Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Chính sách về ứng dụng CNTT giai đoạn 20112015 và định hướng đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.54 KB, 16 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
_________________

TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH KT-XH
Đề tài: Chính sách về ứng dụng CNTT giai đoạn

2011-2015 và định hướng đến năm 2020

Giáo viên HD: PGS.TS Phạm Văn Dũng
Lớp: CH Quản lý kinh tế 2 - Khóa 19
Nhóm: 06
1. Nguyễn Trung Thành (1975)
2. Lê Hoàng Ánh Dương
3. Nguyễn Hữu Bảo
4. Hoàng Mạnh Hùng (1981)
5. Nguyễn Văn Thanh
6. Nguyễn Đức Phương
7. Nguyễn Thu Hiền

Hà Nội, tháng 12/2011


I. Sự cấn thiết
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt
là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ
tự động hoá, công nghệ năng lượng v.v.. nền kinh tế thế giới đang biến đổi rất
sâu sắc, mạnh mẽ về cơ cấu, về chức năng, về phương thức hoạt động. Đây là
một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa trọng đại: nền kinh tế thế giới đang chuyển từ
kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế thông tin – kinh tế tri thức, nền văn minh


loài người đang chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ
Nhà nước ta đã chú trọng việc ứng dụng CNTT, đặc biệt là ứng dụng
CNTT trong cơ quan hành chính nhà nước. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật,
chính sách về ứng dụng CNTT đã được ban hành và tổ chức thực hiện.
Thời gian qua, thành quả ứng dụng CNTT đem lại là rất lớn và nổi bật,
qua đó góp phần cải cách thủ tục hành chính, hiệu quả chỉ đạo điều hành nâng
lên rõ rệt,…
Tuy vậy, kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm lực và nhu cầu phát
triển. Chính sách về ứng dụng CNTT giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến
năm 2020 có nhiều nội dung cần quan tâm.
II. Cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề chính sách
1. Cơ sở lý luận:
1.1. Các khái niệm:
- Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, công nghệ và
công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao
đổi thông tin số.
- Môi trường mạng là môi trường trong đó thông tin được cung cấp, truyền
đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông qua cơ sở hạ tầng thông tin.
- Cơ sở hạ tầng thông tin là hệ thống trang thiết bị phục vụ cho việc sản
xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số, bao gồm mạng
viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính và cơ sở dữ liệu.
- Hạ tầng kỹ thuật: là tập hợp thiết bị tính toán (máy chủ, máy trạm), thiết
bị ngoại vi, thiết bị kết nối mạng, thiết bị phụ trợ, mạng nội bộ, mạng diện rộng.


- Ứng dụng công nghệ thông tin là việc sử dụng công nghệ thông tin vào
các hoạt động thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh và
các hoạt động khác nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của các hoạt
động này.
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước: là

việc sử dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động của cơ quan nhà nước nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả trong hoạt động nội bộ của cơ quan nhà nước và
giữa các cơ quan nhà nước, trong giao dịch của cơ quan nhà nước với tổ chức và
cá nhân; hỗ trợ đẩy mạnh cải cách hành chính và bảo đảm công khai, minh bạch.
- Trang thông tin điện tử (Website) là trang thông tin hoặc một tập hợp
trang thông tin trên môi trường mạng phục vụ cho việc cung cấp, trao đổi thông
tin.
- Giao dịch điện tử là giao dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử
- Phương tiện điện tử là phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện,
điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công
nghệ tương tự
- Dịch vụ hành chính công: là những dịch vụ liên quan đến hoạt động thực
thi pháp luật, không nhằm mục tiêu lợi nhuận, do cơ quan nhà nước (hoặc tổ
chức, doanh nghiệp được ủy quyền) có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân
dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý trong các lĩnh vực mà cơ quan
nhà nước đó quản lý.
- Văn bản điện tử: là văn bản được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu.
- Chính phủ Điện tử (e-Government) là tên gọi của một chính phủ mà mọi
hoạt động của nhà nước được "điện tử hóa", "mạng hóa". Tuy nhiên, chính phủ
điện tử không đơn thuần là máy tính, mạng Internet; mà là sự đổi mới toàn diện
các quan hệ (đặc biệt là quan hệ giữa chính quyền và công dân), các nguồn lực,
các quy trình, phương thức hoạt động và bản thân nội dung các hoạt động của
chính quyền trung ương và địa phương, và ngay cả các quan niệm về các hoạt
động đó.
Chính phủ Điện tử là ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT)
để các cơ quan của Chính quyền từ trung ương và địa phương đổi mới, làm việc
có hiệu lực, hiệu quả và minh bạch hơn; cung cấp thông tin, dịch vụ tốt hơn cho


người dân, doanh nghiệp và các tổ chức; và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho

người dân thực hiện quyền dân chủ và tham gia quản lý Nhà nước.
Mặc dù còn có những quan niệm khác nhau, song có thể hiểu một cách đơn
giản: CPĐT là sự ứng dụng công nghệ thông tin – truyền thông để các cơ quan
chính phủ đổi mới, làm việc hiệu lực, hiệu quả và minh bạch hơn, cung cấp
thông tin, dịch vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp và các tổ chức; đồng thời
tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân thực hiện quyền dân chủ của mình
trong việc tham gia quản lý nhà nước. Nói cách ngắn gọn, CPĐT là chính phủ
hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, cung cấp dịch vụ tốt hơn trên cơ sở ứng dụng
công nghệ thông tin – truyền thông.
CPĐT với các đặc trưng:
Thứ nhất, CPĐT đã đưa chính phủ tới gần dân và đưa dân tới gần chính
phủ.
Thứ hai, CPĐT làm minh bạch hóa hoạt động của chính phủ, chống tham
nhũng, quan liêu, độc quyền
Thứ ba, CPĐT giúp chính phủ hoạt động có hiệu quả trong quản lý và phục
vụ dân (cải cách hành chính và nâng cao chất lượng dịch vụ công)
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến ứng dụng CNTT:
Ứng dụng thành công CNTT tại các đơn vị cũng cần hội tụ đủ các yếu tố
cần thiết. Nếu thiếu hoặc yếu một trong các yếu tố then chốt cơ bản sau đây sẽ
dẫn đến việc ứng dụng không hiệu quả hoặc không thành công:
a) Yếu tố con người
- Kỹ năng người sử dụng
- Nhận thức về lợi ích
- Nhận thức và ý chí người lãnh đạo
- Đội ngũ chuyên trách CNTT
b) Hạ tầng kỹ thuật:
- Số lượng: Trang thiết bị, phần mềm, phần cứng
- Chất lượng: Thiết bị tốt, đồng bộ,



c) Quy trình, thủ tục giải quyết công việc
d) Yếu tố tài chính
2.3. Lý do ban hành chính sách:
a) Ứng dụng CNTT đem lại những lợi ích lớn:
- Làm giảm chi phí hành chính. ICT cho phép cắt giảm đáng kể chi phí xử
lý thông tin và chi phí thực thi. Đặc biệt, ICT cho phép nhiều dữ liệu hơn (ví dụ,
việc thay đổi địa chỉ) được chia sẻ giữa các hệ thống thông tin khác nhau, qua đó
làm giảm lượng thời gian thu thập dữ liệu.
- Phản ứng nhanh và chính xác hơn đối với những đòi hỏi hay thắc mắc, kể
cả ngoài giờ làm việc thông thường. ICT có thể cho phép tiếp cận trực tiếp các
giao dịch hoặc tài khoản của khách hàng được lưu giữ ở những bộ phận khác
nhau của chính quyền, đặc biệt đối với những dịch vụ công ở cấp cơ sở.
- Khả năng tiếp cận ở tất cả các bộ, ngành và các cấp chính quyền từ bất kỳ
nơi nào. ICT hỗ trợ cho sự phát triển những phương thức thuận tiện và linh hoạt
hơn để giúp công dân có thể tiếp cận được các dịch vụ công. Ví dụ, một số chính
phủ đang phát triển những loại dịch vụ tiện ích trên mạng làm việc suốt ngày,
phục vụ các giao dịch như các khiếu nại, đòi hỏi về phúc lợi, đánh giá thuế, thủ
tục hồ sơ visa và gia hạn giấy phép. Việc sử dụng “thẻ thông minh” cũng đang
phát triển, cho phép tiếp cận ngày càng nhiều các dịch vụ của chính quyền- loại
hình cửa hàng điện tử một cửa. Những dịch vụ này có thể ngăn chặn tình trạng
lừa đảo hoặc sử dụng sai các dịch vụ và lợi ích công, làm cho công chúng ngày
càng tin tưởng vào các dịch vụ thuế và phúc lợi xã hội.
- Khả năng quản lý nhà nước tốt hơn. ICT làm cho chính quyền có khả năng
thu được nhiều dữ liệu hơn từ các hệ thống đang hoạt động, do đó làm tăng chất
lượng thông tin phản hồi tới các cấp ban hành chính sách và quản lý. Chính phủ
cũng có thể đảm bảo có nhiều thông tin hơn được cung cấp cho công chúng và
hỗ trợ những loại hình liên lạc trên mạng mới giữa các nhà hoạch định chính
sách, các đại biểu dân cử, từng cá nhân công dân, hoặc các nhóm vận động hàng
lang có tổ chức. Thông qua những cách này, ICT có thể giúp nâng cao năng lực
chỉ đạo trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước hiện đại. Những khả năng

này tồn tại ngay cả ở những nước đang phát triển có quy mô nhỏ, mặc dù chúng
đòi hỏi phương pháp tiếp cận có tính thực tế, phù hợp với quy mô nhỏ và năng
lực hành chính rất hạn chế.


- Hỗ trợ các khu vực kinh tế của quốc gia và địa phương nhờ khả năng tạo
điều kiện thuận lợi cho việc giao tiếp giữa chính phủ với doanh nghiệp. Điều này
có thể mang lại các dịch vụ được cải thiện cho các vùng nông thôn xa xôi và tăng
cường các dịch vụ hỗ trợ khẩn cấp.
- Tạo thêm những phương tiện để thu thập ý kiến phản hồi của công chúng.
b) Xu hướng phát triển tất yếu: Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá, công nghệ năng lượng v.v.. nền
kinh tế thế giới đang biến đổi rất sâu sắc, mạnh mẽ về cơ cấu, về chức năng, về
phương thức hoạt động. Đây là một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa trọng đại: nền
kinh tế thế giới đang chuyển từ kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế thông tin –
kinh tế tri thức, nền văn minh loài người đang chuyển từ văn minh công nghiệp
sang văn minh trí tuệ.
2. Cơ sở thực tiễn:
a) Ở nước ngoài:
Chính phủ Hàn Quốc trong giai đoạn tin học hóa và xây dựng CPĐT lần thứ
tư (từ năm 2007 trở đi) đã tập trung thúc đẩy chính phủ ở "mọi nơi, mọi lúc", áp
dụng nhiều công nghệ mới, cung cấp dịch vụ công chất lượng cao và tăng cường
chính sách của chính phủ, tăng cường mối quan hệ dựa vào nhau giữa người dân
với chính phủ. Hoạt động tin học hóa quốc gia và xã hội được bắt đầu từ năm
2002 và tiếp tục được triển khai mạnh mẽ trên các lĩnh vực giáo dục trên môi
trường điện tử, thương mại điện tử và tin học hóa trong các lĩnh vực công, bao
gồm dịch vụ hành chính công trực tuyến, đổi mới các hoạt động công và nâng
cấp CPĐT. Trọng tâm phát triển CPĐT ở Hàn Quốc trong những năm gần đây đã
có sự chuyển dịch mục tiêu từ đảm bảo thực hiện chức năng quản lý, điều hành

nhà nước trong các cơ quan nhà nước sang phục vụ xã hội. Nghĩa là, cùng với
nâng cao năng lực, quản lý điều hành của các cơ quan nhà nước phục vụ tác
nghiệp, mục tiêu phục vụ cộng đồng xã hội gồm người dân, doanh nghiệp và sự
liên kết giữa chính phủ và chính quyền địa phương cũng được ưu tiên đặt ra.
Trong giai đoạn 2003-2005 phát triển CPĐT ở Nhật Bản, chính phủ Nhật
Bản đã đặt ra chiến lược thúc đẩy ứng dụng CNTT trong cung cấp dịch vụ y tế,
thực phẩm, lối sống, tài chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tri thức, lao
động việc làm và các dịch vụ hành chính công. Trước đó, vào năm 2002 Luật
“dùng cho các thủ tục hành chính trực tuyến” cũng đã được đề xuất và đến năm


2004 đã được ban hành. Ngày 15/1/2004 E-Gov Nhật bản đã chính thức đi vào
hoạt động với một số dịch vụ hành chính trực tuyến như dịch vụ công chứng,
đăng ký đóng nộp thuế và dịch vụ làm hộ chiếu. Thống kê của chính phủ Nhật
Bản cho cho thấy hàng năm có khoảng 20 triệu bản đăng kí đóng thuế, nộp thuế,
ngoài ra có khoảng 49 triệu bản thủ tục liên quan đến việc bảo hiểm xã hội, 5.8
triệu lượt người đăng kí xin làm hộ chiếu.Tháng 1/2006, Ban chỉ đạo Chiến lược
CNTT xây dựng kế hoạch 05 năm “Chiến lược cải cách CNTT mới” nhằm mục
đích cung cấp dịch vụ công tốt hơn cho người dân (1). Mục tiêu đến năm 2010
phấn đấu đạt 100% giao dịch về dịch vụ bảo hiểm y tế được thực hiện trực tuyến.
Chính phủ Nhật Bản nhận thức rõ ràng xây dựng CPĐT phải gắn với cải cách
hành chính. Tính hiệu quả và thành công của các dịch vụ công (đặc biệt là dịch
vụ hành chính công) trực tuyến phải gắn liền với quy trình cải cách thủ tục hành
chính một cách đồng bộ.
Ở Ai Cập, trong chương trình hành động xã hội thông tin từ năm 2003,
chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2008, Ai Cập có thể đưa vào sử dụng các dịch
vụ công có chất lượng cao cho cộng đồng. Một trong những nguyên tắc cơ bản
trong chương trình này đó là: dịch vụ cần phải lấy người dân làm trọng tâm với
khẩu hiệu "government now delivers" và định hướng xây dựng các dịch vụ hành
chính công thông qua cơ chế một cửa. Văn hóa quản lý quan hệ khách hàng cho

chính phủ được coi trọng, trong đó người dân được xem là khách hàng và các cơ
quan chính phủ phải có nhiệm vụ thỏa mãn các yêu cầu của người dân. Chính
phủ Ai Cập nhận thức sự cần thiết phải xây dựng một cổng thông tin chính phủ
tích hợp thông tin và dịch vụ công để có thể phục vụ người dân được tốt hơn trên
cơ sở các hệ thống một cửa. Bắt đầu được xây dựng từ năm 2004, đến năm 2010
khoảng 1000 dịch vụ đã được tích hợp trên cổng thông tin chính phủ.
Năm 2000, chính phủ Singapore đã đề ra kế hoạch hành động CPĐT lần 1,
mục đích nhằm định hướng cho hoạt động và đầu tư về CNTT đối với các dịch
vụ công. Mục tiêu của kế hoạch này là đưa toàn bộ dịch vụ công trở thành dịch
vụ công trực tuyến. Kế hoạch này được đầu tư khoảng 01 tỷ USD, tập trung phục
vụ tương tác giữa chính phủ và doanh nghiệp (G2B), chính phủ với công dân
(G2C) và chính phủ với người lao động (G2E). Kết quả là đến năm 2007, đã có
khoảng 1.600 dịch vụ công trực tuyến được xây dựng. Người dân Singapore có
thể truy cập những dịch vụ này thông qua một cổng duy nhất, sử dụng một mật
khẩu và một mã nhận dạng chung cho tất cả các dịch vụ. Để đảm bảo người dân
có thể truy cập dịch vụ công trực tuyến của chính phủ, Singapore đã xây dựng
một mạng lưới các ki-ốt cung cập truy cập Internet miễn phí cho người dân.


Đồng thời nhiều kế hoạch giúp đỡ những người dân có thu nhập thấp nâng cao
trình độ cũng như nhận thức về ứng dụng CNTT. Một số dịch vụ công trực tuyến
đã được triển khai như đăng ký giấy phép lái xe, khai thuế thu nhập, đặt chỗ,
đăng ký thương hiệu. Các dịch vụ này luôn sẵn sàng ở chế độ 24/7 tại các ki-ốt
và có sự trợ giúp của chuyên gia nếu cần. Một số quỹ phục vụ nghiên cứu được
thành lập, cung cấp kinh phí cho các cơ quan chính phủ thử nghiệm công nghệ
mới, công bố thành công và chia sẻ kinh nghiệm với tất cả tổ chức khác. Song
song với đó, chính phủ Singapore cũng thực hiện chương trình các dịch vụ Web
với mục đích xây dựng và triển khai các dịch vụ trên nền Web trong lĩnh vực
hành chính công, khuyến khích các cơ quan chính phủ đưa thông tin và dịch vụ
lên môi trường Internet. Chương trình được đầu tư để cải cách cách thức cung

cấp và thực hiện dịch vụ trong lĩnh vực quản lý nhà nước, nâng cao hiệu quả chia
sẻ thông tin và dịch vụ giữa các cơ quan trong chính phủ nhằm đem lại chất
lượng dịch vụ tốt hơn. Chương trình dịch vụ cung cấp giấy phép kinh doanh trực
tuyến nhằm khuyến khích việc đầu tư vào Singapore thông qua cơ chế đăng ký
một cửa thông thoáng, gọn nhẹ.
Một trong những mục tiêu chính của chương trình tạo ra một chính phủ
khác biệt ở Đan Mạch đó là cung cấp dịch vụ công có chất lượng cao, đẩy mạnh
việc hợp tác mang tính liên ngành trong các cơ quan chính phủ. Từ nửa cuối thập
kỷ 90 của thế kỷ trước, các cơ quan, tổ chức nhà nước đã phải đối mặt với yêu
cầu phải tạo ra những trang thông tin điện tử riêng của mình để cung cấp thông
tin cho người dân. Vì vậy, trong chương trình này đến năm 2007, sẽ có khoảng
65% các dịch vụ công quan trọng nhất sẽ được đưa lên mạng Internet. Các thông
tin về người dân, doanh nghiệp, đất đai,… sẽ được tập trung lưu trữ và chia sẻ,
tránh tình trạng người dân phải cung cấp cùng một thông tin nhiều lần. Người
dân và doanh nghiệp sẽ được cấp mã số nhận dạng điện tử duy nhất, được sử
dụng trong giao dịch điện tử. Chính phủ Đan Mạch cũng cho rằng mỗi người dân
nên có một trang thông tin cá nhân trên mạng Internet dùng để lưu trữ thông tin
cá nhân cũng như quản lý các giao dịch giữa người dân và chính phủ. Chính phủ
có thể tận dụng những trang thông tin này để nâng cao chất lượng dịch vụ công
trực tuyến, rà soát nội dung để chính xác phản ánh nhu cầu kinh tế xã hội của
cộng đồng.
Năm 2000, Liên minh châu Âu bắt đầu đưa ra các sáng kiến về một châu
Âu điện tử với một số mục tiêu chính: đưa thông tin về người dân, trường học và
doanh nghiệp cùng với dịch vụ hành chính công lên mạng; tạo ra một môi trường
điện tử ở châu Âu và bảo đảm quá trình này phù hợp với đặc điểm văn hóa, dựa


trên nền tảng tin cậy và hợp tác giữa các nền văn hóa trong Liên minh. Đến năm
2005, tại Liên minh châu Âu, 20 dịch vụ công trực tuyến cơ bản, gồm 8 dịch vụ
công đối với doanh nghiệp và 12 dịch vụ công, đã được triển khai rộng rãi trong

đó có các dịch vụ hành chính công, dịch vụ về y tế và dịch vụ về giáo dục.
Tại Hoa Kỳ, Quốc hội và Tổng thống cùng thống nhất rằng chính phủ điện
tử chính là sự lựa chọn cho của tương lai. Các luật gồm Luật đổi mới quản lý
công nghệ thông tin năm 1996, luật tối giảm giấy tờ trong công tác chính phủ và
Luật về sử dụng chữ ký điện tử trong thương mại quốc gia và toàn cầu đã được
thông qua nhằm tháo gỡ khó khăn trong giao dịch điện tử. Vài tháng 12 năm
1999, Tổng thống Mỹ đã ký văn bản ghi nhớ yêu cầu các cơ quan chính phủ liên
bang phải cung cấp các mẫu biểu trước tháng 1/2001 và cung cất tất cả các dịch
vụ trước năm 2003. Quốc hội đã có ý kiến thành lập chức danh lãnh đạo thông
tin liên bang bên trong Văn phòng về quản lý và ngân sách nhằm hỗ trợ việc
quản lý và thúc đẩy các dịch vụ chính phủ điện tử và thiết lập các thủ tục trên
nền Web để khuyến khích người dân truy cập vào dịch vụ và thông tin chính phủ.
b) Bài học kinh nghiệm:
- Ứng dụng CNTT phải có lộ trình hợp lý phù hợp với thực tiễn, nội bộ
hoàn thiện trước, sau đó mở rộng ra bên ngoài
- Ứng dụng CNTT phải gắn liền với quy trình cải cách thủ tục hành chính
một cách đồng bộ, đơn giản hóa
- Ưu tiên đầu tư các nguồn lực về CNTT, trong đó con người là quan trọng
nhất
III. Thực trạng chính sách
1. Hệ thống văn bản quan trọng:
- Nghị quyết 49/CP ngày 04/08/1993 của Chính phủ về phát triển CNTT
- Luật Giao dịch điện tử ngày 29 tháng 11 năm 2005;
- Luật Công nghệ thông tin ngày 29 tháng 6 năm 2006;
- Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về ứng
dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước;
- Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ
quan nhà nước các giai đoạn 2001-2005; 2006-2010; 2011-2015
2. Nội dung chính sách:



Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ
quan nhà nước các giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020 (đình
kèm):
Một số nội dung cơ bản:
1. Mục tiêu tổng quát
2. Mục tiêu cụ thể
a) Xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng thông tin, tạo nền tảng phát triển
Chính phủ điện tử
b) Ứng dụng công nghệ thông tin trong nội bộ cơ quan nhà nước
- 60% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan nhà nước
được trao đổi hoàn toàn dưới dạng điện tử.
- Hầu hết cán bộ, công chức thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử
trong công việc.
- Bảo đảm các điều kiện về kỹ thuật cho 100% các cuộc họp của Thủ tướng
Chính phủ với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thể được thực hiện trên
môi trường mạng.
- Bảo đảm các điều kiện về kỹ thuật để 100% hồ sơ quản lý cán bộ, công
chức các cấp có thể được quản lý chung trên mạng với quy mô quốc gia.
- Triển khai Hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc tới 100% các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Bảo đảm dữ liệu điện tử phục vụ hầu hết các hoạt động trong cơ quan nhà
nước.
c) Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ người dân và doanh nghiệp
- 100% các cơ quan nhà nước từ cấp quận, huyện, Sở, Ban, ngành hoặc
tương đương trở lên có cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử cung
cấp đầy đủ thông tin theo Điều 28 của Luật Công nghệ thông tin, cung cấp tất cả
các dịch vụ công trực tuyến mức độ 2 và hầu hết các dịch vụ công cơ bản trực
tuyến tối thiểu mức độ 3 tới người dân và doanh nghiệp.

- 50% hồ sơ khai thuế của người dân và doanh nghiệp được nộp qua mạng.
- 90% cơ quan hải quan các tỉnh, thành phố triển khai thủ tục hải quan điện


tử.
- Tất cả kế hoạch đấu thầu, thông báo mời thầu, kết quả đấu thầu, danh sách
nhà thầu tham gia được đăng tải trên mạng đấu thầu quốc gia; khoảng 20% số
gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp và dịch vụ tư vấn sử dụng vốn nhà nước
được thực hiện qua mạng; thí điểm hình thức mua sắm chính phủ tập trung trên
hệ thống mạng đấu thầu quốc gia.
- 100% hộ chiếu được cấp cho công dân Việt Nam phục vụ công tác xuất,
nhập cảnh là hộ chiếu điện tử.
- 30% công dân Việt Nam đủ độ tuổi theo quy định được cấp chứng minh
nhân dân sản xuất trên dây chuyền hiện đại, với một số chứng minh nhân dân
duy nhất không trùng lặp, chống được làm giả.
- 30% số hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng được nộp qua mạng.
3. Nội dung chương trình

- Phát triển hạ tầng kỹ thuật
- Phát triển các hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu lớn
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong nội bộ cơ quan nhà nước
- Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ người dân và doanh nghiệp
+ Cung cấp tất cả các dịch vụ công trực tuyến mức độ 2. Cho phép người sử
dụng tải về các mẫu văn bản và khai báo để hoàn thiện hồ sơ theo yêu cầu và
được thông báo tình trạng xử lý các thủ tục hành chính của các cơ quan nhà nước
qua mạng.
+ Cung cấp hầu hết các dịch vụ công cơ bản trực tuyến tối thiểu mức độ 3 tới
người dân và doanh nghiệp. Cho phép người sử dụng điền và gửi trực tuyến các
mẫu văn bản đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ. Danh mục nhóm các dịch
vụ công trực tuyến được ưu tiên cung cấp tối thiểu ở mức độ 3 tại các tỉnh, thành

phố được nêu trong Phụ lục I, tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ được nêu trong Phụ
lục II. Danh mục nhóm các dịch vụ này có thể được cập nhật, thay đổi hàng năm
phù hợp thực tế triển khai trên cơ sở đề nghị của các cơ quan chủ trì thực hiện.
....
4. Kinh phí thực hiện


5. Giải pháp thực hiện

- Tổ chức, điều hành
.....
+ Người đứng đầu các cơ quan phải chủ động, có quyết tâm chính trị cao,
theo sát và ủng hộ quá trình ứng dụng công nghệ thông tin vào cơ quan mình.
.....
+ Kết hợp chặt chẽ việc triển khai Chương trình này với Chương trình cải
cách hành chính để ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan
nhà nước có tác dụng thực sự thúc đẩy cải cách hành chính, quá trình cải cách
hành chính đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi cho ứng dụng công nghệ thông tin.
Tăng cường công tác cải tiến quy trình làm việc, chuẩn hóa nghiệp vụ để có thể
ứng dụng công nghệ thông tin.
- Bảo đảm ứng dụng công nghệ thông tin đồng bộ
- Nâng cao nhận thức, đào tạo nguồn nhân lực
- Bảo đảm môi trường pháp lý
- Học tập kinh nghiệm quốc tế
6. Tổ chức thực hiện
- Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm:
...
+ Bảo đảm kinh phí (chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên) để thực hiện
các nhiệm vụ, dự án ứng dụng công nghệ thông tin theo kế hoạch 5 năm, hàng

năm đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt;
+ Áp dụng quy chuẩn, tiêu chuẩn về ứng dụng công nghệ thông tin quốc
gia, báo cáo tình hình thực hiện với Bộ Thông tin và Truyền thông theo hướng
dẫn của Bộ Thông tin và Truyền thông.
1.2. Tình hình ứng dụng CNTT Việt Nam:
a) Khối cơ quan Nhà nước:


Về cơ bản hoàn thành mục tiêu đưa các thông tin chỉ đạo, điều hành của
lãnh đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh/thành
phố trực thuộc Trung ương lên cổng/trang thông tin điện tử.
Nhiều chỉ tiêu đã vượt kế hoạch đặt ra. Điển hình như tỷ lệ trung bình cán
bộ, công chức sử dụng thư điện tử cho công việc ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, UBND thành phố trực thuộc Trung ương là 85%, ở
UBND tỉnh là 75%
Tỷ lệ cơ quan Nhà nước cấp Trung ương triển khai sử dụng phần mềm ứng
dụng quản lý văn bản và điều hành trên môi trường mạng là 95%; đối với UBND
tỉnh là 98%
Tuy nhiên, vẫn còn một số chỉ tiêu còn đạt ở mức thấp. Ví dụ như mới chỉ
có 60% số cổng/trang thông tin điện tử của các Bộ, cơ quan ngang Bộ cung cấp
dịch vụ công trực tuyến mức độ 2 cho người dân và doanh nghiệp. Đối với
cổng/trang thông tin điện tử của UBND tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương ,
chỉ đạt 55,6%, mới có 46,77% tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành
cơ chế, văn bản quy định để thu hút các DN hoặc tỷ lệ trung bình văn bản đi/đến
được chuyển hoàn toàn trên môi trường mạng Internet còn rất thấp, chỉ đạt 24%
(cao nhất 80%, thấp nhất 8%). 85% đơn vị có số văn bản đi/đến vẫn được
chuyển theo phương thức thủ công truyền thống với tỷ lệ hơn 50%.
b) Khối doanh nghiệp:
Theo số liệu điều tra năm 2010, mới có 16,78% DN có website, 14,22%
DN cho biết sẽ xây dựng website trong tương lai, và 66,27% DN chưa có nhu

cầu xây dựng website riêng.
Trong số các DN có website riêng, 87,31% chủ yếu dùng website để giới
thiệu về công ty; 81,73% dùng để giới thiệu sản phẩm, 61,42% trao đổi với
khách hàng. Chỉ có 22,84% DN sử dụng website để bán hàng qua mạng.
Có thể nói mục đích quan trọng nhất của Internet đối với DN là tìm kiếm
và trao đổi thông tin. Chỉ có khoảng 4% DN tiến hành hoạt động mua hàng qua
mạng.
Mức độ tham gia của các DN vào các loại hình thương mại điện tử vẫn còn
dè dặt. Mới có khoảng 6% DN tham gia các sàn giao dịch thương mại điện tử,
1,36% DN có cán bộ chuyên trách về thương mại điện tử. Nguyên do là DN cho
rằng người tiêu dùng chưa quen mua hàng hóa, dịch vụ qua mạng, chi phí tham
gia thương mại điện tử cao, DN chưa có nguồn nhân lực để vận hành thương mại


điện tử, lo ngại tính an toàn chưa được đảm bảo, dịch vụ ngân hàng chưa đồng
bộ.
2. Những tồn tại:
Thứ nhất, hạ tầng kỹ thuật CNTT trong các cơ quan Nhà nước có mức độ
triển khai và hiệu quả sử dụng còn hạn chế. Tỷ lệ các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
thành, thành phố trực thuộc Trung ương đã triển khai mạng diện rộng kết nối các
đơn vị trực thuộc (WAN) còn rất ít, hiệu quả sử dụng chưa cao. Hạ tầng bảo đảm
an toàn, an ninh, bảo mật thông tin hầu như chưa đáp ứng yêu cầu. Hệ thống
phòng chống virus chủ yếu mới chỉ triển khai ở mức đơn lẻ tại các máy trạm,
chưa xây dựng được các hệ thống tổng thể, và hầu như chưa triển khai ứng dụng
chữ ký và chứng thực số.
Đặc biệt, hạ tầng CNTT tại các cấp quận, huyện, phường, xã tại các tỉnh
còn rất thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu ứng dụng CNTT.
Thứ hai, các ứng dụng CNTT cơ bản hiện được triển khai ở mức độ nhỏ lẻ,
tính kết nối chưa cao. Việc sử dụng chủ yếu hạn chế trong các đơn vị đơn lẻ,
chưa kết nối rộng, chưa hình thành môi trường trao đổi và tác nghiệp trên mạng.

Thứ ba, phần lớn các dự án chuyên ngành chưa được hoàn thiện, chủ yếu
mới ở giai đoạn bắt đầu triển khai, hoặc triển khai thí điểm trên diện hẹp, gây cản
trở rất lớn cho phát triển chính phủ điện tử ở Việt Nam.
Thứ tư, mức độ cấp phát kinh phí cho các dự án chưa đủ, tiến độ cấp phát
chậm, sự phối hợp giữa các cơ quan trong triển khai các dự án án lớn chưa được
chú trọng, dẫn đến hạn chế kết nối giữa các hệ thống thông tin chuyên ngành lớn.
Thứ năm, số lượng và trình độ cán bộ chuyên trách về CNTT còn hạn chế,
đặc biệt là tại các địa phương.
3. Các nguyên nhân chủ yếu:
Thứ nhất, do yếu tố con người:
- Nhận thức về ứng dụng CNTT chưa đúng và đủ nên lãnh đạo vẫn đứng
ngoài cuộc: Cho đến thời điểm này nhận thức về ứng dụng CNTT của lãnh đạo
các cơ quan hành chính vẫn chủ yếu là đầu tư máy tính. Các đơn vị sẵn sàng bỏ
tiền tỷ ra đề đầu tư máy tính, nhưng không kiểm soát được mục tiêu và hiệu quả
sử dụng. Đến nhiều cơ quan quản lý nhà nước máy tính vẫn chủ yếu sử dụng gõ
văn bản, sử dụng một số phần mềm hỗ trợ kỹ thuật mang tính đơn lẻ và rất nhiều
cán bộ, công chức còn sử dụng để lang thang trên Internet, chat, chơi games. Tuy


nhiên có lẽ nhìn thấy sự tăng trưởng của đầu tư máy tính nên lãnh đạo các đơn vị
rất yên tâm về việc ứng dụng CNTT của đơn vị mình
- Năng lực và thói quen của chuyên viên: Quy chế tuyển viên chức chỉ yêu
cầu bằng A tin học. Bằng A tin học hiện nay chỉ đáp ứng yêu cầu gõ văn bản, các
kiến thức về làm việc trên mạng và chia xẻ thông tin qua mạng chưa có 1 chương
trình nào đào tạo. Cho đến thời điểm này, các ứng dụng không thể không sử
dụng môi trường mạng vì nhu cầu quản lý thông tin tập trung và chia xẻ thông
tin, vì các quy trình nghiệp vụ mang tính liên thông không chỉ trong nhóm người
sử dụng của 1 phòng/ban mà còn liên thông giữa các phòng/ban của 1 đơn vị,
liên thông giữa các sở/ngành. Với năng lực CNTT bằng A nếu quyết tâm thì việc
học các ứng dụng không khó, hiện tại các ứng dụng rất gần gũi các nội dung

thông tin xử lý chuyên ngành, các ứng dụng mô phỏng gần như tuần tự các nội
dung xử lý. Tuy nhiên việc triển khai rất khó khăn do các chuyên viên dường
như không chịu tiếp nhận những cái mới, thói quen lưu giữ thông tin trong máy
cá nhân để thành tài sản riêng của mình, không muốn lưu trữ thông tin trên máy
chủ chung và sử dụng chung nguồn tài nguyên, mặc dù các phần mềm ứng dụng
đều có phân quyền rất chi tiết; thói quen muốn hồ sơ xử lý được trình bày theo ý
riêng của mình, bởi phần mềm sẽ tự động xuất ra các biểu mẫu theo quy định và
quan trọng nhất là ngại ứng dụng CNTT thì từng bước đi của hồ sơ đều minh
bạch và bị giám sát…..Vì vậy họ đưa ra rất nhiều lý do như ứng dụng phần mềm
chậm hơn xử lý thủ công, biên nhận hồ sơ bằng máy chậm hơn viết tay, vậy mà
nhiều lãnh đạo tin ngay và vì vậy CNTT không thể triển khai được hoặc triển
khai rất ì ạch.
- Năng lực và nhận thức về CNTT của người dân còn hạn chế: Với một tỷ lệ
lớn dân số làm nông nghiệp, số lượng dịch vụ công chủ yếu cung cấp cho dân,
trong khi đó điều kiện để tiếp cận nhận thức vai trò ứng dụng CNTT của người
dân là rất hạn chế và không dễ dàng có điều kiện kinh tế để đầu tư thiết bị CNTT.
Như vậy, dù cơ quan nhà nước có sẵn sàng cung cấp các dịch vụ thông qua
CNTT, nhưng người dân chưa sẵn sàng sử dụng đó chưa thể coi là thành công
Thứ hai, cải cách hành chính nói chung và thủ tục hành chính nói riêng còn
chậm, quy trình công tác trong cơ quan NN còn rườm rà, chậm cải tiến
Thứ ba, nền kinh tế đang gặp khó khăn, Nhà nước đang thực hiện chủ
trương cắt giả đầu tư công, điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện các chỉ
tiêu đề ra, bởi đầu tư cho ứng dụng CNTT hiện nay đòi hỏi nguồn tài chính lớn.
IV. Các kiến nghị :


Từ những phân tích nói trên, nhóm thực hiện đưa ra một số kiến nghị sau:
1. Đối với các mục tiêu cụ thể đối với cơ quan nhà nước:(có flie đính kèm)
- Các mục tiêu sau phải đặt ra cao hơn thậm chí tiệm cận mức 100%:
+ 60% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan nhà nước

được trao đổi hoàn toàn dưới dạng điện tử.
+ Hầu hết cán bộ, công chức thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử
trong công việc
Lý do:
+ Thực tế thực hiện đã vượt mức đề ra
+ Cơ quan NN có điều kiện để đạt mức cao hơn: công chức có trình độ,
có nhiều điều kiện để thực hiện, có các nguồn lực
2. Đặt chỉ tiêu theo ngành, lĩnh vực, trong đó tập trung đẩy mạnh các
lĩnh vực “nóng” cung cấp nhiều dịch vụ cho người dân, doanh nghiệp
3. Bổ sung chỉ tiêu giao dịch điện tử giữa cơ quan nhà nước với doanh
nghiệp theo mức cao hơn chỉ tiêu giao dịch với người dân
4. Gắn chặt trách nhiệm ứng dụng CNTT với cải cách hành chính, quy
trình thủ tục giải quyết công việc
5. Chế tài mạnh đối với thủ trưởng cơ quan hành chính trong việc thực
hiện thực hiện ứng dụng CNTT
6. Quy định tiêu chuẩn trình độ CNTT đối với CBCC ở mức cao hơn
(không như trình độ A, B như hiện nay)



×