Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

Đề cương Tâm lý học lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.12 KB, 76 trang )

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG.
1.1. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học và tâm lý học lao động.
1.2. Các loại hình thần kinh, cách sử dụng các loại hình thần kinh trong
Quản trị nhân lực.
1.3. Ý thức.
 Tâm lý ý thức là một dạng tâm lý cao cấp chỉ có ở con người . (T20)
 Sự phát triển tâm lý : 4 giai đoạn (T21)
 GĐ 1: Giai đoạn cảm giác
 GĐ 2: Giai đoạn tri giác
 GĐ 3: Giai đoạn tư duy bằng tay ( tư duy bậc thấp )
 GĐ 4: Giai đoạn tư duy trừu tượng ( tư duy bằng ngôn ngữ )
 Khái niệm : Ý thức là năng lực nhận thức của những tri thức hoặc là tri

thức của tri thức, phản ánh của phản ánh. Ý thức là chức năng cao cấp
của con người. (T21)
 Các thuộc tính của ý thức (T22)
 Khả năng nhận thức: Đây là khả năng ý thức một cách khái quát

bản chất hiện thực khách quan. Con người muốn có ý thức đầy
đủ, sâu sắc như vậy, cần phải có tư duy khái quát bản chất về thế
giới khách quan. Mặt khác, người có ý thức càng cao thì càng
làm cho tư duy có chiều sâu và chiều rộng.


 Khả năng xác định thái độ: Con người còn phản ánh hiện thực

khách quan bằng cách tỏ thái độ đối với nó. Những thái độ muôn
màu, muôn vẻ là biểu hiện ý thức của con người đối với hiện
thực khách quan.
 Khả năng sáng tạo: Con người khác với động vật ở chỗ, không


những biết thích nghi với hoàn cảnh mà còn biết cải tạo hoàn
cảnh sống. Con người luôn luôn cải tạo hoàn cảnh sống một cách
có ý thức. Nhờ có ý thức mà con người có năng lực tạo ra nhiều
giá trị vật chất, tinh thần mới, bắt hiện thực khác quan phục vụ
nhu cầu ngày càng cao của mình.
 Khả năng tự ý thức: Đây là khả năng nhận thức về mình và xác

định thái độ với bản thân mình.
 Kết cấu của ý thức (Vở ghi): Ý thức có cấu trúc phức tạp bao gồm

nhiều mặt là một chỉnh thể mang lại cho thế giới tâm hồn của con
người một chất lượng mới. Ý thức có 3 mặt thống nhất hữu cơ với
nhau, điều khiển hoạt động có ý thức của con người. 3 mặt đó là :
 Mặt nhận thức: Đây là sự nhận thức của nhận thức, hiểu biết của

hiểu biết. Nhận thức cảm tính mang lại tư liệu đầu tiên cho ý
thức. Nhận thức lý tính mang lại sự hiểu biết bản chất, quy luật,
mối quan hệ của sự vật hiện tượng. Ý thức cho ta biết mình đang
nhận thức cái gì, mức dộ nhận thức đến đâu.
 Mặt thái độ: Thái độ lựa chọn, thái độ cảm xúc, thái độ đánh giá

của chủ thể với thê giới


 Mặt năng động của ý thức: quá trình con người vận dụng những

hiểu biết và thái độ của mình nhằm nhằm thích nghi, cải tạo thế
giới và cải biến cả bản thân.
 Hành vi của con người : 2 loại cơ bản (T22)
 Hành vi bản năng: Hành vi sơ đẳng thấp nhất thỏa mãn yêu cầu


sinh học. Đây là hành vi bẩm sinh do bản năng sinh tồn chi phối.
 Hành vi ý thức (Hành vi trí tuệ): Hành vi có suy nghĩ, có tính

toán trước theo mục đích đã đặt ra. Là hành vi do ý thức của con
người chi phối.
1.4. Tình cảm, ý trí, nhân cách.

Tình cảm (T29-30)

Ý chí (T30-31)

Khái niệm

Những thái độ chủ quan Khả năng điều khiển
của con người đối với các của cọn người vươn tới
hiện tượng xảy ra trong mục đích đã định.
thế giới khách quan hay
trong cơ thể mình.

Nội dung

(T30) Trong cuộc sống ,
tình cảm có thể biểu hiện
dưới dạng: tình cảm đạo
đức, tình cảm trí tuệ, tình
cảm thẩm mỹ, tình cảm
thực hành.

Đặc điểm


Câu hỏi gợi ý:

Nhân cách (T27-28

Là bộ mặt xã hội củ
lý, là tổng thể các
tính tâm lý cá nhâ
có ý nghĩa xã hộ
đặc trưng cho tí
nhân.

4 đặc điểm cơ bản 4 nội dung cơ bản (
(T31):
+ Xu hướng
+ Tính độc lập
+ Tính cách
+ Tính cương quyết
+ Tính khí
Ngoài ra, còn thể hiện ra + Tính kiên cường
+ Năng lực
các dạng: tâm trạng, xúc
động, ham mê, trạng thái + Tính tự kiềm chế
căng thẳng.


Câu 1.1: Tại sao nói tình cảm đã chi phối mạnh đến động cơ, hành động của
con người?
Câu 1.2: Tại sao nói ý trí đã chi phối mạnh đến động cơ, hành động của con
người?

Câu 1.3: Nội dung nhân cách bao gồm những vấn đề gì? Quản trị nhân lực
ứng dụng như thế nào?
Câu hỏi gợi ý
1.1. Tại sao nói tình cảm đã chi phối mạnh đến động cơ, hành động của con
người?
1)Khái niệm (29)
2)Biểu hiện của tình cảm
+ tình cảm đạo đức
+tình cảm thẩm mỹ
+tình cảm thực hành
+tâm trang
+Ham mê
+Trạng thái căng thẳng
3)Sự chi phối đến động cơ và hành động của tình cảm
- Tình cảm đối với nhận thức
Đối với nhận thức, tình cảm là nguồn động lực mạnh mẽ kích thích con người
tìm tòi đối với kết quả của nhận thức. Ngược lại, nhận thức định hướng, điều
khiển, điều chỉnh tình cảm đi đúng hướng. Nhận thức và tình cảm là hai mặt
của một vấn đề nhân sinh quan thống nhất của con người.
- Tình cảm đối với hoạt động


Tình cảm chiếm vị trí quan trọng trong số những động lực và nhân tố điều
chỉnh hành vi và hoạt động của con người. Tình cảm nảy sinh, biểu hiện, thúc
đẩy con người hoạt động, giúp con người vượt qua những khó khăn, trở ngại
để đạt được mục đích hoạt động.
- Tình cảm đối với các thuộc tính tâm lý khác
Tình cảm có mối quan hệ và chi phối toàn bộ các thuộc tính tâm lý của nhân
cách. Tình cảm chi phối tất cả các biểu hiện của xu hướng nhân cách; nhu
cầu, hứng thú, lý tưởng, thế giới quan, niềm tin; tình cảm là mặt nhân lõi của

tính cách; là điều kiện và là động lực để hình thành năng lưc; là yếu tố có
quan hệ qua lại với khí chất con người.
=>kluan
1.2 Tại sao nói ý chí đã chi phối mạnh đến động cơ, hành động của con
người ?
1) khái niệm (30+31)
2) đặc điểm (31)
3) ý chí chi phối mạnh đến đông cơ hành động của con người.
Nguồn kích thích hành động ý chí không trực tiếp quyết định hành động bằng
cường độ vật lý mà thông qua cơ chế động cơ hóa hành động, trong đó chủ
thể nhận thức ý nghĩa của kích thích để từ đó quyết định có hành động hay
không.
- Tính mục đích của hành động ý chí :
Trước khi hành động con người tự hỏi “Hành động để đạt mục đích gì ?”
nghĩa là con người phải ý thức được mục đích của hành động, ý chí sẽ giúp
con người đạt được mục đích. Ý thức được mục đích của hành động là đặc
điểm cơ bản, điển hình của hành động ý chí. Nếu mất đi đặc điểm này thì
không thể gọi là hành động ý chí.
Ví dụ, người ta so sánh hành động của con ong và con người. Mác vạch ra cái
khác cơ bản giữa con ong giỏi nhất và nhà kiến trúc sư tồi nhất là kiến trúc sư
trước khi xây dựng từng tầng sáp thì đã xây dựng được tầng đó trong óc mình
rồi.


- Trong hành động ý chí, con người biết lựa chọn phương tiện và biện pháp
hành động sao cho thực hiện được mục đích và đạt hiệu quả cao. Khác với
con vật, con người chủ động tác động vào tự nhiên và môi trường để tạo ra
những sản phẩm phục vụ nhu cầu của mình. Trong quá trình hành động con
người biết dùng những công cụ sẵn có và sáng tạo ra công cụ để hành động và
con người biết lựa chọn phương pháp hành động.

- Có sự theo dõi, kiểm tra, điều chỉnh, điều khiển, có sự nỗ lực ý chí để khắc
phục những khó khăn trong quá trình thực hiện mục đích. Nỗ lực ý chí thể
hiện trong hành động là kìm hãm, tăng giảm cường độ của hành động. Nỗ lực
ý chí còn thể hiện ở chỗ có thể chuyển từ trạng thái không hành động sang
trạng thái hành động và ngược lại.
- Khi xem xét, đánh giá sự nỗ lực ý chí của một người nào đó, thì bao giờ
người ta cũng xét đến yếu tố nội dung đạo đức của hành động ý chí. Điều đó
nói lên rằng, hành động ý chí nào phù hợp với sự phát triển xã hội thì hành
động ý chí đó chân chính và ngược lại.
=> kl
1.3


Nội dung của nhân cách bao gồm 4 vấn đề:
- Xu hướng là những thiên hướng hoạt động của con người biểu hiện
-

trong thực tế cuộc sống
Tính cách là sự kết hợp các thuộc tính cơ bản và bền vững của con
người, phản ánh lịch sử tác động qua lại giữa cá nhân với điều kiện

-

sống và giáo dục
Tính khí là thuộc tính tâm lí cá nhân gắn liền với kiểu hoạt động
thần kinh tương đối bền vững của con người, là động lực của toàn
bộ hoạt động tâm lí của con người và được biểu hiện thông qua các

-


hành vi, cử chỉ, hành động hàng ngày của họ
Năng lực là tổng thể những thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp
với nhu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho
hoàn thành có kết quả tốt trong lĩnh vực hoạt động đó
(giáo trình tr28)




Quản trị nhân lực đã ứng dụng những nội dung chính của nhân cách
trong công tác đánh giá sự phù hợp của con người khi lựa chọn ngành
học này. Cụ thể đó là việc đo lường đặc tính tâm lí của cá nhân để đưa
ra kết luận về đặc điểm tâm lí của họ và đưa ra lời khuyên về công việc,
nghề nghiệp. Mặt khác, khi nắm được các vấn đề về nhân cách của các
cá nhân, người làm quản trị nhân lực cũng sẽ dễ dàng sắp xếp họ vào
những vị trí, đảm nhiệm những công việc phù hợp trong bộ máy tổ
chức; nắm được điểm mạnh điểm yếu của họ từ đó dễ dàng hoàn thiện
cũng như điều khiển họ trong công việc.

Chương 2: CƠ SỞ TÂM LÝ CỦA TỔ CHỨC QUÁ TRÌNH LAO ĐỘNG.
2.1. Giới hạn của phân công và hiệp tác lao động.


Khái niệm của phân công và hiệp tác lao động (tìm trên mạng, không
phải official)
Phân công lao động là sự phân công thành những phần việc khác nhau

theo số lượng và tỷ lệ nhất định phù hợp với đặc điểm kinh tế kỹ thuật của
doanh nghiệp. Trên cơ sở đó bố trí công nhân cho từng công việc phù hợp với
khả năng và sở trường của họ.

Hiệp tác lao động là sự phối hợp công tác giữa những người lao động,
giữa các bộ phận làm việc thành những nhóm để đạt được mục đích cuối cùng
là chế tạo sản phẩm hoàn chỉnh, hay hoàn thành một khối lượng công việc
nào đó. Như vậy hiệp tác lao động là kết quả của phân công lao động.


Nguyên nhân của tính đơn điệu trong lao động
Sự phát triển của kỹ thuật đã dẫn đến những hậu quả xấu đối với lao

động như xuất hiện tính đơn điệu trong sản xuất và sự căng thẳng thần kinh
ngày càng cao. Theo các nhà nghiên cứu tâm lí, sự chuyên môn hóa quá hẹp


biểu hiện ở thời gian hao phí cho 1 thao tác lao động quá ngắn, đã dẫn đến
giảm năng lực lao động của con người. Chuyên môn hóa hẹp người lao động
đã sinh ra sự đơn điệu trong lao động


Về mặt tâm lý, sự đơn điệu đã tác động xấu đến người lao động ở các



điểm sau: SGT_53
Về mặt sản xuất, tính đơn điệu đã làm xuất hiện hàng loạt điều bất lợi



cho các nhà quản lý: SGT_53(cuối).
Chủ trương của các nhà tâm lý là hướng các hoạt động của phân công
và hiệp tác lao động vào thực hiện được các yêu cầu sau thì sẽ tạo ra

động lực thúc đẩy năng lực làm việc của người lao động: SGT_54 (4



chấm giữa trang)
Những yêu cầu cơ bản về tâm lý đối với cong tác phân công và hiệp tác
lao động. Để người lao động thực sự làm chủ được quá trình lao động,
để họ mang lại khả năng cống hiến cho tập thể, thì công tác phân công
và hiệp tác lao động phải đảm bảo được các yêu cầu sau
 Thứ nhất là đảm bảo tính độc lập trong hoạt động (SGT_54, đầu



trang 55)
Thứ hai là phải đảm bảo tính chủ động trong lao động (SGT_55)
Thứ ba là phải đảm bảo tính sáng tạo trong lao động (SGT_55,




56)
Thứ tư là phải đảm bảo sự hứng thú với lao động (SGT_56)
Thứ năm là phải đảm bảo sự thăng tiến đối với người lao động





(SGT_56)
Các giới hạn hợp lý thao tác lao động của công việc

 Để loại bỏ tính đơn điệu trong lao động chúng ta cần phải thiết
kế các thao tác lao động sao cho chúng có thời gian hao phí lớn




hơn hoặc bằng 30 giây (SGT_57,58)
Để gây nên cảm giác hưng phấn trong lao động thì công việc

phải có từ 5 thành phần trở lên (5 thao tác lao động) (SGT_58)
Các giải pháp chống lại tính đơn điệu (SGT_58, 59)

Câu hỏi gợi ý:


Câu 2.1:Tại sao chú ý trong lao động càng cao thì hiệu suất lao động càng lớn
và ngược lại (Phải nêu khái niệm, các loại gợi ý sau đó trình bày).
2.3. Chú ý trong lao động.
Khái niệm :Chú ý là sự định hướng tích cực của ý thức con người vào một số
đối tượng, hiện tượng nhất định, nó biểu hiện là xu hướng sự tập trung hoạt
động tâm lý vào một đối tượng nào đó.
Phân loại:
- Chú ý có chủ định: là sự tập trung chú ý một cách có ý thức của con người
vào một đối tượng nào đó.
- Chú ý sau chủ định: là sự chú ý tiếp theo sự chú ý có chủ định , nó phú
thuộc vào sự hứng thú của con người với đối tượng lao động.
- Chú ý không chủ định: là sự chú ý xuất hiện không có sự định trước, xuất
hiện bất ngờ , ngẫu nhiên, do các yếu tố khác biệt về các yếu tố màu sắc âm
thanh, hình thù tạo ra.
-Chú ý cảm xúc: là chú ý do các yếu tố cảm xúc bên trong gây nên .

Đặc điểm cơ bản của chú ý:
Một là tính tập trung là mức độ tập trung chú ý vào một đối tượng nào đó.
Hai là tính bền vững của chú ý được xác định bởi thời gian tập trung của chú
ý vào đối tượng đã chọn.
Ba là sự phân phối chú ý là sự đảm bảo khả năng thực hiện cùng một lúc
những động tác khác nhau trên những đối tượng khác nhau.
Bốn là sự di chuyển của chú ý thể hiện ở tốc độ chuyển sự chú ý từ đối tượng
này sang đối tượng khác.


2.4. Đặc điểm tâm lý chung của NLĐ cấp dướ

1.

2.

3.

Đặc điểm
Sử dụng
Ngựa bất kham
- Là người có tài , có
- Sẵn sàng thỏa mãn
sáng kiến, biểu hiện
các đòi hỏi của họ,
bất phục tùng và
song luôn đặt ra
tính khí bất thường.
các yêu cầu cao,
- Thường có phản

kiềm chế hết sức
ứng bằng cách giữ
khắc khe và đặt
thái độ đề kháng để
trách nhiệm nặng
tự vệ, sự bất hợp
nề cho họ.
tác, ương bướng.
- Sử dụng cái tật để
chế ngự cái ương
bướng , bất hợp
tác.
Cùn chí phèo
- Là loại nhân viên
- Người lãnh đạo cần
mang tính cách ăn
có giải pháp kiên
bám, chây lười, ăn
quyết, lãnh đạo
vạ, cùn lỳ.
cứng rắn thì sẽ loại
- Thường xuất hiện ở
được.
nơi có vị thủ trưởng
thiếu năng lực, lãnh
đạo theo kiểu dĩ
hòa vi quý.
Không thể thay
- Là người lộng hành
- Để loại bỏ loại này

thế được
có khả năng trở
cần thủ trưởng phải
thành “ siêu thủ
có can đảm, sáng
trưởng”, tức là “ thủ
suốt, trách nhiệm
trưởng đứng trên
với tổ chức.
đầu thủ trưởng
- Tiến hành phân
chính thức.
cấp, phân quyền rõ
- Thường xuất hiện ở
ràng, công khai và
các bộ máy quan
công bố rõ ràng các
liêu, cửa quyền.
thông tin chính
- Lôi kéo thân quen
thống trong doanh
thành” cánh hẩu”
nghiệp.
- Sẵn sàng chèn ép,
tham quyền cố vi.


2.5. Mệt mỏi và nghiên cứu khả năng làm việc? Liên hệ thực tế ở Việt
Nam?
Mệt mỏi

1.
2.






Khái niệm mệt mỏi: Trang 69 GT
Nguyên nhân dẫn đến mệt mỏi: 5 nguyên nhân
Một là do gánh nặng thể lực
Hai là do sự căng thẳng thần kinh
Ba là sự đơn điệu trong lao động
Bốn là sự tổ chức lao động không tốt
Năm là các yếu tố tác động của môi trường khắc nghiệt

( trang 71 GT)
3.




Phân loại mệt mỏi
Theo nhà tâm lý học người Anh T.Tipphin chia mệt mỏi thành 3 loại:
Sự mệt mỏi sinh lý
Sự mệt mỏi tâm lý
Sự mệt mỏi nơi sản xuất

(trang 71,72 GT)
Theo nguồn gốc của mệt mỏi phân thành 3 loại:

 Mệt mỏi cơ bắp
 Mệt mỏi trí óc
 Mệt mỏi cảm xúc

-

( trang 72 GT)
Theo quan điểm ngày nay cũng có 3 loại mệt mỏi:
 Mệt mỏi cảm giác: mệt mỏi tâm lý
 Mệt mỏi thể lực: sự suy giảm sức khỏe
 Mệt mỏi thần kinh hoạt động: do lao động liên tục và kéo dài

-

làm cho xinap làm việc quá tải
Để đảm bảo cho NSLĐ không bị giảm do mệt mỏi thì phải: Tăng mệt
mỏi thần kinh, giảm mệt mỏi về thể lực và cảm giác.
4.

Phân loại mệt mỏi và mệt nhọc
Mệt mỏi
Là phản ứng tự vệ tự nhiên của
cơ thể đối với các hoạt động
nhằm ngăn ngừa sự phá hủy cơ

Mệt nhọc
Là hiện tượng suy giảm chức
năng sinh lý ở con người khó có
thể phục hồi



thể
Mệt mỏi chỉ cần 1 thời gian ngỉ
ngơi hợp lý là có thể mất đi
5.

Hiện tượng mệt mỏi lâu dài hoặc
do bệnh nghề nghiệp, bệnh lý sẽ
dẫn đến mệt nhọc

Biểu hiện của mệt mỏi ( trang73 GT)

Khả năng làm việc
Khái niệm khả năng làm việc: trang 74 GT
KNLV phụ thuộc vào 2 yếu tố cơ bản: bên ngoài ; bên trong ( tr 74,75

1.

GT)
2. Khả năng làm việc trong ngày
Khái niệm: trang 75 GT
Các giai đoạn thay đổi KNLV trong ngày: gồm 7 giai đoạn( tr 75, 76,
77 GT)
Đồ thị : sự thay đổi khả năng làm việc ( tr 77 GT)
Liên hệ thực tế
Hợp lý hóa tổ chức lao động và nghỉ ngơi. Cần biết rằng khả năng lao
động phụ thuộc khá nhiều vào nhịp sinh học, đặc biệt là nhịp ngày đêm,
biến đổi rất đáng kể trong thời gian lao động theo ca kíp. Vào đầu ca,
chưa có khởi động tốt, năng xuất lao động chưa đạt đến yêu cầu. Khả
năng lao động đạt tới mức yêu cầu và ổn định vào khoảng giờ thứ 2 đến

thứ 4. Sau đó là sự giảm khả năng cho đến trước giờ nghỉ giữa ca. Sau
giờ nghỉ lại diễn ra quá trình tương tự và xuất hiện sự mệt mỏi. Thời
gian nghỉ giữa ca được quy định tùy theo mức độ nặng nhọc, khắc
nghiệt của lao động và môi trường. Trong tuần thì năng suất lao động
tăng dần từ ngày đầu tuần, ổn định ở những ngày giữa tuần và giảm dần
vào cuối tuần.
Lao động đến một mức nào đó thì cảm giác mệt mỏi sinh lý bắt đầu
xuất hiện. Đó là một cơ chế bảo vệ, như cái phanh, bắt cơ thể ngừng
hoạt động để khỏi kiệt sức. Để có thể làm việc hiệu quả, người lao động
phải có thời gian nhất định giành cho nghỉ ngơi. Đó chính là giai đoạn


mà người lao động tái sản xuất sức lao động.Viện nghiên cứu Sức khỏe
nghề nghiệp Phần Lan thực hiện cho thấy một người lao động mắc các
triệu chứng lao động kiệt sức hàng tuần có nguy cơ bị chấn thương cao
hơn 19% so với đồng nghiệp với các triệu chứng ít gặp hơn
Các biện pháp ngăn ngừa mệt mỏi sớm:






Hợp lý quá trình lao động
Đảm bảo chế độ ăn uống
Sắp ếp công việc phù hợp
Tạo bầu không khí vui vẻ, đoàn kết
Cải thiện điều kiện vệ sinh, môi trường,…

2.6.

Tâm lý âm nhạc trong sản
1. Tác dụng của âm nhạc: Tạo ra

xuất
tâm trạng hưng pấn trong lao động,

tạo nhịp độ lao động cao và ổn định trong một thời gian dài. Chống
lại mệt mỏi và tăng khả năng làm việc. Nếu sử dụng đúng có thể tăng
năng suất từ 7-20%
2. Sử dụng âm nhạc trong sx cần chú ý:
 Loại nhạc và thời điểm phát
 Số lượng thời gian mở nhạc trong thời gian làm việc
 Những loại âm nhạc không nên sử dụng trong sản xuất
 Sự luân phiên nhạc trong sản xuất
( T89, 90,91)

CHƯƠNG 3: TÂM LÝ AN TOÀN LAO ĐỘNG
Câu 1: phân biệt kn sự cố lđ, tai nạn lđ, an toàn lđ? Nhận xét đánh giá về
công tác an toàn lđ ở VN?
*So sánh:


- Sự cố lđ: là một chỉ số trục trặc ở mức độ nhỏ, thể hiện ở sự ngưng trệ sản
xuất chút ít và người lđ hoặc doanh nghiệp bỏ ra ít chi phí để điều chỉnh thì sẽ
khắc phục được nhanh chóng để hệ thống hoạt động bình thường.
-Tai nạn lđ: là một đầu ra không mong muốn của hệ thống, là một chỉ số hoặc
1 dấu hiệu của sự trục trặc lớn trong hệ thống, được biểu hiện bằng sự tổn thất
về người, máy hoặc đối tượng lđ một cách nặng nề và nghiêm trọng.
- An toàn lđ: là quá trình hoạt động nhằm loại trừ các sự cố và tai nạn lđ để
bảo vệ sản xuất và người lđ.

*Nhận xét đánh giá về công tác an toàn lđ ở VN:
Trong thực tế hiện nay, các sự cố và tai nạn lđ là một tổn thất lớn của các
doanh nghiệp về ng và của, làm ảnh ưởng đến hiệu quả hđ của doanh nghiệp,
đồng thời cũng ảnh hưởng đến sự phát triển KT_XH của đất nước.An toàn lđ
là một lĩnh vực công tác có vị trí và ý nghĩa quan trọng trong chiến lược bảo
vệ và PT nguồn nhân lực, chiến lược phát triển bền vững kinh tế xã hội của
đất nc. Trong những năm qua với việc chuyển đổi nền kinh tế thị trường, công
tác an toàn lđ đã có những chuyển biến và đạt đc một số kết quả tích cực như:
+ công tác quản lý của Nhà nước về ATLĐ tiếp tục đc củng cố, hệ thống các
quy định pháp luật về ATLĐ đc bổ sung hoàn thiện
+ điều kiện lđ đc cải thiện. Các công nghệ sx sạch hơn, đảm bảo an toàn cho
NLĐ và không gây ô nhiễm môi trường đc phổ biến và đưa vào sd rộng rãi
hơn; NLĐ có cơ hội đc lựa chọn những việc làm tốt hơn trong đk tiện nghi,
thoải mái và an toàn hơn.
+Tai nạn lđ đc kiềm chế trong đk sx phát triển nhanh cả về qui mô và sự đa
dạng. thiệt hại về kinh tế đc giảm thiểu.
+ tuần lễ quốc gia về ATLĐ diễn ra hằng năm đã nhận đc sự hưởng ứng tích
cực của đông đảo NLĐ, các cơ sở sx kinh doanh trong cả nc. Nhiều sáng kiến
cải tiến kỹ thuật do NLĐ đưa ra đã góp phần giải quyết ngay những vấn đề
trong thực tiễn
+ Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ATLĐ đc phát triển,.sự hỗ trợ về mặt kỹ
thuật, chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ đào tạo đã phát huy đc hiệu quả.


Tuy nhiên, việc thực thi pháp luật ATLĐ ở các cấp, các ngành, ng sd lđ và
NLĐ còn chưa nghiêm và đang có những vấn đề bất cập. Tình trạng vi phạm
các tiêu chuẩn về ATLĐ còn khá phổ biến. Việc đầu tư cải thiện đk làm việc,
thực hiện các biện pháp phòng chống tai nạn lđ ở phần lớn các DN chưa đc
quan tâm và coi trọng đúng mức, đặc biệt là các cơ sở sản xuất kinh doanh
của tư nhân, các hợp tác xã và kinh tế hộ gia đình. Thêm vào đó, khả năng

kiểm soát giám sát của các cơ quan chức năng Nhà nc cũng còn nhiều hạn
chế, cơ chế khuyến khích việc thuecj hiện công tác ATLĐ chưa thực sựu trở
thành động lực…Chính vì vậy, trong những năm qua tình hình tai nạn lđ đang
có những chiều hướng phức tạp:
+Tai nạn lđ có xu hướng tăng cả về số vụ và mức độ nghiêm trọng. SL báo
cáo hằng năm: 2000 có 403 ng chết; năm 2002 có 514 ng chết, năm 2004 có
575 ng chết. Tai nạn lđ xảy ra trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, trong các
làng nghề, hộ sx gia đình chưa đc thống kê báo cáo. Tuy nhiên qua thống kê
trên ta thấy đc tình hình an toàn lđ ở nc ta vẫn còn chưa cao và cần đc quan
tâm chú trọng hơn nữa.
Câu 2: vai trò của tâm lý học an toàn lđ?
(trang 94 giáo trình)
Câu 3: Nguồn gốc sự cố và tai nạn lđ?
(trang 96 giáo trình)
Câu 4: Các nguyên nhân của sự cố và tai nạn lđ?
*Nguyên nhân thuộc về con người:
- sự khác biệt giữa các cá nhân
- sự mất chú ý trong lđ
-mệt mỏi dẫn đến tai nạn lđ
- sự phản ứng sinh lý với các yếu tố môi trường
- kích thích tâm lý thái quá
*Nguyên nhân thuộc về máy móc tbi:


- các nguyên nhân thuộc về kỹ thuật công nghệ, máy móc thiết bị, dụng cụ lđ
và đối tượng lđ.
(phân tích chi tiết T97-T106)
Câu 5: Biện pháp giảm thiểu nguồn gốc sự cố và tai nạn lao động(7BP)
(T109 giáo trình)
Câu 6: Chú ý trong lđ làm giảm sự cố và tai nạn lđ và tăng hiệu suất lao

động

CHƯƠNG 4: SỰ THÍCH ỨNG CỦA CON NGƯỜI VỚI KT VÀ CÔNG
VIỆC
CÂU 1: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HƯỚNG NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
HIỆN NAY
A, Thực trạng.
Hiện nay công tác hướng nghiệp tại Việt Nam được thực hiện một cách
manh mún, chắp vá, thiếu sự bài bản và chuyên sâu. Việc hướng nghiệp
mặc dù có trong chương trình từ năm lớp 9 nhưng thực sự đến cuối
năm lớp 12 mới được thực sự quan tâm.
• Thông tin đến được với học sinh trung học còn rất ít ỏi, không thực tế
và quá đại trà khiến các em khó có thể chọn được ngành học phù hợp
với bản thân.
• Các tài liệu giáo dục hướng nghiệp hiện nay thì chỉ đề cập đến một số ít
nghề phổ biến.
• Lý do chọn nghề: chạy theo đám đông, nghe lời khuyên của gia đình,
nghề “hot”, cảm tính… Nhiều em trước kỳ thi đại học, không chỉ cha
mẹ mà có khi cả họ xúm vào tư vấn nên học trường nọ, phải thi trường
kia. Áp lực ấy không hề nhỏ. Kết quả là học sinh chọn sai nghề.
• Thừa thầy, thiếu thợ
B, Nguyên nhân:



Việc hướng nghiệp chưa được coi trọng, không đi vào chiều sâu mà chỉ
có bề nổi bên ngoài.
• Giáo viên giảng dạy không có đủ chuyên môn, không có tiết học chính
khóa mà thường được kèm vào các giờ chào cờ, sinh hoạt…
• Học sinh thiếu những trải nghiệm thực tế về nghề nghiệp tương lai.

• Việc tư vấn nghề nghiệp trong các cơ sở đào tạo không có sự tham gia
của các doanh nghiệp; Phụ huynh không được tham gia vào hướng
nghiệp, thậm chí không biết gì về điều này. Dẫn đến, cha mẹ bảo một
đằng, thầy cô khuyên một nẻo, học sinh đứng giữa ngã ba, đã bối rối
còn bối rối hơn, nên hiệu quả của hướng nghiệp và tư vấn nghề nghiệp
là vô cùng thấp.
C, Giải pháp:











Cần có sự kết nối giữa 3 bên: các trường THPT – chuyên gia tư vấn các
trường đại học – doanh nghiệp.
Học sinh phải là người ra quyết định về nghề tương lai của mình chứ
không phải thầy cô hay bố mẹ... Để ra được quyết định đó, cần chỉ ra
cho các em khả năng của mình và hỗ trợ để thực hiện sự lựa chọn đó.
Công tác tư vấn hướng nghiệp cũng phải gắn với từng giai đoạn phát
triển của học sinh. Mỗi lứa tuổi phải có tư vấn khác.
Xây dựng các công cụ trắc nghiệm, đánh giá sở thích, khả năng của học
sinh phù hợp với con người Việt Nam.
Công tác hướng nghiệp cần được chú trọng ngay từ những năm học cấp
2 để học sinh có thể hiểu rõ và có sự lựa chọn sớm cho mình: tiếp tục
học văn hóa hay chuyển sang học nghề. Đội ngũ giáo viên làm giáo dục

hướng nghiệp phải được đào tạo bài bản, bồi dưỡng thường xuyên, cập
nhật thông tin liên tục và có được sự chỉ đạo của Bộ GD&ĐT, các cơ
quan ban ngành khác...
Các cơ sở đào tạo cần căn cứ vào quy hoạch phát triển nguồn nhân lực
của Chính phủ để tuyển sinh.
Chính phủ cũng cần đưa ra một Quy hoạch phát triển NNL đầy đủ và
chi tiết.

CÂU 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TUYỂN CHỌN NGHỀ NGHIỆP TẠI
VIỆT NAM HIỆN NAY

A, Thực trạng


Việc tuyển chọn nghề ở các cơ sở đào tạo nghề hiện nay là rất cần thiết
và quan trọng, nhằm tìm được người phù hợp với nghề nghiệp, đào tạo
họ cho xã hội trong tương lai. Ở Việt Nam, việc tuyển chọn nghề vẫn
chưa được chú trọng dẫn đến tình trạng có nhiều người làm việc không
phù hợp với năng lực cá nhân, hay sở thích, có người không đáp ứng
được đặc thù công việc…khiến cho các DN không đạt được hiệu suất
như mong muốn, gây tốn kém nhiều chi phí.
B, Nguyên nhân


Việc tuyển chọn nghề chưa có hệ thống hợp lí khoa học. Các bước của
công tác tuyển chọn nghề còn chưa rõ ràng cụ thể, dẫn đến sự sắp xếp
công việc không hợp lí.
• Việc tuyển chọn nhân lực còn mang tính chủ quan cao
• Người tham gia tuyển chọn nghề còn thiếu hiểu biết, thiếu trải nghiệm.
C, Giải pháp






Nâng cao nhận thức của người tham gia tuyển chọn nghề
Cần thực hiện chặt chẽ ngay từ những bước đầu tiên, để tránh gây thiệt
hại về sau

Câu 3: Các quy luật nhận thức trong đào tạo nghề và cách vận dụng vào
xây dựng chương trình đào tạo.
Lýthuyết
Các quy luật nhận thức trong đào tạo nghề và cách áp dụng vào xây dựng
chương trình đào tạo.
1, Quy luậtđỉnh : Quy luật đỉnh của nhận thức được thể hiện ở kỹ năng nghề
nghiệp cao nhất, toàn diện nhất là sau khi được đào tạo xong ở một bậc nhất
định trong nghề nghiệp.




Sau khi ra làm việc kỹ năng nghề có xu hướng giảm đi và kỹ xảo nghề
có xu hướng tăng lên =>Muốn nâng kỹ năng nghề lên bậc cao hơn phải
có thời gian học hỏi và củng cố lại kỹ năng nghề đã có.
Sự suy giảm kỹ năng nghề phụ thuộc vào hai yếu tố là phạm vi công
việc thực hiện của nghề và tần suất lặplại của các công việc đó. Nguyên
nhân là do học nghề thì nhiều, rộng cả lý thuyết lẫn thực hành mà sau
khi ra làm việc chỉ sử dụng phạm vi nghề hẹp liên quan trực tiếp đến
công việc được giao thực hiện trong nghề.


Cách áp dụng:






Một là phải đào tạo giai đoạn cơ bản của nghề trước và sau đó thứ tự
đào tạo bổ túc nâng cao trình độ lành nghề theo nhiều giai đoạn để
người lao động có được kỹ năng, kỹ xảo nghề vững chắc đến đỉnh cao
của nghề.
Hai là đào tạo phải kết hợp với sử dụng nghề trong thực tế. Người sử
dụng nghề phải được luân phiên trong các công việc đề tạo ra diện nghề
nghiệp rộng, củng cố vững chắc được kỹ năng nghề.

2, Quy luật giao thoa kiếnthức: Quy luật này thể hiện ở sự kế thừa kiến thức
giữa các môn học để phát triển kiến thức đến giai đoạn cao củakỹ năng nghề.



Kỹ năng nghề có rất nhiều môn học hợp thành một hệ thống kiến thức
mà người học phải thứ tự tiếp nhận nó để nâng cao dần kỹ năng nghề.
Người ta thường sắp xếp các môn cơ bản chung - công cụ - cơ sởnghề bổ trợ nghề - nghề nghiệp theo một trật tự logic lấy môn nọ làm tiền đề
tri thức cho môn kia =>nếu người thiết lập chương trình thực hiện đúng
logic trên sẽ tạo ra hậu thuẫn tiền đề tri thức cho học sinh trong logic
nhận thức.

Cách áp dụng vào xây dựng chương trình đào tạo:




Mộtlàphảithiếtlập chương trìnhđàotạo theo logic các môn
họcphùhợpvớilogicnhậnthứcvàlogic tri thứckỹ năng nghề.
Hai là giáo viên cầnphải định hương logic tri thức theo hệ thống phát
triển từ thấp tới cao để cho người học biết được và tạo dựng kỹ năng
nghề cho mình. Đặc biệt là chỉ ra cho người học được giao thoa chương
trình từ môn học này sang môn học khác.

VD: Quy luật cung cầu trên thị trườngcủa kinh tế học vi mô sẽ được vận
dụng để nghiên cứu quy luật cung cầu lao động trong kinh tế nguồn nhân lực
Câu hỏi 4: Các phương pháp dạy lý thuyết và thực hành. Các phương
pháp đó được vận dụng vào việc đào tạo nghề hiện nay như thế nào?
I.

Các phương pháp dạy nghề.
Phương pháp dạy học là cách thức người thầy truyền đạt kiến thức
cho học sinh nhằm đạt được chất lượng cao trong quá trình đào tạo.
Hiện nay đang có nhiều phương pháp dạy học được áp dụng cho các
loại truyền đạt khác nhau.
- Dạy lý thuyết.
- Dạy thực hành nghề.


Cụ thể:
1. Dạy lý thuyết . Gồm các phương pháp sau ( 4 pp):
• Phương pháp giảng giải: người thầy sử dụng sự giải
thích của mình để học sinh hiểu được bản chất của vấn
đề. Có nhiều cách giảng giải như: giảng giải bằng lời
nói thuần túy, kết hợp với hình ảnh, kết hợp với mô
hình,….Hiện nay, người thầy sử dụng máy chiếu để

minh họa cho bài giảng, đã nâng cao chất lượng bài
giảng và chi tiết hóa diễn giải nội dung nhằm nâng cao
năng lực nhận thức cho người đọc. ( pp này đang được
áp dụng phổ biến).
• Phương pháp đối thoại: là phương pháp thầy trò cùng
nêu vấn đề, cùng tranh luận để đi đến thống nhất cách
hiểu bản chất vấn đề. Phương pháp này đang được áp
dụng dưới dạng thảo luận của học sinh hoặc các hội
nghị khoa học như trong thực tế để thầy và trò cùng
tìm ra giải pháp tối ưu để giải quyết vấn đề.
• Phương pháp nghiên cứu khoa học: là pp vận dụng lý
thuyết đã học để nghiên cứu một vấn đề cụ thể trong
thực tế và giải quyết vấn đề đặt ra một cách bài bản
khoa học.
2. Dạy thực hành tay nghề gồm các phương pháp sau ( 4 pp):
• Phương pháp dạy theo đối tượng: là pp người học được
thực hành trên 1 đối tượng cụ thể theo 1 trật tự nhất
định.
Nhược điểm: không tạo ra được các thao tác, động tác
lao động tiên tiến, bị lạc hậu…
Ưu điểm: tạo hứng thú cao trong học tập của học sinh.
• Phương pháp dạy theo thao tác: là pp người học chỉ
thực hiện 1 thao tác hoặc 1 số động tác lao động tiên
tiến, chuẩn mực đến khi thuần thục và chính xác cao
theo quy định.
Ưu điểm: tạo ra các thao tác, động tác lao động tiên
tiến, chuẩn mực và tạo ra các hoạt động tối ưu.
Nhược điểm: nhàm chán, không gây được hứng thú cho
người học.



Phương pháp tổng hợp ( vừa theo đối tượng, vừa theo
thao tác) : là pp dạy theo đối tượng nhưng đến thao tác
cơ bản, chủ yếu, quan trọng tốn nhiều thời gian thì
dừng lại để sử dụng pp dạy theo thao tác. Pp này phát
huy được ưu điểm và khắc phục được nhược điểm của
2 thao tác trên. PP này được áp dụng phổ biến ở nhiều
nước trên thế giới.
• Phương pháp tự học: là pp người học dựa vào sơ đồ,
hình ảnh và các giải thích hướng dẫn, thực hiện theo để
đạt được cách nhận thức làm việc cụ thể.
Vận dụng các phương pháp vào việc đào tạo nghề.


II.

Thực trạng trong việc đào tạo đại học ở Việt Nam:
-

-

Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là
giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo
thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào
tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Ðào tạo thiếu gắn kết với nghiên
cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động;
chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm
việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn
lạc hậu, thiếu thực chất.
Tình trạng thừa ‘thầy’ và thiếu ‘thợ’ phản ánh những bất cập của cả hệ

thống giáo dục, đào tạo trong một thời gian dài. Tư duy ‘bao cấp’ trong
giáo dục thiếu gắn kết với thị trường lao động dẫn đến tỷ lệ sinh viên
không có việc làm ngày càng tăng.

‘‘Theo thống kê, trong 3 năm, từ năm 2009 đến 2012, có gần 400 nghìn sinh
viên CĐ và khoảng 500 nghìn sinh viên ĐH tốt nghiệp các hệ đào tạo, trong
đó đào tạo chính quy chiếm khoảng 65%. Tính đến cuối năm 2012, trong tổng
số 984 nghìn người thất nghiệp có 55,4 nghìn người trình độ CĐ (5,6%) và
111,1 nghìn người có trình độ ĐH trở lên (11,3)=> Nguyên nhân quan trọng là
các cơ sở giáo dục ĐH tổ chức đào tạo chưa quan hệ chặt chẽ với thị trường
lao động, chưa nắm bắt được nhu cầu nhân lực’’.
-

Việc đào tạo xa với thực tiễn dẫn đến những bất cập trong phương pháp
giảng dạy của giảng viên, thay vì phải hướng đến những kỹ năng ứng


dụng trong thực tế thì bài giảng thiên về lý thuyết. Việc giảng dạy đại học
còn nặng những giờ lên lớp, chưa đầu tư cho các bài tập thực hành và
đánh giá kỹ năng.
Do xa rời thực tiễn nên nhiều sinh viên không xác định nghề nghiệp sau này
rõ ràng dẫn đến học theo bằng cấp, chỉ cần có điểm cao để có bằng khá, giỏi.
Thêm vào đó là việc tuyển dụng lao động của các cơ quan nhà nước cũng
‘nặng’ bằng cấp dẫn đến áp lực về đào tạo đại học và sau đại học.
- Hàng loạt các trường đại học được thành lập, các hình thức đào tạo mở rộng
tạo áp lực giảng dạy lên đội ngũ giảng viên. Việc nghiên cứu khoa học hay
đầu tư cho bài giảng bị hạn chế. Các giờ lên lớp thiên về lý thuyết và các giáo
trình có sẵn.Tình trạng đọc – chép hay nhìn – chép đang làm cho sinh viên
thụ động trong quá trình học tập.
Những bất cập trong đào tạo:

Giáo dục là một quá trình giúp con người tiếp thu tri thức tìm các giá trị cho
bản thân để có kỹ năng sống và làm việc hiêu quả. Đổi mới giáo dục đang đòi
hỏi cả hệ thống phải có chuyển biến, từ mục tiêu đào tạo đến quá trình đào
tạo, kiểm định đánh giá và sử dụng nhân lực. Nếu nhìn ở góc độ đổi mới
phương pháp giảng dạy của giảng viên có ở các trường đại học, cao đẳng có
thể thấy nhiều bất cập :


Về quản lý: Cách tính giờ giảng và quản lý chất lượng nặng về lý
thuyết, thầy và trò chủ yếu gặp nhau trên lớp. Sinh viên lên lớp nhiều
dẫn đến ỷ nại vào lý thuyết ít vận dụng thực hành. Một số trường đang
giảm giờ lý thuyết để tăng giờ thực hành thì lại vướng vào kỹ năng
giảng dạy của thầy và thói quen thụ động của trò.



Về môi trường học tập: Thiếu trang thiết bị thực hành, thư viện lạc
hậu, thiếu liên kết giữa cơ sở đào tạo và đơn vị sử dụng nhân lực…
đang là rào cản cho quá trình đổi mới phương pháp giảng dạy. Nhà
trường mới quan tâm nhiều đến giảng đường mà chưa thực sự quan tâm
tới không gian mở gắn với các hoạt động ngoại khóa gắn với ngành
nghề đào tạo. Việc sinh viên phải ở ngoại trú trọ học ở những nơi
không phù hợp cũng ảnh hưởng tới quá trình học tập.




Về tư duy của người thầy : Nho giáo vẫn ảnh hưởng tới quan niệm dạy
học ở Việt Nam cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Nhiều sinh
viên Việt Nam rất ngại nêu ý kiến chứ chưa nói đến tranh luận. Trong

giờ học ít có sáng tạo, kiến thức vẫn phụ thuộc nhiều ở người thầy. Tư
duy một chiều dẫn đến sinh viên không muốn làm khác, chỉ muốn làm
theo.



Về phương tiện giảng dạy : Không gian lớp học ở các trường đại học
Việt Nam chưa được quan tâm đúng mức. Các phòng học được thiết kế
na ná như nhau chưa tính đến hiệu quả sử dụng. Đa số các phòng học
thiết kế cho đông người ngồi nghe phía dưới, còn giảng viên có bục nói
trên cao. Bàn ghế để cố định khó di chuyển nhất là khi cần làm việc
nhóm. Chính không gian học tập như vậy làm cho người học luôn thụ
động. Có sinh viên cả năm chỉ ngồi học ở một vị trí cố định, không
muốn di chuyển ra chỗ khác. Khi có máy tính nhiều giảng viên chuyển
toàn bộ bài giảng lên đèn chiếu và sinh viên đọc trên màn hình để chép.
Như vậy, vai trò giao tiếp của người thầy với trò giảm đi. Việc sử dụng
các trực quan khác như như ảng phấn, giấy vẽ, tranh ảnh… ít được
quan tâm.



Về kiểm tra đánh giá kết quả học tập: hình thức đánh giá còn nặng về
lý thuyết, do đó sinh viên cũng tập trung ôn lý thuyết để trả bài cho
đúng và có điểm cao thay vì phải sáng tạo gắn với thực tiễn.

Xu thế hội nhập tạo ra môi trường Mở cho sinh viên:
Mở về tri thức:
Ngày nay môi trường học tập đã thay đổi, internet ra đời đẫn đến quan niệm
giáo dục ‘khép kín’ trong nhà trường không còn phù hợp. Ngay trong giờ học,
sinh viên đã dùng điện thoại kết nối với nhiều nguồn thông tin khác nhau để

thảo luận một chủ đề thay như trước kia họ chỉ có một cách là tìm tài liệu ở
thư viện. Một yếu tố khác, công nghệ cũng giúp các giảng viên mở rộng và
cập nhật thông tin, tìm kiếm tri thức từ nhiều khu vực khác nhau.Cập nhật
thông tin trở nên quan trọng với mỗi giảng viên khi thiết kế các bài giảng.
Hệ thống thư viện, giáo trình, sách giáo khoa… luôn là tài sản quý của mỗi
trường đại học, ngày nay kho kiến thức đó được mở rộng và mang tính ‘toàn
cầu’ khi mà khả năng kết nối giúp người ta truy cập vào nhiều thư viện nổi


tiếng trên thế giới. Hàng loại công cụ tìm kiếm đã trở thành phổ biến và là
thói quen khi tìm thông tin và tài liệu giảng dạy học tập.
Mở về khả năng sáng tạo :
Những trung tâm thực hành, những dự án liên kết sản xuất với bên ngoài là
nơi để sinh viên sáng tạo ra những giá trị phục vụ xã hội. Là nơi sáng tạo các
ý tưởng có sự hỗ trợ của người thầy và cả nhà trường để họ hoàn thiện sản
phẩm của mình. Tài năng chỉ có được khi sinh viên biết sáng tạo và rèn luyện.
Những trường đại học nổi tiếng đều xây dựng thương hiệu dựa trên những
thành công của người học sau khi họ ra trường và được xã hội thừa nhận.
Những tài năng đó đều bắt đầu từ khả năng sáng tạo ngay từ khi ngồi trên ghế
nhà trường.
Mở về không gian học tập:
Học đại học là giai đoạn quan trọng để sinh viên bước ra xã hội, thái độ học
tập quyết định tới tương lai nghề sau này.Không gian học tập tốt sẽ giúp sinh
viên định hướng nghề nghiệp tốt. Không gian học tập bao gồm 2 khu vực: nhà
trường: giảng đường, thư viện, phòng thực hành, ký túc xá, cảnh quan, thư
giãn, thể thao…Khu vực thứ 2 là ngoài xã hội: nơi sinh viên đến thực hành
thực tập, các trung tâm đào tạo phối hợp, các chuyến đi dã ngoại…
Những không gian này cần phải được tính toán trong quá trình đào tạo để sinh
viên có cơ hôi trải nghiệm những giá trị sống ngay trong trường đại học.
Những trở ngại trong giảng dạy đại học ở Việt Nam.

Nhiều môn học và nặng lý thuyết:
Các khung chương trình đại học những năm qua đang có thay đổi và hình
thành phần ‘cứng’ phần ‘mềm’ để các trường điều chình, nhưng mỗi trường
có cách tiếp cận và phương thức đào tạo khác nhau nên sinh viên vẫn phải học
nhiều môn. Khi lên lớp giảng viên luôn lo thiếu giờ vì khung lý thuyết
nhiều.Nhiều môn học nặng lý thuyết nên dẫn đến tình trạng thầy đọc, trò
chép.
Giảng viên chưa thực sự muốn thay đổi phương pháp giảng dạy.
Ngại thay đổi cũng là một vấn đề cần xem xét, cách dạy truyền thống luôn
theo trình tự giáo án, giờ giảng trên lớp chủ yếu do thầy thuyết trình. Nếu


thiết kế bài giảng theo hướng tích cực thì người thầy phải thay đổi, phải cuẩn
bị cho các tình huống trên lớp hay nói cách khác người thầy phải dành nhiều
thời gian cho sự chuẩn bị. Một số phương pháp tích cực còn cần phương tiện
hỗ trợ, nó ảnh hưởng cả tới kinh thế của người thầy. Do đó không phải tất cả
người thầy đã muốn thay đổi sang giảng dạy tích cự.
Sinh viên có thói quen học thụ động.
Phần lớn sinh viên vẫn quen cách học thụ động từ thời phổ thông, giao tiếp
giữa giảng viên và sinh viên vẫn dựa trên truyền thống , rất ít tranh luận trái
chiều trong giờ học. Phần lớn sinh viên ngại bộc lộ ý kiến, trước mỗi câu hỏi
không nhiều sinh viên sẵn sàng tham gia. Cách học thụ động làm sinh viên
ngại tìm hiểu cái mới, chỉ muốn nói đúng những điều trong sách vở.Việc học
thụ động cũng một phần vì hướng nghiệp không tốt, dẫn đến tâm lý học cho
có bằng cấp chứ không cần cố gắng.Một số sinh viên vào đại học như để xả
hơi sau nhiều năm bị ép học ở phổ thông.
Lớp học đông người.
Lớp học 50, 70… thậm chí hàng trăm sinh viên là một trở ngại cho giảng viên
khi lên lớp.Với lớp học đông người thầy cô luôn chọn thuyết trình, nhiều thầy
cô cho rằng lớp đông không thể áp dụng các phương pháp giảng dạy tích

cực.Vì người học đông nên nhiều sinh viên chọn vị trí cuối lớp để có thể làm
việc khác nếu bài giảng không hấp dẫn họ.
Thiếu trang thiết bị hỗ trợ giảng dạy.
Với thiết kế không gian lớp học kiểu ‘bục giảng’ truyền thống, việc giảng dạy
theo phương pháp tích cực gặp khó khăn. Khi sinh viên làm việc nhóm rất
khó có chỗ di chuyển và thảo luận, các thiết bị hỗ trợ như bảng ghim, giấy bút
vẽ…không có.Chưa kể hệ thống cách âm giưa các phòng học cũng ảnh hưởng
đến lớp bên cạnh khi sinh viên làm việc nhóm.
Môi trường dạy và học còn nặng tư duy bao cấp.
Việc đào tạo hàng năm theo chỉ tiêu, chất lượng đầu ra khó ai kiểm định dẫn
đến tư duy bao cấp trong giáo dục. Các giảng viên cũng không chịu áp lực
phải đổi mới khi hàng năm vẫn vượt nhiều giờ.


×