Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Đề án tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị tăng cường quản lí vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.77 KB, 37 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC III

ĐỀ ÁN TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ TỪ NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH VINH TỈNH BÌNH ĐỊNH

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG TRÌNH CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Đà Nẵng, tháng 4 năm 2015


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC III

ĐỀ ÁN TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ TỪ NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH VINH TỈNH BÌNH ĐỊNH

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG TRÌNH CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học:

Đà Nẵng, tháng 4 năm 2015


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


Huyện THANH VINH được thành lập theo Nghị định số 99/2001/NĐ-CP
ngày 21/6/2001 của Chính Phủ, nằm về phía Tây Bắc của tỉnh BÌNH ĐỊNH trên
Quốc lộ 1A hướng đi BÌNH THUẬN; có diện tích tự nhiên 78.203 ha, dân số
khoảng 128.307 người với 23 dân tộc anh em sinh sống. Đến nay trên địa bàn
đã có 9 đơn vị hành chính.
Trước khi thành lập huyện THANH VINH tỉnh BÌNH ĐỊNH, cơ sở hạ
tầng ở khu vực thành lập huyện chỉ toàn là đồi núi, hạ tầng kỹ thuật chưa được
đầu tư, giao thông đi lại của nhân dân trong vùng gặp nhiều khó khăn. Thời gian
qua, diện mạo của huyện thay đổi đáng kể, hạ tầng giao thông, cấp điện, cấp
nước, thông tin liên lạc và các hạ tầng xã hội đã được tập trung đầu tư. Từ kết
quả thực hiện đầu tư dự án công trình trên địa bàn huyện đã thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội của huyện THANH VINH, đời sống kinh tế và sinh hoạt của nhân
dân được cải thiện, giảm tỷ lệ hộ đói nghèo, trật tư xã hội, an ninh quốc phòng
được đảm bảo.
Tuy nhiên trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách
nhà nước việc quản lý nguồn vốn, bố trí phân bổ vốn của huyện THANH VINH
trong thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế bất cập, gây thất thoát lãng phí. Trong
đó có các nguyên nhân về khách quan và chủ quan.
Về khách quan: Xuất phát điểm của huyện ở mức thấp, điều kiện tự nhiên
khí hậu đặc biệt khó khăn. Tình hình phát triển kinh tế, an sinh xã hội chậm cải
thiện; nguồn thu ngân sách hàng năm thấp không đủ để cân đối, bố trí cho các
lĩnh vực trọng điểm, cấp thiết; các dự án công trình triển khai trên địa bàn rộng,
việc kiểm tra giám sát gặp nhiều khó khăn; các văn bản hướng dẫn về trình tự
thủ tục về chính sách đầu tư xây dựng cơ bản thường xuyên thay đổi, điều
chỉnh bổ sung ảnh hưởng đến việc triển khai và tiến độ thực hiện dự án.
Về chủ quan: công tác giải phóng mặt bằng còn nhiều vướng mắc trong
chính sách đền bù, giải tỏa; nợ đọng vốn đầu tư vẫn còn ở mức cao; đội ngũ cán
bộ làm công tác quản lý đầu tư xây dựng có sự thay đổi, chuyên môn còn hạn
chế ảnh
hưởng không nhỏ đến công tác quản lý, triển khai dự án công trình.

Như vậy, vấn đề rất đáng quan tâm hiện nay của huyện THANH VINH
không chỉ là làm sao có được nhiều vốn để đầu tư cho tăng trưởng, mà quan trọng


hơn đó là phải có những giải pháp về quản lí đối với vốn ĐTPT từ NSNN để
nguồn lực vốn này được sử dụng có hiệu quả nhất, qua đó tạo ra sức hút vốn đầu tư
cũng như nâng cao hiệu quả của kinh tế huyện THANH VINH.
Vì những lí do trên, tôi chọn chủ đề “Tăng cường Quản lí vốn đầu tư từ ngân
sách nhà nước trên địa bàn huyện THANH VINH tỉnh BÌNH ĐỊNH” làm
đề án tốt nghiệp cao cấp chính trị.
2. Mục đích và Ý nghĩa của đề án
2.1 Mục đích: trên cơ sở nhận thức lí luận về quản lí vốn ĐT từ NSNN, qua
phân tích đánh giá thực trạng quản lí vốn ĐT từ NSNN, đề án đề xuất các giải pháp
về quản lí đối với vốn ĐTPT từ NSNN ở huyện THANH VINH nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng phần vốn này.
2.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Đề án
Đề án góp phần làm phong phú thêm lý luận về quản lý vốn nói chung
và quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nói riêng, từ đó giúp cho đội ngũ cán bộ
trực tiếp và những người làm nhiệm vụ quản lý công tác đầu tư rút ra những
nhận thức chung về vấn đề này để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công
tác quản lý đầu tư và quản lý vốn đầu tư.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: là quá trình quản lí vốn ĐTPT từ NSNN.
Phạm vi nghiên cứu:
Nguồn vốn ĐTPT của nhà nước gồm có: Vốn NSNN, vốn của doanh
nghiệp nhà nước và vốn tín dụng ĐT của Nhà nước. Trong đó, vốn ĐT có nguồn
gốc từ NSNN gọi là vốn ĐT từ NSNN, và là phạm vi nghiên cứu của đề án này.
- Không gian: trên địa bàn huyện THANH VINH.
- Thời gian: thực trạng giai đoạn 2011-2013, giải pháp áp dụng cho giai
đoạn 2015-2020.



PHẦN 1
CĂN CỨ PHÁP LÍ, CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
ĐỂ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
1.1. CĂN CỨ PHÁP LÝ
- Đại hội lần thứ IX của Đảng, ngày 17/9/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010.
Chương trình xác định rõ 4 lĩnh vực cải cách đó là: cải cách thể chế, cải cách
tổ chức bộ máy hành chính, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ công chức và
cải cách tài chính công. Chương trình bao gồm 9 mục tiêu cụ thể. Để thực hiện
chương trình này, Chính phủ đã ban hành 7 chương trình hành động, trong đó liên
quan đến nội dung cải cách tài chính công là Chương trình 6 “Đổi mới cơ chế quản
lí tài chính đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công” do Bộ Tài
chính chủ trì. Nội dung trọng tâm của cải cách tài chính công được tập trung vào
các lĩnh vực: Phân cấp ngân sách; đổi mới cơ chế tài chính khu vực công; thí điểm
cơ chế tài chính nhằm mở rộng công tác xã hội hoá dịch vụ công.
- Luật NSNN năm 2002 được ban hành (có hiệu lực từ năm 2004), những
thay đổi quan trọng trong Luật này là: Tăng cường phân cấp cho chính quyền
địa phương trong quản lí ngân sách; thể chế hoá yêu cầu lập ngân sách trung
hạn và công tác quản lí ngân sách theo kết quả đầu ra; thể chế hoá quyền tự chủ
của các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp trong việc quản lí và sử dụng kinh
phí; thể chế hoá yêu cầu kiểm soát đầu ra (hậu kiểm) đối với các cơ quan quyền
lực nhà nước và kiểm toán nhà nước. Những thay đổi trong Luật NSNN đã thiết
lập được một môi trường pháp lí khá đầy đủ, thông thoáng cho tiến trình đổi mới
tài chính công ở Việt Nam.
-Nghị quyết 08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 của Chính phủ đã phân định
tương đối rõ ràng trách nhiệm, quyền hạn cho chính quyền mỗi cấp, tạo ra sự phối
hợp tương đối nhịp nhàng trong quản lí và điều hành ngân sách nói chung, quản lí

vốn ĐTPT từ NSNN nói riêng
- Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 về tiếp tục đẩy mạnh phân
cấp quản lí nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương.


- Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 về quản lí dự án đầu tư
xây dựng công trình.
- Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 về quản lí dự án đầu tư
xây dựng công trình.
- Nghị định số 83/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 về việc sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 về quản lí dự
án đầu tư xây dựng công trình.
-Quyết định số 192/2004/QĐ-TTg ngày 16/11/2004), phát huy quyền làm
chủ của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc kiểm tra, giám sát quá trình quản
lí và sử dụng vốn, tài sản của Nhà nước, phát hiện và ngăn chặn các hành vi vi
phạm chế độ quản lí tài chính, bảo đảm sử dụng có hiệu quả NSNN, thực hành
tiết kiệm, chống thất thoát, lãng phí.
-Tài liệu “Hướng dẫn công tác quản lí dự án đầu tư cho cấp huyện, xã
theo phân cấp” được biên soạn nhằm giúp cho các địa phương tổ chức, quản lí
và thực thi các quy định hiện hành của nhà nước về công tác quản lí dự án đầu
tư một cách thống nhất trên địa bàn tỉnh BÌNH ĐỊNH.
-Tài liệu “Hướng dẫn giám sát đầu tư cộng đồng”: Giám sát đánh giá
cộng đồng là hoạt động tự nguyện, có tổ chức của cộng đồng sinh sống trên địa
bàn xã để theo dõi, kiểm tra việc chấp hành quy định pháp luật về đầu tư và xây
dựng, phát hiện và kiến nghị các cấp có thẩm quyền xử lí các việc làm vi phạm
quy định pháp luật về đầu tư và xây dựng trên địa bàn xã. Giám sát đầu tư cộng
đồng đối với các công trình đầu tư trên địa bàn xã là hoạt động cụ thể, thiết thực
nhằm thực hiện các quy định của Quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng ban
hành theo Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg ngày 18/5/2005 của Thủ tướng

Chính phủ.
-Tài liệu “Sổ tay Hướng dẫn lập qui hoạch tổng hợp phát triển tỉnh ở Việt
Nam” đây là tài liệu được biên soạn dưới sự hỗ trợ của các chuyên gia úc, với
nội dung hỗ trợ kĩ thuật và đào tạo lập quy hoạch tỉnh BÌNH ĐỊNH. Tài liệu
gồm những khái niệm, công cụ và kĩ thuật lập quy hoạch tổng thể tỉnh, trong đó
nêu cụ thể nội dung 9 bước lập kế hoạch.
-Tài liệu “Nâng cao năng lực quản lí tài chính công ở địa phương”:
Được biên soạn nhằm phục vụ các hoạt động đào tạo nâng cao năng lực cán
bộ tài chính, kế hoạch cũng như cán bộ lãnh đạo các cấp tỉnh, huyện, xã của
các địa phương.
-Tài liệu “Lập kế hoạch có tính chiến lược phát triển kinh tế địa phương”:
Bộ tài liệu này phục vụ cho việc đào tạo nâng cao năng lực cán bộ quản lí Nhà


nước và cán bộ chuyên môn làm công tác kế hoạch; góp phần từng bước đổi mới
và nâng cao hiệu quả của kế hoạch ở các địa phương thuộc phạm vi của dự án.
-Tài liệu Hướng dẫn phân cấp quản lí đầu tư xây dựng đối với cấp huyện,
xã: Quy định này hướng dẫn quản lí các dự án đầu tư, xây dựng mới, cải tạo, nâng
cấp, mở rộng các công trình có sử vốn NSNN và thuộc thẩm quyền quyết định đầu
tư của cấp huyện, xã. Các dự án đầu tư từ nguồn vốn góp của dân, tổ chức thực
hiện theo Quy chế tổ chức huy động, quản lí và sử dụng các khoản đóng góp tự
nguyện của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng của các xã, thị trấn ban hành kèm
theo Nghị định số 24/1999/NĐ-CP ngày 16/4/1999 của Chính phủ
1.2 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà
nước
- Theo quan điểm kinh tế vĩ mô và Tài khoản quốc gia: vốn đầu tư được
hiểu là các khoản chi tiêu để làm tăng hoặc duy trì tài sản vật chất trong một
thời kì nhất định. Vốn đầu tư thường thực hiện qua các dự án đầu tư và một số
chương trình mục tiêu quốc gia với mục đích bổ sung tài sản cố định, tài sản lưu

động của toàn bộ nền kinh tế. Quan điểm này nhấn mạnh tới yếu tố tích luỹ
trong đầu tư, kết quả đầu tư đem lại có tính vật chất, hiện hữu, và dễ đánh giá
được hiệu quả đầu tư.
- Theo quan điểm phát triển bền vững: Vốn đầu tư được hiểu là những khoản
chi tiêu cho cả ba trụ cột phát triển, đó là Kinh tế - Xã hội - và Môi trường. Sự gia
tăng về kết quả của đầu tư ở đây không chỉ là tài sản vật chất (như quan điểm kinh
tế vĩ mô nêu trên) mà còn bao gồm cả những kết quả phi vật chất như những kết
quả từ đầu tư cho các lĩnh vực giáo dục, y tế, môi trường, .v.v…. Theo quan điểm
này “Vốn đầu tư” được gọi là “Vốn đầu tư phát triển”.
Hai quan điểm nêu trên đều thống nhất ở chỗ, vốn đầu tư bỏ ra phải nhằm
mục đích đem lại một kết quả lớn hơn. Kết quả đó, theo quan điểm kinh tế vĩ
mô và Tài khoản quốc gia, phải là kết quả vật chất hiện hữu, đo đếm được, và vì
vậy giới hạn trong lĩnh vực đầu tư sản xuất vật chất. Còn theo quan điểm phát
triển bền vững, kết quả của đầu tư không chỉ là lĩnh vực vật chất mà bao gồm cả
lĩnh vực phi vật chất, kết quả đó có tính chất bao quát trên phạm vi rộng hơn,
bao hàm mối liên hệ phát triển giữa các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường.
Chính vì vậy, có những kết quả tăng lên rất khó đo đếm và định lượng hoá.


- Vốn ĐT từ NSNN được định nghĩa đó là vốn có nguồn gốc từ NSNN,
được nhà nước bỏ ra để thực hiện đầu tư làm gia tăng năng lực sản xuất nhằm
sau một thời gian nhất định thu về một hiệu quả KT-XH nhất định.
- Vốn ĐT từ NSNN có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Vốn ĐTPT từ NSNN luôn gắn liền với quyền lực của nhà nước: việc huy
động vốn vào ngân sách để ĐTPT thông qua chính sách thuế, phí của nhà nước
mang tính chất cưỡng chế. Việc sử dụng vốn này cũng phải thông qua cơ quan
quyền lực của nhà nước là Quốc hội và HĐND các cấp. Do vậy, vốn ĐTPT từ
NSNN được quản lí một cách chặt chẽ bằng hệ thống pháp luật về các lĩnh vực
như NSNN, đầu tư, đấu thầu, .v.v.. và được thực hiện bởi hệ thống các cơ quan
quyền lực quản lí chuyên ngành như Chính phủ, UBND, hệ thống cơ quan tài

chính, kế hoạch - đầu tư và KBNN, .v.v..
+ Một phần lớn vốn ĐTPT từ NSNN luôn gắn Với các dự án, chương trình
đầu tư (ngoại trừ một số khoản chi như hỗ trợ doanh nghiệp, góp vốn vào những
lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước, v.v…). Do vậy, việc quản lí vốn
ĐTPT từ NSNN phụ thuộc rất lớn và gắn chặt chẽ với cơ chế quản lí dự án đầu
tư xây dựng. Những dự án, chương trình đầu tư bằng vốn ĐTPT từ NSNN phải được
quyết định đầu tư bởi cơ quan quyền lực nhà nước có thẩm quyền.
+ Vốn ĐTPT từ NSNN thường dành cho đầu tư các dự án có quy mô khá
lớn, thời hạn sử dụng vốn dài, đầu tư có tính chất không hoàn trả trực tiếp. Vốn
ĐTPT từ NSNN tạo ra phúc lợi chung cho xã hội, phúc lợi này khó tính toán
được giá trị kinh tế cụ thể. Đây là đặc điểm khác biệt so với ĐTPT của doanh
nghiệp. Mục đích đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp là khá rõ ràng, tối đa
hoá lợi nhuận.
+ Vốn ĐTPT từ NSNN hiện nay có xu hướng tăng về số tuyệt đối, nhưng
giảm về số tương đối. Vốn đầu tư từ NSNN ngày càng chiếm tỉ trọng nhỏ đi so
với tổng vốn ĐTPT toàn xã hội, một phần do chủ trương xã hội hoá đầu tư, cơ
cấu lại nguồn chi ĐTPT từ NSNN, giảm bao cấp đầu tư ở những lĩnh vực không
cần thiết, mặt khác do cơ chế thu hút đầu tư làm cho vốn đầu tư ở khu vực tư
nhân và đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng.
- Đối tượng đầu tư của vốn ĐT từ NSNN như sau:
+ Đầu tư vào những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác không đủ
khả năng hoặc không được phép đầu tư: những dự án công ích có suất đầu tư
lớn nhưng khả năng thu hồi vốn chậm hoặc không thể thu hồi vốn (đường xá,


cầu cống, trụ sở làm việc cơ quan nhà nước...), những lĩnh vực đầu tư mang tính
chủ quyền quốc gia, tài nguyên quốc gia (các công trình quốc phòng).
+ Đầu tư vào những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác không muốn
đầu tư: đó là những lĩnh vực không mang lại lợi ích trực tiếp hoặc khả năng sinh
lời thấp (như đầu tư cho các dịch vụ công cộng, giáo dục phổ cập tiểu học,

chăm sóc sức khoẻ ban đầu, ĐTPT vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn...). Nhà nước đầu tư vào những lĩnh vực này thể hiện vai trò quản lí, điều
tiết nền kinh tế của Nhà nước.
+ Đầu tư vào những lĩnh vực mang tính định hướng, dẫn dắt, hỗ trợ phát triển
cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân: như đầu tư khuyến khích và định hướng đầu tư
để thu hút các doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư vào nhằm đem lại lợi ích tổng thể cho
quốc gia. Đó là hệ thống hạ tầng KT-XH, đặc biệt là hệ thống đường giao thông có
chức năng kết nối và tạo điều kiện khai thác tiềm năng, thế mạnh của các vùng,
miền, đầu tư vào các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, đầu tư vào các
lĩnh vực văn hoá, y tế, giáo dục, thông tin liên lạc..., hướng tới mục tiêu tăng
trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội.
1.2.2. Vai trò của vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước
Vai trò đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân: Vốn ĐTPT từ NSNN là bộ
phận chiếm tỉ trọng khá lớn trong toàn bộ chi tiêu của Chính phủ, việc xem xét
một số cơ sở lí thuyết về tác động của chi tiêu Chính phủ đối với tăng trưởng
kinh tế sẽ giúp chúng ta thấy rõ hơn tác động vĩ mô của nguồn vốn này đối với
nền kinh tế.
Vốn ĐTPT từ NSNN là một trong những công cụ điều hành của Nhà nước,
góp phần điều tiết nền kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô: đầu tư từ ngân
sách nhà nước tạo nền tảng cho kinh tế phát triển, đồng thời thúc đẩy và dẫn
dắt đầu tư đối với các thành phần kinh tế khác. Chi ĐTPT từ NSNN là công
cụ kinh tế quan trọng để Nhà nước trực tiếp tác động đến các quá trình KTXH, điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ vững vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước
Vốn ĐTPT từ NSNN góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu của nền kinh
tế: Một trong những đối tượng đầu tư của vốn ĐTPT từ NSNN là đầu tư vào các
lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế của toàn bộ nền kinh tế. Đây là đặc điểm riêng có
của nguồn vốn NSNN mà các nguồn vốn ĐTPT khác không có được. Bất kì ngành


kinh tế nào, muốn phát triển được, trước hết phải dựa vào vốn đầu tư, nhất là

những khoản đầu tư cho cơ sở hạ tầng làm cơ sở, nền tảng cho sự phát triển.
Vốn ĐTPT từ NSNN là nguồn lực cơ bản để thực hiện XĐGN, thu hẹp
khoảng cách giàu nghèo, thực hiện chính sách công bằng trong phát triển
Ngoài ra, Vốn ĐTPT từ NSNN đầu tư vào các lĩnh vực khoa học công
nghệ, y tế, giáo dục, văn hoá xã hội, .v.v.. đều là những khoản đầu tư có ý nghĩa
quan trong đối với sự phát triển của một quốc gia. Đó là những khoản đầu tư
cho con người nhằm tăng cường năng lực sản xuất trong tương lai của nền kinh
tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
1.2.3 Nội dung quản lí vốn ĐT từ NSNN bao gồm:
+ Gắn kết quản lí vốn NSNN với cải cách tài chính công nhằm giảm bớt
thủ tục hành chính.
+ Tăng cường hiệu quả sử dụng vốn ĐTPT từ NSNN nói riêng và tài
chính công nói chung.
+ Tăng cường uỷ quyền và giao trách nhiệm về quản lí vốn ĐTPT từ
NSNN cho các địa phương, đơn vị để nâng cao tính chủ động, tích cực và có
biện pháp hữu hiệu phát huy hiệu quả nguồn vốn này trong phạm vi quản lí.
+Đảm bảo tính minh bạch trong quản lí NSNN nói chung và vốn ĐTPT
nói riêng ở tất cả các khâu lập dự toán ngân sách, chấp hành dự toán ngân sách,
kế toán và quyết toán NSNN.
+Thể chế hoá các biện pháp kiểm tra, kiểm soát nhằm nâng cao hiệu quả
giám sát, tránh phiền hà cho các bộ, ngành, địa phương trong việc quản lí và sử
dụng vốn ĐTPT.
+ Sửa đổi, bổ sung những văn bản quy phạm pháp luật không còn phù
hợp nhằm đưa công tác quản lí tài chính công đạt hiệu quả thiết thực.


PHẦN 2
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ ĐỀ ÁN
2.1. QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
2.1.1 Lập kế hoạch vốn đầu tư phát triển trong chu trình ngân sách

nhà nước: UBND tỉnh hướng dẫn lập dự toán ở địa phương. Sở Tài chính chủ
trì phối hợp với Sở KH&ĐT xem xét dự toán ngân sách của các đơn vị thuộc
tỉnh, dự toán thu do các cơ quan thuế, hải quan lập, dự toán thu chi cấp huyện,
trên cơ sở đó lập dự toán thu chi NSNN trên địa bàn tỉnh.
UBND cấp tỉnh lập dự toán, điều chỉnh, phân bổ, quyết toán NSĐP trình
HĐND cùng cấp phê duyệt. Căn cứ Nghị quyết của HĐND, UBND cấp tỉnh quyết
định một số chế độ, tiêu chuẩn định mức chi tiêu ngân sách trong trường hợp
không trái quy định của pháp luật; quyết định một số loại, mức lệ phí và các khoản
đóng góp của nhân dân phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể của địa phương.
2.1.2. Thực hiện vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước trong dự
toán ngân sách nhà nước: Đây là giai đoạn trọng tâm của quy trình quản lí vốn
ĐTPT từ NSNN. UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc tổ chức
quản lí, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch ĐTPT trên địa bàn tỉnh, còn
HĐND tỉnh thực hiện giám sát việc chấp hành ngân sách dành cho ĐTPT của
UBND và các đơn vị sử dụng ngân sách. Các sở, ban, ngành chịu trách nhiệm
trước UBND và HĐND cùng cấp về triển khai kế hoạch vốn ĐTPT thuộc phạm
vi mình quản lí.
2.1.3. Quyết toán vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước
Vốn ĐTPT từ NSNN được thực hiện quyết toán theo dự toán NSNN
(quyết toán năm) và quyết toán theo công trình hoàn thành (thực hiện khi công
trình hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng).
2.2 MỤC TIÊU
2.2.1 MỤC TIÊU TỔNG QUÁT
Phát triển kinh tế ở huyện THANH VINH với nhịp độ tăng trưởng nhanh,
chất lượng cao và bền vững hơn so với giai đoạn trước. Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng đẩy nhanh tỉ trọng dịch vụ, công nghiệp
và giảm tỉ trọng nông nghiệp. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh tế.
Ưu tiên phát triển giáo dục, đào tạo nâng cao trình độ dân trí và chất lượng



nguồn nhân lực. Đẩy mạnh chuyển giao và ứng dụng khoa học - công nghệ tiên
tiến vào sản xuất, quản lí... để tạo ra năng suất, chất lượng hiệu quả cao. Cải
thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của đồng bào các dân tộc,
nhất là đồng bào ở vùng biên giới. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn
xã hội.
Hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. NSTƯ bố trí vốn hằng năm. Mức hỗ
trợ từ NSTƯ tuỳ thuộc vào khả năng cân đối NSNN, nhu cầu vào các dự án đầu tư
cụ thể, mức độ khó khăn của địa phương và khả năng NSTƯ hằng năm;
Hỗ trợ ĐTPT rừng sản xuất: thực hiện theo Quyết định số 147/2007/QĐTTg ngày 10/9/2007 và Quyết định số 186/2006/ QĐ-TTg ngày 14/8/2006 của
Thủ tướng Chính phủ;
Tiếp tục đầu tư theo Chương trình quản lí, bảo vệ biên giới đất liền; Hỗ trợ một
phần vốn đối ứng các dự án ODA do địa phương quản lí; Hỗ trợ đầu tư các trung tâm
giáo dục, lao động xã hội; Hỗ trợ đầu tư các bệnh viện tuyến huyện,
2.2.2 MỤC TIÊU CỤ THỂ
- Năm 2015, THANH VINH phấn đấu mức tăng trưởng kinh tế bình quân
12,5%/năm, và tổng nhu cầu vốn đầu tư là 90 tỉ đồng, tăng 1,4 lần so với giai
đoạn 2010-2014. Dự báo khả năng đáp ứng vốn, vốn Ngân sách tỉnh 75%,
vốn của huyện 25%.
- Trong giai đoạn 2016-2020, vốn ĐTPT từ NSNN (do địa phương quản
lí) trên địa bàn huyện Đắc Song bình quân 110triệu đồng/năm. Giả định điều
kiện bố trí vốn không đổi và với tốc độ tăng là 12,5%/năm, thì trong giai
đoạn 2016-2020, tổng vốn ĐTPT từ NSNN ở huyện Thanh Vinh 550tỉ đồng.
2.3. NHIỆM VỤ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
- Làm rõ một số vấn đề lí luận về vốn ĐTPT từ NSNN và quản lý vốn đầu tư từ
NSNN.
- Phân tích, đánh giá thực trạng, chỉ ra các vấn đề và nguyên nhân tồn tại
trong quản lí vốn ĐTPT từ NSNN ở huyện Đắc Song.
- Đề xuất hệ thống giải pháp đối với vốn ĐTPT từ NSNN áp dụng ở huyện
Đắc Song
- Tổ chức thực hiện các giải pháp đề xuất trong đề án đạt hiệu quả cao



PHẦN 3
THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP
3.1 THỰC TRẠNG QUẢN LÍ VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TỪ
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở HUYỆN THANH VINH
Giai đoạn 2004-2014, công tác quản lí vốn ĐTPT từ NSNN được thực
thi trong bối cảnh hệ thống pháp luật về quản lí NSNN và quản lí dự án đầu
tư đã được tiếp tục hoàn thiện một bước. Luật NSNN sửa đổi, bổ sung có
hiệu lực từ 2004, Luật đầu tư 2005, Luật doanh nghiệp 2005 cũng lần lượt
được ra đời. Đây cũng là giai đoạn thực hiện phân cấp mạnh giữa trung ương
và địa phương, việc phân bổ vốn ĐTPT cho các địa phương được thực hiện
thống nhất theo hệ thống tiêu chí do Chính phủ ban hành . Những chuyển
biến đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương nói chung và Đắc Song
nói riêng thực hiện tốt hơn công tác quản lí vốn ĐTPT từ NSNN trên địa bàn.
Công tác quản lí vốn ĐTPT từ NSNN trên địa bàn huyện Đắck Song được
xem xét trên một số nội dung cơ bản như sau:
3.1.1. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước giai đoạn 2011-2013 trên địa
bàn huyện THANH VINH
Từ năm 2011-2013 UBND huyện Thanh Vinh được giao làm chủ đầu tư
72 công trình với tổng mức đầu tư 455.783.171.412đ; trong đó có 16 công trình
phê duyệt dự án đầu tư, 56 công trình phê duyệt báo cáo kinh tế kỹ thuật với
tổng kế hoạch vốn được phân bổ cho giai đoạn này là 190.255.326.000 đồng.
Bảng 3.1: Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước giai đoạn 2011-2013 trên địa
bàn huyện THANH VINH tỉnh BÌNH ĐỊNH
STT
1
2
3
-


4

Nguồn vốn
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
Ngân sách TW
5.476.645.000 23.839.997.000 82.101.290.000
Ngân sách tỉnh
3.839.000.000
Ngân sách huyện
16.567.777.000 14.899.852.000 21.578.765.000
Vốn tỉnh phân cấp
5.325.997.000
5.463.000,000
8.463.000.000
Huyện cân đối
11.241.780.000 9.436.852.000
13.115.765.000
+ Tiền sử dụng đất 11.241.780.000 5.000.000.000
6.000.000.000
+ Nguồn khác
4.436.852.000
7.115.765.000
Trái phiếu CP
10.457.000.000 9.995.000.000
1.500.000.000
Tổng số
36.340.422.000 48.734.849.0

105.180.550.000
(Nguồn: Theo Báo cáo của UBND huyện THANH VINH)


3.1.2 Tình hình quản lý vốn đầu tư từ NSNN ở huyện THANH VINH
tỉnh BÌNH ĐỊNH.
3.1.2.1 Công tác lập kế hoạch chi đầu tư phát triển từ NSNN
Chi ĐTPT là một trong hai khoản chi từ NSNN (cùng với khoản chi
thường xuyên). Kế hoạch chi ĐTPT được lập trong quy trình lập ngân sách.
Hằng năm, Sở Tài chính tỉnh chủ trì phối hợp với các huyện, thị, các đơn vị dự
toán ngân sách tiến hành lập dự toán thu chi ngân cách cho từng cấp và lập dự
toán ngân sách cho toàn tỉnh. Sở Tài chính chủ trì tham mưu cho UBND tỉnh
bảo vệ kế hoạch ngân sách của tỉnh với Bộ Tài chính.
Sau khi kì họp Quốc hội cuối năm quyết định ngân sách cho các Bộ,
ngành, địa phương. Số liệu kế hoạch và dự toán do Bộ KH&ĐT và Bộ Tài chính
thông báo cho tỉnh chính là nhiệm vụ tài chính - ngân sách của địa phương trong
năm kế tiếp. Tại địa phương, thông qua HĐND các cấp sẽ tiến hành phân bổ và
quyết định ngân sách cho các đơn vị theo phân cấp.
Nhìn chung, việc lập ngân sách trên địa bàn huyện vẫn thực hiện theo cách
làm truyền thống, nên vốn ĐTPT từ NSNN chủ yếu tập trung vào các vấn đề chi
tiêu trước mắt. Giữa lập kế hoạch và lập ngân sách không có sự liên kết chặt
chẽ, việc quyết định các dự án đầu tư mới chưa được xem xét, cân nhắc đầy đủ
sự tác động của dự án đối với nguồn lực vốn. Việc phân bổ vốn ĐTPT từ NSNN
chưa thể hiện rõ nét những ưu tiên của huyện. Việc sử dụng vốn vẫn chưa quan
tâm đầy đủ đến các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả.
3.1.2.2. Công tác xây dựng văn bản quản lí vốn đầu tư phát triển từ
ngân sách nhà nước ở huyện Thanh Vinh.
Về lĩnh vực ngân sách, Luật NSNN được ban hành năm 2002, có hiệu lực
thi hành từ năm 2004. Luật NSNN đã quy định tăng quyền chủ động, quyền tự
chủ của các cấp ngân sách trong việc quyết định dự toán và chấp hành NSNN,

quy trình NSNN phù hợp và minh bạch hơn. Năm 2005 đánh dấu mốc quan
trọng trong xây dựng cơ chế quản lí đầu tư và xây dựng. Chính phủ đã trình
Quốc hội khóa XI, Kỳ họp thứ 8 thông qua Luật Đấu thầu (có hiệu lực từ ngày
01 tháng 4 năm 2006); Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp (có hiệu lực từ ngày
01 tháng 7 năm 2006). Theo đó, hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành các
luật này cũng đã được ban hành kịp thời.
Các luật được ban hành đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, đáp ứng được yêu
cầu phát triển nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Hoạt động đầu tư trong nước
và nước ngoài đã có những chuyển biến tích cực; hoạt động sản xuất kinh doanh


của các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đã
được điều chỉnh bởi cùng một luật; hoạt động đấu thầu được quản lí bằng luật thay
vì quản lí bằng một văn bản pháp lí ở tầm Nghị định; hạn chế dần tính khép kín
trong hoạt động đầu tư; tính công khai, minh bạch được thể hiện đầy đủ hơn; thực
tế vận hành của các luật này đã mang lại hiệu quả cao hơn.
Trên địa bàn huyện Thanh Vinh, ngoài việc lãnh đạo chỉ đạo tuân thủ các
quy định chung của nhà nước trong các lĩnh vực tài chính, ngân sách và kế hoạch
có liên quan đến quản lí vốn ĐTPT từ NSNN. Căn cứ vào thực tiễn địa phương,
Đắk Song cũng đã cụ thể hoá bằng nhiều văn bản pháp quy liên quan đến các đối
tượng sử dụng vốn ĐTPT để tạo điều kiện thuận lợi trong tổ chức thực hiện.
Trong gần 5 năm qua, tỉnh Đắc Nông đã xây dựng được nhiều văn bản
pháp quy, tập trung vào xây dựng các quy trình, thủ tục, các quy định liên quan
đến lĩnh vực đầu tư XDCB, như: Quy định trình tự thực hiện thủ tục đầu tư trên
địa bàn ; Quy định về trình tự lập, thông qua, thẩm định, phê duyệt và quản lí
quy hoạch xây dựng; Quy định quản lí dự án đầu tư xây dựng công trình trên
địa bàn ; Ban hành Quy chế hoạt động của Tổ tư vấn thẩm định dự án đầu tư;
Ban hành Quy định phân cấp quản lí chất lượng công trình xây dựng trên địa
bàn tỉnh . Chỉ thị về việc tăng cường quản lí chất lượng trên địa bàn tỉnh ; Ban
hành các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ chi ĐTPT từ nguồn vốn

NSNN giai đoạn 2008 - 2010;
Nhìn chung, các văn bản quản lí do tỉnh ban hành đã bám sát được các yêu
cầu của các cơ chế, chính sách. Ban hành tương đối kịp thời, bổ sung ngày càng
đầy đủ hơn những điều kiện và đặc thù của địa phương, nâng cao tính phù hợp
với thực tiễn.Đây cũng là cơ sở pháp lý giúp cho huyện Đắk Song nâng cao
hiệu quả việc quản lý vốn đầu tư từ nguồn NSNN.
Tuy nhiên, kế hoạch vốn đầu tư hằng năm được UBND tỉnh giao sớm từ
cuối năm trước, song việc điều chỉnh, bổ sung kế hoạch còn diễn ra phổ biến,
đây cũng là một khó khăn cho các cơ quan quản lí cũng như chủ đầu tư và đơn
vị thi công trong việc triển khai kế hoạch được giao. Việc điều hành nguồn vốn
hiện nay chưa chuẩn hoá được để ứng dụng công nghệ thông tin, nên các cơ
quan quản lí mất khá nhiều thời gian công sức để theo dõi, quản lí các nguồn
vốn, dự án.


3.1.2.3. Việc quản lý đầu tư xây dựng:
Trong việc quản lý đầu tư UBND huyện Thanh Vinh đã ban hành Kế
hoạch số 13/KH-UBND ngày 30/3/2011 và một số văn bản liên quan quản lý
đầu tư xây dựng để triển khai thực hiện một số giải pháp tập trung kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn huyện. Việc lập, thẩm
định và phê duyệt điều chỉnh các hồ sơ của dự án cơ bản đảm bảo thời gian,
trình tự và thẩm quyền được qui định tại Luật Xây dựng, Nghị định
99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây
dựng, Nghị định 12/2009/NĐ-CP ngày 12/2/2009 của Chính phủ về quản lý dự
án đầu tư xây dựng công trình và Quyết định số 12/2009/QĐ-UBND ngày
23/6/2009 của UBND tỉnh BÌNH ĐỊNH V/v phân cấp, ủy quyền quản lý dự án
đầu tư xây dựng công trình; Công tác mời thầu, tổ chức đấu thầu, xét thầu, thẩm
định phê duyệt kết quả đấu thầu cơ bản đảm bảo đúng theo quy định của Luật
Đấu thầu và các văn bản hiện hành hướng dẫn thực hiện Luật đấu thầu.
Tuy nhiên trong quá trình quản lý đầu tư xây dựng công trình giai đoạn

2011-2013 có 11/72 công trình được bổ trí vốn và được điều chỉnh tổng mức
đầu tư, cụ thể:
- Tổng mức đầu tư ban đầu của 11 công trình là: 62.378.530.000đ;
- Tổng mức đầu tư sau điều chỉnh của 11 công trình là:
108.697.300.000đ;
-Tổng mức đầu tư tăng so với ban đầu là:

46.318.770.000đ.

Qua đó cho thấy công tác điều chỉnh tổng mức đầu tư 11 công trình tương
ứng với chi phí đầu tư tăng thêm hơn 74% so với tổng mức đầu tư ban đầu đã
làm ảnh hưởng đến quá trình phân bổ vốn, không đủ nguồn vốn để bố trí thanh
toán gây ra tình trạng nợ đọng trong đầu tư xây dựng cơ bản. Mặt khác cũng
tiềm ẩn nhiều khả năng gây thất thoát, lãng phí, đầu tư dự án không hiệu quả,
chạy theo cơ chế xin cho để thực hiện dự án mới điều chỉnh tổng mức đầu tư.
3.1.2.4. Công tác điều hành, phân bổ nguồn vốn đầu tư phát triển từ
ngân sách nhà nước
Quá trình thực hiện nguồn vốn ĐTPT, UBND huyện đã luôn bám sát tình
hình giải ngân theo từng tháng, quý. Thường xuyên chỉ đạo giải quyết những
vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện các dự án sử dụng vốn NSNN.
Việc đảm bảo nguồn để cấp phát, thanh toán nhìn chung thực hiện khá tốt,
tình trạng khối lượng chờ vốn đã được cải thiện hơn so với giai đoạn trước, thậm chí


trong những năm gần đây có khá nhiều nguồn vốn rất chủ động phục vụ cho thanh
toán. Hằng năm giải quyết một khối lượng vốn khá lớn để tạm ứng thanh toán, điều
đó cũng thể hiện sự chủ động về nguồn vốn, tạo điều kiện cho các nhà thầu có kinh
phí để thi công. Trong quá trình điều hành nguồn vốn đầu tư, cơ quan tài chính luôn
theo sát kết quả thu ngân sách, sắp xếp các khoản chi theo kế hoạch, chuyển nguồn
qua cơ quan KBNN thực hiện kiểm soát thanh toán vốn đầu tư cho các dự án theo kế

hoạch và tiến độ, không bố trí chi khi chưa có nguồn, không chi ngoài dự toán gây
mất cân đối ngân sách. Đối với vốn ĐTPT từ NSĐP, huyện chủ động về nguồn chưa
cao do phụ thuộc tiến độ thu trong năm, tuy nhiên nguồn vốn này được điều hành
thường xuyên, số thu sau khi cân đối đều được các cơ quan tài chính làm thủ tục
chuyển nguồn để thanh toán, không để ứ đọng, dồn vốn vào cuối năm. Có được
bước chuyển biến tích cực đó là do có sự phối hợp khá tốt của các cơ quan tài chính,
kế hoạch và hệ thống kho bạc trên địa bàn.
Việc phân bổ kế hoạch vốn thuộc thẩm của UBND huyện Đăk quyền bố
trí Song trong 3 năm giai đoạn 2011-2013 là 53.046.394.000đ ; UBND huyện
Thanh Vinh đã thực hiện bố trí vốn, cụ thể như sau:
Bảng 3.2: Bảng phân bổ kế hoạch vốn từ ngân sách nhà nước cấp huyện
quản lý cho giai đoạn 2011-2013 trên địa bàn huyện THANH VINH
ĐVT: đồng
STT

Nội dung phân bổ

Số công
trình

I

Năm 2011

17

1

Công trình thanh toán nợ


3

2

Công trình chuyển tiếp

8

3

Công trình mở mới

6

1
2
3

Năm 2012
Công trình thanh toán nợ
Công trình chuyển tiếp
Công trình mở mới
Năm 2013

13
6
3
4
20


Công trình thanh toán nợ
Công trình chuyển tiếp
Công trình mở mới
Tổng cộng

8
3
9
50

1
2
3

Vốn bố trí
16.567.777.000
1.120.740.00
0
10.818.257.00
0
4.628.780.00
0
14.899.852.00
0
4.704.000.000
1.653.240.000
8.542.612.000
21.578.765.000
2.632.000.00
0

2.836.000.000
16.110.765.000
53.046.394.000

% so với
tổng vốn
bổ trí

6,76%
65,30%
27,94%

31,57%
11,10%
57,33%

12,20%
13,14%
74,66%


(Nguồn: Theo Báo cáo của UBND huyện THANH VINH)
Công tác điều hành nguồn được thực hiện thường xuyên trong năm, đặc
biệt là những tháng cuối năm việc xử lí nguồn phát sinh với khối lượng khá lớn.
Công tác theo dõi báo cáo được thực hiện hàng tuần, .Trong quản lí, chỉ đạo,
UBND huyện luôn quán triệt tinh thần kiên quyết điều chuyển nguồn vốn từ dự
án tiến độ chậm, không có khối lượng sang dự án có tiến độ thi công nhanh, có
nhiều khối lượng. Việc điều chuyển cũng chấp hành nghiêm túc quy định của
từng nguồn vốn. Không sử dụng vốn của nguồn này sang thanh toán cho dự án
thuộc nguồn khác.

Tuy nhiên, trong quá trình phân bổ vốn cũng có một số hạn chế bất cập,
như sau:
- Tỷ lệ bố trí vốn cho thanh toán nợ so với tỷ lệ bố trí cho các công trình
mở mới trong các năm còn thấp, cụ thể:
+ Năm 2011 bố trí vốn thanh toán nợ cho 3/17 công trình còn nợ, vốn bố trí
1.120.740.000đ/16.567.777.000đ chiếm 6,76%;
+ Năm 2012 bố trí thanh toán nợ cho 6/17 công trình còn nợ, vốn bố trí
4.704.000.000đ/14.8999.852.000đ chiếm 31,57%;
+ Năm 2013 bố trí vốn thanh toán nợ cho 8/17 công trình còn nợ, vốn bố trí
2.632.000.000đ/21.578.765.000đ chiếm 12,20%. Trong khi bố trí vốn cho các
công trình mở mới chiếm tỷ lệ cao (29.282.257.000đ/53.046.394.000đ) chiếm
55,20% trên tổng số vốn được bố trí trong 03 năm 2011-2013, cụ thể: năm 2011
mở mới 06 công trình vốn bố trí 4.628.780.000đ/16.567.777.000đ chiếm
27,94%; năm 2012 mở nới 04 công trình vốn bố trí
8.542.612.000đ/14.899.852.000đ chiếm 57,33%, năm 2013 mở mới 09 công
trình vốn bố trí 16.110.765.000đ chiếm 74,66%.
- Chưa ưu tiên bố trí vốn cho các công trình thanh toán nợ và các công
trình dự kiến hoàn thành trong năm, cụ thể:
+ Có 02 công trình năm 2010 đã hoàn thành đưa vào sử dụng (đường vào
bãi chôn chất thải rắn huyện Thanh Vinh và đường giao thông liên xã Đăk HòaĐăk Mol) nhưng bố trí vốn thanh toán nợ kéo dài đến năm 2012 quá 03 năm so
với quy định


+ Có 07 công trình hoàn thành trong năm nhưng không được ưu tiên bố trí
vốn (năm 2011: 02 công trình, năm 2012: 03 công trình, năm 2013: 02 công
trình), gồm: công trình đường từ UBND xã Thuận Hạnh đến ĐBP 765, công
trình lưới điện khu vực trung tâm xã Đăk Hoà, Nhà làm việc Tổ tiếp nhận và
hoàn trả hồ sơ theo cơ chế một cửa UBND huyện Thanh Vinh, Đường GT xã
Nâm N’Jang, Đường giao thông Tổ dân phố 2 thị trấn Đức An, San ủi mặt bằng
đường nội khu dân cư TT Đức An.

- Bố trí vốn kéo dài đối với các công trình nhóm C, cụ thể:
Có 06 công trình nhóm C khởi công, hoàn thành từ 2009-2012 nhưng
UBND huyện THANH VINH bố trí vốn kéo dài quá 03 năm (đường vào bãi
chôn chất thải rắn, đường giao thông liên xã Đắk Hòa- Đắk Mol).
3.1.2.5. Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện vốn đầu tư phát triển từ
ngân sách nhà nước
Vốn ĐTPT từ NSNN là đối tượng được kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, và
thực hiện bởi nhiều cấp, nhiều ngành tuỳ theo lĩnh vực hoạt động của đơn vị sử
dụng vốn và chức năng, nhiệm vụ của tổ chức kiểm tra. Trách nhiệm kiểm tra,
giám sát vốn ĐTPT đối với một huyện thể hiện ở chỗ: địa phương phải có trách
nhiệm phối hợp, tạo điều kiện cho các đoàn thanh tra, kiểm tra cấp trung ương
hoặc chuyên ngành thực hiện nhiệm vụ kiểm tra định kì hoặc đột xuất; cấp uỷ
có thể thành lập các đoàn kiểm tra thực hiện nghị quyết, nhất là những nghị
quyết liên quan đến chủ trương sử dụng nguồn vốn ĐTPT từ NSNN thuộc địa
phương quản lí; tất cả các nghị quyết HĐND các cấp liên quan đến sử dụng vốn
ĐTPT đều thuộc đối tượng giám sát của HĐND các cấp; vốn ĐTPT còn là đối
tượng quản lí của thanh tra chuyên ngành thuộc các sở, ngành tại địa phương.
HĐND tỉnh Đắk Nông, từ năm 2006 đến nay đã và đang tiến hành các
cuộc giám sát liên quan đến quản lí và sử dụng vốn ĐTPT trên địa bàn tỉnh, các
nội dung giám sát chủ yếu đó là: việc thực hiện Quyết định 134, Chương trình
135; tình hình giải quyết nợ đọng vốn đầu tư công trình đã hoàn thành từ năm
2004 trở về trước; giám sát công tác giải ngân, thanh quyết toán vốn đầu tư
XDCB, việc phân bổ quản lí, sử dụng kinh phí hoạt động khoa học và công
nghệ , công tác thẩm định các dự án đầu tư năm 2011- 2013; Giám sát tình hình
thực hiện quyết định dự toán và phân bổ NSĐP năm 2015. Giám sát việc chuẩn
bị dự án đầu tư cho các năm 2016, 2017, Giám sát tình hình thanh toán, quyết
toán vốn đầu tư XDCB đối với các dự án đã hoàn thành từ năm 2010 trở về


trước, tình hình nợ vốn đầu tư XDCB đối với các dự án đã hoàn thành giai đoạn

2008 -2010.
Việc phân cấp mạnh trong quản lí đầu tư xây dựng đã tạo sự chủ động cho
các UBND huyện, thị xã. Nhưng hiện nay Đắk Nông chưa có cơ chế kiểm soát
việc thực thi quyền phân cấp của các huyện, thị, như vậy đang có những khoảng
trống quản lí. Điều này trong quản lí ngân sách dễ dẫn đến sự lạm dụng quyền
được phân cấp hoặc dễ xảy ra sai phạm. Phân cấp nói chung phải phù hợp với
năng lực cán bộ, và phải gắn với công tác đào tạo, sử dụng cán bộ thực thi
quyền được phân cấp, điều này rất cần thiết đối với một tỉnh mà trình độ cán bộ
còn hạn chế như Đắc Nông.
3.1.2.6 Vốn đầu tư bị chiếm dụng
Ngày 19/7/2010, Ban quản lý các dự án huyện THANH VINH ký hợp
đồng thi công xây dựng số 25/2010/HĐ-XD với Công ty Cổ phần Hưng Thịnh
(đại chỉ số 16A, đường Phùng Hưng, TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk) với giá
trị hợp đồng 2.212.682.000đ. Trong đó có nội dung tạm ứng: sau khi nhận được
bảo đảm thực hiện hợp đồng, chủ đầu tư sẽ ứng trước cho nhà thầu 45% giá trị
hợp đồng, tương đương với số tiền 1.000.000.000đ. Số tiền tạm ứng sẽ được
chủ đầu tư thu hồi ngay ở lần thanh toán đầu tiên và các lần thanh toán tiếp theo
và thu hồi kết thúc khi thanh toán đạt 80% giá trị hợp đồng.
Trong quá trình thi công Ban Quản lý các dự án huyện THANH VINH
nhận thấy Công ty Cổ phần Hưng Thịnh chưa thực hiện đúng các nội dung trong
hồ sơ đề xuất chỉ định thầu và hợp đồng xây dựng số 25/2010/HĐ-XD ngày
19/7/2010. UBND huyện THANH VINH đã gửi cho Công ty Cổ phần Hưng
Thịnh nhiều văn bản về việc xác định khối lượng xây dựng đã thực hiện, nợ tạm
ứng và thanh quyết toán xây dựng công trình nhưng đến nay, Công ty vẫn chưa
giải quyết dứt điểm về số nợ tạm ứng 830.103.000đ để nộp trả ngân sách nhà
nước.
3.1.3 Nguyên nhân của việc quản lý kém hiệu quả nguồn vốn đầu tư
từ NSNN ở huyện THANH VINH tỉnh BÌNH ĐỊNH.
3.1.3.1. Nguyên nhân từ góc độ cơ chế chính sách, pháp luật:
- Chế độ chính sách về xây dựng công trình cũng thay đổi nhiều, một số

công trình đã thực hiện đến khâu phê duyệt hồ sơ mời thầu nhưng phải bổ sung
điều chỉnh lại dự toán, dự án phải điều chỉnh lại nhiều lần dẫn đến triển khai đầu


tư xây dựng chậm.
- Giá cả vật tư biến động lớn, đặc biệt là các vật tư thiết yếu như xăng,
dầu, ximăng, sắt thép... Trong khi đó, cơ chế quản lý giá và thanh toán chậm
được thay đổi để kịp thời giải quyết việc bù giá, điều chỉnh giá.
- Thiếu cơ sở pháp lý cho việc hình thành cơ chế kiểm tra giám sát, đánh
giá tổng kết công tác đầu tư xây dựng một cách thường xuyên và thực hiện đánh
giá hiệu quả đầu tư sau dự án. Các quy định chưa cụ thể quy trách nhiệm không
rõ ràng làm cho công tác báo cáo thực hiện giám sát đầu tư chất lượng không
đảm bảo còn mang tính hình thức đối phó. Chỉ nêu ra các hiện tượng mà thiếu
phân tích nguyên nhân.
- Nhiều quy hoạch ngành, quy hoạch xây dựng chi tiết còn thiếu hoặc đã
quá cũ, lạc hậu. Một số quy hoạch vừa mới lập và phê duyệt đã xin sửa đổi, bổ
sung. Qui hoạch xây dựng không đồng bộ, chất lượng qui hoạch thấp. Nhiều qui
hoạch chưa phù hợp với điều kiện thực tế dẫn đến khi thực hiện dự án gây lãng
phí, nhất là khâu đền bù giải phóng mặt bằng.
- Việc phối kết hợp giữa ngành với ngành, giữa ngành với cấp trong việc lập
quy hoạch còn hạn chế, trình độ của đơn vị tư vấn lập quy hoạch chưa cao, do đó
có những quy hoạch vừa mới duyệt xong đã phải phê duyệt lại.
- Công tác quản lý qui hoạch còn buông lỏng. Phân công, phân cấp không
rõ ràng, thiếu một khung pháp lý đầy đủ cho việc lập, phê duyệt, quản lý quy
hoạch, thiếu sự chỉ đạo và hướng dẫn thống nhất về các vấn đề liên quan đến
công tác quy hoạch, thiếu kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch.
- Nhiều đơn vị, cá nhân chưa nhận thức đúng đắn về vai trò của công tác
quy hoạch. Việc phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong quá trình lập quy
hoạch ngành, lãnh thổ chưa thống nhất, thiếu sự phối hợp nên xảy ra tình trạng
quy hoạch chồng chéo và không ăn khớp giữa quy hoạch ngành, quy hoạch

vùng lãnh thổ.
- Các quy hoạch sau khi được duyệt chưa công bố rộng rãi để các tổ chức,
cá nhân được biết và thực hiện theo quy hoạch.
- Thực tế, việc bố trí vốn cho các dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn
ngân sách Nhà nước vẫn còn tình trạng dàn trải; Lượng nợ đọng vốn xây dựng
cơ bản từ nguồn vốn ngân sách còn lớn, nhiều công trình hoàn thành nhưng
chưa có khả năng thanh toán và thiếu khả năng cân đối. Khả năng cân đối nguồn
vốn đầu tư từ ngân sách hàng năm cho đầu tư xây dựng còn rất hạn hẹp, trong


khi đó số lượng các dự án đầu tư do các đơn vị trình duyệt và đề xuất ngày càng
nhiều, trên thực tế số lượng dự án được duyệt đã không phù hợp với khả năng
cân đối. Nguyên nhân của tình trạng trên là:
- Chưa có những giải pháp cụ thể và có hiệu lực để thống nhất trong quản
lý nhằm kiểm soát và hạn chế được việc duyệt dự án đầu tư không cân đối với
khả năng nguồn vốn hiện có hoặc triển khai thực hiện vượt khả năng cân đối
vốn hàng năm. Vốn để lại đối ứng không đáp ứng được yêu cầu.
- Nhiều chủ đầu tư và các đơn vị chủ quản còn tư tưởng cho rằng nếu công
trình được duyệt sử dụng vốn ngân sách thì cứ triển khai xây dựng, không quan tâm
nhiều đến khả năng cân đối vốn trong kế hoạch hàng năm, nếu thi công vượt khối
lượng được giao sẽ chờ xin vốn Nhà nước để bổ sung thanh toán, làm mất cân đối
giữa mục tiêu đầu tư và khả năng cân đối vốn của kế hoạch năm sau.
- Nhiều công trình với lượng vốn bố trí quá ít nên với lượng vốn đó sẽ
không đủ để hoàn thành một hạng mục. Việc bố trí vốn cho xây lắp, thiết bị và
kiến thiết cơ bản khác trong một dự án còn chia đều theo tỷ lệ, trong khi chi trả
cho tư vấn cần phải thực hiện trước vì tư vấn đã hoàn thành hợp đồng, đủ điều
kiện thanh toán.
Nguyên nhân của tình trạng bố trí kế hoạch dàn trải là do chủ trương đầu tư:
- Cho lập dự án mới còn nhiều, trong khi khả năng bố trí vốn để đầu tư
xây dựng còn bị hạn chế. Hàng năm có kế hoạch chuẩn bị đầu tư, xong số dự án

ghi danh mục chuẩn bị đầu tư vẫn còn nhiều, mặt khác trong năm phát sinh
thêm không ít chủ trương cho lập dự án.
- Một số dự án chưa triển khai thực hiện đã có chủ trương cho lập lại,
thay đổi quy mô hoặc phát sinh khối lượng.
- Trong quy chế quản lý đầu tư và xây dựng quy định đối với các dự án
nhóm C, cơ quan quyết định đầu tư phải bảo đảm cân đối vốn đầu tư để thực
hiện dự án không quá 3 năm; nhóm B không quá 5 năm, nhưng trên thực tế một
số dự án nhóm C kéo dài quá 3 năm, nhóm B quá 5 năm, số lượng các dự án
đầu tư do các đơn vị đề xuất vẫn khá lớn, vượt khả năng cân đối vốn hàng năm.
3.1.3.2. Nguyên nhân từ góc độ nhà thầu tư vấn, nhà thầu thi công:
- Tổng dự toán ở một số công trình chất lượng còn thấp, chưa đưa ra nhiều
phương án để lựa chọn, chưa tuân thủ theo tiêu chuẩn, quy phạm (có một số công
trình tư vấn làm theo yêu cầu của chủ đầu tư, nâng quy mô càng lớn càng tốt), số
liệu điều tra, khảo sát chưa chính xác. Trong thiết kế thường tính thiên về an toàn


quá lớn, trong tính toán dự toán áp dụng đơn giá, định mức và các chế độ tài chính
trong XDCB chưa chính xác hoặc sót khối lượng công việc.
- Chất lượng một dự án phụ thuộc vào rất nhiều vào trình độ của tư vấn,
theo Quy chế đấu thầu phải xem xét nhiều nhà tư vấn để chọn một tư vấn có năng
lực nhất. Thực tế trong thời gian qua, chủ đầu tư mới chỉ trình có một nhà tư vấn
để xin chỉ định lập dự án. Do không được lựa chọn, so sánh điểm mạnh, điểm yếu
của mỗi nhà tư vấn để lựa chọn nhà tư vấn tốt nhất nên một số nhà tư vấn được lựa
chọn rất yếu, thậm chí có nhà tư vấn thiếu kinh nghiệm trong việc lập dự án, nên
dự án lập ra thiếu sức thuyết phục, có nhà thầu tư vấn trong quá trình lập dự án bỏ
qua các quy định của nhà nước, không áp dụng Qui chuẩn xây dựng, tiêu chuẩn,
qui phạm thiết kế, không có khảo sát địa hình, địa chất công trình,
- Do trình độ tư vấn hạn chế, do đó dự án phải phê duyệt lại do phải điều
chỉnh, bổ sung quy mô, khối lượng hoặc tính toán sai, thiếu. Một số các dự án
phải trả hồ sơ rất nhiều lần vì chất lượng dự án quá thấp. Một số dự án điều

chỉnh lại nhiều lần do chế độ chính sách, tăng thuế giá trị gia tăng, giá cả luôn
thay đổi lớn và thời gian thi công kéo dài. Khâu thiết kế hiện nay có điểm yếu là
tính chuyên nghiệp không cao, trình độ nhân viên thấp từ đó dẫn đến các giải
pháp kỹ thuật thiết kế không đúng, không hợp lý làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến chất lượng của công trình, những giải pháp cho tổng công trình thiếu cụ thể,
thiết kế sơ sài, không sát với thực tế nên giá thành công trình nhiều khi không
kiểm soát được và rất cao.
- Việc lựa chọn năng lực các Nhà thầu tham gia đấu thầu còn hạn chế, nhiều
Nhà thầu năng lực kém không phù hợp với yêu cầu gói thầu mà vẫn được Chủ đầu
tư mời tham gia dự thầu, dẫn đến có Nhà thầu tham gia dự thầu nhiều các gói thầu
nhưng không trúng thầu. Chất lượng hồ sơ dự thầu của các nhà thầu không trúng
thầu rất thấp, mang tính chất hình thức, không bám sát hồ sơ mời thầu.
- Năng lực của nhà thầu không đáp ứng yêu cầu thi công.
- Năng lực của nhà thầu yếu về tài chính, thiết bị, phòng thí nghiệm hiện
trường. Doanh nghiệp bị thua lỗ và trong nhiều trường hợp là nguyên nhân trực
tiếp ảnh hưởng đển tiến độ, chất lượng thi công làm thất thoát và gây lãng phí
cho dự án đầu tư.
3.1.3.3. Nguyên nhân từ ban quản lý
- Năng lực của Ban quản lý còn hạn chế
- Ban quản lý thiếu tính chuyên nghiệp, chưa được đào tạo đầy đủ, thiếu


kinh nghiệm, yếu cả về chuyên môn và khả năng quản lý XDCB thậm chí có
những chủ đầu tư phó thác cho bên nhà thầu và các cơ quan quản lý là chính,
dẫn đến chưa phát huy hết hiệu quả của công trình, gây lãng phí, thất thoát, tiến
độ chậm, chất lượng công trình còn chưa đảm bảo. Chủ đầu tư chưa quan tâm
đến việc thực hiện chế độ báo cáo định kỳ theo quy định, chưa bổ sung thủ tục
hồ sơ còn thiếu, lúng túng chậm trễ trong việc thanh toán khối lượng XDCB,
quyết toán công trình kể cả một số công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng từ
những năm trước. Việc thực hiện trình tự XDCB còn có những bất cập, một số

công trình phải duyệt lại, chất lượng dự án chưa cao.
Công tác giám sát của chủ đầu tư rất yếu, chưa có tính chuyên môn cao,
kế hoạch công tác cụ thể, phân công công việc chưa phù hợp với chuyên môn
đào tạo đây là vấn đề thường gặp ơ các ban quản lý dự án đầu tư xây dựng.
- Trách nhiệm của các cấp, các ngành trong quản lý đầu tư và xây
dựng chưa phát huy
- Do các quy định về quản lý đầu tư xây dựng chưa đồng bộ, thủ tục đầu
tư bằng nguồn vốn ngân sách phức tạp, sự phối hợp giữa các cơ quan không
đồng bộ và thiếu chặt chẽ.
- Chưa có được cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bên tham gia dự án do
thiếu các quy định pháp lý có tính hiệu lực cao cũng như các cơ chế hòa nhập
hiệu quả để quản lý các mặt phân giới này.
Tóm lại, là một địa phương miền núi, với những điều kiện đặc thù, khó
khăn và hạn chế. Được sự quan tâm của Đảng, Chính phủ và các Bộ, ngành
Trung ương, trong những năm qua, Cao Bằng đã được đầu tư từ nhiều nguồn
vốn NSNN, những kết quả đầu tư đó đã đem lại những khởi sắc cho bộ mặt KTXH huyện Đắc Song. Công tác quản lí vốn ĐTPT từ NSNN đã có đóng góp
không nhỏ trong việc triển khai những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước trên địa bàn huyện. Nhưng bên cạnh còn những tồn tại, hạn chế, khó khăn
mà trong thực tiễn quản lí, huyện Đắc Song cần nhìn nhận đánh giá để khắc
phục, có như vậy chắc chắn sẽ tác động lớn hơn tới hiệu quả đầu tư của nguồn
vốn NSNN trên địa bàn.
3.2. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ TỪ
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở HUYỆN THANH VINH TỈNH BÌNH ĐỊNH.
3.2.1 Nhóm giải pháp về cơ chế quản lý nhà nước trong đầu tư xây dựng.
3.2.1.1. Hoàn thiện quy chế phân cấp quản lý đầu tư:


×