HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC III
NÂNG CAO NĂNG LỰC TỔ CHỨC THỰC TIỄN
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN MINH TÂM,
TỈNH BÌNH PHƯỚC GIAI ĐOẠN 2015-2020
ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG TRÌNH CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Ơ
Đà Nẵng, tháng 05 năm 2015
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC III
NÂNG CAO NĂNG LỰC TỔ CHỨC THỰC TIỄN
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN MINH TÂM,
TỈNH BÌNH PHƯỚC GIAI ĐOẠN 2015-2020
ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG TRÌNH CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học:
Đà Nẵng, tháng 5 năm 2015
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề án
Cán bộ là khâu then chốt, trọng yếu của công tác xây dựng Đảng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta đã nhấn mạnh:
"Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém". Thấm nhuần tư tưởng của Người, trong suốt hơn 85 năm
xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi cán bộ và công tác
cán bộ là những nhân tố quyết định sự thành, bại của cách mạng. Mỗi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam đều đánh dấu những bước trưởng thành, tiến bộ của
đội ngũ cán bộ của Đảng ta. Vì thế, Đảng ta luôn chú trọng xây dựng đội ngũ
cán bộ đồng bộ, toàn diện, coi đây là vấn đề mấu chốt, quyết định toàn bộ sự
nghiệp cách mạng.
Hệ thống chính trị của nước ta hiện nay có 4 cấp. Hệ thống chính trị và
đội ngũ cán bộ của Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong
việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức
cuộc sống của cộng đồng dân cư. Để các chủ trương, đường lối, chính sách đúng
đắn của Đảng và Nhà nước đề ra được hiện thực hóa trong cuộc sống, Đảng phải
có một đội ngũ cán bộ có năng lực tổ chức thực tiễn để đưa được chủ trương,
đường lối, chính sách đúng đắn đó vào cuộc sống, mới khơi dậy được phong
trào cách mạng quần chúng rộng lớn, mới biến lý luận thành thực tiễn. Thực tiễn
luôn luôn vận động phát triển không ngừng nên năng lực tổ chức thực tiễn cũng
phải không ngừng được nâng lên cho phù họp với sự biến đổi của thực tiễn. Nếu
không nâng cao được năng lực tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ ở các cấp
thì cũng khó mà nâng cao được năng lực lãnh đạo nói chung cho cán bộ ngang
tầm với nhiệm vụ mới.
3
Đối với huyện MINH TÂM, trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ cấp
cơ sở đã có bước phát triển về chất lượng và đã có nhiều đóng góp to lớn trong việc
hiện thực hóa và tổ chức thực hiện tốt các chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước
cũng như chủ trương, chính sách của tỉnh, huyện. Tuy nhiên, đội ngũ này vẫn bộc lộ
những yếu kém, bất cập về kiến thức, năng lực, trình độ trước những yêu cầu của
tình hình, nhiệm vụ mới. Vì vậy, một số cán bộ cấp cơ sở gặp khó khăn, lúng túng,
thậm chí va vấp, vi phạm trong thực thi nhiệm vụ. Bên cạnh đó, trước tác động tiêu
cực của cơ chế thị trường, một bộ phận cán bộ cấp cơ sở suy thoái về phẩm chất đạo
đức, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, vi phạm dân chủ, tham nhũng, lãng phí... bị kỷ
luật, thậm chí bị truy tố, xét xử theo pháp luật. Những điều đó đã làm ảnh hưởng
không nhỏ đến uy tín và hiệu quả lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, làm giảm sút
lòng tin của nhân dân đối với Đảng; đồng thời đặt ra đòi hỏi bức thiết phải đổi mới,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
Nhận thấy tầm quan trọng của cấp cơ sở và vai trò của đội ngũ cán bộ cấp cơ
sở, cũng như việc phấn đấu nâng cao hiệu quả tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ
này là một việc làm có ý nghĩa cấp bách trước mắt và chiến lược lâu dài. Vì vậy, học
viên chọn đề án: “Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở ở huyện MINH TÂM, tỉnh BÌNH PHƯỚC giai đoạn 2015-2020”
làm đề án tốt nghiệp của mình.
1.2. Mục đích của đề án
Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn
cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở huyện MINH TÂM, tỉnh BÌNH PHƯỚC giai đoạn
2015-2020.
1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề án.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề án là đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở
huyện MINH TÂM, tỉnh BÌNH PHƯỚC giai đoạn 2015-2020.
1.4. Ý nghĩa của đề án
Đề án góp phần nâng cao nhận thức của lãnh đạo các cấp của tỉnh BÌNH
PHƯỚC về vai trò của tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở nói chung và
đội ngũ cán bộ cấp cơ sở huyện MINH TÂM nói riêng.
4
Phần 2
NỘI DUNG CỦA ĐỀ ÁN
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA ĐỀ ÁN
2.1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1.1. Tổ chức thực tiễn
Thực tiễn là phương thức tồn tại và phát triển của xã hội loài người, chỉ có
ở con người và loài người mới ý thức được các hoạt động của mình. Để hoạt
động thực tiễn, con người không thể không tìm mọi cách, mọi phương tiện, mọi
lực lượng vật chất… nhằm hoạt động có được hiệu quả phục vụ nhu cầu của
mình. Nói cách khác, con người phải tiến hành tổ chức hoạt động thực tiễn.
Đối với người cán bộ thì tổ chức thực tiễn càng có vai trò cực kỳ quan trọng.
Ở nước ta, nhiều nhà nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề tổ chức thực tiễn và đều chỉ
ra rằng: vấn đề cơ bản, quyết định đầu tiên đối với Đảng lãnh đạo cách mạng là đề
ra đường lối đúng. Song đường lối đó có thể trở thành hiện thực hay không? Có đi
vào cuộc sống hay không phải thông qua phong trào thực tiễn của quần chúng và
trực tiếp là công tác tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ.
Khi bàn về khái niệm tổ chức thực tiễn có ý kiến cho rằng:
“Tổ chức thực tiễn là quá trình bao gồm sự liên kết, phối hợp các nhân tố
khách quan và chủ quan; các yếu tố vật chất và tinh thần; truyền thống và thời
đại; con người, xã hội và tự nhiên; sức lao động, tư liệu lao động, hoàn cảnh,
điều kiện trong nước và quốc tế thành một hệ thống, một chỉnh thể hoạt động
nhịp nhàng, cân đối, có hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu xác định” [20, tr.65]
Tổ chức thực tiễn - với tư cách là hoạt động của người cán bộ là biến đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thành hiện thực. Tổ chức thực
tiễn là một quy trình hoạt động phức tạp, bao gồm nhiều dạng cụ thể cảm tính
nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể, trực tiếp của con người trong quá trình thực
hiện mục đích, nhu cầu của mình.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn tiến hành tổng
kết những việc làm sáng tạo từ quần chúng nhân dân, tổng kết những kinh
nghiệm thực tiễn của quần chúng, từ đó có sự đổi mới tư duy, đổi mới nhận
5
thức, từng bước đề ra được những chủ trương, chính sách phù hợp với thực tiễn,
từng bước hình thành lý luận và đường lối đổi mới đúng đắn ở nước ta. Sự ra
đời Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về khoán sản phẩm
đến người lao động trong nông nghiệp đã thật sự trở thành đòn bẩy khuyến
khích người nông dân hăng hái sản xuất, mở ra một thời kỳ mới cho phát triển
nền nông nghiệp Việt nam. Tiếp theo sự ra đời của Chỉ thị 100-CT/TW, hàng
loạt các chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội đất nước được ra đời,
trong đó Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị có vai trò như là một bước đột phá cho
nền kinh tế đi vào một giai đoạn phát triển mới về chất, đó cũng là cơ sở để
Đảng ta hình thành chủ trương, đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Như vậy, phải thông qua thực tiễn nói chung và trực tiếp tổ chức thực tiễn,
chúng ta mới dần dần nhận thức được đầy đủ, sâu sắc bản chất cách mạng và
khoa học của đường lối, mới có thể cụ thể hóa đường lối một cách đúng đắn và
sáng tạo. Phải thông qua tổ chức thực tiễn, chúng ta mới tìm ra và khẳng định
được những hình thức mới; phương pháp mới thích hợp với hoàn cảnh, điều
kiện mới trong việc giải quyết những nhiệm vụ mới của cách mạng. Phải thông
qua tổ chức thực tiễn chúng ta mới có thể kiểm tra được tính chính xác của
đường lối, sửa đổi những điểm chưa đúng, bổ sung những cái còn thiếu. Làm
cho đường lối ngày càng hoàn thiện và phát huy được hiệu lực trong cuộc sống.
Quá trình tổ chức thực tiễn đạt được đến đâu, cao hay thấp, thành công hay thất
bại phụ thuộc rất lớn vào năng lực của chủ thể tiến hành tổ chức thực tiễn.
2.1.1.2. Năng lực tổ chức thực tiễn
Năng lực là khả năng, là những phẩm chất tâm – sinh lý của con người, nó
vừa là cái tự nhiên có sẵn trong di truyền, vừa là sản phẩm lịch sử và chủ yếu là
sản phẩm của lịch sử. Cái vốn có tự nhiên ấy chỉ thực sự trở thành năng lực khi
được thực tiễn hóa thông qua quá trình học tập, rèn luyện, trau dồi thường
xuyên, thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Khẳng định điều đó, Hồ
Chí Minh viết: “Năng lực của con người không phải hoàn toàn tự nhiên mà có,
mà một phần lớn do công tác, do tập luyện mà có” [19, tr.180]. Có thể nói, năng
lực không chỉ là tư chất bẩm sinh vốn có thuần túy của con người “tự động bảo
đảm cho con người đạt kết quả trong hoạt động nào đó, mà là kết quả của sự
phối hợp những tư chất bẩm sinh vốn có với sự rèn luyện, tu dưỡng, học tập
6
thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Năng lực tổ chức thực tiễn là nói
đến năng lực của một chủ thể nào đó trong việc tổ chức thực tiễn. Ở đây, trong đề
án này, chúng ta đề cập đến năng lực tổ chức thực tiễn của người cán bộ trong hệ
thống chính trị ở nước ta. Năng lực tổ chức thực tiễn của người cán bộ là loại
năng lực riêng, năng lực chuyên biệt, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc
hiện thực hoá chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào thực
tiễn cuộc sống.
Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước có đi vào cuộc
sống không? Có đạt được hiệu quả trong sự phát triển kinh tế - xã hội không?
Đời sống của nhân dân có được ổn định và từng bước nâng cao không?... Đó
là tiêu chuẩn, là thước đo chính xác nhất năng lực tổ chức thực tiễn của người
cán bộ. Vì vậy, năng lực tổ chức thực tiễn là yêu cầu tối quan trọng đối với cán
bộ ở mọi cấp, đặc biệt là cán bộ cấp cơ sở.
Năng lực tổ chức thực tiễn là loại năng lực riêng, năng lực chuyên biệt nên
không phải ai cũng có. V.I.Lê nin đã chỉ rõ: “Bất kỳ công tác quản lý nào cũng
đều đòi hỏi phải có những đặc tính riêng biệt, có người có thể là một nhà cách
mạng và nhà cổ động cừ nhất nhưng làm một cán bộ quản lý thì hoàn toàn
không thích hợp” [13, tr.250]1, những đặc tính riêng biệt mà V.I.Lê nin đã chỉ ra
đó chính là những đặc trưng cơ bản của một người có năng lực tổ chức thực tiễn.
Năng lực tổ chức thực tiễn được biểu hiện cụ thể ở các thành tố sau:
Một là, khả năng lựa chọn phương án tối ưu để xây dựng và ban hành các
quyết định.
Để có năng lực này, đòi hỏi người cán bộ phải có khả năng nhận thức, nắm
bắt và xử lý thông tin. Đó là khả năng thu nhập một cách đầy đủ, kịp thời, chính
xác những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn có liên quan đến mọi mặt của đời sống
xã hội (như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh v.v…), khả
năng cụ thể hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, chỉ thị,
nghị quyết của cấp ủy đảng, chính quyền cấp trên dựa vào địa phương mình
bằng những quyết định phù hợp, kịp thời.
7
Ngày nay thông tin có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống con người.
Do đó nó lại càng trở nên quan trọng cần thiết hơn đối với người cán bộ dù ở bất kỳ
cấp nào. Thông tin đối với họ cũng giống như nguyên liệu đối với nhà máy. Tuy
nhiên, sự đa dạng nhiều chiều của thông tin tốt, xấu đan xen nhau đòi hỏi ở họ
bản lĩnh chính trị vững vàng và thái độ thực sự khoa học – tức là phải có thái độ
khách quan tôn trọng và ham muốn thông tin thì mới có thể nắm được thông tin
một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Trên cơ sở nắm vững thông tin, người
cán bộ mới thực hiện quá trình tổng hợp, khái quát, phân tích, đánh giá tình hình
ở địa phương, lĩnh vực mình phụ trách để tìm đúng nguyên nhân, nắm được
những tiềm năng, khả năng và hạn chế của lĩnh vực, địa phương đối với việc thực
hiện các nhiệm vụ đã đặt ra. Họ không chỉ nắm và xử lý thông tin chính xác ở cấp
cơ sở - nơi họ được phân công công tác mà họ còn phải nắm và xử lý thông tin từ
cấp trên. Quá trình nắm và xử lý thông tin là quá trình vận dụng quan điểm “nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật”. Quá trình ấy tất yếu dẫn đến việc xác
định các chủ trương, công việc cụ thể ở địa bàn công tác một cách chính xác, thiết
thực. Vì vậy, có thể nói kết quả nắm và xử lý thông tin chính xác quyết định chất
lượng làm việc của họ.
Trên cơ sở nắm bắt và xử lý thông tin kịp thời, chính xác sẽ giúp cho quá
trình cụ thể hóa chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy Đảng, chính quyền cấp trên vào địa phương
mình bằng những quyết định cụ thể hơn, kịp thời phù hợp hơn và có tính khả thi
cao hơn. Nghĩa là các quyết định đưa ra là phù hợp với nhu cầu, lợi ích, mục
đích, phương tiện ... thực hiện quyết định. Trong các quyết định đó có quyết
định mang tính chất tình thế trước mắt, có quyết định mang tính chất chiến lược,
tổng thể lâu dài.
Như vậy, người cán bộ hơn ai hết phải nắm được thông tin đầy đủ, chính
xác, kịp thời về nội dung các vấn đề thuộc phạm vi mình phụ trách, trước khi
đưa ra quyết định. Phải nắm chắc thấu hiểu vấn đề mới đi đến quyết định đúng
đắn như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “phải quyết định mọi vấn đề một cách cho
8
đúng” [19, tr.285]. Một quyết định sai nếu đưa vào thực hiện sẽ dẫn đến một
hậu quả khó lường.
Hai là, khả năng tổ chức thực hiện quyết định. Đây là vấn đề cốt lõi nhất
của năng lực tổ chức thực tiễn.
Để thực hiện được quyết định nhất thiết phải có tổ chức bộ máy và con
người. Năng lực tổ chức thực tiễn đòi hỏi người cán bộ phải xây dựng bộ máy tổ
chức gọn nhẹ, cơ chế hoạt động linh hoạt, sáng tạo và đạt hiệu quả cao. Theo
V.I.Lê nin thì sự nhạy cảm về mặt tổ chức là tiền đề chính cho sự thành công
trong hoạt động thực tiễn của người cán bộ. Sự nhạy cảm về mặt tổ chức được
thể hiện trước tiên ở khả năng hiểu biết thế giới bên trong của người khác, hiểu
biết thực trạng và điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của địa phương
mà mình được phân công công tác. Qua đó mà xác định được nhiệm vụ trọng
tâm trước mắt, lâu dài trong từng thời kỳ khác nhau và biết cách thay đổi các
nhiệm vụ cho phù hợp với sự biến đổi của mình.
Ngoài khả năng hiểu biết, năng lực tổ chức thực tiễn còn đòi hỏi người cán
bộ phải có khả năng lựa chọn cất nhắc, sử dụng những người đủ đức, đủ tài, đề
ra được lề lối làm việc khoa học thiết thực, bố trí con người đúng việc, đúng
chỗ, phải nắm được tâm lý cơ bản của từng người, đoán biết được ý nghĩ, tâm
trạng và thái độ thực sự của họ, từ đó mà khéo léo ứng xử tâm lý, điều khiển
được nhiều người. Tránh tình trạng “thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo
đi rèn dao” [17, tr.33]. Có như vậy mới phát huy được thuận lợi, khắc phục
được khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Năng lực tổ chức thực tiễn còn đòi hỏi người cán bộ phải có khả năng tập
trung, huy động, lôi cuốn mọi người tham gia quá trình tổ chức thực tiễn. Biết
sử dụng và khai thác có hiệu quả nhất tiềm năng, sức mạnh của tập thể, của cá
nhân tạo thành phong trào rộng lớn trong việc thực thi các quyết định đã đề ra.
V.I.Lênin đã từng nói: “Chúng ta cần có một đại hợp tấu, chúng ta phải xây
dựng kinh nghiệm cho mình để có thể phân đúng các vai trò trong dàn hợp tấu,
để đối với người này thì giao cây đàn vĩ cầm đầy tình cảm, đối với người kia
9
thì giao cây đàn trầm cuồng bão, đối với người khác thì giao cho que nhạc
trưởng” [11, tr.121]. Thực tiễn cách mạng đã chứng tỏ rằng hiệu quả của công
tác tổ chức thực tiễn phụ thuộc vào thực tiễn phong trào cách mạng của quần
chúng nhân dân. Chính hiệu quả phong trào quần chúng nhân dân là một trong
những tiêu chuẩn chính xác nhất để đánh giá năng lực tổ chức thực tiễn của
người cán bộ nói chung và cấp ủy nói riêng.
Bàn về năng lực tổ chức thực tiễn, V.I.Lênin đã chỉ rõ người cán bộ có
năng lực tổ chức thực tiễn đó là người “có tài tổ chức tuyệt diệu”, “là tấm
gương về sự liên hệ chặt chẽ với quần chúng gắn liền với năng lực lãnh đạo
quần chúng” [13, tr.97-98]. Người có năng lực tổ chức thực tiễn theo V.I.Lênin
là người “biết tổng hợp tinh thần dân chủ sục sôi tràn trề tựa như nước lũ mùa
xuân của quần chúng lao động trong các cuộc mít tinh với kỷ luật sắt trong lao
động, với sự phục tùng tuyệt đối trong lao động, với ý chí của một người duy
nhất” [12, tr.249.].
Một nhà lãnh đạo ngoài sự nhạy cảm về tổ chức, sự am hiểu về con người,
tính cởi mở, óc sáng suốt, bản tính kiên nghị tháo vát trong thực tiễn, khả năng
chan hòa với mọi người, thu hút, lôi cuốn, tập hợp quần chúng còn có khả năng
tác động tới người khác một cách có hiệu quả. Điều này đòi hỏi phải có sự ứng
xử khéo léo, sư phạm, sự lịch thiệp về mặt tâm lý, sự nhạy cảm về biện pháp
khêu gợi, động viên, biết sử dụng sức mạnh tâm lý bằng chính uy tín của bản
thân (với các phẩm chất như: kiên quyết, dũng cảm, đạo đức, gương mẫu, tính
yêu cầu cao đối với bản thân mình và với người khác, tinh thần tự phê bình và
phê bình một cách nghiêm túc).
Ba là, phải biết tổ chức công tác kiểm tra thực hiện các quyết định.
Kiểm tra là một trong những chức năng cơ bản của người cán bộ. Tổ chức
kiểm tra thực hiện các quyết định là nhằm phát hiện kịp thời những vấn đề mới
nảy sinh và những lệch lạc hoặc sai sót trong quá trình thực hiện các quyết định.
Việc tiến hành kiểm tra đúng, kịp thời có hiệu quả sẽ có tác dụng giáo dục, điều
chỉnh, đôn đốc cá nhân, tập thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong quá
10
trình thực hiện các quyết định đã ban hành. Thông qua kiểm tra mà người cán bộ
hiểu rõ hơn những thuận lợi và khó khăn, sự phù hợp hay không phù hợp của
cách thức tiến hành giữa mục tiêu và điều kiện thực hiện, giữa kết quả lao động
của người thực hiện với những dự kiến ban đầu v.v… Trên cơ sở đó mà có
hướng khắc phục, bổ sung, điều chỉnh kịp thời hoặc xin ý kiến cấp trên, nếu lĩnh
vực đó không thuộc thẩm quyền của mình. Thông qua kiểm tra mà người cán bộ
tránh được tình trạng lãng phí phiền hà cho cơ sở.
Bốn là, khả năng sơ kết, tổng kết đánh giá hoạt động thực tiễn, rút ra bài
học kinh nghiệm.
Năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ ngoài khả năng chỉ đạo hoạt động tổ
chức thực tiễn còn phải có khả năng sơ kết, tổng kết. Phải xem tổng kết thực tiễn
là công việc thường xuyên, thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình. Tổng kết thực
tiễn phải trở thành nề nếp như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “…Công việc
gì, bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần nghiên cứu đến cội rễ, phân
tích thật rõ ràng rồi mới kết luận. Kết luận đó sẽ là cái chìa khóa phát triển
công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới” [18, tr. 456].
Tổng kết thực tiễn không phải là “chụp ảnh” mô tả tình hình, kiểm điểm,
liệt kê những ưu điểm, khuyết điểm; cũng không phải chỉ là đưa ra sự thừa nhận,
đánh giá chung chung hay những kết luận đơn giản về những hiện tượng đã và
đang diễn ra. Tổng kết thực tiễn thể hiện ở khả năng phân tích, so sánh xuyên
qua những tình hình, chủ trương, hiện tượng mà đánh giá, xem xét quá trình
thực hiện quyết định, chủ trương, đường lối đúng hay sai, phù hợp hay chưa
phù hợp, thành công hay thất bại. Trên cơ sở đó mà khái quát, đúc rút ra được
những vấn đề cơ bản có tính cốt lõi nhằm bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện chủ
trương, đường lối phát triển nhận thức lý luận. Đồng thời rút ra được những bài
học kinh nghiệm và đưa ra các giải pháp cần thiết để chỉ đạo quá trình hoạt
động thực tiễn tiếp theo.
Thấy rõ ý nghĩa đặc biệt quan trọng của tổng kết thực tiễn, người cán bộ có
khắc phục được bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều sách vở, chủ quan duy ý chí
11
không? Điều đó phụ thuộc rất lớn vào năng lực của chủ thể tiến hành tổng kết
thực tiễn. Người cán bộ có năng lực, khi tiến hành tổng kết thực tiễn bao giờ
cũng thực hiện theo những yêu cầu khách quan của quy trình tổng kết thực tiễn,
biết lựa chọn vấn đề tổng kết, có trọng tâm, trọng điểm, hướng vào những vấn
đề cấp bách mà thực tiễn cuộc sống và lý luận đang đặt ra. Do đó mà tổng kết
thực tiễn đạt được hiệu quả cao. Tránh được tình trạng “làm láo, báo cáo hay”,
bệnh thành tích, bệnh kinh nghiệm, giáo điều, sách vở.
Ngoài những thành tố cơ bản nêu trên, năng lực tổ chức thực tiễn của người
cán bộ còn được biểu hiện qua khả năng tiếp nhận và xử lý các tình huống trong
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, quốc phòng - an ninh, ở bản lĩnh
chính trị vững vàng, ở phong cách làm việc khoa học, ở văn hóa trong công việc,
trong giao tiếp ứng xử; ở sự kết hợp giữa đạo đức và trí tuệ, giữa nói và làm…
Họ thực sự là tấm gương sáng cho mọi người học tập, noi theo.
Ngoài ra, năng lực tổ chức thực tiễn của người cán bộ còn thể hiện cả ở việc
tổ chức tham quan học tập kinh nghiệm điển hình tiên tiến ở các nơi khác, địa
phương khác. Biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo chứ không phải bê nguyên xi
vào hoàn cảnh thực tiễn ở địa phương mình.
Như vậy, năng lực tổ chức thực tiễn của người cán bộ được thể hiện trong
toàn bộ các khâu, các bước của quá trình tổ chức thực tiễn. Trong đó việc cụ thể
hóa đường lối, đề ra quyết định, tổ chức bộ máy, lựa chọn con người, kiểm tra
việc tổ chức thực hiện, tổng kết thực tiễn, rút ra bài học kinh nghiệm… tạo nên
một chỉnh thể hoạt động nhịp nhàng, cân đối, có hiệu quả nhằm đạt được những
mục tiêu đã xác định. Do đó có thể nói: Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của
người cán bộ nói chung, cấp cơ sở nói riêng chính là nâng cao khả năng thực
hiện công việc của họ trên tất cả các mặt, các khâu, các công đoạn của quá trình
tổ chức thực tiễn, sao cho từng khâu, từng công đoạn của quá trình đó đều đạt
hiệu quả thiết thực. Như thế chính hiệu quả của quá trình tổ chức thực tiễn là
thước đo duy nhất đúng năng lực tổ chức thực tiễn của người cán bộ. Nâng cao
năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ trong quản lý công việc, triển khai việc
12
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong quần chúng nhân
dân; là công tác vận động, hướng dẫn tổ chức quần chúng hành động trên thực tế
nhằm thực hiện đường lối đó một cách chính xác nhất, hiệu quả nhất.
Song cần phải thấy rằng, năng lực tổ chức thực tiễn không phải là cái gì vĩnh viễn
sinh ra và mãi mãi như vậy, nó cũng có quá trình phát sinh và không ngừng phát triển.
Bởi lẽ thực tiễn rất đa dạng, phong phú, phức tạp và thường xuyên biến đổi và không
có giới hạn cuối cùng nên năng lực tổ chức thực tiễn cũng thường xuyên phải được đổi
mới, bổ sung cho phù hợp với sự phát triển của thực tiễn. Ứng với mỗi giai đoạn khác
nhau trong sự phát triển của thực tiễn thì năng lực tổ chức thực tiễn cũng có sự phát
triển sáng tạo linh hoạt tương ứng. Vì thế để đạt hiệu quả cao trong tổ chức thực tiễn
đòi hỏi phải không ngừng nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của chủ thể tổ chức
thực tiễn.
Để có được năng lực tổ chức thực tiễn, người cán bộ dù ở cấp nào cũng phải có
năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn. Chính năng lực tổ chức thực tiễn và
năng lực trí tuệ là hai yếu tố tạo nên tài năng của họ. Giữa năng lực trí tuệ và năng lực
tổ chức thực tiễn có mối quan hệ chặt chẽ khăng khít, không tách rời nhau, cái này hỗ
trợ, bổ sung và làm tiền đề cho cái kia phát triển và ngược lại. Không có năng lực trí
tuệ thì tính khái quát không thể ở tầm cao được và khó có thể đưa ra được những dự
báo, những quyết định chính xác. Trái lại, chỉ có năng lực trí tuệ mà thiếu năng lực tổ
chức thực tiễn thì năng lực trí tuệ dần dần sẽ bị mai một và chỉ dừng lại ở nhận thức, ở
lý thuyết suông, thoát ly thực tiễn, xa rời cuộc sống, không góp phần thiết thực cho
việc hướng dẫn, cải tạo thực tiễn. Nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng
trong thời kỳ mới – thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn thì
đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ cấp cơ sở phải không ngừng trau dồi cả năng lực trí tuệ
và năng lực tổ chức thực tiễn.
2.1.1.3. Vai trò và những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tổ chức thực tiễn
của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
- Thực chất hoạt động của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
13
Đối tượng cán bộ cấp cơ sở mà đề tài nghiên cứu theo Quyết định
04/2004/QĐ-BNV ngày 16/11/2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Quyết định số
03/2004/QĐ-TTCP ngày 07/01/2004 của Thủ tướng chính phủ bao gồm các
chức danh sau: Bí thư đảng ủy; Phó bí thư thường trực, chủ tịch HĐND; Phó
chủ tịch HĐND; Chủ tịch UBND; Phó chủ tịch UBND; Chủ tịch UBMTTQ; Bí
thư Đoàn Thanh niên; Chủ tịch Hội Phụ nữ; Chủ tịch Hội nông dân; Chủ tịch
Hội Cựu chiến binh; Chỉ huy trưởng quân sự; Trưởng Công an xã; Phụ trách văn
phòng – thống kê; Phụ trách tư pháp – hộ tịch; Phụ trách tài chính – kế toán; Phụ
trách địa chính – xây dựng; Phụ trách văn hóa – xã hội.
Hệ thống chính quyền của nước ta hiện nay có 4 cấp; trung ương, tỉnh
(thành phố trực thuộc trung ương), huyện (thị xã) và xã (phường, thị trấn). Cán
bộ ở mỗi cấp đều có vai trò quan trọng, có vị trí và ý nghĩa khác nhau. Vai trò
của cán bộ cấp cơ sở có những đặc điểm riêng.
Như vậy, người cán bộ cấp cơ sở ngoài các yêu cầu về phẩm chất, năng lực, sự
giác ngộ về chính trị, sự am hiểu chuyên môn trong lĩnh vực mình phụ trách, khả
năng tập hợp quần chúng còn phải là nhà tổ chức thực tiễn có năng lực.
- Vai trò năng lực tổ chức thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo của đội
ngũ cán bộ cấp cơ sở
Khó có thể đánh giá hết được tầm quan trọng của năng lực tổ chức thực
tiễn. Không có năng lực tổ chức thực tiễn thì quá trình tổ chức thực tiễn không
thể đạt hiệu quả cao được, không thể hiện thực hóa đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống được. Vì vậy, vai trò của
năng lực tổ chức thực tiễn là hết sức to lớn trong quá trình hoạt động của người
lãnh đạo, quản lý nói chung, cán bộ cấp cơ sở nói riêng. Vai trò của nó trong
hoạt động lãnh đạo, quản lý được thể hiện ở các điểm cơ bản sau:
+ Năng lực tổ chức thực tiễn giúp người cán bộ cấp cơ sở nhận thức, cụ
thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, nghị quyết, chỉ thị của tỉnh, huyện
Đảng bộ thành những quyết định phù hợp với thực tiễn địa phương.
+ Năng lực tổ chức thực tiễn của người cán bộ cấp cơ sở trong việc tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, nghị quyết tỉnh,
huyện Đảng bộ.
14
+ Có năng lực tổ chức thực tiễn người cán bộ cấp cơ sở mới có khả năng
kiểm tra, đánh giá đúng đắn, chính xác việc thực hiện quyết định.
+ Năng lực tổ chức thực tiễn giúp người cán bộ cấp cơ sở định hướng cho
hoạt động nhận thức và dự đoán được xu hướng vận động phát triển của hoạt
động thực tiễn tiếp theo đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển khách quan.
- Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán
bộ cấp cơ sở
Có thể nói rất nhiều nhân tố trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến năng
lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở. Nhưng trước hết năng lực tổ
chức thực tiễn phụ thuộc vào những yếu tố sinh học có tính bẩm sinh của từng
người. Dưới đây, chúng tôi trình bày một số nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến năng
lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở:
+ Điều kiện kinh tế - xã hội, môi trường công tác: Con người là sản phẩm
của lịch sử, mỗi chế độ xã hội có những kiểu năng lực tổ chức đặc trưng, tiêu
biểu cho xã hội đó. Cùng với sự vận động, biến đổi và phát triển của xã hội
loài người thì các đặc trưng của năng lực tổ chức thực tiễn cũng biến đổi và
phát triển theo. Năng lực tổ chức thực tiễn hình thành dựa trên cơ sở khách
quan: Bản chất chế độ xã hội, tính quy luật của quản lý, đặc điểm phạm vi hoạt
động cụ thể của cán bộ cấp cơ sở, hành lang pháp luật, những yêu cầu của xã
hội đối với mỗi cương vị lãnh đạo, quản lý trong xã hội…
+ Trình độ lý luận chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ: Năng
lực tổ chức thực tiễn ngoài tác động của những điều kiện khách quan và quy luật
chung, nó còn chịu sự chi phối không nhỏ của vốn tri thức, năng lực trí tuệ của
chủ thể như: sự hiểu biết, năng lực tư duy, trình độ lý luận chính trị, trình độ học
vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ…
+ Truyền thống, tập quán, thói quen: Truyền thống là “thói quen hình thành
lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác”
[26, tr.1734]. Có thể nói, dưới gốc độ nhất định đây là các cấp độ cao của thói
quen (thói quen đã thành nếp được mọi người công nhận và làm theo, thói quen
đã hình thành lâu đời được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác). Vì vậy
cùng với thói quen, tập quán và truyền thống có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực
tổ chức thực tiễn của người cán bộ cấp cơ sở. Như vậy, truyền thống, tập quán,
15
thói quen tốt sẽ là động lực góp phần thúc đẩy nâng cao năng lực tổ chức thực
tiễn của người cán bộ cấp cơ sở. Truyền thống, tập quán, thói quen xấu sẽ kìm
hãm năng lực nói chung và năng lực tổ chức thực tiễn của chính họ.
+ Bản lĩnh, phẩm chất đạo đức: Đối với cán bộ nói chung, có tài năng
thôi chưa đủ mà phải hội tụ cả đức và tài, trong đó đức là gốc. Hồ Chí Minh đã
từng nói rằng: người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, người có
tài mà không có đức thì trở thành vô dụng. Đạo đức cách mạng không phải từ
trên trời rơi xuống mà phải rèn luyện, tu dưỡng hàng ngày, hàng giờ cũng giống
như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.
2.1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ ÁN
2.1.2.1. Một vài nét chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện
MINH TÂM, tỉnh BÌNH PHƯỚC.
Nằm ở phía Đông Nam của tỉnh BÌNH PHƯỚC, huyện MINH TÂM là
vùng đất giàu truyền thống cách mạng, có nhiều tiềm năng, lợi thế là điều kiện
thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội. Huyện được chia tách từ huyện Ayun Pa
theo Nghị định số 104/2002/NĐ-CP, ngày 18/12/2002 của Chính phủ và đi vào
hoạt động từ tháng 3 năm 2003.
Về vị trí địa lý, phía Bắc giáp huyện Măng Yang và Kong Chro, phía
Đông giáp huyện Krông Pa, phía Nam và phía Tây giáp Thị xã Ayun Pa. Toàn
huyện có tổng diện tích tự nhiên 87.088 ha; trong đó: đất lâm nghiệp 62.602 ha,
đất nông nghiệp 14.187 ha, đất ở 1.120 ha, đất khác gần 9.200 ha.
Có 09 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, trong đó có 7 xã đặc biệt khó
khăn, với 76 thôn, làng. Dân số toàn huyện có 50.929 người, với 10.559 hộ,
trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 71%. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp
huyện có 136 người. Trong đó: trình độ chuyên môn: 87 đại học (63,9%), 09 cao
đẳng (6,6%), 36 trung cấp (26,4%) và 04 không có chuyên môn (2,9%). Trình
độ lý luận chính trị: 33 cao cấp (24,2%), 27 trung cấp (19,85%), 09 sơ cấp
(6,6%) và 67 chưa đào tạo (49,2%). Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã 181
người, trong đó: Trình độ văn hoá: 161 Trung học phổ thông, 16 trung học cơ sở
và 04 tiểu học; Trình độ chuyên môn: 11 đại học, 06 cao đẳng (9,3%), 81 trung
16
cấp (44,7%), 10 sơ cấp (5,7%) và 73 chưa qua đào tạo (40,3%); trình độ lý luận
chính trị: 03 cao cấp (2%), 81 trung cấp (44,7%), 53 sơ cấp ( 29%) và 44 chưa
qua đào tạo (24%).
Tuy là huyện mới thành lập nhưng trong hơn 10 năm qua huyện đã phát
huy thế mạnh về phát triển kinh tế - xã hội khai thác có hiệu quả các tiềm năng
của huyện cũng như sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân các dân tộc trong toàn
huyện. Vì vậy, đến năm 2014 huyện đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên
tất cả các lĩnh vực.
Kinh tế - xã hội: Duy trì mức độ tăng trưởng kinh tế từ 11 – 12% hàng
năm, trong đó nông, lâm nghiệp hàng năm tăng từ 10 – 15%, công nghiệp - xây
dựng hàng năm tăng từ 18 – 25%, thương mại – dịch vụ hàng năm tăng từ 25 –
30%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng hướng, khi chia tách tỷ trọng nông,
lâm nghiệp chiếm trên 80%, hiện nay còn 65%, công nghiệp, thương mại và
dịch vụ khi chia tách huyện chiếm gần 20%, hiện nay chiếm 35%. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế đạt 11,7%. Tổng diện tích gieo trồng năm 2014 thực hiện hơn
29.000 ha tăng gần gấp 3 lần so với khi mới chia tách huyện chủ yếu tập trung
vào cây công nghiệp ngắn ngày, thuốc lá, mỳ và lúa nước thủy lợi. Giá trị sản
xuất CN – TTCN thực hiện 33,2 tỷ đồng tăng gần 10 lần so với khi mới chia
tách huyện tập trung chủ yếu vào sản xuất gạch ngói và gia công cơ khí. Tổng
thu ngân sách trên địa bàn 9,45 tỷ đồng tăng 18 lần so với khi mới chia tách
huyện. Tỷ lệ tăng dân số 2,1%. Thu nhập bình quân đầu người trong năm 2013
đạt 10,1 triệu đồng. Tỷ lệ hộ đói, nghèo của huyện còn 47% (theo tiêu chí mới)
và giảm trên 40% số hộ khi mới tách huyện.
Kết cấu hạ tầng cơ sở vật chất được đầu tư mở rộng nhanh để phát triển
kinh tế - xã hội làm thay đổi bộ mặt nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số. Trong những năm qua Trung ương, Tỉnh, huyện đã xây
dựng và đưa vào sử dụng cầu Bến Mộng, cầu qua sông Ba, cầu Quý Đức và các
cầu trên trục lộ 662; quy mô trường lớp được quan tâm đầu tư, đến nay đã có 34
đơn vị trường học với 11.552 học sinh; mạng lưới y tế từ huyện đến cơ sở hoạt
17
động có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu khám và điều trị bệnh của nhân dân, đến nay
huyện đã có 01 bệnh viên đa khoa, 9/9 xã đều có trạm y tế, 9/9 xã đã có trụ sở
làm việc khang trang, hệ thống điện, đường được đầu tư nâng cấp đáp ứng yêu
cầu phục vụ cho nhân dân.
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong những năm mới
chia tách huyện khá phức tạp. Các tổ chức phản động FULRO, “Tin lành đê ga”
thường xuyên móc nối, cấu kết để tổ chức chống phá Đảng và Nhà nước ta,
trong đó chúng đã tổ chức biểu tình, bạo loạn vào năm 2004. Mặt khác, hoạt
động của các tôn giáo khá phức tạp, sinh hoạt, cầu nguyện, tranh giành tín đồ....
Ban Thường vụ Huyện ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo các ngành chức năng xây dựng
kế hoạch phòng, chống biểu tình, bạo loạn gắn với công tác bóc gỡ các đối
tượng cầm đầu để vô hiệu hóa các tổ chức phản động trên địa bàn. Vì vậy, trong
các năm gần đây tình hình an ninh chính trị, an ninh nông thôn và trật tự an toàn
xã hội trên địa bàn huyện tương đối khá ổn định.
Qua hơn 10 năm xây dựng và phát triển, vượt lên trên xuất phát điểm thấp
cùng những khó khăn, gian khổ khó tránh khỏi, Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân các dân tộc huyện MINH TÂM đã tạo ra những chuyển biến tích cực trên
các mặt kinh tế - xã hội, chính trị, an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, tạo
niềm tin, sức mạnh và bản lĩnh để tiếp tục phấn đấu xây dựng Huyện nhà ngày
càng giàu mạnh.
Song bên cạnh những thuận lợi, huyện MINH TÂM vẫn chưa đáp ứng kịp
thời với tiềm năng phát triển của huyện. Trong khi đó, một bộ phận trong đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn vừa yếu về năng lực lại thiếu về chuyên
môn nghiệp vụ. Qua khảo sát và đánh giá của Huyện ủy, hiện nay còn 22,61%
cán bộ cấp cơ sở chưa qua đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kỹ thuật.
Do đó, bộ máy chính quyền ở cấp cơ sở ở huyện MINH TÂM vừa thiếu lại vừa
yếu. Cho nên, trong quá trình tổ chức thực hiện, triển khai các chủ trương,
đường lối của đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước gặp nhiều khó khăn.
Công tác chỉ đạo, điều hành trong phát triển kinh tế - xã hội còn yếu. Chính vì
18
thế, ở huyện MINH TÂM cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện vẫn tham gia trực
tiếp vào các quá trình tổ chức thực tiễn ở cơ sở, trực tiếp chỉ đạo, điều hành phát
triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.
2.1.2.2. Năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở
huyện MINH TÂM – Thực trạng và những nguyên nhân chủ yếu
* Thực trạng năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở
huyện MINH TÂM
- Những kết quả đạt được trong tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở ở huyện MINH TÂM
Tính đến ngày 01/01/2015, tổng số cán bộ, công chức cấp cơ sở của
huyện MINH TÂM là 199, trong đó cán bộ: 98, công chức: 101; trong đó số cán
bộ cơ sở đã qua đào tạo cả cao cấp LLCT, trung cấp, sơ cấp là 142, đạt 71,35%.
Trong đó, đặc biệt có những đồng chí là cán bộ người dân tộc, vùng sâu, vùng
xa vẫn cố gắng khắc phục những khó khăn để hoàn thành chương trình đào tạo.
Tính đến ngày 01/01/2015, MINH TÂM có 199 cán bộ, công chức cấp cơ sở thì
có đến 154 CBCC (77,39%) qua đào tạo chuyên môn, và 45 CBCC (22,61) chưa
qua đào tạo chuyên môn. Trình độ lý luận chính trị - hành chính và trình độ
chuyên môn là tiền đề cho đội ngũ cán bộ cơ sở của huyện MINH TÂM tổ chức
thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của huyện nhà. Nhưng số cán bộ
chưa qua đào tạo cả chuyên môn và lý luận còn cao, đây là khó khăn cho họ
trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của huyện.
Tuy nhiên, trong thời gian qua đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở huyện MINH
TÂM đã từng bước được trưởng thành trong tổ chức thực tiễn và có những đóng
góp quan trọng cho sự phát triển của địa phương. Điều đó được thể hiện:
Đội ngũ cán bộ cấp cơ sở đã không ngừng trưởng thành về mặt trình độ
nhận thức. Là những cán bộ cấp cơ sở, họ nhận thức rõ vai trò của mình là người
quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, và cấp
trên. Là người tổ chức các phong trào hoạt động của nhân dân ở địa phương thực
hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các nhiệm vụ
19
cấp trên giao. Đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ngày càng quán triệt sâu sắc trách nhiệm
của mình đối với nhân dân và sự nghiệp phát triển của địa phương. Vì vậy, cán
bộ cấp cơ sở đã không ngừng nâng cao trình độ về mọi măt để tự hoàn thiện
mình, rèn luyện tu dưỡng đạo đức, gần gủi với nhân dân, biết lắng nghe ý kiến
của nhân dân, nắm bắt kịp thời các diễn biến tích cực và tiêu cực trên địa bàn để
đưa ra những quyết định kịp thời, đúng đắn đảm bảo sự phát triển ổn định của
địa phương.
Đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở huyện MINH TÂM ngày càng thể hiện được
vai trò tiền phong gương mẫu đi đầu trong các phong trào. Như trong các phong
trào kinh tế phát triển trang trại, nuôi trồng thuỷ hải sản, trồng rừng, giúp nhau
vượt nghèo.... Đi đầu trong phong trào an ninh ở địa phương, Phong trào chống
tệ nạn xã hội...Sự đóng góp đó của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở không chỉ đóng góp
cho phát triển kinh tế của địa phương mà còn lập lại an ninh trật tự trên địa bàn
toàn huyện, tạo môi trường tốt cho các nhà đầu tư đến đầu tư tại MINH TÂM.
Chính nhờ việc triển khai có hiệu quả vào cuộc sống những chủ trương,
nghị quyết của Đảng bộ huyện, nhất là thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ
huyện lần thứ XVI (nhiệm kỳ 2010 - 2015) nền kinh tế huyện nhà đã đạt được
những thành tựu quan trọng và có ý nghĩa chính trị - xã hội to lớn. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế đạt ở mức cao. Các chỉ tiêu về chăn nuôi, sản xuất công nghiệp –
tiểu thủ công nghiệp gần đạt kế hoạch đề ra. Tổng diện tích gieo trồng và sản
lượng lương thực đạt và vượt chỉ tiêu nghị quyết. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây
trồng vật nuôi chuyển dịch đúng hướng. Đã huy động được các nguồn lực, nhất
là nguồn lực tại chỗ để đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Lĩnh vực văn hóa xã hội có nhiều chuyển biến
tích cực. Sự nghiệp giáo dục – đào tạo được quan tâm đầu tư; các ngành học,
bậc học tiếp tục phát triển nhanh về quy mô trường lớp và học sinh; chất lượng
giáo dục ngày càng được nâng lên. Công tác giải quyết việc làm cho người lao
động được chú trọng, từng bước ổn định cuộc sống cho người dân. Hoạt động y
tế, bảo vệ chăm sóc sức khỏe cho người dân có nhiều chuyển biến tích cực.
20
Quốc phòng – an ninh được củng cố và tăng cường; chính trị xã hội được giữ
vững ổn định; lòng dân được củng cố, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước.
- Những hạn chế trong tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
+ Một là, trình độ năng lực của một số cán bộ cấp cơ sở còn hạn chế, chậm
được nâng lên, một số có tư tưởng cầu toàn không chịu khó nghiên cứu, học tập, tâm
lý dựa dẫm, đùn đẩy công việc chủ yếu tập trung vào một số người lớn tuổi.
+ Hai là, phong cách làm việc của một bộ phận nhỏ cán bộ cấp cơ sở còn
tùy tiện, làm việc không có chương trình, kế hoạch. Thậm chí có cán bộ làm
việc theo kiểu cảm tính, bột phát, thiếu gương mẫu trong sinh hoạt, làm việc
không đúng giờ, chất lượng hiệu quả thấp phần lớn ở những người hết khả năng
quy hoạch phát triển (đặc biệt là những cán bộ người dân tộc thiểu số).
+ Ba là, năng lực tổ chức thực tiễn một số nơi còn hạn chế các hoạt động
ở địa phương còn nhiều hạn chế, hoạt động chủ yếu là sự vụ, vụn vặt, tầm khái
quát còn thấp, tổ chức các phong trào của nhân dân không hiệu quả còn mang
nặng tính hình thức gây lãng phí tốn kém ngân sách, tiền và công sức của nhân
dân. Việc triển khai các nhiệm vụ cấp trên giao còn hạn chế, kém hiệu quả. Đây
là hạn chế của cán bộ cấp cơ sở ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh
tế khó khăn và đặc biệt khó khăn của huyện.
+ Bốn là, tinh thần tự phê bình và phê bình của một số cán bộ cấp cơ sở
còn nhiều hạn chế, ngại va chạm, tinh thần tiếp thu ý kiến không cao, khi được
góp ý thì gây ra mặc cảm, bằng mặt chứ không bằng lòng. Ý kiến phê bình thì
chung chung, ý kiến tự phê bình thì hời hợt sơ sài. Dẫn đến công tác triển khai
phê bình và tự phê bình phần lớn chưa đạt kết quả. Đây là tồn tại không chỉ ở
cán bộ cấp cơ sở mà là tồn tại ở phần lớn các cấp, để phê bình và tự phê bình đạt
hiệu quả thực sự cần có sự nghiêm túc trong toàn đảng để đưa ra phương pháp
phê bình và tự phê bình có hiệu quả.
Trong thời gian qua, ở MINH TÂM do những hạn chế trong nhận thức và
cả khả năng triển khai thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, đã dẫn đến việc
21
thực hiện Nghị quyết của huyện ở một số lĩnh vực chưa đạt, đó là: tình hình thu
ngân sách trên địa bàn gặp nhiều khó khăn. Sản xuất nông nghiệp vẫn còn phụ
thuộc khá lớn vào thời tiết, tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm vẫn có nguy cơ
xảy ra và phát ổ dịch, ngành chăn nuôi chưa có định hướng phát triển rõ nét.
Tình hình phá rừng làm nương rẫy, khai thác gỗ, khai thác vàng trái phép tuy có
giảm nhưng không bền vững, mức độ vi phạm ngày càng tinh vi phức tạp, có
hiện tượng cán bộ kiểm lâm tiếp tay cho lâm tặc phá rừng, xử lý chưa nghiêm;
công tác quản lý vốn đầu tư, kiểm tra, giám sát thi công công trình chưa được
tốt; công tác quản lý, sử dụng đất còn nhiều hạn chế; công tác đo đạc đất đai, lập
hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chậm, chưa đạt yêu cầu.
Tình trạng học sinh nghỉ, bỏ học vẫn còn xảy ra; nhiều trường còn thiếu các
phòng chức năng dẫn đến tiến độ xây dựng trường chuẩn quốc gia chậm; tai nạn
giao thông chưa được kiềm chế, tăng cả về số vụ và số người chết; an ninh nông
thôn, trật tự an toàn xã hội còn phức tạp.
Những hạn chế của việc tổ chức thực tiễn của cán bộ cấp cơ sở của huyện
MINH TÂM không lớn tập trung chủ yếu ở một số nhóm người, một số địa bàn.
Tuy vậy nếu không có những chủ trương, giải pháp đúng đắn, kịp thời, đồng bộ
thì những hạn chế này sẽ ảnh hưởng xấu và lan truyền trong đội ngũ cán bộ cấp
cơ sở, tác động tiêu cực đến sự phát triển của huyện.
* Những nguyên nhân chủ yếu của thực trạng trên
- Nguyên nhân của những thành tựu
Các thành tựu có được trước hết phải kể đến sự nỗ lực, sự chung sức,
chung lòng của nhân dân với mong muốn góp phần vào sự nghiệp cách mạng
của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Tuy vậy, đúng như Bác Hồ đã nói
“cán bộ là gốc của cách mạng”, để biến những chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước thành những hành động cách mạng cụ thể của quần
chúng nhân dân thì không thể không kể đến đội ngũ cán bộ cấp cơ sở. Những
năm qua, đội ngũ cán bộ cấp cơ sở đã có đóng góp quan trọng cho việc thực hiện
thắng lợi chủ trương, nghị quyết của huyện là do một số nguyên nhân sau:
22
+ Huyện đã có nhiều chủ trương, biện pháp xây dựng đội ngũ cán bộ cấp
cơ sở, nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng và chất lượng
đảng viên đáp ứng xây dựng huyện ngày càng ổn định và phát triển, trong đó
xác định nội dung về xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở có đủ trình độ, năng lực
công tác, đạo đức lối sống văn minh, bám địa bàn, bám nhân dân là nhân tố quan
trọng tác động trực tiếp đến quá trình phát triển của huyện. Thường xuyên đào
tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ cấp cơ sở là
nhiệm vụ quan trọng và được ưu tiên đầu tư kinh phí đào tạo. Huyện ủy, HĐND
và UBND huyện luôn có chủ trương tạo điều kiện cho cán bộ cơ sở học tập nâng
cao trình độ mọi mặt, các hoạt động luôn hướng về cơ sở, hàng năm cấp kinh
phí cho các chi bộ mua Báo BÌNH PHƯỚC, báo Nhân dân và các loại tạp chí
khác. Trong những năm qua, huyện đã mở các lớp bồi dưỡng Bí thư chi bộ, cấp
ủy cơ sở với 340 lượt cán bộ được bồi dưỡng, mở 02 lớp sơ cấp lý luận chính trị
với 85 cán bộ tham dự, 01 lớp trung cấp lý luận chính trị với 120 cán bộ tham
gia.
+ Tuyệt đại đa số cán bộ cơ sở có lập trường quan điểm chính trị rõ ràng,
chấp hành nghiêm chỉnh đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của nhà nước. Đội ngũ cán bộ cấp cơ sở của huyện có bản lĩnh chính trị vững
vàng, không giao động trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch
như nói xấu Đảng, gây mất đoàn kết nội bộ. Trình độ mọi mặt của cán bộ cấp cơ
sở ngày càng cao, đặc biệt năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ cấp cơ sở đã
đáp ứng nhu cầu phát triển mọi mặt của huyện.
- Nguyên nhân của những hạn chế
Nguyên nhân khách quan
+ Điều kiện kinh tế của huyện còn hạn chế, do đó việc thực hiện chế độ
lương, phụ cấp cho đội ngũ cán bộ cơ sở của huyện chưa đáp ứng được yêu cầu
bình thường của cuộc sống. Vì thế, đội ngũ cán bộ cơ sở của huyện tập trung
vào các việc làm thêm như: nương rẫy, kinh doanh..., mà ít quan tâm đến công
việc chung, công vụ mà mình đảm nhiệm.
23
+ Một số văn bản quy phạm có liên quan đến tuyển dụng, sử dụng và thực
hiện chế độ chính sách để kích thích đội ngũ cán bộ cơ sở của huyện còn nhiều
bất cập.
+ Các đối tượng phản động FULRO lưu vong, ”tin lành Đê ga” thường
xuyên có những hoạt động chống phá, gây tình hình phức tạp trên địa bàn, ảnh
hưởng đến an ninh ở cơ sở.
Nguyên nhân chủ quan
+ Trình độ tổ chức thực tiễn của cán bộ cấp cơ sở một số nơi chưa cao do
đó hiệu quả, chất lượng công việc chưa đảm bảm làm ảnh hưởng đến sự phát
triển của một số địa bàn, khu vực. Một số cán bộ cấp cơ sở nhận thức về chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước chưa rõ ràng, nên trong chỉ đạo điều
hành còn bị động, thiếu linh hoạt. Do chưa hiểu rõ nên nhiều khi chỉ đạo điều
hành sai chủ trương, đường lối gây hậu quả nghiêm trọng.
+ Cơ cấu của đội ngũ cán bộ chưa hợp lý, số đông đã lớn tuổi, lớp trẻ
chưa kịp đào tạo theo đúng tiêu chuẩn dẫn đến thiếu hụt cán bộ cấp cơ sở ảnh
hưởng nghiêm trọng đến việc tổ chức thực tiễn tại địa phương. Một số cơ quan,
ban, ngành chưa bố trí được cán bộ đủ số lượng và chất lượng.
+ Nhiều cấp, nhiều ngành chưa nhận thức đúng đắn về việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, chưa thấy vai trò quan trọng của cán bộ trong
việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị địa phương, đơn vị. Tình trạng cán bộ
lãnh đạo không tin tưởng vào cấp dưới nên không giao việc mà ôm đồm làm cho
công việc bị trì trệ, cấp dưới không được giao việc nên kiến thức ngày càng mai
một, khả năng làm việc kém. Những đối tượng này muốn sử dụng phải đào tạo
lại gây tốn kém ngân sách và thời gian.
Đội ngũ cán bộ cấp cơ sở có vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong việc
thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, quyết định sự thành bại của công
cuộc xây dựng kiến thiết địa phương. Vì vậy, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở là một nhiệm vụ quan trọng quan tâm theo giỏi và ưu tiên kinh phí để
đào tạo, xây dựng hệ thống chính trị thống nhất từ trung ương đến cơ sở. Vấn đề
24
xem xét, đánh giá năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở là vấn
đề vừa mang tính cấp bách vừa lâu dài nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
vững mạnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
2.1.3. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA ĐỀ ÁN
Đề án được xây dựng dựa trên những cơ sở pháp lý sau:
- Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 25/01/2002 của Bộ Chính trị về công tác
luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý.
- Quyết định 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/11/2004 của Bộ trưởng Bộ Nội
vụ Quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn;
- Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị (khoá IX)
về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước .
- Đề án số 02-ĐA/TU ngày 17/4/2009 của Tỉnh uỷ BÌNH PHƯỚC về đổi
mới và nâng cao hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn giai đoạn 2009-2015.
- Ngày 23/2009/QĐ-UBND ngày 22/7/2009 của Ủy ban Nhân dân tỉnh
BÌNH PHƯỚC về việc ban hành quy định tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo quản lý và
tiêu chuẩn cán bộ, công chức, viên chức nhà nước của tỉnh.
- Nghị định số 92/2009/NĐCP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức
danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã,
phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã;
- Quyết định số 837/QĐ-UBND ngày 16/12/2011 của Uỷ ban nhân dân
tỉnh BÌNH PHƯỚC về kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tỉnh
BÌNH PHƯỚC giai đoạn 2011-2015.
- Quyết định số 66/QĐ-UBND ngày 13/3/2012 của Uỷ ban nhân dân
huyện MINH TÂM về kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tỉnh
BÌNH PHƯỚC giai đoạn 2011-2015.
- Quyết định số 1141-QĐ/HU ngày 29/01/2013 của Huyện ủy MINH
TÂM về việc ban hành Đề án đào tạo, bồi dưỡng, quy định, sử dụng cán bộ,
công chức đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển toàn diện của huyện MINH
TÂM giai đoạn 2013-2020 và tầm nhìn những năm tiếp theo.
25