Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tieu luan dia ly kinh te

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.76 KB, 24 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI:

NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn :
Nhóm thực hiện

:

Lớp

:

TP.HCM, tháng 12 năm 2009


LỜI MỞ ĐẦU

Theo Văn kiện Đại hội VIII “Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, gắn với
công nghiệp chế biến nông, lâm ,thủy sản và đổi mới kinh tế nông thôn theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.Để tìm hiểu rỏ các vấn đề về:






Nông nghiệp và phát triển nông nghiệp


Đặc điểm tổ chức lãnh thổ
Tình hình phân bố
Các vùng nông nghiệp phát triển
Định hướng chuyển dịch,các giải pháp và nhửng thành tựu để đưa nước ta
trở thành một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiên tiến

Chúng ta sẽ cùng nhau làm rõ vấn đề này thông qua bài tiểu luận với đề tài:
“NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM”.


I.NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
1. Nông nghiệp:
Đặc điểm:
- Đối tượng sản xuất : vật nuôi, cây trồng.
- Tư liệu sản xuất (TLSX) cơ bản, khó thay thế: đất đai
Tính đặc thù:
- Sản xuất nông nghiệp phân tán, mang tính thời vụ
- Mỗi vùng nông nghiệp có lợi thế riêng về sản phẩm
- Nông nghiệp sử dụng nguồn lực trên địa bàn khu vực nông nghiệp
- Hoạt động nông nghiệp gắn với nông dân, với xã hội nông thôn.
Tính đặc thù:
Cần giải quyết đồng bộ vấn đề nông nghiệp, nông dân, kinh tế - xã hội nông thôn
trong phát triển
So với các ngành khác:
 Công nghệ, năng suất, thu nhập, tích luỹ trong nông nghiệp thấp
 Lao động nông nghiệp dư thừa
Tính đặc thù:
Phải có phương án tháo gỡ áp lực, hạn chế cho quá trình phát triển nông nghiệp

2. Phát triển nông nghiệp :

2.1. Hoạt động đưa nông nghiệp vào trạng thái phát triển:
Định tính trạng thái phát triển nông nghiệp
 Nền nông nghiệp hàng hoá có trình độ cao.


 Lực lượng sản xuất (LLSX) phát triển, quan hệ sản xuất (QHSX) tiến bộ.
 Cơ cấu kinh tế, xã hội nông nghiệp, nông thôn hợp lý
 Chỉ tiêu quy mô, tốc độ tăng sản lượng nông nghiệp.
 Tỷ trọng các ngành trong cơ cấu ngành nông nghiệp
 Chỉ tiêu tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản
 Chỉ tiêu W, thu nhập/ha, thu nhập/hộ
 Các chỉ tiêu phát triển xã hội nông thôn
2.2. Nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn:
(1)- Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp và nông thôn theo hướng
hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn phù
hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh
thái của từng vùng; chuyển dịch cơ cấu ngành,
nghề, cơ cấu lao động, tạo việc làm thu hút
nhiều lao động ở nông thôn. Đưa nhanh tiến bộ
khoa học và công nghệ vào sản xuất nông
nghiệp, đạt mức tiên tiến trong khu vực về trình
độ công nghệ và về thu nhập trên một đơn vị
diện tích; tăng năng suất lao động, nâng cao
chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản
trong và ngoài nước, tăng đáng kể thị phần của các nông sản chủ lực trên thị
trường thế giới.
Chú trọng điện khí hóa, cơ giới hóa ở nông thôn. Phát triển mạnh công nghiệp chế
biến gắn với vùng nguyên liệu, cơ khí phục vụ nông nghiệp, công nghiệp gia công
và dịch vụ; liên kết nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ trên từng địa bàn và trong

cả nước.
Tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn. Quy hoạch hợp lý
và nâng cao hiệu quả việc sử dụng quỹ đất, nguồn nước, vốn rừng gắn với bảo vệ
môi trường. Quy hoạch các khu dân cư, phát triển các thị trấn, thị tứ, các điểm văn


hóa ở làng xã; nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần, xây dựng cuộc sống
dân chủ, công bằng, văn minh ở nông thôn.
(2)- Xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất nông nghiệp.
Điều chỉnh quy hoạch sản xuất lương thực phù hợp với nhu cầu và khả năng tiêu
thụ, tăng năng suất đi đôi với nâng cấp chất lượng. Bảo đảm an ninh lương thực
trong mọi tình huống. Xây dựng các vùng sản xuất tập trung lúa hàng hóa và ngô
làm thức ăn chăn nuôi; tận dụng điều kiện thích hợp của các địa bàn khác để sản
xuất lương thực có hiệu quả. Nâng cao giá trị và hiệu quả xuất khẩu gạo. Có chính
sách bảo đảm lợi ích của người sản xuất lương thực.
Phát triển theo quy hoạch và chú trọng đầu tư thâm canh các vùng cây công nghiệp
như cà-phê, cao-su, chè, điều, hạt tiêu, dừa, dâu tằm, bông, mía, lạc, thuốc lá...,
hình thành các vùng rau, hoa, quả có giá trị cao gắn với phát triển cơ sở bảo quản,
chế biến.
Phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả chăn nuôi gia súc, gia cầm; mở rộng
phương pháp nuôi công nghiệp gắn với chế biến sản phẩm; tăng tỷ trọng ngành
chăn nuôi trong nông nghiệp.
Phát huy lợi thế về thủy sản, tạo thành một ngành kinh tế mũi nhọn, vươn lên hàng
đầu trong khu vực. Phát triển mạnh nuôi, trồng thủy sản nước ngọt, nước lợ và
nước mặn, nhất là nuôi tôm, theo phương thức tiến bộ, hiệu quả và bền vững môi
trường. Tăng cường năng lực và nâng cao hiệu quả khai thác hải sản xa bờ; chuyển
đổi cơ cấu nghề nghiệp, ổn định khai thác gần bờ; nâng cao năng lực bảo quản, chế
biến sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường quốc tế và trong nước. Mở rộng và nâng
cấp các cơ sở hạ tầng, dịch vụ nghề cá. Giữ gìn môi trường biển và sông, nước, bảo
đảm cho sự tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản.

Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, nâng độ che phủ của rừng lên 43%. Hoàn
thành việc giao đất, giao rừng ổn định và lâu dài theo hướng xã hội hóa lâm
nghiệp, có chính sách bảo đảm cho người làm rừng sống được bằng nghề rừng. Kết
hợp lâm nghiệp với nông nghiệp và có chính sách hỗ trợ để định canh, định cư, ổn
định và cải thiện đời sống nhân dân miền núi. Ngăn chặn nạn đốt, phá rừng. Đẩy
mạnh trồng rừng kinh tế, tạo nguồn
gỗ trụ mỏ, nguyên liệu cho công
nghiệp bột giấy, công nghiệp chế
biến gỗ và làm hàng mỹ nghệ xuất
khẩu; nâng cao giá trị sản phẩm
rừng.


(3)- Tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong nông nghiệp , nhất là
công nghệ sinh học kết hợp với công nghệ thông tin. Chú trọng tạo và sử dụng
giống cây, con có năng suất, chất lượng và giá trị cao. Đưa nhanh công nghệ mới
vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp. ứng dụng công nghệ sạch trong nuôi, trồng và chế biến rau quả, thực
phẩm. Hạn chế việc sử dụng hóa chất độc hại trong nông nghiệp. Xây dựng một số
khu nông nghiệp công nghệ cao. Tăng cường đội ngũ, nâng cao năng lực và phát
huy tác dụng của cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư.
(4)- Tiếp tục phát triển và hoàn thiện về cơ bản hệ thống thủy lợi ngăn mặn, giữ
ngọt, kiểm soát lũ, bảo đảm tưới, tiêu an toàn, chủ động cho sản xuất nông nghiệp
(kể cả cây công nghiệp, nuôi, trồng thủy sản) và đời sống nông dân. Đối với những
khu vực thường bị bão, lũ, cùng với các giải pháp hạn chế tác hại thiên tai, phải
điều chỉnh quy hoạch sản xuất và dân cư thích nghi với điều kiện thiên nhiên. Nâng
cao năng lực dự báo thời tiết và khả năng chủ động phòng chống thiên tai, hạn chế
thiệt hại.
(5)- Phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn . Hình thành các khu
vực tập trung công nghiệp, các điểm công nghiệp ở nông thôn, các làng nghề gắn

với thị trường trong nước và xuất khẩu. Chuyển một phần doanh nghiệp gia công
(may mặc, da - giày...) và chế biến nông sản ở thành phố về nông thôn. Có chính
sách ưu đãi để thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào phát triển công
nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.
Trên cơ sở chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang các ngành, nghề khác,
từng bước tăng quỹ đất canh tác cho mỗi lao động nông nghiệp, mở rộng quy mô
sản xuất, tăng việc làm và thu nhập cho dân cư nông thôn.
Giá trị gia tăng nông nghiệp (kể cả thủy sản, lâm nghiệp) tăng bình quân hàng năm
4,0-4,5%. Đến năm 2010, tổng sản lượng lương thực có hạt đạt khoảng 40 triệu
tấn. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP khoảng 16-17%; tỷ trọng ngành chăn nuôi
trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng lên khoảng 25%. Thủy sản đạt sản
lượng 3,0-3,5 triệu tấn (trong đó khoảng 1/3 là sản phẩm nuôi, trồng). Bảo vệ 10
triệu ha rừng tự nhiên, hoàn thành chương trình trồng 5 triệu ha rừng. Kim ngạch
xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 9-10 tỷ USD, trong đó thủy sản khoảng 3,5 tỷ
USD.

II.ĐẶC ĐIỂM,VAI TRÒ CỦA NÔNG NGHIỆP:
1. Đặc điểm tổ chức lãnh thổ sản xuất (SX) nông nghiệp:


- SX nông nghiệp trải rộng theo không gian lãnh thổ. Đất đi là TLSX chính trong
nông nghiệp. Đối với những vùng đất có diện tích rộng lớn, liền dải thì cần thiết
phải tiến hành SX theo hướng chuyên môn hóa, chuyên canh. Để tạo ra khối lượng
sản phẩm lớn không ngừng đáp ứng nhu cầu của các vùng khác trong nước hoặc
xuất khẩu ra nước ngoài. Đối với những vùng đất có qui mô nhỏ hẹp hơn vẫn cần
thiết phải tiến hành phân bố SX nông nghiệp nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng tại chỗ của nhân dân ở giới hạn cho phép, hạn chế vận chuyển từ nơi khác về.
Trong SX nông nghiệp cần phải hết sức tiết kiệm đất đai, sử dụng phải đi đôi với
vấn đề bồi dưỡng, bảo vệ, cải tạo đất.
- SX nông nghiệp mang tính thời vụ. Thời gian lao động bao giờ cũng ngắn hơn

thời gian SX. Do đối tượng của SX nông nghiệp là những sinh vật sống (cây trồng,
vật nuôi) có những thời gian sinh trưởng không cần sự tác động của con người. Vì
thế thời gian nông nhàn chiếm 30% quĩ thời gian. Mà lao động nông nghiệp chiếm
62% tổng lao động xã hội (XH). Cần phát triển những ngành SX phụ, thực hiện đa
dạng hóa cơ cấu KT nông thôn, kết hợp giữa trồng trọt & chăn nuôi, chuyên môn
hóa với phát triển tổng hợp. Đồng thời áp dụng các biện pháp kĩ thuật để lai tạo
các giống cây trồng vật nuôi có thời gian lao động & thời gian SX tương đối phù
hợp với nhau & phù hợp với đặc điểm tự nhiên của từng vùng lãnh thổ nhằm hạn
chế một cách tối đa tính thời vụ trong SX nông nghiệp.
- SX nông nghiệp gắn bó chặt chẽ với môi trường tự nhiên (đất, khi hậu, nước, địa
hình) là những yếu tố có ảnh hưởng thường xuyên và trực tiếp đến SX nông
nghiệp. Với mỗi miền tự nhiên khác nhau, sẽ có các loại cây trồng vật nuôi với
năng suất, chất lượng sản phẩm khác nhau. Cần nghiên cứu kĩ đặc điểm sinh thái
của các loại cây trông vật nuôi và điều kiện từng vùng để phân bố cho phù hợp và
đạt hiệu quả kinh tế cao, tránh tình trạng phân bố sai lầm. Vì sai lầm trong phân bố
SX thì rất khó sửa chữa, gây hậu quả rất lớn.
- SX nông nghiệp đòi hỏi phải gắn liền với công nghiệp chế biến và tiêu thụ nông
sản. Tạo thành chu trình SX nông công nghiệp khép kín và hoàn chỉnh. Sản phẩm
NN bao gồm rất nhiều loại, trong đó có những loại chứa đựng một lượng nước lớn,
đòi hỏi phải tiêu thụ kịp thời hoặc qua chế biến để bảo đảm chất lượng sản phẩm,
nâng cao chất lượng sản phẩm. Vì vậy SX nông nghiệp và đặc biệt là một nền nông
nghiệp (NN) hiện đại thì luôn phải gắn liền với công nghiệp chế biến và tiêu thụ
nông sản.
Thực hiện được vấn đề này sẽ tạo điều kiện để đẩy mạnh chuyên môn hóa SX của
các vùng kinh tế, đẩy mạnh sự phát triển tổng hợp và đồng thời hạn chế được tính
thời vụ trong SX nông nghiệp.

2. Khái quát các vùng chuyên môn hóa Nông nghiệp ở nước ta:
- Bảy vùng kimh tế nông lâm ngư nghiệp:



Tên vùng

DT tự nhiên DT đất
(triệu ha)
(triệu ha)

Cả nước
Miền núi và trung du
Đồng bằng Sông Hồng
Khu Bốn cũ
Duyên hải Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long

33.099,1
10.296,2
1251,2
5.117,4
4.518,6
5.611,9
2.346,9
3.956,9

7.348,4
1293,1
721,3
693,0
533,2

572,7
937,3
2597,8

NN DT đất
(triệu ha)

LN

9641,2
2004,2
52,3
1.868,0
1.717,1
3.294,0
527,6
178,0

- Đã từng bước hình thành các vùng chuyên canh về cây trông vật nuôi trên cơ sở
khai thác tiềm năng của từng vùng.
- Vùng chuyên canh lúa: 3 vùng chính. ĐB
sông Cửu Long (50% tổng sản lượng), ĐB
sông Hồng (18-20%), ĐB duyên hải miền
Trung (18-20%).
- Vùng chuyên canh hoa màu lương thực:
Ngô (trung du miền núi phía Bắc) 1 triệu
tấn/năm. Khoai lang (31% diện tích hoa màu,
Bắc Trung bộ), sản lượng 2 triệu tấn. Sắn
(tương đương diện tích khoai lang, trung du
Bắc bộ, Đông Nam bộ), sản lượng 3 triệu

tấn.
- Vùng chuyên canh cây CN:
+ Dài ngày: cao su (Đông Nam bộ, Tây Nguyên, Bắc Trung bộ), cà phê (Tây
Nguyên, Đông Nam bộ, Bắc Trung bộ), chè (Đông Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung
bộ), hồ tiêu, điều (Tây Nguyên, Đông Nam bộ), sơn, hồi, sở (trung du miền núi
phía Bắc), dừa (ĐBSCL, Đông Nam bộ, Duyên hải miền Trung)
+ Ngắn ngày: lạc (Bắc Trung bộ, Đông Nam bộ) dẫn đầu về diện tích, mía
(ĐBSCL chiếm 45% sản lượng mía, Bắc Bộ, Trung bộ, Đông Nam bộ), đậu tương,
thuốc lá, bông, đay, cói, dâu tằm.
- Vùng chuyên canh chăn nuôi: vành đai quanh các thành phố, đô thị lớn (Ba Vì,
Mộc Châu, Đức Trọng..). Trâu 3 triệu con (trung du phía Bắc, Bắc Trung bộ). Bò 4


triệu con (Mộc Châu, Lâm Đồng). Lợn trên 16 triệu con (phía Bắc chiếm 3/5 số
lợn, trung du miền núi, đồng bằng Bắc bộ)
3.Vai trò:Tạo thế ổn định, điều kiện cho quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân
và kinh tế nông thôn.

III.ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ
CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
1.Định hướng phát triển thôn nông nghiệp và kinh tế nông thôn:
- Chuyển đổi nhanh chóng cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn;
xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh phù hợp với tiềm năng và
lợi thế về khí hậu, đất đai và lao động của từng vùng, từng địa phương. Ứng
dụng nhanh khoa học và công nghệ vào sản xuất, nhất là ứng dụng công nghệ
sinh học; gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến; gắn sản xuất với thị trường
tiêu thụ; hình thành sự liên kết nông - công nghiệp - dịch vụ ngay trên địa bàn
nông thôn.
- Tích cực khai hoang mở rộng diện tích canh tác ở những nơi còn đất hoang hoá
chưa được sử dụng, phân bố lại lao động dân cư; giảm nhẹ tác động của thiên tai

đối với sản xuất.
Phát triển mạnh ngành, nghề và kết cấu hạ
tầng ở nông thôn, tạo thêm việc làm mới
để chuyển lao động nông nghiệp sang làm
ngành, nghề phi nông nghiệp, nâng cao đời
sống của dân cư nông thôn. Phấn đấu đến năm
2005 thu nhập bình quân của nông dân gấp 1,7
lần so với hiện nay; không còn hộ đói, giảm đáng kể tỷ lệ hộ nghèo.
- Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất lương thực theo hướng thâm canh, tăng năng suất và
tăng nhanh lúa đặc sản, chất lượng cao. Sản lượng lương thực có hạt năm 2005 dự
kiến 37 triệu tấn, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.
- Tập trung phát triển các cây công nghiệp chủ lực có khả năng cạnh tranh như cao
su, cà phê chè, chè, điều,... Ngoài ra cần đặc biệt chú trọng phát triển các loại rau
quả và các sản phẩm đặc trưng khác.


- Phát triển chăn nuôi, dự
kiến năm 2005, sản lượng
thịt hơi các loại khoảng 2,5
triệu tấn. Hướng chính là tổ
chức lại sản xuất, khuyến
khích phát triển hộ hoặc
nông trại chăn nuôi quy mô
lớn; đầu tư cải tạo đàn
giống, tăng cường công tác
thú y; chế biến thức ăn chăn
nuôi; phát triển đàn bò thịt,
sữa và các cơ sở chế biến
thịt, sữa; tìm kiếm thị
trường xuất khẩu.

- Bảo vệ và phát triển rừng, tiếp tục thực hiện dự án 5 triệu ha rừng. Tăng nhanh
diện tích trồng rừng mới, kết hợp với khoanh nuôi, bảo vệ tái sinh rừng. Trồng mới
1,3 triệu ha rừng tập trung, nâng độ che phủ rừng lên khoảng 38 - 39% vào năm
2005; hoàn thành cơ bản công tác định canh định cư và ổn định đời sống nhân dân
vùng núi.
- Phát triển khai thác hải sản xa bờ và điều chỉnh nghề cá ven bờ hợp lý. Đầu tư
phát triển mạnh ngành nuôi, trồng thuỷ sản, xây dựng vùng nuôi, trồng tập trung,
gắn với phát triển công nghiệp chế biến chất lượng cao; đẩy mạnh nuôi tôm xuất
khẩu theo phương thức tiến bộ, bảo vệ môi trường. Xây dựng đồng bộ công nghiệp
khai thác cả về đội tàu, cảng, bến cá, đóng và sửa tàu thuyền, dệt lưới, dịch vụ hậu
cần, an toàn trên biển. Phấn đấu đạt sản lượng thuỷ sản năm 2005 vào khoảng 2,4
triệu tấn, giá trị xuất khẩu thuỷ sản khoảng 2,5 tỷ USD.
- Phát triển mạng lưới thuỷ lợi, bảo đảm cải tạo đất, thâm canh, tăng vụ và khai
thác các vùng đất mới. Hoàn thành xây dựng các công trình thuỷ lợi kết hợp với
phòng tránh lũ ở miền Trung như hệ thống thuỷ lợi sông Chu; hệ thống thuỷ lợi Bang
(Quảng Bình); thuỷ điện, thuỷ lợi Rào Quán (Quảng Trị); hồ Tả Trạch (Thừa Thiên
Huế); hồ Định Bình (Bình Định). Khởi công xây dựng thuỷ điện sông Ba Hạ kết
hợp với phòng chống lũ đồng bằng Tuy Hoà (Phú Yên). Xây dựng và củng cố hệ
thống đê biển và các công trình ngăn mặn, thuỷ lợi cho nuôi, trồng thuỷ sản ở đồng


bằng sông Cửu Long. Kiên cố hoá các tuyến đê xung yếu; tiếp tục thực hiện
chương trình kiên cố hoá kênh mương. Phấn đấu đến năm 2005, đưa năng lực tưới
lên 6,5 triệu ha gieo trồng lúa và 1,5 triệu ha rau màu, cây công nghiệp (tăng 60
vạn ha).
Phát triển nhanh cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn, tiếp tục đầu tư xây dựng
đường giao thông đến hơn 500 xã hiện chưa có đường ôtô đến trung tâm, mở rộng
mạng lưới cung cấp điện, thực hiện tốt chương trình quốc gia về nước sạch, vệ
sinh môi trường nông thôn, đến năm 2005 có 60% dân số nông thôn được sử dụng
nước hợp vệ sinh.

Mở mang các làng nghề, phát triển các điểm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, đưa
công nghiệp sơ chế và chế biến về nông
thôn và vùng nguyên liệu; phát triển lĩnh
vực dịch vụ cung ứng vật tư kỹ thuật,
trao đổi nông sản hàng hoá ở nông
thôn,... tăng nhanh việc làm cho khu vực
phi nông nghiệp. Tiếp tục chương trình
xoá đói, giảm nghèo, chú trọng phát
triển các đô thị nhỏ, các điểm bưu điện,
văn hoá ở làng, xã, các trung tâm văn hoá cụm xã. Đảm bảo an toàn xã hội, thực
hiện tốt quy chế dân chủ ở nông thôn.
- Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân 4,8%/năm. Đến năm
2005, ngành nông nghiệp chiếm khoảng 75 - 76% giá trị sản xuất toàn ngành; lâm
nghiệp khoảng 5 - 6%; thuỷ sản khoảng 19 - 20%.

2.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế - hướng đi tích cực để phát triển thị
trường Chuyển dịch cơ cấu kinh tế - hướng đi tích cực để phát triển
thị trường nông thôn trong tiến trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông
thôn hiện nay:
- Nước ta căn bản là một nước nông nghiệp, vì vậy
nông dân, nông nghiệp và nông thôn luôn là lực
lượng và cơ sở vật chất quan trọng tạo nên sự hưng
thịnh của dân tộc. Với quan điểm như vậy, trong


đường lối đổi mới của Đảng, nghị quyết Hội nghị TW6 (lần 1) khoá 8 đã đưa ra
chủ trương: “phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và hợp tác hoá với các giải pháp nhằm phát triển mạnh các ngành
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, giải quyết vấn đề thị

trường tiêu thụ nông sản, phải phát triển mạnh và đổi mới các hình thức kinh tế
hợp tác".
Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một quá trình
khó khăn và lâu dài. Đó là quá trình biến đổi về chất, toàn diện và là quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, phát huy lợi thế so sánh của từng
khu vực, trong đó phát triển một nền nông nghiệp và thị trường hàng hoá đa dạng
trên cơ sở một nền nông nghiệp gắn bó với công nghiệp, phát triển ngành nghề
mới, một hệ thống dịch vụ có hiệu quả đáp ứng các yêu cầu phát triển trên địa bàn
nông thôn. Để phát triển thị trường nông thôn, có nhiều hệ thống các giải pháp
khác nhau, cả ở tầm vi mô và quản lý nhà nước. Trong phạm vi và giới hạn bài viết
chúng tôi chỉ đề cập đến sự tác động tích cực của quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp đến sự phát triển thị trường nông thôn.
2.1. Thực trạng cơ cấu kinh tế và thị trường nông thôn nước ta những năm
gần đây
* Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta
- Nước ta vốn là một nước thuần nông có nền
kinh tế chưa phát triển, điều kiện sản xuất còn lạc
hậu. Đó là hậu quả của nhiều năm chiến tranh và
cơ chế bao cấp để lại. Nền kinh tế nói chung, và
đặc biệt là kinh tế nông nghiệp nước ta chỉ được
thức dậy 15 năm trở lại đây, từ khi có nghị quyết
10 của Bộ Chính trị về “đổi mới quản lý kinh tế
nông nghiệp” (tháng 4 năm 1988). Tuy nhiên, về cơ cấu kinh tế và lao động ở khu
vực nông thôn với các khu vực khác còn bất hợp lý, và ngay trong khu vực nông
thôn cũng còn mất cân đối nghiêm trọng giữa các ngành nghề và tỷ lệ lao động
được phân bổ. Thực trạng này biểu hiện qua một số nét chính cơ bản sau đây:
- Trước hết nói về cơ cấu lao động phân bổ cho các ngành nghề và các vùng trong
cả nước còn mất cân đối lớn. Đây là một khó khăn cho bước khởi đầu trong tiến
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Theo số liệu điều tra
kinh tế xã hội nông thôn, cho đến nay số hộ phi thuần nông ở nông thôn chiếm gần

20% tổng số hộ nông thôn cả nước và tạo ra từ 20% đến 25% thu nhập quốc dân


trong khu vực này, 80% là lao động nông nghiệp mà trong đó tỷ trọng lao động
trồng trọt là chủ yếu. Trong 7 vùng sinh thái của cả nước thì khu vực Đồng bằng
sông Hồng và trung du miền núi có tỷ trọng hộ nông nghiệp cao hơn cả theo bảng
thống kê dưới đây:
Đơn vị tính: %

Trung
Cả
du
nước miền
núi

Đồng
bằng
sông
Hồng

Đồng
Duyên
bằng
Khu
hải
Tây
Đông
sông
bốn cũ miền
Nguyên Nam Bộ

Cửu
Trung
Long

100

100

100

100

100

100

100

100

Hộ
nông
nghiệp
80,6

91,4

92,2

83,0


75,6

77,9

51,0

72,1

Hộ phi nông
nghiệp
19,4

8,6

7,8

17,0

24,4

22,1

49,0

27,9

Vùng
Loại hộ
Tổng số


-Trong mấy năm gần đây, kinh tế nông nghiệp có sự phát triển liên tục với nhịp độ
tăng trưởng từ 4,5% đến 5,0% năm, song với tốc độ tăng dân số có nơi lên tới 2,8%
làm cho mức thu nhập bình quân đầu người còn rất thấp chỉ khoảng 130.000đ/
người/ tháng và trung bình một lao động nông nghiệp mới làm ra khoảng 2,5 triệu
VND/năm. theo đó do sự khác biệt giữa các vùng về thu nhập nông nghiệp mà lợi
nhuận lao động gia đình ở vùng nghèo chỉ bằng khoảng 20% đến 30% vùng giàu
có hơn.
- Cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch còn chậm, giá trị sản lượng ngành trồng
trọt còn chiếm tỷ trọng cao từ 73% đến 75% tổng giá trị sản lượng.
- Trong sản xuất, diện tích cây lương thực vẫn giữ vai trò chủ đạo, với diện tích
gieo trồng khoảng 78% đến 79%, các loại cây công nghiệp dài ngày chỉ chiếm tỷ
trọng nhỏ. Chăn nuôi chưa trở thành ngành sản xuất chính.
- Các ngành sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn còn
phát triển chậm. Tỷ trọng công nghiệp dịch vụ đã tăng từ 12% những năm 1980 lên
22% những năm gần đây song giá trị còn nhỏ và phát triển không đều. Trong phát


triển còn nhỏ lẻ và đậm nét cổ truyền. Cáclàng nghề truyền thống ngày càng bị mai
một. Một số ngành nghề mới phát triển nhưng chưa mang tính chiến lược, sản xuất
không ổn định, sản phẩm đầu ra kém sức cạnh tranh và chưa được nhà nước bảo
trợ, khuyến khích. Vấn đề tiêu thụ sản phẩm đã trở thành mối lo thường xuyên của
người nông dân.
- Công nghệ sinh học yếu tố cơ bản để chuyển dịch cơ cấu vật nuôi cây trồng, nâng
cao năng suất lao động nông nghiệp còn chưa được quan tâm và đầu tư thoả đáng,
chưa xứng với yêu cầu đòi hỏi phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Mặt khác tình
trạng khai thác tài nguyên bừa bãi, môi trường sinh thái bị huỷ hoại dẫn đến việc
quy hoạch, khai thác và phát huy lợi thế so sánh của từng vùng bị hạn chế.
- Một vấn đề nữa cũng là áp lực lớn trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn là lao động không đủ việc làm khoảng 9 triệu người, và

mỗi năm gia tăng khoảng gần 1 triệu người. Riêng ở Đồng bằng sông Hồng có 70
vạn hécta đất nông nghiệp nhưng đã tập trung trên 8 triệu lao động nông thôn, với
mật độ trên 10 lao động 1 ha. Trong khi tốc độ đô thị hoá làm cho đất nông nghiệp
bị thu hẹp ngày càng lớn. Trước vấn đề này thì phát triển nông nghiệp trên cơ sở
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là phát triển công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp nông thôn, các ngành nghề dịch vụ nông thôn sẽ là con đường tất yếu trong
tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn hiện nay.
* Thị trường nông thôn nước ta những năm gần đây
- Sự phát triển của kinh tế nông thôn được phản ánh thông qua thị trường về quy
mô, phương thức hoạt động và cơ cấu cung cầu. Ngược lại, những tín hiệu của thị
trường về quan hệ cung cầu với mặt hàng, dịch vụ lại là định hướng tích cực cho
phát triển kinh tế nông thôn thông qua việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các
ngành nghề và giữa các vùng. Trên cơ sở một nền kinh tế nông nghiệp manh mún
và lạc hậu cơ cấu kinh tế chưa tạo đà cho sự phát triển, chưa có chiến lược và quy
hoạch tổng thể, thị trường nông thôn còn có những đặc điểm sau:
- Thị trường nông nghiệp nước ta được hình thành và phát
triển còn mang tính tự phát, nó mang sắc thái của nền sản
xuất nhỏ phân tán. Sức mua của thị trường thấp hơn nhiều
so với thị trường thành phố, do mức thu nhập của người
dân còn thấp. Hiện nay cả nước vẫn còn 16% số hộ nghèo
với khoảng 12,5 triệu người thuộc diện nghèo, trong đó có
khoảng 30 vạn hộ thiếu lương thực mà chủ yếu là các vùng
nông thôn và miền núi. Những hộ này ngoài sản phẩm


nông nghiệp họ ít có thu nhập bằng tiền từ các sản phẩm khác. Mặt khác, quy mô
thị trường nông thôn rất hạn hẹp, đó cũng là hiệu quả tất yếu của nền nông nghiệp
nhỏ manh múng. Kiến thức kinh doanh còn hạn chế, buôn bán tự phát, thanh toán
bằng tiền mặt, mua bán theo kiểu trao tay, và chủ yếu chỉ giới hạn trong các chợ
làng là chính. Những tiểu thương tham gia thị trường thông thường chỉ là những

người nông dân tại chỗ. Những thương nhân lớn hoạt động trong môi trường này
cũng chưa đủ sức mạnh để phá bỏ các luật, lệ làng và những rào cản văn hoá khác.
Theo thống kê cả nước có khoảng 4000 chợ thì trên địa bàn nông thôn có tới 3600
chợ chiếm 90%, chưa kể hàng ngàn chợ nhỏ ở các thôn và cụm dân cư. Như vậy,
với quy mô và hệ thống chợ nông thôn này nếu được định hướng quy hoạch và
phát triển, cùng với sự đầu tư cơ sở hạ tầng, thì đây là điều kiện tốt để giao thương
với các khu vực khác và là cơ sở để phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
khu vực nông thôn.
2.2. Những thành tựu đạt được trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
những năm đổi mới
- Với đường lối và chiến lược phát triển kinh tế của Đảng trong tiến trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và quá trình hội nhập là: tập trung và ưu tiên phát triển
bền vững nông nghiệp và nông thôn. Tuy còn khiêm tốn song cũng đã khẳng định
được sự phát triển mọi mặt trong khu vực nông thôn do những tác động tích cực từ
các chương trình, kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp:
- So với những năm 1990 diện tích cây công nghiệp hàng năm tăng 49,8%, cây
công nghiệp dài ngày tăng 82,9%, cây ăn quả tăng 55,6%, trong khi đó diện tích
cây lương thực tăng 20,1%, diện tích gieo trồng lúa tăng 27%, năng suất tăng 43%,
diện tích cao su tăng 61,7% ,năng suất tăng 114,4%, đàn lợn tăng 46,3%, trọng
lượng hơi xuất chuồng tăng 27%, sản lượng cà phê tăng gấp 20 lần, cao su gấp 3,5
lần, chè gấp 1,8 lần, điều 104 lần. Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm sản đạt 2,85 tỷ
USD, bằng 35% giá trị sản lượng toàn ngành. Tỷ lệ che phủ màu xanh của rừng đạt
trên 30%. Các vùng chuyên canh sản xuất tập trung với quy mô lớn dần được hình
thành như: lúa gạo (vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng đồng bằng sông Hồng),
cà phê, cao su (Tây Nguyên, Đông Nam Bộ), chè (Trung du miền núi phía Bắc và
Lâm Đồng), mía đường (Khu 4, Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ), điều
(Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên)...
- Nhà nước đã quan tâm và đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế
biến làm cho hiệu suất sử dụng sản phẩm nông nghiệp tăng lên, giá trị tăng lên
nhiều lần. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ với sự ưu đãi đã định hướng hoạt động

về thị trường nông thôn để khai thác về đất đai và lao động. Các ngành nghề truyền


thống và dịch vụ nông thôn phát triển khá nhanh, mỗi năm bình quân 9% đến 10%
về giá trị sản lượng. Làm cho tỷ trọng giá trị sản lượng các ngành nghề và dịch vụ
tăng dần trong cơ cấu kinh tế nông thôn, từ dưới 10% lên trên 30% như hiện nay.
- Với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn đã làm cho đời sống của người nông
dân được cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ hộ giàu tăng lên từ 8,08% năm 1990 lên hơn 20%
như hiện nay. Số hộ đầu tư vốn cho kinh tế trang trại bình quân 200 triệu đồng đã
có trên 1%. Số hộ nghèo giảm từ 25% xuống còn 17,4% năm 1998. Nhiều vùng
nông thôn đã đổi thay rõ rệt về cơ sở hạ tầng. Tính đến năm 1998 đã có trên 93%
số xã có đường ô tô tới khu trung tâm xã, 70% số xã và trên 50% số hộ có điện và
được dùng điện lưới quốc gia, 71% số xã có điện thoại, 98% số xã có trường tiểu
học và 76% số xã có trường phổ thông cơ sở, 93% số xã có trạm y tế, 36% dân cư
nông thôn được dùng nước sạch...
- Những thành tích đạt được trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
là rất đáng tự hào, song so với mục tiêu cần đạt được trong lộ trình thì còn nhiều
điều cần phải làm. Như tốc độ phát triển, tính đồng bộ và toàn diện, tỷ lệ vốn đầu
tư trong cơ cấu, các chế tài và điều kiện tạo đà cho sự phát triển sau này...

3. Định hướng chuyển dịch cơ cấu và đầu tư phát triển thị trường
nông thôn:
* Quan điểm và mục tiêu phát triển
Quán triệt quan điểm của Đảng ta trong quá trình phát triển là lấy nông nghiệp,
nông thôn làm nền tảng và là điều kiện tích cực để tiến hành công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nền kinh tế quốc dân, cụ thể là:
- Phát triển thị trường nông thôn thông suốt, thống nhất với thị trường cả nước để
điều hoà nguồn lực. Từng bước hoà nhập với thị trường khu vực và thị trường quốc
tế.
- Thị trường nông thôn phát triển phải có tác động tích cực tới việc chuyển đổi cơ

cấu kinh tế nông nghiệp có hiệu quả. Có vai trò định hướng, hướng dẫn người sản
xuất nông nghiệp chăn nuôi và làm ra sản phẩm gì phù hợp với yêu cầu của thị
trường và trở thành người bạn tin cậy của họ.
- Phát triển thị trường nông thôn bảo đảm khai thác có hiệu quả tiềm năng nông
nghiệp nông thôn, phát huy và phát triển tiềm năng của từng sản phẩm, từng ngành
nghề và từng vùng.


- Cần cải tiến và tổ chức lại hệ thống, đổi mới cơ chế quản lý các hoạt động thương
mại. Xây dựng thị trường đồng bộ gồm thị trường hàng tiêu dùng, thị trường vật tư,
dịch vụ, lao động, thị trường vốn... với nhiều thành phần tham gia, để hướng vào
việc mở rộng sức mua, kích thích nhu cầu mà nhà nước tham gia bao tiêu phần lớn
các sản phẩm nông sản và phát triển công nghệ chế biến những nông sản có tỷ
trọng hàng hoá cao.
- Mục tiêu cơ bản trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông
thôn từ nay đến năm 2010 là: Phải bảo đảm an ninh lương thực quốc gia với dân số
khoảng 80 triệu người năm 2000 và 91 đến 94 triệu người năm 2010. Với đời sống
vật chất và tinh thần tăng lên không ngừng. Đến năm 2010 thu nhập của nông dân
tăng gấp 2 lần, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 10%, nâng cấp cơ sở hạ tầng bảo
đảm 100% xã có đường ô tô tới khu trung tâm, có trường học, trạm y tế...Bảo vệ
môi trường sinh thái, giảm nhẹ thiên tai để phát triển bền vững, bảo đảm độ che
phủ của rừng năm 2000 đạt 33% và năm 2010 là 43%.
* Những định hướng chiến lược trong chuyển dịch cơ cấu
Để bảo đảm một tỷ lệ lao động hợp lý trong nông nghiệp là 50% và công nghiệp
dịch vụ 50%. Trong ngành nông lâm nghiệp, trồng trọt chiếm 60%, chăn nuôi
chiếm 40% giá trị sản lượng toàn ngành. Xây dựng cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng: nông nghiệp - công nghiệp và ngành nghề - dịch vụ đến năm 2010, những
chương trình lớn cần thực hiện trong ngành nông nghiệp là:
- Mở rộng sản xuất và nâng cao chất lượng cây
lương thực, cây công nghiệp, rau, hoa, quả, bảo

đảm cung cấp đủ cho tiêu dùng, nguyên liệu cho
các ngành công nghiệp chế biến và hướng mạnh
ra xuất khẩu. Chương trình an ninh lương thực
bảo đảm cho phát triển bền vững nền kinh tế vì
vậy từ nay đến năm 2010 phải giữ tốc độ tăng
trưởng về sản lượng lương thực ít nhất là 2% năm,
và duy trì cho được 4,2 triệu ha sản xuất lúa. Phát
triển khoảng 3 triệu ha cây công nghiệp và cây ăn
quả lâu năm, khoảng 1,2 triệu ha cây công nghiệp. Đến năm 2010 cà phê: 400.000
ha, cao su 700.000 ha, chè 100 đến 120.000 ha, lạc 500.000 ha, cây ăn quả 1 triệu
ha...Ngoài việc đáp ứng đủ nhu cầu trong nước bảo đảm kim ngạch xuất khẩu đạt 6
đến 6,5 tỷ USD vào năm 2010. Hình thành các vùng chuyên canh lớn cùng với
công nghệ chế biến hiện đại để bao tiêu và nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm
nông sản.


- Trong nông nghiệp phải đưa chăn nuôi trở thành ngành chính, có sản lượng và
chất lượng cao. Mục tiêu đề ra đến năm 2010 đạt được khoảng 10 triệu con trâu bò,
24 triệu con lợn, khoảng 300 triệu con gia cầm, với gần 4 triệu tấn thịt hơi các loại,
sữa tươi là 200.000 tấn. Ngành chăn nuôi phấn đấu đạt khoảng 40% GDP trong
nông nghiệp.
- Phát triển mạnh và đầu tư thoả đáng cho công nghiệp chế biến nông sản.
Đẩy nhanh tiến bộ kỹ thuật khâu sau thu hoạch để giảm hao hụt gạo còn
8% đến 9%, rau quả dưới 70%, các công nghệ chế biến, bảo quản rau,
quả, đậu thịt phải được cải tiến và áp dụng công nghệ hiện đại. Đến năm
2010 đảm bảo chế biến công nghệp 100% cao su, cà phê, chè điều, 90%
mía, 30% rau quả và thịt.
- Khôi phục và phát triển các ngành nghề nông thôn, đặc biệt là các làng nghề
truyền thống, các cơ sở chế biến, khuyến khích các ngành công nghiệp sử dụng
nhiều lao động và vật liệu tại chỗ như công nghiệp giấy đạt 90%, da giầy 75%, dệt

may 70%, vật liệu xây dựng 100%, sành sứ 90%...
- Phát triển mạnh các ngành nghề dịch vụ phục vụ nông nghiệp tạo đà cho sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế như ngành cơ khí nông nghiệp, dịch vụ tư vấn tìm kiếm
ngành nghề, nuôi trồng chế biến, dịch vụ cung ứng tài chính nông nghiệp, tổ chức
quản lý và đào tạo nâng cao tay nghề và trình độ quản lý sản xuất, kinh doanh trên
địa bàn nông thôn.
- Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải gắn với đầu tư cho phát
triển công nghệ và xúc tiến thương mại trên thị trường nông thôn. Đặc biệt cần có
sự quan tâm đúng mức của Đảng và sự năng động sáng tạo của các tổ chức các cơ
sở doanh nghiệp, tinh thần, ý thức xây dựng và phát triển của người dân nông thôn,
cũng như đội ngũ trí thức vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
và nông thôn trong lộ trình phát triển và hoà nhập cùng khu vực và quốc tế.

4.Tác động qua lại giữa chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế và cơ
cấu ngân sách: Chuyển dịch và giải pháp:
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn và tiêu thụ nông sản
- Phát biểu tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa X, ngày 7/12/2001, Phó Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Công Tạn đã dành phần lớn thời gian đề cập tới các vấn đề cơ


bản của sản xuất nông nghiệp hiện nay, đó là: chuyển dịch cơ cấu sản xuất, tiêu
thụ nông sản và các giải pháp đột phá trong năm 2002. Quốc Tế xin trích đăng
dưới đây các nội dung cơ bản đó. Đầu đề nhỏ trong bài là của Quốc Tế.
- Trong nhiệm kỳ từ năm 1997 đến nay, Chính phủ đã có 3 phiên họp để bàn về vấn
đề nông nghiệp nông thôn, tập trung chủ yếu về chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
và tiêu thụ nông sản.
- Nghị quyết Chính phủ số 09/2000/NQ-CP ngày 15/6/2000 "về một số chủ trương
và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp" đã
đề ra yêu cầu chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp phải bảo đảm nhanh, hiệu quả, phát
triển bền vững, đạt giá trị cao trên một đơn vị diện tích và tăng thu nhập cho nông

dân. Chuyển dịch cơ cấu là lựa chọn cơ cấu ngành sản xuất nông nghiệp căn cứ
vào lợi thế về tài nguyên và nhu cầu của thị trường. Cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp gồm 3 lĩnh vực: đối tượng (cây, con...), loại sản phẩm và quy mô sản xuất.
- Cơ cấu ngành sản xuất trong nông nghiệp là những định hướng mang tính chính
xác tương đối. Trong quá trình thực thi sẽ được điều chỉnh ăn khớp với sự tác động
của tiến bộ mới về khoa học, công nghệ và biến động về thị trường...
4.1.Định hướng cơ bản chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn:
- Tiếp tục coi trọng an ninh lương thực quốc gia (chủ yếu dựa vào sản xuất lúa),
tiếp tục phát triển sản xuất lương thực ở những vùng đặc biệt khó khăn, nhưng trên
phạm vi cả nước, phải chuyển mạnh sang sản xuất lúa gạo có chất lượng cao, tạo ra
những sản phẩm gạo đắt tiền, nhằm nâng cao thu nhập của người trồng lúa.
- Nhanh chóng thay thế phần lớn hàng nông sản phải nhập khẩu như: đường, bông,
thuốc lá, ngô, đậu tương, sữa, bột giấy.
- Điều chỉnh, duy trì và phát triển ở mức hợp lý các hàng nông sản xuất khẩu có lợi
thế cao như: cao su, cà phê, chè, điều, tiêu, dứa, thịt lợn...
- Tập trung phát triển rừng kinh tế phục vụ Chương trình sản xuất giấy và chế biến
lâm sản: phát triển các loại tre, trúc, keo, thông các loại, bạch đàn... làm nguyên
liệu phát triển ngành sản xuất giấy để ngành này sớm trở thành ngành sản xuất lớn
nhất về chế biến lâm sản của cả nước. Hàng năm, sản xuất khoảng 1 triệu tấn giấy
các loại, tiến tới xuất khẩu về bột giấy và giấy. Phải đưa lâm nghiệp thành một
ngành làm giàu cho đồng bào miền núi, có đóng góp lớn vào tổng GDP nông
nghiệp và bảo vệ môi trường:


- Khai thác có hiệu quả mặt nước, kể cả chuyển một phần đất sản xuất nông nghiệp
sang nuôi trồng thuỷ sản - ngành sản xuất có lợi thế lớn nhất của nền nông nghiệp
Việt Nam. Đạt sản lượng thuỷ sản 3,0-3,5 triệu tấn/năm, nâng kim ngạch xuất khẩu
vươn lên hàng đầu trong khu vực châu Á.
- Phát triển mạnh mẽ các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nông
thôn, nhất là công nghiệp chế biến nông lâm sản, đồng thời thúc đẩy công nghiệp

hoá nông thôn, nâng cao nhanh đời sống nhân dân sống ở nông thôn.
- Để định hướng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn ở một số vùng, Chính
phủ đã ban hành các Quyết định về phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên, về
phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long và về phát triển kinh tế xã hội 6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc, định hướng phát triển một số
cây con thời kỳ 2000 đến 2005 và 2010: cây chè, cây điều, cây rau quả, hoa, lợn
xuất khẩu, bò sữa, muối và Chương trình nuôi trồng thuỷ sản.
-Cùng với Quyết định về chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành các quyết định có liên quan phục vụ chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp, nông thôn: về kiên cố hoá kênh mương (dành 1.500 tỷ đồng cho các địa
phương vay lãi suất bằng 0%); về cơ chế tài chính thực hiện chương trình đường
giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản, cơ sở hạ tầng làng nghề ở
nông thôn (dành một khoản ngân sách cho các tỉnh vay theo dự án với lãi suất bằng
0%).
Về tiêu thụ nông sản: Năm 2001,
giá một số nông sản thế giới có
nhiều biến động bất lợi, thị trường
khó khăn. Một số mặt hàng chủ lực
của Việt Nam như: lúa gạo, cà phê,
cao su, chè, điều, thuỷ sản (tôm),
trong đó lúa gạo, cà phê có thời
điểm giá trên thị trường thế giới
xuống dưới mức giá thành sản xuất
trong nước, gây thiệt hại lớn cho cả
người sản xuất và doanh nghiệp
xuất khẩu.
Về khoa học công nghệ: Khoa học công nghệ là giải pháp
có hiệu quả nhất để nâng cao sức cạnh tranh về chất lượng và
giá trên thị trường. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt



chương trình giống cây trồng, giống vật nuôi và giống cây lâm nghiệp thời kỳ
2000-2005 (QĐ số 225/ 1999/QĐ-TTg ngày 10/12/1999), một số chính sách
khuyến khích phát triển giống thuỷ sản (QĐ số 103/ 2000/QĐ-TTg ngày
25/8/2000); Khuyến khích các nhà đầu tư và các địa phương nhập giống, đồng thời
Chính phủ cũng hỗ trợ một số địa phương và doanh nghiệp nhập giống cây trồng,
vật nuôi có năng suất, chất lượng cao, khả năng chống bệnh tốt.
Tuy nhiên, giống hiện nay vẫn là khâu yếu nhất, chưa có đủ các loại giống tốt và
giá rẻ, đảm bảo chất lượng để cung cấp cho người sản xuất, việc kiểm tra chất
lượng giống còn nhiều yếu kém đã tác động xấu đến năng suất và chất lượng nông
sản của ta.
Về phương thức sản xuất theo hợp đồng: Nghị quyết 09 ghi "Khuyến khích các
doanh nghiệp kinh doanh về chế biến và thương mại thuộc các thành phần kinh tế
mở rộng diện ký hợp đồng tiêu thụ với hợp tác xã hoặc ký trực tiếp với nông dân,
gắn kết cho được sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm trong nước và xuất
khẩu". Đến nay, mới chỉ có một số doanh nghiệp và công ty ký hợp đồng sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Hầu như trong toàn bộ nền sản xuất nông
nghiệp hiện nay, người nông dân tự lo phát triển sản xuất, không có người đứng ra
ký hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho họ. Đó là nỗi băn khoăn lớn nhất
của nông dân sản xuất hàng hóa.
Về một số chính sách tài chính: Đã thực hiện giảm, miễn thuế nhập khẩu phân bón
các loại; miễn giảm 50% thuế năm 2001 đối với người sản xuất lúa và cà phê, miễn
thu thuế buôn chuyến.
Về tín dụng và bảo hiểm: năm 2001 hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng khoảng 188 tỷ
đồng (lúa 150 tỷ, cà phê 38 tỷ) để tạm trữ 1 triệu tấn gạo trong 12 tháng, 150.000
tấn cà phê trong 6 tháng, hỗ trợ 70% lãi suất vốn vay cho các doanh nghiệp thu
mua chế biến cà phê đã xuất khẩu đến tháng 9/2000 (khoảng 55,5 tỷ đồng). Hỗ trợ
tiền nhập khẩu giống. Khoanh nợ vay ngân hàng trong thời gian 3 năm cho người
trồng cà phê, thu mua, chế biến và xuất khẩu cà phê (khoảng 2.500 tỷ đồng) và tiếp
tục cho vay mới để có vốn chăm sóc cà phê.
Việc xúc tiến lập quỹ bảo lãnh tín dụng, Quỹ bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng làm

còn chậm.
Về công tác thị trường, tiếp thị: Đã thực hiện thưởng xuất khẩu nông sản. Tổng
số thưởng cho gạo xuất khẩu khoảng 110 tỷ đồng, cà phê khoảng 77 tỷ đồng...


Việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu đã có nhiều cố gắng. Riêng về gạo, những cam
kết có tính chất Nhà nước đã lên tới mức 1,5 triệu tấn/năm. Chính phủ cũng đã cho
phép bán hàng hoá trả chậm, hàng đổi hàng, để hỗ trợ xuất khẩu (nhất là về gạo).
4.2. Giải pháp đột phá cơ bản:
1. Các ngành trung ương cùng địa phương rà soát lại quy hoạch, đề ra định hướng
phát triển từng loại cây con, từng loại sản phẩm và mức sản xuất hợp lý. Nội dung
quy hoạch phải được thông tin đầy đủ cho dân về thị trường từng loại sản phẩm,
yêu cầu về chất lượng hàng hóa. Cần truyền đạt đầy đủ những thông tin mới nhất
về kinh tế, kỹ thuật đến nông dân và các doanh nghiệp. Chính phủ tiếp tục đề ra
các chính sách kinh tế thúc đẩy việc thực hiện định hướng trong quy hoạch.
2. Có biện pháp khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp
dân doanh làm chế biến hoặc tiêu thụ mở rộng diện ký hợp đồng với hộ nông dân
hoặc hợp tác xã nông nghiệp. Trước mắt phải tập trung vào ký hợp đồng sản xuất
và tiêu thụ các mặt hàng: sản xuất gạo xuất khẩu ở đồng bằng sông Cửu Long, tiêu
thụ cao su, cà phê, điều, tiêu, bông, mía đường, sữa bỏ, thuỷ sản. Các tỉnh phải xác
định cho được danh mục các doanh nghiệp đứng ra để ký hợp đồng sản xuất và
tiêu thụ hàng hoá với nông dân ở địa phương mình và có lộ trình thực thi phương
thức sản xuất theo hợp đồng cho từng loại sản phẩm từ năm 2002 đến 2005. Riêng
ở miền núi phía Bắc, doanh nghiệp Nhà nước phải có trách nhiệm đi đầu lo tiêu thụ
sản phẩm cho nông dân, góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp miền núi phát
triển theo hướng sản xuất hàng hóa.
Việc tổ chức sản xuất nông nghiệp theo hợp đồng là giải pháp cơ bản nhất để đưa
sản xuất nông nghiệp hàng hóa của nước ta đi vào quỹ đạo của nền kinh tế thị
trường, vừa bảo vệ được lợi ích của nông dân, vừa hạn chế được rủi ro.
3. Ngoài việc tăng cường đầu tư nghiên cứu về khoa học, công nghệ trong nước,

phải đi tắt đón đầu tiếp thu những thành tựu của trí tuệ nhân loại. Đối với những
giống cây, giống con tốt trong nước chưa sản xuất được hoặc chưa đủ và đối với
những công nghệ mới thì khuyến khích mạnh việc nhập khẩu. Đồng thời tổ chức
tốt mạng lưới khuyến nông để chuyển tải những tiến bộ kỹ thuật mới kịp thời cho
dân.
Sớm ban hành tiêu chuẩn chất lượng hàng nông sản Việt Nam, từng bước thực hiện
chiến lược phát triển hàng nông sản Việt Nam có nhãn hiệu, thương hiệu nổi tiếng
đi vào thị trường thế giới.


4. Làm tốt dịch vụ về vốn và xúc tiến thương mại. Với cơ chế tín dụng hiện nay, hộ
nông dân đã được vay với mức 30 triệu đồng/hộ không phải thế chấp. Những hộ
sản xuất hàng hóa lớn và các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đòi hỏi vay tín dụng mức
cao hơn, dài hạn hơn, nhưng hiện nay việc tiếp cận của họ với các tổ chức tín dụng
còn rất hạn chế. Bộ Tài chính cùng Ngân hàng Nhà nước sớm có cơ chế xử lý vấn
đề này, trong đó có việc hình thành Quỹ bảo lãnh tín dụng để giúp đỡ những đối
tượng này vay vốn ở các tổ chức tín dụng, thúc đẩy nhanh quá trình phát triển nền
sản xuất nông nghiệp hàng hoá lớn.
Tiếp tục đẩy các biện pháp xúc tiến thương mại. Từng bước hình thành hệ thống
chợ giao dịch nông sản lớn ở các vùng sản xuất hàng hóa lớn.
Chỉ đạo thực hiện tốt những giải pháp trên đây, chúng ta tin rằng nền nông nghiệp
nước ta sẽ có những chuyển biến mới, đáp ứng được nguyện vọng của nông dân và
góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.


KẾT LUẬN
Sản xuất nông nghiệp gắn liền với qui mô, đặc điểm môi trường sinh thái, đặc biệt
là khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình, thủy văn. Sản xuất nông nghiệp ít nhiều đều mang
tính thời vụ và có liên quan đến việc sử dụng lao động. Đồng thời sản xuất nông
nghiệp luôn gắn liền với khâu bảo quản, vận chuyển và chế biến.

Một số loại cây trồng, vật nuôi lại có những đặc điểm riêng có liên quan đến phân
bố sản xuất đòi hỏi phải nghiên cứu, chọn lãnh thổ thích hợp, quy mô và cơ cấu
cây con và các ngành nghề có liên quan để sử dụng hợp lí lao động, tài nguyên
môi trường và các phương tiện kĩ thuật.
Nông nghiệp Việt Nam cơ bản là nền nông nghiệp lúa nước, sản xuất thủ công là
chính, đang bước đầu chuyển dịch công nghiệp hóa , chuyển dịch cơ cấu từ độc
canh, tự cấp, tự túc sang đa canh, sản xuất hang hóa. Ở Việt Nam đã hình thành 7
vùng công nghiệp lớn, trong đó có 2 vùng chuyên canh lúa nước là vùng ĐBSH và
ĐBSCL (chiếm ¾ sản lượng và gần 2/3 diện tích cả nước). Việt Nam có một số
vùng chuyên canh cây công nghiệp nhiệt đời có giá trị như: cao su, chè, cà phê,
mía, lạc,…và một số cây lương thực , rau đậu khác. Chăn nuôi phát triển chưa cân
đối với trồng trọt và lợn vẫn là vật nuôi chính.

Tài liệu tham khảo:
Giáo trình Địa lý kinh tế
Đĩa CD kinh tế
www.tcdn45C.net.tf
www.google.com



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×