã
không những ý thức một cách chính xác sự tan thương và nhục nhã khi đất
nước bị cai trị bởi phương Bắc, sự bạo tàn đã in sâu trong lòng người Việt
của tất cả các thế hệ, nên đã xây dựng rất sáng suốt một Đất nước Việt
Nam hưng thịnh, sinh động trong lòng dân tộc vinh quang và độc lập. Sự
thành tựu này không phải nhờ tôn xưng Phật giáo làm quốc giáo, tôn xưng
các thiền sư làm quốc sư hay nhờ xây dựng nhiều chùa chiền, đúc tác
20


nhiều tượng Phật… mà chính là nhờ biết lấy tinh thần từ bi, nhân bản và
trí tuệ giải thoát của Phật giáo làm yếu tố chỉ đạo cho chính sách trị quốc,
cho nền văn hoá, giáo dục, chính trị, kinh tế của quốc gia và cho đời sống
tâm linh và xã hội của dân chúng. Nhìn lại chặng đường dài lịch sử Việt
Nam, ôn lại cội nguồn truyền thống văn hoá của tổ tiên, ta sẽ rút ra được
nhiều ý nghĩa cho cuộc sống thiết thực đương đại. Ta sẽ mãi mãi tự hào và
trân trọng về một Đạo phật luôn trong lòng dân tộc, luôn đồng hành cùng
dân tộc hướng đến sự an lành, tự do, hạnh phúc của tất cả người Việt Nam.
Đạo Phật phát triển được khả năng kiến quốc một cách vinh quang
vào thời Lý không phải là nhờ vào phép lạ hoặc xảo thuật nào mà chính là
nhờ vai trò của các Quốc sư, Thiền sư làm cố vấn chỉ đạo cho triều đình.

Đến đời nhà Lý nước Việt Nam mới thật sự cường thịnh là do có con
Người Mới mang một Ý Thức Mới tới, và do đó, có một Chính Sách Mới
cải tổ toàn diện các cơ cấu quốc gia đi lên.
Tóm lại, trong một đất nước có vua sáng, tôi hiền, triều đình hoà
hợp, trên dưới một lòng, trên từ Thiên tử, dưới đến thứ dân, từ một em bé
thơ ngây đền một cụ già đầu bạc, tất cả đều một lòng vì dân, vì nước.
Trong mọi lĩnh vực quân sự, ngoại giao, giáo dục, chính trị, đều có những
nhân tài xuất chúng. Mọi người trong xã hội đều có tinh thần độc lập dân
tộc, tự chủ, tự tin và tự cường. Như thế, tất nhiên có đủ điều kiện để xây
dựng một quốc gia hùng mạnh. Nhưng điều quan trọng hơn hết chính là tư
tưởng chủ đạo để hướng dẫn tất cả mọi hoạt động ấy, đó chính là tinh thần
Phật giáo. Một tinh thần nhập thế hành đồng, từ bi cứu khổ, lấy con người
làm đối tượng để phụng sự nhân sinh. Điểm lại suốt chiều dài lịch sử dân
tộc, Giáo sư Trần Văn Giàu đã rất có lý khi nhận định rằng “Bình minh
của dân tộc ta gắn với Phật giáo…”. (Trích tham luận Hội thảo Khoa học
Phật giáo thời Lý với 1000 năm Thăng Long - Hà Nội do Phân viện
nghiên cứu Phật học Việt Nam và Viện nghiên cứu tôn giáo tổ chức tháng
7/2010).
21


2.3. Ảnh hưởng của phật giáo đến chính trị triều đại nhà Trần.
2.3.1. Phát huy tinh thần Phật giáo trong chính sự nhà Trần.
Trong buổi đầu lập quốc thời Lý, các vua Lý rất cần đến các thiền
sư. Không những họ cần đến những người này để liên kết nhân tâm, họ
còn cần đến sức học, công tác giáo dục, công tác ngoại giao và kế hoạch
của những ông thầy tu nữa. Đến thời Trần tình trạng này khác hẳn. Các
vua Trần lại học giỏi nên về đạo Phật, nên liên hệ giữa các vua và các
thiền sư không phải là để nhờ cậy về phương diện kế hoạch và công tác.
Các ông vua như Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông và Anh Tông đều có

ăn bản vững chắc về Phật học. Họ ủng hộ Phật giáo một phần vì họ là phật
tử, một phần có lẽ cũng vì muốn liên kết nhân tâm trong việc xây dựng và
bảo về Tổ quốc. Thời đại Nhân Tông là thời đại mà Phật giáo thời Trần
hưng thịnh cực độ. Thế nhưng tinh thần từ bi và khoan dung của đạo Phật
không hề đi đôi với một thái độ tiêu cực và quên lãng. Hội nghị Diên
Hồng do Trần Nhân Tông triệu tập đã nói lên sự đồng tâm nhất trí của vua
dân thời ấy. “Đánh”, quyết nghị đồng thanh của hội nghị Diên Hồng là
một tiếng nói của ý thức tự chủ và tinh thần tự lực, tự cường của dân Việt
trong thời đại Phật giáo thống nhất đời Trần. Nếu vua Trần Thái Tông
không học Phật và theo Phật giáo thì có lẽ Phật giáo đời Trần đã không có
được giai đoạn rực rỡ hồi Trần Nhân Tông. Cuộc đời tu học của Trần Thái
Tông đã tạo ra một không khí hcoj Phật thật sự trong giới trẻ tuổi ở trong
triều đình, và ở giới tri thức tại thủ đô Thăng Long. Sự học Phật này của
giới trẻ tuổi và trit hức đã lấy nguồn cảm hứng ở cuộc đời Thái Tông và có
tính cách hoàn toàn không vụ lợi. Thánh Tông và Huệ Trung là hai người
xuất sắc trong số những người trẻ học Phật và thành đạt trong sự ngiệp
học Phật ấy. Sự học phật ở đây không đưa đến thi cử và địa vị, sự học Phật
ở đây chỉ là để làm người, Cái học hoàn toàn không có tính cách khoa cử,
từ chương và ép buộc.
Đặc tính của Phật giáo Trúc Lâm là nhập thế: Đạo Phật phụng sự
cho đời sống: đời sống tâm linh giải thoát cũng như đời sống xã hội. Hai
22


phương diện ấy của đời sống con người cần được liên hệ và bổ túc cho
nhau. Quốc sư Viên Chứng đã nói rõ về những nguyên tắc hướng dẫn đời
sống của một nhà chính trị Phật tử: “ Đã là người phụng sự cho dân thì
phải lấy cái muốn của dân của làm cái muốn của mình, phải lấy ý dân làm
ý của mình, trong khi đó không xao nhãng việc tu học của bản thân”.
Trần Thái Tông đã nói rằng: nhà chính trị phải thực hiện đạo Phật trong xã

hội ( Giáo lý của Đạo Phật chúng ta phải cần có các bậc tiên thánh để thực
hiện trên đời- tựa “Thiền Tông Chỉ Nam”)Tuệ Trung “sống trong lòng thế
tục, hoà ánh sáng của mình trong cuộc đời bụi bặm” (Thượng Sĩ Hành
trạng- Trúc lâm). Nhân Tồn đi khắp thôn quê, phá trừ dâm tà, khuyên dân
thực hành Thập thiệ thiện...Những tự viện trên núi tổ chức ẩn cư và tổ
chức kết hạ nhưng vẫn có liên hệ đến đời sống văn hóa, xã hội và chính trị
quốc gia.
2.3.2. Các vua Trần rất chú trọng phát huy tính nhân đạo, khoan
dung của Phật giáo trong việc trị nước, an dân.
Chính vì đặc tính khoan dung và mềm dẻo của văn hóa đời Trần mà
vua quan cũng dân chúng đã đồng tâm hợp tác trong việc chống ngoại
xâm và xây dựng đất nước. Tăng sĩ đời Trần không trực tiếp đóng góp vào
sự nghiệp chính trị nhưng Phật giáo đã là một yếu tố liên kết nhân tâm
quan trọng. Tinh thần Phật giáo đã khiến cho các nhà chính trị đời Trần áp
dụn các chính sách bình dị, thân dân và dân chủ. Ta nhớ lại hôi linh cữu
Nhân Tông quàn tại điện Diên Hiền: quần chúng hàng vạn người tràn vào
sân, thềm và trong điện, đến nỗi không thể nào khởi hành đám rước được.
Phương pháp mà triều thần nhà Trần áp dụng để giải tán bớt số đông là tổ
chức từng đám hát đâu đó trong cung điện để thu hút bớt quần chúng đi ra.
Năm 1824, trước thế xâm lăng như vũ bão của quân Nguyên, Nhân Tông
đã triệu tập hội nghị Diên Hồng. Người tới dự hội nghị là ai? không phải
các vương thần mà các bô lão đáng kính trong dân gian. Vua Nhân Tông
mỗi khi đi ra ngoài đường gặp gia nhân các vương thần thì hay dừng lại để
hỏi han, không cho vệ sĩ nạt nộ họ. Vua nói “ lúc thái bình thì nhờ có thị
23


vệ tả hữu, mà lúc nước nhà lâm hoạn nạn, thì chính những người gia nhân
ấy đi theo bảo vệ”.
Một hôm có người dâng sớ báo cáo với vua Minh Tông là trong dân

gian có những người đi lang thang tới già cũng không có sổ, không chịu
thuế dịch, sai phái tạp dịch thì không chịu đến. Vua nói: “ Nếu không có
người như thế thì làm sao có thể gọi là đời thái bình? Ngươi muốn at trách
phạt họ thì có được việc gì không?”. Những năm mất mùa bệnh tật, triều
đình hay khuyến cáo những nhà giàu dâng thóc gạo để triều đình phát
chẩn cho dân nghèo và ban tước phẩm cho những nhà giàu dâng thóc gạo.
Triều đình còn sai người chế thuốc để phát cho người bệnh. Năm 1362,
vua ngự ở phủ thiên Trường, nhân dân ai đói và bệnh có thể đến đấy để
xin hai viên thuốc Hồng Ngọ Sương, hai tiền và hai thăng gạo. Ta hãy nhớ
đến chuyện Hoàng Cự Đà không được ăn xoài và chuyện vua Thánh Tông
đốt tài liệu xin hàng của các quan để thấy thái độ khoan dung của các vua
Trần. “ Vua Thái Tông một hôm cho các quan hầu cận ăn xoài, Hoàng Cự
Đà không được ăn. Đến khi quân Nguyên đến bến Đông, Cự Đà ngồi
thuyền nhẹ trốn đi. Đến Hoàng giang gặp hoàng thái tử đi chiều ngược lại.
Cự Đà tránh sang bờ sông bến kia, thế thuyền đi rất gấp. Quan quân hô to
hỏi quân Nguyên ở đâu? Cự Đà trả lời không biết, hãy hỏi bọn ăn xoài
ấy”. Sau khi phá được giặc thái tử xin trừng phạt Cự Đà để răn đe những
kẻ làm tôi bất trung. Vua nói “Cự Đà tội đáng giết cả họ: song đời xưa có
việc Dương Chân không được ăn thịt dê đến nỗi làm cho nước Trịnh bị
thua. Việc của Cự Đà là lỗi của ta, tha cho tội chết, cho đánh giặc để chuộc
tội” (trích “ Đại Việt Sử Ký Toàn thư”)
Còn đây là chuyện của Thánh Tông đốt tài liệu hàng giặc của các
quan: Khi quân Nguyên Đang mạnh, triều thần lắm kẻ hai lòng, có giấy tờ
giao thiệp với giặc. Sau giặc thua chạy về phương bắc, triều đình bắt được
một tráp biểu hàng của các quan. Đình thần muốn lục ra để trị tội, nhưng
thượng hoàng nghĩ rằng làm tội những kẻ tiểu nhân cũng vô ích bèn sai
đem cả tráp đốt đi, cho yên lòng mọi người.
24



Chính Nhân Tông đã sử dụng được tiềm năng của phật giáo để phục
vụ cho chính trị. Sự kiện xuất gia của vua, cũng như những năm hành đạo
trong dân gian của vua đã khiến Giáo hội Phật giáo Trúc Lâm trở nên một
lực lượng tôn giáo hùng mạnh yểm trợ cho triều đại. Anh Tông sau khi
nhường ngôi cho Minh Tông cũng có ý định xuất gia để nối tiếp sự nghiệp
của Nhân Tông, nhưng chưa thực hành được thì đã mất. Một điều ta nên
ghi nhận là những ông vu ấy muốn sử dụng tiềm lực của Phật giáo để liên
kết nhân tâm, nhưng không phải vù vậy mà giả danh phật tử. Họ là phật tử
chân chính và có ý nguyện phụng sự đạo phật một lần với sự phụng sự
quốc gia và triều đại của họ.

25


×