Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Dạy học trích đoạn tiểu thuyết ông già và biển cả trong sách giáo khoa ngữ văn lớp 12 theo đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1000.89 KB, 108 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LA THỊ MINH THÙY

DẠY HỌC TRÍCH ĐOẠN TIỂU THUYẾT
"ƠNG GIÀ VÀ BIỂN CẢ" TRONG SÁCH GIÁO
KHOA NGỮ VĂN LỚP 12 THEO
ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Thái Nguyên, năm 2016

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LA THỊ MINH THÙY

DẠY HỌC TRÍCH ĐOẠN TIỂU THUYẾT
"ƠNG GIÀ VÀ BIỂN CẢ" TRONG SÁCH GIÁO
KHOA NGỮ VĂN LỚP 12 THEO
ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
Chuyên ngành

: LL&PP DH Văn - Tiếng Việt



Mã số

: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hồng Hữu Bội

Thái Ngun, năm 2016
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoạn đây là cơng trình nghiên cứu thực sự của cá nhân, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Hoàng Hữu Bội.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là là trung
thực và chưa từng công bố trong bất kì cơng trình nào khác. Các thơng tin, số
liệu, trích dẫn trong luận văn đều đã được trích rõ nguồn gốc.
Tơi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Thái Nguyên, ngày 16 tháng 4 năm 2016
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

La Thị Minh Thùy
XÁC NHẬN

XÁC NHẬN


CỦA KHOA CHUYÊN MƠN

CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTNi




LỜI CẢM ƠN
Với tất cả lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn sự
hướng dẫn khoa học, tận tình và độ lượng của Thầy giáo, TS. Hồng Hữu Bội
trong q trình thực hiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy giáo, Cô giáo khoa Ngữ văn trường
Đại học Sư phạm Thái Nguyên. Và các Thầy giáo, Cô giáo trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, đã tận tình, tạo mọi điều kiện thuận lợi, hướng dẫn, giúp đỡ tơi
trong suốt q trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, những người thân yêu đã
luôn bên tôi, động viên, giúp đỡ, khích lệ tơi trong những ngày học tập tại
trường
Thái Nguyên, tháng 04 năm 2016
Tác giả luận văn

La Thị Minh Thùy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTNii





DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

GV

:

Giáo viên

HS

:

Học sinh

PTTH : Phổ thông trung học
THPT : Trung học phổ thơng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
iii


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN………………………………………………………………i
LỜI CẢM ƠN………………………………………………………………….ii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT……………………………………………….iii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iv
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 2

3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 8
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 8
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 9
7. Dự kiến cấu trúc của luận văn ..................................................................... 9
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................ 11
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY
HỌC TRÍCH ĐOẠN TIỂU THUYẾT "ƠNG GIÀ VÀ BIỂN CẢ" CỦA
HÊMINGWAY .................................................................................................. 11
1.1 Cơ sở lí luận ............................................................................................. 11
1.1.1 Lí luận về phương pháp dạy học theo đặc trưng thể loại - thể loại
tiểu thuyết ...................................................................................................... 11
1.1.2 Đặc trưng tiểu thuyết Hêmingway và tiểu thuyết "Ông già và biển cả" .. 17
1.2 Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 29
1.2.1 Đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của trích đoạn "Ông già và biển
cả" trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12, tập 2 ............................................ 29
1.2.2 Giáo viên với việc dạy trích đoạn tiểu thuyết "Ơng già và biển cả"
trong trường PTTH hiện nay ......................................................................... 39

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
iv




1.2.3 Học sinh với việc học trích đoạn tiểu thuyết "Ông già và biển cả"
trong trường PTTH hiện nay. ........................................................................ 41
Chương 2: ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC TRÍCH ĐOẠN TIỂU THUYẾT "ÔNG
GIÀ VÀ BIỂN CẢ" ........................................................................................... 44
2.1 Nguyên lý "Tảng băng trơi" và cách tiếp cận trích đoạn tiểu thuyết

"Ơng già và biển cả" theo nguyên lý "Tảng băng trôi" ................................. 44
2.1.1 Ngun lý "Tảng băng trơi".................................................................. 44
2.1.2 "Ơng già và biển cả" - nhìn từ lý thuyết "Tảng băng trơi" .................. 45
2.2 Định hướng dạy học của sách giáo viên và sách tham khảo ................... 50
2.2.1 Định hướng dạy học của sách giáo viên ............................................... 50
2.2.2 Định hướng dạy học của sách tham khảo ............................................. 56
2.3 Định hướng dạy học của luận văn ........................................................... 66
Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM .......................................................... 77
3.1 Thiết kế bài học trích đoạn tiểu thuyết "Ông già và biển cả" .................. 77
3.2 Tổ chức dạy học thực nghiệm đối chứng ................................................ 86
3.3 Kết quả thực nghiệm................................................................................ 88
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTNv




PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Về mặt lí luận
Vấn đề dạy học tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại là vấn đề khơng
mới. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này. Thế nhưng hầu hết các
cơng trình mới chỉ đưa định hướng chung chung mà chưa đi đến từng tác phẩm
cụ thể, nhất là đối với các tác phẩm văn học nước ngồi được lựa chọn vào
chương trình sách giáo khoa phổ thơng. Vì vậy, chúng tơi chọn đề tài "Dạy học
trích đoạn tiểu thuyết "Ông già và biển cả" trong sách giáo khoa Ngữ văn
lớp 12 theo đặc trưng thể loại" với mong muốn vận dụng lý thuyết chung vào

dạy học một tác phẩm cụ thể - tác phẩm "Ông già và biển cả" của nhà văn
Hemingway với hi vọng góp thêm một tiếng nói nhỏ vào lý luận dạy học theo
đặc trưng thể loại.
1.2 Về mặt thực tiễn
Các tác phẩm văn học nước ngồi được đưa vào chương trình phổ thơng
đều là những tác phẩm có giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật đặc sắc tiêu biểu
cho các nền văn học trên thế giới. Chẳng hạn văn học Trung Quốc có thơ
Đường của Đỗ Phủ, Lí Bạch, Bạch Cư Dị, truyện ngắn của Lỗ Tấn; Văn học
Nhật Bản có thơ Haicư; văn học Ấn Độ có Ramayana, thơ của Tagor; Văn học
Nga có các sáng tác của Puskin, Léptơnxtoi, Sêkhốp, Gorki, Sơlơkhơp; Văn học
Anh có các sáng tác của Sếchxpia; Văn học Pháp có các tác phẩm của Huygơ,
Banzắc; Văn học Mĩ có các tác phẩm của Hêmingway, Mark Twain... Tuy
nhiên, văn học nước ngồi trong chương trình Ngữ văn ở bậc Trung học phổ
thơng trong qua trình giảng dạy và học tập, giáo viên và học sinh gặp khơng ít
khó khăn, nhất là theo u cầu của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Một
số giáo viên chú trọng dạy tác phẩm văn học Việt Nam hơn văn học nước
ngoài. Phương pháp dạy học các tác phẩm văn học nước ngoài chưa được quan
tâm nhiều. Thêm nữa, sự khác biệt trong văn hóa cũng gây nhiều khó khăn

1


trong tiếp nhận và giảng dạy. Nhiều nhà quản lý, giáo viên và cả học sinh chưa
thấy được hết vai trị quan trọng của văn học nước ngồi với việc bồi dưỡng
thẩm mĩ, vốn văn hóa của học sinh.
Tác phẩm “Ông già và biển cả” của nhà văn Hêmingway là tác phẩm đỉnh
cao của văn xi hiện đại Mĩ nói riêng và văn học thế giới nói chung. Tác
phẩm đã đem đến cho nhà văn Hêmingway giải Nobel văn học vào năm 1954.
Tác phẩm này không chỉ mang nhiều ý nghĩa nhân sinh sâu sắc mà còn thể hiện
nguyên lý sáng tác độc đáo do nhà văn đề xuất ra - nguyên lý “Tảng băng

trôi”. Tuy nhiên, đây là một tác phẩm mà các yếu tố ngôn ngữ, cốt truyện, nhân
vật… rất cô đọng nhưng lại hàm chứa nhiều tầng ý nghĩa, đòi hỏi người đọc tác
phẩm phải bằng kinh nghiệm, hiểu biết bản thân mới khám phá ra được các
tầng nghĩa đó. Do đó trong q trình dạy học giáo viên khơng khỏi lúng túng và
cảm thấy khó khăn khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu, cảm thụ, khám phá tác
phẩm.
Những lí do trên đây là cơ sở để chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên
cứu “Dạy học trích đoạn tiểu thuyết “Ơng già và biển cả” trong sách giáo
khoa Ngữ văn lớp 12 theo đặc trưng thể loại” với hi vọng đóng góp thêm một
vài ý kiến để khắc phục những khó khăn mà giáo viên và học sinh gặp phải
trong quá trình dạy và học tác phẩm.
2. Lịch sử vấn đề
Ernest Hêmingway (1899 - 1961) là một trong số ít những nhà văn nước
ngồi được quan tâm, đầu tư dịch thuật, nghiên cứu khá kĩ lưỡng ở Việt Nam.
Vào đầu những năm 90 là thời điểm mà Hêmingway được lựa chọn vào giảng
dạy ở nhà trường, chỉ mới có ba tiểu thuyết của Hêmingway được dịch ở cả hai
miền Nam - Bắc. Nhưng cho đến nay hầu hết các tác phẩm của Hêmingway
đều đã được dịch và có mặt tại Việt Nam. Số lượng các đầu sách, bài viết trên
báo, tạp chí, các cơng trình nghiên cứu về Hêmingway và các tác phẩm của nhà
văn này đã lên đến con số hơn 100 bài. Đây là một số lượng đáng kể với một

2


tác giả nước ngoài tại Việt Nam. Sau đây là một số cuốn sách và cơng trình
nghiên cứu đáng chú ý:
2.1 Sách và các cơng trình nghiên cứu về tác phẩm của Hemingway:
Nghiên cứu và đánh giá về tác phẩm "Ơng già và biển cả" có các các bài viết:
- "Ông già và biển cả và sự cách tân của Hêmingway đối với thể loại văn
xuôi thế kỉ XX" của tác giả Huy Liên. Tác giả chỉ ra những cách tân của

Hêmingway với thể loại văn xuôi như: sử dụng hình thức văn xi tương đối
nhỏ nhưng có sức chứa những hiện tượng và vấn đề to lớn trong cuộc sống
con người, xã hội; Đổi mới các yếu tố cấu trúc thể loại; Sử dụng thủ pháp điệp
khúc tạo âm hưởng vang vọng xung quanh nhân vật...
- "Ông già và biển cả - tiểu thuyết hiện thực xuất sắc thế kỉ XX" của Lê Đình
Cúc: "Hêmingway đã kết hợp nhiều phương pháp nghệ thuật để xây dựng nên
tác phẩm. Bút pháp hiện thực là cơ sở cho bút pháp tượng trưng, bút pháp ấn
tượng với những lợi thế của chúng đã tạo nên tính đa thanh đa nghĩa cho tác
phẩm. Với bút pháp hiện thực Hêmingway đã xây dựng thành cơng nhân vật
ơng lão đánh cá Santiago với điển hình mang ý nghĩa khái quát cao nhất. Ông
già Santiago là một ơng lão đánh cá người Cuba nhưng tồn bộ tác phẩm đã
cho người đọc một chân dung mới, là hình ảnh lồi người với vấn đề của nhân
loại".[5, tr.390]
- Bài nghiên cứu "Người góp phần đổi mới tư duy văn xi" của Vương Trí
Nhàn đã chỉ ra những đặc sắc của văn xuôi Hêmingway như: độc đáo trong
giọng văn, sự phá bỏ cốt truyện, tạo mạch ngầm và khoảng trống cho văn bản.
Theo Vương Trí Nhàn, qua các tác phẩm của Hêmingway "Các nhà nghiên
cứu có thể tìm thấy dấu vết của một khuynh hướng chi phối văn học hiện đại:
sự tan rã của các truyền thống, sự sụp đổ của ý niệm thống nhất về thời gian,
sự chuyển hóa nhanh chóng từ cái hợp lí sang phi lí, và một khát vọng mà thế
kỉ trước coi là điên rồ, làm sao để tác phẩm nghệ thuật chỉ là nó, chứ khơng
biểu đạt một cái gì khác".[5, tr.312]

3


- "Đối thoại và độc thoại nội tâm của Hêmingway", "Ngun lý tảng băng
trơi và "Ơng già và biển cả"" của Lê Huy Bắc. Trong bài "Đối thoại và độc
thoại nội tâm của Hêmingway" tác giả đã tiến hành khảo sát đối thoại và độc
thoại nội tâm qua một số truyện ngắn và tiểu thuyết tiêu biểu của nhà văn. Kết

quả khảo sát cho thấy "chỉ ở những tác phẩm sau 1937, khi người kể chuyện ở
ngôi thứ ba hiện diện nhiều hơn thì độc thoại nội tâm của Hêmingway có
những bước phát triển riêng. Từ đối thoại qua độc thoại nội tâm, Hêmingway
gần như chuyển sang sáng tác từ truyện ngắn sang tiểu thuyết. Thế giới tiểu
thuyết của ông là thế giới của những cách tân thuộc phạm vi độc thoại nội tâm"
[5, tr.330]. Còn trong bài "Nguyên lý tảng băng trơi" và "Ơng già và biển
cả" " tác giả đã có những phân tích, lí giải khá sâu sắc về ý nghĩa hình tượng
ngun lý "tảng băng trơi", các "tầng chìm" văn bản và các quan điểm khác
nhau của các nhà nghiên cứu xung quanh hình tượng nhân vật Santiago.
- "Nghệ thuật xây dựng truyện ngắn Hêmingway và nguyên tắc tảng băng
trôi" của Trần Thị Thuật: "Thực sự thì Hêmingway, một mặt, ln nỗ lực xây
dựng thế giới tác phẩm mình với một dung lượng ngơn từ tối thiểu, một mặt, lại
tìm cách để khả năng biểu hiện của thế giới ấy đạt mức tối đa, theo hướng cảm
xúc thẩm mĩ của người tiếp nhận. Nói cách khác Hêmingway ln địi hỏi người
đọc thâm nhập thế giới ấy một cách tích cực; cùng thở trong chính cái khơng khí
của nó, và sống đồng thời với những trạng huống của nhân vật". [5, tr.338]
- "Tiểu thuyết Hêmingway" của Đặng Anh Đào đề cập đến những kĩ thuật
viết văn xuôi độc đáo của Hêmingway trong ba cuốn tiểu thuyết tiêu biểu của
Hêmingway là "Giã từ vũ khí"; "Chng nguyện hồn ai" và "Ông già và biển
cả". Đặc biệt với tiểu thuyết "Ông già và biển cả" tác giả đề cập đến những nét
đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, điểm nhìn, hiện thực và biểu
tượng trong tác phẩm. Theo tác giả thì: "Nếu xét trên bề mặt, thì "Ơng già và
biển cả" ít có mối liên hệ chặt chẽ với một số tiểu thuyết trước đó của
Hêmingway như "Giã từ vũ khí"; "Chng nguyện hồn ai"... hoặc một số

4


truyện ngắn như "Năm mươi ngàn đô la"; "Người không thể chiến bại"; "Bọn
giết người"... Nhưng nếu xét sâu hơn, thì những nét mới mẻ và độc đáo ở đây

vẫn chỉ là sự phát triển một số nét đặc sắc về kiểu người hùng, về nghệ thuật kể
chuyện vốn dĩ đã tiềm tàng từ trước ở tác phẩm của ông"..." [5, tr.266].
- Trong bài "Đọc "Ông già và biển cả" tác giả Phong Lê đề cập đến chủ nghĩa
nhân đạo của Hêmingway. Theo Phong Lê chủ nghĩa nhân đạo được đề cập
ngay trong triết lí câu chuyện, trong tính cách và hành động của nhân vật. Tác
giả nhấn mạnh "tác phẩm có cái nhìn rất hiện thực về con ngưởi và dĩ có được
chính do lịng tha thiết tin u con người của Hêmingway".[5, tr.239]
- "Bàn về "Ông già và biển cả" của nhà nghiên cứu Phùng Văn Tửu bàn về
vấn đề nội dung và hình thức trong tác phẩm "Ơng già và biển cả". Tác giả đã
có những phân tích sâu sắc về cốt truyện, ngơn ngữ, cấu tứ, độc thoại nội tâm
mà nhà văn Hêmingway sử dụng trong tác phẩm này. Trên cơ sở phân tích mặt
hình thức của tác phẩm tác giả đi vào lí giải về mặt nội dung, thử khám phá
những nghĩa hàm ẩn trong tác phẩm. Phùng Văn Tửu đánh giá: "Với nghệ thuật
"tảng băng trôi" và nghệ thuật độc thoại nội tâm được vận dụng đến độ thuần
thục và nhiều tìm tịi đổi mới khác về kĩ thuật tiểu thuyết, Hêmingway "là một
trong những nhà văn gây nên sóng gió trong cái biển cả mênh mông là văn
học" (Trifonov)".[5, tr.275]
2.2 Sách và các cơng trình nghiên cứu về dạy - học tác phẩm "Ông già và
biển cả"
Nghiên cứu về dạy - học tác phẩm "Ơng già và biển cả" trong nhà trường
phổ thơng có các bài viết như:
"Dạy học tác phẩm của Hêmingway ở một số trường PTTH miền núi
phía Bắc" của Phạm Ngọc Thưởng; "Hêmingway với học sinh phổ thông
trung học Đà Nẵng" của Lê Quang Đức. Các tác giả này tiến hành điều tra
khảo sát tình hình dạy và học văn học Mĩ nói chung và Hêmingway nói riêng
trong nhà trường phổ thơng ở một số trường miền núi phía Bắc và một số

5



trường ở địa bàn tỉnh Đà Nẵng nhằm giúp các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý
giáo dục có một cái nhìn thực tế hơn về dạy - học văn học Mĩ nói chung và dạy
học tác phẩm Hêmingway nói riêng. Bài viết "Để giúp giáo viên giảng dạy tốt
hơn tác phẩm của Hêmingway ở PTTH"của thạc sĩ Bùi Thị Kim Hạnh đăng
trên báo Nghiên cứu giáo dục số 10/1998 đã tiến hành so sánh hai trích đoạn
khác nhau trong tác phẩm "Ông già và biển cả" được đưa vào giảng dạy ở hai
miền Nam - Bắc. Với hai đoạn trích này tác giả so sánh về các phần: khái quát,
giảng văn, câu hỏi hướng dẫn, bài tập... để thấy được sự khác nhau trong quan
điểm và mục đích biên soạn của hai bộ sách. Từ đó đề ra hướng tiếp cận phù
hợp với từng văn bản cụ thể
Về sách hướng dẫn dạy học gồm có:
- Sách giáo viên Ngữ văn lớp 12 (chương trình chuẩn): Hướng dẫn dạy trích
đoạn "Ông già và biển cả".
* Về nội dung của bài dạy yêu cầu làm rõ các đơn vị kiến thức như:
- Học sinh hiểu được niềm tin, ý chí và nghị lực của con người gửi gắm trong
tác phẩm.
- Phân biệt được các kiểu ngôn từ đối thoại, độc thoại nội tâm và hiểu cách viết
theo nguyên lí "Tảng băng trôi" của Hêmingway
* Về phương pháp:
- Giáo viên chỉ chọn những chi tiết thật tiêu biểu để minh họa cho các luận điểm.
* Tiến trình giờ dạy:
Bước 1: Giáo viên cho học sinh tìm hiểu tác giả, tác phẩm và nội dung ngun
lí "Tảng băng trơi".
Bước 2: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản trên cơ sở thảo luận và trả lời
các câu hỏi trong sách giáo khoa
Bước 3: Hướng dẫn học sinh thực hiện các bài tập nâng cao.
- Cuốn "Dạy - học văn học nước ngoài Ngữ văn 12" của tác giả Lê Huy Bắc,
theo tác giả nội dung bài dạy cần làm rõ:

6



- Khai thác mối quan hệ giữa ông lão và con cá Kiếm, ngôn từ độc thoại, độc
thoại nội tâm của ông lão để hướng đến việc tin tưởng, đề cao con người và cắt
nghĩa nguyên nhân tồn tại của con người trên trái đất này.
Các bước thực hiện:
Bước 1: Tìm hiểu tác giả tác phẩm
Bước 2: Đọc - hiểu văn bản: tóm tắt tác phẩm và phân tích tác phẩm
- Cuốn "Thiết kế dạy học ngữ văn 12" của tác giả Hồng Hữu Bội thì việc
dạy học trích đoạn này cần làm rõ các nội dung sau:
- Tìm ra các nghĩa hàm ẩn chứa trong tác phẩm.
- Khai thác cả mặt nổi và chìm của "Tảng băng trơi" ở hai sự kiện được tái hiện
trong văn bản là:
+ Cuộc chiến đấu giữa ơng lão và con cá
+ Hình ảnh con cá và thái độ của ơng lão với nó
Bài học được dẫn dắt theo các bước:
Bước 1: Đọc văn bản và tìm hiểu tác giả, tác phẩm
Bước 2: Xem xét từng nội dung của văn bản
Bước 3: Khơi gợi học sinh trao đổi những vấn đề tác giả đề ra trong tác phẩm
Việc nghiên cứu các bài viết về văn học Mĩ, về Hêmingway, về tác phẩm
"Ông già và biển cả" cùng với các bài điều tra, khảo sát tình hình dạy - học tác
phẩm trong nhà trường, các bài thiết kế bài giảng dạy, phân tích tác phẩm trên đã
giúp chúng tơi có cái nhìn khách quan hơn, hiểu một cách đúng đắn hơn về tác
phẩm, đồng thời gợi mở, bổ sung thêm nguồn kiến thức giúp chúng cho chúng
tơi hồn thiện thêm đề tài nghiên cứu: "Dạy học trích đoạn tiểu thuyết "Ơng
già và biển cả" trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 theo đặc trưng thể loại".
Về các cơng trình nghiên cứu khoa học có:
- Luận án tiến sĩ Ngữ văn: “Hêmingway ở Việt Nam” của tác giả Bùi Thị Kim
Hạnh, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Luận án nghiên về tình hình tiếp nhận
các tác phẩm của Hêmingway tại Việt Nam, sự giao thoa giữa Hêmingway và


7


các nhà văn đương đại Việt Nam, việc dạy và học tác phẩm của Hêmingway
trong nhà trường Việt Nam.
- Luận án tiến sĩ Ngữ văn: “Kiểu nhân vật trung tâm trong các tác phẩm của
Hêmingway” của tác giả Lê Huy Bắc, Đại học Sư phạm Hà Nội. Nghiên cứu về
các đặc điểm của nhân vật trung tâm trong các tác phẩm của Hê mingway
- Luận văn thạc sĩ Ngữ văn: “Truyện ngắn chiến tranh của Ernest
Hemingway” của tác giả Nguyễn Tiến Dũng, Đại học sư phạm Hồ Chí Minh.
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu về đặc trưng truyện ngắn chiến tranh của
Hêmingway ở phương diện ngôn ngữ, kết cấu, đề tài và thi pháp.
3. Mục đích nghiên cứu
- Tìm ra một định hướng dạy học và phương án cụ thể dạy học trích đoạn tiểu
thuyết "Ơng già và biển cả" vừa phù hợp với đặc trưng thể loại của tác phẩm,
vừa phù hợp với tầm tiếp nhận của học sinh lớp 12 Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Tác phẩm “Ông già và biển cả” của Hêmingway và phương pháp dạy học
trích đoạn tiểu thuyết "Ông già và biển cả" của Hêmingway trong sách giáo
khoa Ngữ văn lớp 12 ở nhà trường PTTH Việt Nam theo đặc trưng thể loại.
4.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phương pháp dạy học trích đoạn tiểu thuyết “Ông già và biển cả” của nhà
văn Hêmingway trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 theo đặc trưng thể loại.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Nghiên cứu trên bình diện lý thuyết
- Lý thuyết phương pháp dạy tác phẩm theo đặc trưng thể loại.
- Nguyên lý "Tảng băng trơi" và đặc trưng tiểu thuyết của Hêmingway nói
chung và tác phẩm "Ơng già và biển cả" nói riêng.

5.2 Khảo sát thực tiễn dạy và học

8


- Vị trí của trích đoạn tiểu thuyết "Ơng già và biển cả" trong chương trình
Ngữ văn phổ thơng .
- Học sinh với việc học tác phẩm: Học sinh học như thế nào? Học sinh đã đọc
toàn bộ tác phẩm hay chưa? Có cảm thấy hứng thú khơng? Học sinh có ấn
tượng gì và ấn tượng với chi tiết nào trong tác phẩm?
- Giáo viên với việc dạy tác phẩm: Giáo viên có hiểu biết về tác giả, tác phẩm
như thế nào? Dạy tác phẩm ra sao? trong dạy học tác phẩm này có điều gì khó
khăn? Giáo viên có kinh nghiệm gì về phương pháp dạy tác phẩm có hiệu quả?
5.3 Thực nghiệm sư phạm
Thiết kế bài học và dạy học thực nghiệm để kiểm chứng tính khả thi và
tính hiệu quả của phương án do luận văn đề xuất.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1 Vận dụng các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phương pháp tổng hợp lý luận: sử dụng phương pháp này nhằm đưa ra các
đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết nói chung và tiểu thuyết của nhà văn
Hêmingway nói riêng, tìm hiểu đặc điểm cảm thụ của học sinh THPT để đưa ra
nội dung, phương pháp, biện pháp dạy học cụ thể về trích đoạn tiểu thuyết
“Ông già và biển cả”trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12, tập 2.
6.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Chúng tôi sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp thống kê để xử lý số liệu thu thập được trong quá trình điều
tra khảo sát và thực nghiệm.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn để nắm bắt thực trạng dạy – học
văn học nước ngoài ở nhà trường phổ thơng như thế nào? Qua đó phục vụ cho
nghiên cứu đề tài được sát thực hơn, góp phâng nâng cao hiệu quả dạy và học.

- Phương pháp thực nghiệm sư phạm nhằm thực nghiệm những đề xuất của
luận văn.
7. Cấu trúc của luận văn

9


Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần nội dung của luận văn gồm 3
chương:
Chương I: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc dạy học trích đoạn tiểu
thuyết "Ông già và biển cả" của Hêmingway
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Lý luận về phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể
loại
1.1.2 Đặc trưng tiểu thuyết Hêmingway và tiểu thuyết "Ông già và biển cả"
1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của trích đoạn tiểu thuyết "Ơng già và
biển cả"
1.2.2 Giáo viên với việc dạy trích đoạn tiểu thuyết "Ông già và biển cả" trong
trường THPT hiện nay
1.2.3 Học sinh với việc học trích đoạn tiểu thuyết "Ơng già và biển cả" trong
trường THPT hiện nay
Chương II: Định hướng dạy học trích đoạn tiểu thuyết “Ơng già và biển
cả” của Hêmingway
2.1 Nguyên lý "Tảng băng trôi" và cách tiếp cận trích đoạn tiểu thuyết "Ơng
già và biển cả" theo nguyên lý tảng băng trôi
2.2 Định hướng dạy học của sách giáo viên và sách tham khảo
2.3 Định hướng dạy học của luận văn
Chương III: Thực nghiệm sư phạm
3.1 Thiết kế dạy học trích đoạn tiểu thuyết "Ơng già và biển cả" trong sách

giáo khoa Ngữ văn lớp 12
3.2 Tổ chức dạy học thực nghiệm
3.3 Kết quả thực nghiệm

10


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY HỌC
TRÍCH ĐOẠN TIỂU THUYẾT "ƠNG GIÀ VÀ BIỂN CẢ"
CỦA HÊMINGWAY
Ở chương này ý đồ khoa học của chúng tơi là muốn tìm hiểu hiện nay xã
hội nhìn nhận, đánh giá như thế nào về tác phẩm “Ông già và biển cả” của nhà
văn Hêmingway. Nhưng không phải tất cả mọi đánh giá chúng tôi đều đem vào
trong nhà trường mà chỉ lựa chọn những nội dung phù hợp với mục đích giáo
dục, giảng dạy trong nhà trường PTTH Việt Nam hiện nay. Do đó, nội dung
chính của chương 1 này là tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm qua
các ý kiến, các nghiên cứu của các nhà nghiên cứu văn học.
1.1 Cơ sở lí luận
1.1.1 Lí luận về phương pháp dạy học theo đặc trưng thể loại - thể loại tiểu
thuyết
1.1.1.1 Lí luận về phương pháp dạy học theo đặc trưng thể loại
Thể loại là dạng thức tồn tại chỉnh thể của tác phẩm văn học. Tác phẩm
văn học nào cũng có một hình thể nhất định (thể thức về cấu tạo, ngơn từ...).
Các hình thức cá biệt ấy rất đa dạng. Song các tác phẩm khác biệt ấy có những
điểm gần gũi nhau về mặt ngơn từ, hình tượng, cấu tạo. Do đó người ta chia tác
phẩm ra thành từng loại. Loại rộng hơn thể, thể nằm trong loại. Bất kì một tác
phẩm văn học nào cũng thuộc về một loại nhất định. Mỗi loại bao gồm một số
thể. Mỗi thể lại có những đặc thù riêng về mặt nội dung và hình thức. Ngay từ

thời cổ đại người ta chia tác phẩm văn học ra làm ba loại cơ bản là: tự sự, trữ
tình và kịch
Tự sự là loại tác phẩm văn học tái hiện trực tiếp hiện thực khách quan. Tự
sự là kể lại một câu chuyện có sự diễn biến của sự việc, hồn cảnh, có sự phát

11


triển của tâm trạng, tính cách, hành động của con người. Tác giả đóng vai trị
của người kể chuyện. Người kể chuyện có thể cơng khai cũng có thể giấu mặt.
Sự tồn tại của lời kể là một đặc điểm của loại tự sự. Tác phẩm thuộc loại hình
tự sự có khả năng dựng nên những bức tranh rộng lớn, sâu sắc, nhiều mặt về
đời sống xã hội và con người, về những biến động của lịch sử.
Trữ tình là sự bộc lộ trực tiếp tư tưởng, cảm xúc, tâm sự... phong phú của
tâm hồn và trí tuệ của con người. Tác giả có thể biểu hiện cảm xúc cá nhân
mình mà khơng cần kèm theo bất cứ một sự miêu tả biến cố, sự kiện nào. Tác
phẩm trữ tình biểu hiện cảm xúc chủ quan của nhà thơ nhưng điều đó cũng
được xác lập trong mối quan hệ giữa con người và thực tại khách quan bởi vì
mọi cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ của con người bao giờ cũng đều là cảm xúc,
tâm trạng trước vấn đề gì đó. Tác phẩm trữ tình bao giờ cũng mang đậm dấu ấn
riêng của nhà thơ. Trong tác phẩm trữ tình có nhân vật trữ tình và nhân vật
trong tác phẩm trữ tình. Nhân vật trong tác phẩm trữ tình là đối tượng để nhà
thơ gửi gắm tâm sự, cảm xúc, suy nghĩ ...của mình, là nguyên nhân trực tiếp
khêu gợi nguồn cảm hứng cho tác giả. Nhân vật trữ tình không phải là đối
tượng để nhà thơ miêu tả mà chính là những cảm xúc, ý nghĩ, tình cảm, tâm
trạng, suy tư... về lẽ sống và con người được thể hiện trong tác phẩm.
Kịch là kể một câu chuyện phản ánh xung đột nào đó trong xã hội khơng
phải bằng lời kể mà bằng lời thoại của nhân vật. Một tác phẩm kịch có thể đọc
nhưng chủ yếu là được diễn trên sân khấu. Ðặc điểm nổi bật của kịch là khơng
có lời người kể chuyện, lời tác giả thu hẹp vào các chú thích, hướng dẫn ngắn

gọn, tác giả đứng sau các nhân vật và hành động của nhân vật. Giống như
truyện, trong kịch có nhân vật nhưng do khơng có người kể chuyện nên diễn
biến nội tâm của nhân vật kịch thể hiện qua lời nói, ngữ điệu, hành động. Tính
cách nhân vật hiện lên hồn tồn qua lời nói (độc thoại, đối thoại, bàng thoại:
nói với khán giả) và hành động. Lời nói của nhân vật thường ngắn gọn, giàu
tính hành động. Nhà viết kịch tập trung miêu tả ngôn ngữ nhân vật. Nhân vật

12


thường được phân chia thành hai tuyến rõ ràng, mâu thuẫn giữa hai tuyến nhân
vật là mâu thuẫn của vở kịch. Cốt truyện của kịch là một chuỗi hành động của
các nhân vật và những sự kiện liên quan tới những hành động đó. Cốt truyện
trong một vở kịch thường chứa đựng nhiều tình huống mâu thuẫn gay cấn có
tính xung đột cao.
Sự phân chia tác phẩm văn học thành các thể, các loại là phù hợp với bản
chất chức năng của văn học, phù hợp với quy luật phản ánh hiện thực. Nhưng
thực tế văn học mỗi ngày một phong phú, đối tượng của văn học cũng ngày
càng đa dạng. Mọi sự phân chia đều chỉ mang tính chất tương đối. Tuy nhiên
dựa vào những đặc điểm riêng của ba loại này, chúng ta nhanh chóng nắm bắt
được về cấu tạo hình tượng của tác phẩm. Từ đó thâm nhập sâu vào những cấu
tạo phức tạp bên trong tác phẩm văn học. Nhờ đó "vẫn có thể nhận ra cái "tính
chất trữ tình", "tính chất tự sự", "tính chất kịch" trong từng tác phẩm cụ thể,
với từng tác giả và phong cách riêng, cụ thể nữa là thi pháp loại thể của nhà
văn đó trong tác phẩm của họ. Chính cái "loại tính chất ấy" mới cho phép ta
nhạy bén tiếp nhận "trúng", "đúng" với các tác phẩm cụ thể"[11, tr. 91].
Mục đích của việc dạy học tác phẩm văn học trong nhà trường là giúp cho
học sinh cảm thụ, lĩnh hội được sâu sắc các giá trị tư tưởng, nghệ thuật trong
hình tượng văn học của tác phẩm. Từ đó mà giáo dục cho học sinh về nhận
thức, tư tưởng, tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ, tư duy... Nhưng học sinh hiểu được

đến đâu, nắm bắt tác phẩm được đến đâu còn tùy thuộc vào người thầy, vào
mức độ hiểu, mức độ cảm của người thầy giáo. Do đó việc phân biệt được các
loại, các thể văn học cần thiết trước hết cho người thầy trong việc tìm hiểu tác
phẩm và cảm nhận về tác phẩm trước khi giảng dạy cho học sinh. Nói như giáo
sư Trần Thanh Đạm thì "nhà văn sáng tác theo loại thể thì người đọc cũng cảm
thụ theo loại thể và người dạy cũng giảng dạy theo loại thể. Nói một cách khác,
phương thức cấu tạo hình tượng mà tác giả đã sử dụng khi sáng tác đã quy

13


định phương thức cảm thụ hình tượng đó của người đọc và cũng từ đó quy định
phương thức giảng dạy của chúng ta"[15, tr. 30].
Công việc người thầy dạy văn không chỉ đơn giản là chiếm lĩnh, lĩnh hội
kiến thức mà còn phải giúp người khác chiếm lĩnh tác phẩm, do đó mà việc xác
định về loại, về thể, về chất của loại địi hỏi phải chính xác. Trong thực tế giảng
dạy người giáo viên cũng khơng ít lần băn khoăn, loay hoay và lúng túng trước
tác phẩm văn học và tài liệu hướng dẫn. Có lúc tài liệu hướng dẫn đi theo một
con đường và tác phẩm văn học lại đi theo một con đường khác. Có những tác
phẩm nằm giữa ranh giới của văn và thơ. Về mặt hình thức cấu trúc của tác
phẩm có thể đánh giá được nhưng đánh giá về chất của nó là tự sự hay trữ tình
là vấn đề khó. Với những tác phẩm ấy tiếp cận ra sao? Đi theo hướng nào? Sử
dụng phương pháp giảng dạy nào là thích hợp nhất?... Ngun nhân chính của
sự lúng túng đó là chưa xác định được thể loại của tác phẩm và các đặc điểm
của thể của loại, và nói như tác giả Nguyễn Viết Chữ thì "khơng "chính danh"
thì dù việc phân tích có sắc sảo đến đâu cũng chỉ là võ đốn" và "không xác
định rõ được "chất của loại" trong thể, khi thấy thơ ta dạy thơ trữ tình, khi gặp
truyện, ta dạy học theo tinh thần văn xuôi tự sự. Bệnh cơng thức cứng nhắc,
bệnh rập khn máy móc , bệnh xã hội dung tục... đều sinh ra từ đó. Xa rời bản
chất loại thể của tác phẩm , thực chất là xa rời tác phẩm cả về linh hồn và thể

xác. Vì khi người nghệ sĩ phải để tác phẩm ở dạng này hay dạng kia, khơng
phải hồn tồn do anh ta muốn mà là sự hợp lưu cộng hưởng của giai điệu
cuộc sống và giai điệu tâm hồn nghệ sĩ ở anh và ở nhiều yếu tố khác nữa... có
cả yếu tố vơ thức"[11, tr.102].
Từ những năm 70 của thế kỉ XX, các nhà khoa học về phương pháp đã
nhận thức rằng "Giảng dạy tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại chỉ là
một phương diện lớn của sự giảng dạy tác phẩm văn học trong sự thống nhất
giữa nội dung và hình thức, một sự giáo dục đi đúng với quy luật và bản chất
của văn học đồng thời cũng đảm bảo hiệu quả giáo dục cao nhất" [15, tr. 44].

14


Như vậy, người thầy giáo muốn thành công trong giảng dạy phải nắm vững
phương pháp giảng dạy theo thể loại cùng với đó là sự học tập, trau dồi, bồi
dưỡng khơng ngừng của bản thân người giáo viên. Đó là cái gốc để vận dụng
phương pháp giảng dạy tác phẩm theo thể loại thành công.
1.1.1.2 Phương pháp dạy học tiểu thuyết theo đặc trưng thể loại
Theo Từ điển thuật ngữ văn học (do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khi Phi đồng chủ biên) thì tiểu thuyết là "Tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng
phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian, thời gian. Tiểu thuyết
có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo
đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa
dạng". [23, tr. 328]
So với các thể loại tự sự khác thì tiểu thuyết có những đặc trưng cơ bản
sau:
Thứ nhất, tiểu thuyết nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư. Tùy theo từng thời kì
phát triển, cái nhìn đời tư có thể sâu sắc đến mức thể hiện được, hoặc kết hợp
được với các chủ đề thế sự hoặc lịch sử dân tộc. Yếu tố đời tư càng phát triển
thì tính chất tiểu thuyết càng tăng và ngược lại yếu tố lịch sử dân tộc càng phát

triển thì chất sử thi càng đậm đà.
Thứ hai, tiểu thuyết có chất văn xi, tức là một sự tái hiện cuộc sống, khơng
thi vị hóa, lãng mạn hóa, lí tưởng hóa. Miêu tả cuộc sống như nó vốn có, có cả
cái cao cả lẫn cái tầm thường, nghiêm túc lẫn buồn cười, cả bi lẫn hài...
Thứ ba, nhân vật trong tiểu thuyết là con người "nếm trải", con người tư duy,
khổ đau, dằn vặt của cuộc đời.
Thứ tư, ngoài hệ thống sự kiện, biến cố và những chi tiết tính cách, tiểu thuyết
miêu tả suy nghĩ của nhân vật về thế giới, về đời người, phân tích cặn kẽ các diễn
biến tình cảm, tiểu sử nhân vật, mọi chi tiết quan hệ giữa người với người...
Thứ năm, tiểu thuyết xóa bỏ khoảng cách về giá trị giữa người trần thuật và nội
dung trần thuật để miêu tả hiện thực như cái hiện thực đương thời của người

15


trần thuật. Đặc điểm này làm cho tiểu thuyết trở thành một thể loại dân chủ,
cho phép người trần thuật có thể thể hiện thái độ thân mật hoặc suồng sã với
nhân vật của mình.
Thứ sáu, tiểu thuyết là thể loại văn học có khả năng tổng hợp nhiều nhất các thể
loại văn học khác.
Dựa vào những đặc điểm của loại tự sự nói chung và thể loại tiểu thuyết
nói riêng khi tiến hành phương pháp dạy học theo đặc trưng thể loại theo tác
giả Trần Thanh Đạm thì cần chú trọng ba yêu cầu sau về mặt phương pháp:
Yêu cầu thứ nhất: Làm cho học sinh nắm vững được sự phát triển của tình tiết
trong tác phẩm tức là nắm được cốt truyện. Đây là bước đầu nhưng là bước rất
cần thiết và quan trọng.
Yêu cầu thứ hai: Làm cho học sinh cảm thụ sâu sắc, đánh giá được đúng đắn
nhân vật trong tác phẩm. Trong truyện, trung tâm của tình tiết là nhân vật.
Nhân vật gắn liền và hịa hợp với các tình tiết khơng rời. Do đó khi phân tích
nhân vật cần chú trọng cho học sinh lưu ý đến các chi tiết miêu tả, tự sự, nhận

xét về nhân vật trong bài văn. Phát hiện và lựa chọn các chi tiết tiêu biểu, sắp
xếp phân loại chúng theo trình tự hợp lý để làm sáng tỏ tính cách của nhân vật.
Cuối cùng tổng hợp các mặt phân tích về nhân vật thành một nhận định khái
quát, nêu bật các ý nghĩa và tác dụng nhận thức cũng như giáo dục của nhân
vật, gợi ra những vấn đề suy nghĩ, thảo luận, tranh luận về nhân vật.
Yêu cầu thứ ba: Làm cho học sinh cảm và hiểu được cái ý vị trong lời kể của
tác giả (hay người kể chuyện). Khi phân tích lời kể trong chuyện cần chú ý
đến sức mạnh của ngôn ngữ, chỉ rõ các từ ngữ, câu văn, cách viết, lối kể của
tác giả đã làm hiển hiện được cảm xúc nhân vật, khơi gợi cảm xúc trong
người đọc ra sao.
Còn theo tác giả Nguyễn Viết Chữ dạy học các tác phẩm tự sự nói chung và
tự sự tác giả nói riêng theo đặc trưng thể loại cần chú ý đến:

16


Thứ nhất, người dạy học loại tự sự này phải chú ý đến thi pháp tư tưởng, có thể
bộc lộ trong lời kể (gián tiếp hoặc trực tiếp).
Thứ hai, quan tâm đến tình tiết của tác phẩm.
Thứ ba, sự tồn tại hoạt động của nhân vật giữa các hệ thống, các sự việc, các
biến cố của cốt truyện.
Thứ tư, chú ý đến các yêu tố khách quan, sự "trầm tĩnh", "thản nhiên", giọng
điệu lại luôn thay đổi làm cho mỗi nhân vật có cách nói riêng và tiết tấu riêng.
Tác giả Nguyễn Viết Chữ đặc biệt nhấn mạnh đến việc giới thiệu tóm tắt
tác phẩm là cơng việc vơ cùng quan trọng bởi việc dạy một chương hay một
trích đoạn nào đó cũng chỉ nhằm mục đích minh họa cho tác phẩm. Khi dạy
học linh hoạt vận dụng ba con đường (theo tác giả, theo đề tài, chủ đề hoặc theo
nhân vật). Với tiểu thuyết hiện đại, cần chú ý tóm tắt tồn bộ tác phẩm. Chú ý
đến tên tác phẩm, đến tên từng chương của tác phẩm, các tình huống, chân
dung nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu.... Trong quá trình dạy học tác phẩm văn

chương minh họa, sử dụng nhiều câu hỏi, hình dung tưởng tượng tái tạo, câu
hỏi phân tích và chi tiết nghệ thuật.
1.1.2 Đặc trưng tiểu thuyết Hêmingway và tiểu thuyết "Ông già và biển cả"
1.1.2.1 Đặc trưng tiểu thuyết Hêmingway
Hêmingway là một nhà văn có ngòi bút hết sức độc đáo, đặc sắc. Số lượng
các nhà nghiên cứu, các bài viết về Hêmingway nói chung và tiểu thuyết của
ơng nói riêng khơng phải là ít. Mỗi bài viết, mỗi nhà nghiên cứu lại phát hiện ra
những nét đặc sắc rất riêng của Hêmingway trong các tác phẩm của mình.
Nhưng trong khn khổ hạn hẹp của một luận án không thể nào kể hết những
đặc sắc của Hêmingway, chúng tơi chỉ xin nói một vài nét sơ lược nhất về đặc
trưng tiểu thuyết của Hêmingway đã được các nhà nghiên cứu chỉ ra:
• Về nhân vật:
Nhân vật của Hêmingway luôn được đặt trong môi trường khốc liệt, họ
luôn phải đấu tranh để vượt qua, để khẳng định bản thân. Theo nhận định

17


của PGS.TS Lê Huy Bắc thì nhân vật trong các tác phẩm của Hêmingway thuộc
dạng đặc trưng nhất không thể lẫn với bất kì nhân vật của một nhà văn nào khác.
Nhân vật của Hêmingway luôn được đặt trong môi trường khốc liệt, khốc liệt
đến mức họ luôn bị cái chết rình mị và buộc phải đấu tranh để vượt qua. Nhân
vật Hêmingway buộc phải tự mình tìm một lối thoát theo cách của họ để bảo vệ
sự sống của bản thân, tính chất anh hùng được tốt lên từ khả năng chống chọi
và tìm đường này. Cách thức để các nhân vật đương đầu với mọi thứ thách, ở
từng trường hợp khác nhau, có thể là khác nhau nhưng họ đều có cùng điểm
chung là dựa vào sự điêu luyện của tay nghề, của ý chí và nghị lực.
Nhân vật của Hêmingway ln có ý thức về sự hư vô mà họ phải đương
đầu. Họ biết rất rõ mục tiêu tồn tại của họ là chiến đấu chống lại cái hư vơ đó.
Nhưng họ khơng hề ảo tưởng con người đứng cao hơn số mệnh, cao hơn tự

nhiên. Họ biết một khi họ vượt qua được thử thách này thì thử thách khác lại
đến. Nhưng họ khơng bao giờ bng xi. Dù có rơi vào cảnh ngộ khốn cùng
nhất họ cũng vẫn dốc toàn bộ sức lực ra mà chiến đấu để có thể "tồn tại đúng
nghĩa một con người".
Đọc văn của Hêmingway, người ta cảm nhận được cái quyết liệt, cái
tàn bạo của cuộc sống, vừa có dịp khâm phục khả năng chống trả, khả năng
tự khẳng định mình của con người. Các nhân vật của Hêmingway ln được
đặt trong cái nền chung là chịu những đau đớn mất mát về tinh thần hoặc thể
xác, hoặc chịu những ám ảnh bạo lực, hoặc sống trong môi trường đầy đe dọa,
luôn phải đối diện với bạo lực hoặc cái chết. Khi đặt nhân vật trong thế đối diện
với những gai góc của cuộc sống, Hêmingway ln để nhân vật phải hoạt động,
buộc con người phải căng ra trong sự chịu đựng, trong những nỗi ám ảnh. Các
nhân vật của Hêmingway đơn độc và dũng cảm đối đầu với những tai họa. Họ
biết mình có thể thất bại nhưng họ không bao giờ chịu đầu hàng. Những nhân
vật này đi tìm ý nghĩa cuộc sống trong việc bảo vệ danh dự và phẩm giá của
bản thân. Họ tự đánh giá giá trị của đời họ bằng thước đo riêng của mình. Dư

18


×