HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
HC VIN CHNH TR KHU VC I
NGUYN TH HNG
bồi dỡng năng lực t duy biện
chứng
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản
lý
huyện an dơng - hải phòng hiện
nay
LUN VN THC S
Chuyờn ngnh: Trit hc
1
Hà Nội, tháng 6 năm 2015
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năng lực tư duy biện chứng biểu hiện sức mạnh trí tuệ của con người,
là công cụ sắc bén để nhận thức và cải tạo hiện thực. Trong thời đại ngày nay,
dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và sự
phát triển của kinh tế tri thức, vai trò của năng lực tư duy biện chứng lại càng
được tăng lên.
Thực tiễn Việt Nam trong những năm vừa qua đã khảng định rằng cán
bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng, là khâu then
chốt trong công tác xây dựng Đảng. Hiện nay, công cuộc đổi mới ở nước ta
chỉ có thể thắng lợi khi cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực cần thiết, có trình
độ tư duy cao cấp đáp ứng được nhiệm vụ mới - đó là năng lực tư duy biện
chứng Mác-xít.
Nhận thức rõ điều đó, Nghị quyết các Đại hội Đảng lần thứ VI, VII,
VIII, IX, X, XI cũng như các Nghị quyết 3, 4 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng, các Nghị quyết 01, 09 của Bộ Chính trị (Khóa VII) và gần đây nhất là
các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương khóa XI đặc biệt nhấn mạnh
tầm quan trọng của tư duy, trí tuệ đối với cán bộ lãnh đạo quản lý.
Huyện An Dương - thành phố Hải Phòng, với một đội ngũ cán bộ được
đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau và trưởng thành từ thực tiễn chỉ đạo kinh
2
tế, chính trị, văn hóa - xã hội… trong thời gian qua đã góp phần không nhỏ
đưa huyện có những bước phát triển vượt bậc.
Tuy nhiên, bên cạnh những thế mạnh về phẩm chất đạo đức, kinh
nghiệm thực tiễn và năng lực tư duy, những yếu kém về tư duy lý luận, sự lạc
hậu của tư duy so với sự phát triển của thực tiễn, mà đặc biệt là sự yếu kém về
tư duy biện chứng, được biểu hiện trên các căn bệnh trong phương pháp tư
duy như lối tư duy siêu hình, kinh nghiệm chủ nghĩa, giáo điều, bảo thủ, chủ
quan duy ý chí… đã dẫn tới một số sai lầm trong công tác chỉ đạo của huyện.
Những yếu kém về tư duy biện chứng, về phương pháp tư duy của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo quản lý đang là một vấn đề hết sức cấp bách cần phải giải
quyết khi huyện An Dương đang hòa mình trong xu thế công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của đất nước. Bởi lẽ, sự thành công hay không thành công của huyện
phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu một cách sâu sắc tư duy biện
chứng, cũng như đánh giá đúng những mặt mạnh, mặt yếu về phương diện tư
duy ở cán bộ lãnh đạo quản lý, làm rõ tầm quan trọng của tư duy biện chứng
đối với cán bộ lãnh đạo quản lý trong quá trình đổi mới hiện nay. Trên cơ sở
đó, đề xuất những giải pháp đúng đắn nhằm bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao
trình độ tư duy biện chứng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý của huyện An
Dương. Đây cũng là yêu cầu cấp bách mà cả lý luận và thực tiễn hiện nay
đang đặt ra. Vì những lý do đó, tác giả chọn vấn đề: “Bồi dưỡng năng lực tư
duy biện chứng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý huyện An Dương - Hải
Phòng” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề tư duy biện chứng, năng lực tư duy biện chứng luôn là đối
tượng thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, được các tác giả trong và
ngoài nước đề cập đến dưới nhiều góc độ khác nhau.
3
Chúng ta từng biết đến các tác giả nổi tiếng của Liên xô trước đây với
những công trình nghiên cứu tầm cỡ, có giá trị khoa học. Chẳng hạn,
I.X.Narxki, Gorxki: “Phép biện chứng của nhận thức khoa học”, Mátxcơva,
1978; M.M.Rôdentan: “Nguyên lý lôgíc biện chứng”, Trường Đảng cao cấp
Nguyễn Ái Quốc, 1979; I.D.Anđriep: “Lôgíc biện chứng”, Mátxcơva, 1985;
A.P.Séptulin: “Phương pháp nhận thức biện chứng”, Nxb Sách giáo khoa Mác
- Lênin, Hà Nội, 1978; E.V.Ilencôv: “Lôgíc học biện chứng”, Nxb.Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội, 2003.v.v Các công trình nghiên cứu này đề cập đến
những vấn đề cốt lõi của triết học duy vật biện chứng, như vấn đề phép
biện chứng, vấn đề nhận thức luận, vấn đề lôgíc học.v.v Đây là cơ sở lý
luận và phương pháp luận cơ bản để nghiên cứu vấn đề năng lực tư duy
biện chứng.
Vấn đề tư duy được đề cập đến trong những công trình nghiên cứu
của các tác giả nước ta: “Tư duy khoa học trong giai đoạn cách mạng khoa
học - công nghệ” của các tác giả Lê Hữu Nghĩa, Phạm Duy Hải, Nxb.Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1998. Các tác giả đã nghiên cứu vấn đề tư duy, bản
chất và đặc điểm chủ yếu của tư duy khoa học, cũng như một số nét đặc
trưng của tư duy khoa học trong giai đoạn mới của cách mạng khoa học -
công nghệ; “Vấn đề tư duy trong triết học của Hêghen” của các tác giả
Nguyễn Trọng Chuẩn, Đỗ Minh Hợp, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1999. Công trình này đã phân tích một cách cụ thể, có phê phán quan điểm
của Hê ghen về tư duy, qua đó chỉ ra những giá trị khoa học, những “hạt
nhân hợp lý” trong quan điểm của ông về vấn đề này; “Thông tin và vấn đề
tiếp nhận, xử lý thông tin của tư duy người Việt Nam”, Luận án tiến sĩ
Triết học của Lê Thị Duy Hoa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội, 2002. Tác giả luận án đã phân tích quá trình tiếp nhận và xử lý
thông tin diễn ra trong tư duy, khái quát những đặc điểm cơ bản của quá
trình tiếp nhận và xử lý thông tin trong tư duy người Việt nam, từ đó đề
4
xuất các giải pháp nâng cao năng lực tiếp nhận và xử lý thông tin trong
điều kiện cuộc cách mạng thông tin hiện nay.v.v
Những năm đầu của thời kỳ đổi mới đất nước, chúng ta tìm thấy nhiều
bài viết, nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới vấn đề tư duy, năng lực tư
duy của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các nhà khoa học, tiêu biểu như
cuốn “Đổi mới tư duy và phong cách tư duy” của Nguyễn Văn Linh, Nxb.Sự
thật, Hà Nội, 1987; “Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy”
của Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Cộng sản, số 10/1987; “Quán triệt tư duy
biện chứng duy vật và nội dung quan trọng của đổi mới tư duy” của Dương
Phú Hiệp, Tạp chí Triết học, số 2/1987; “Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư
duy lý luận” của Học viện Nguyễn Ái Quốc, 1988, v.v Các công trình này
đã bàn tới vấn đề bản chất tư duy, năng lực tư duy, cũng như tính tất yếu và
định hướng chủ yếu trong đổi mới tư duy ở nước ta.
Khắc phục các căn bệnh thường thấy ở đội ngũ cán bộ nước ta như
bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết trong quá
trình đổi mới tư duy, nâng cao năng lực, trình độ tư duy. Hướng nghiên cứu
này chúng ta tìm thấy ở các luận án tiến sĩ Triết học, các bài viết trên các tạp
chí, tiêu biểu như luận án “Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở đội ngũ cán bộ
nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội” của Trần Văn Phòng, Học
Viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994; Lê Hữu Nghĩa: “Một số
căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta”, Tạp chí Triết học, số
2/1988, phân tích nguồn gốc và biểu hiện của các căn bệnh này ở nước ta, từ
đó đưa ra các giải pháp khắc phục.
Vấn đề rèn luyện, phát triển tư duy cho học sinh, sinh viên được một số
tác giả đề cập đến trong các bài báo, các luận văn thạc sĩ. Ví dụ, Vũ Văn
Viên: “Rèn luyện, nâng cao năng lực tư duy khoa học cho sinh viên, học
sinh”, Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, số 2/1992; Trần Viết
Quang: “Những yêu cầu về rèn luyện, nâng cao năng lực tư duy cho sinh viên
5
hiện nay”, Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, số 3/1996 và “Phát
triển năng lực tư duy lý luận cho sinh viên thông qua giảng dạy triết học Mác
– Lê nin ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1996; Nguyễn Thanh Hưng: “Góp phần rèn
luyện và phát triển tư duy biện chứng cho học sinh thông qua dạy học hình
học ở trường trung học phổ thông”, Luận văn thạc sĩ Khoa học Giáo dục,
Trường Đại học Vinh, 2003; Hoàng Thúc Lân: “Giảng dạy triết học Mác – Lê
nin với việc nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên các trường
đại học”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội. 2004,v.v
Trong các công trình nên trên, một số tác giả phân tích sự cần thiết,
yêu cầu rèn luyện tư duy cho học sinh và sinh viên, một số khác lại tập trung
làm rõ vai trò của triết học và các khoa học cụ thể trong việc rèn luyện tư duy
cho người học.
Vấn đề nâng cao năng lực, trình độ tư duy cho cán bộ lãnh đạo, quản
lý, cán bộ giảng dạy lý luận chính trị có nhiều công trình nghiên cứu. Chẳng
hạn, Hồ Bá Thâm: “Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp xã hiện nay”, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994; Nguyễn Đình Trãi: “Nâng cao năng lực tư
duy lý luận cho cán bộ giảng viên lý luận Mác – Lênin ở các trường Chính trị
tỉnh”, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội, 2001; Nguyễn Thị Bích Thủy: “Vai trò của tư duy biện chứng đối với
cán bộ lãnh đạo kinh tế trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay”, Luận án
tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001;
Trần Thành: “Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ lãnh đạo, chỉ
đạo thực tiễn”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Các công trình nghiên
cứu đã phân tích vai trò của tư duy đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ
giảng dạy, đánh giá thực trạng và lý giải nguyên nhân của tình trạng yếu kém
6
về tư duy trong đội ngũ cán bộ, từ đó đề xuát những giải pháp nâng cao năng
lực, trình độ tư duy cho đội ngũ này.
Nhìn chung các công trình nêu trên chủ yếu nghiên cứu những vấn đề
về tư duy, năng lực tư duy, đổi mới tư duy. Cho đến nay chưa có công trình
khoa học nào nghiên cứu một cách riêng biệt, có hệ thống, chuyên sâu và cụ
thể về việc bồi dưỡng năng lực tư duy biện chứng cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo quản lý ở huyện An Dương - Hải Phòng hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở làm sáng tỏ vai trò của tư duy biện chứng đối với đội ngũ
cán bộ lãnh đạo quản lý ở huyện An Dương - Hải Phòng, cũng như thực trạng
năng lực tư duy biện chứng của đội ngũ cán bộ quản lý ở huyện, từ đó đề xuất
một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ các phạm trù tư duy biện chứng, năng lực tư duy biện chứng ở
góc độ triết học duy vật biện chứng.
- Phân tích vai trò của tư duy biện chứng mác-xít đối với đội ngũ cán
bộ lãnh đạo quản lý.
- Phân tích thực trạng năng lực tư duy biện chứng của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo quản lý ở huyện An Dương - Hải Phòng.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
năng lực tư duy biện chứng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn không xem xét cán bộ lãnh đạo quản lý nói chung mà chỉ
xem xét cán bộ lãnh đạo quản lý trong huyện An Dương - Hải Phòng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
7
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là những nguyên lý của
phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc biện chứng.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn đã sử dụng các phương
pháp phân tích và tổng hợp, qui nạp và diễn dịch, lịch sử và lôgíc, phương
pháp so sánh, phương pháp thống kê…
5. Những đóng góp mới của luận văn
- Góp phần làm rõ vai trò của tư duy biện chứng mác-xít đối với cán bộ
lãnh đạo quản lý nói chung và ở huyện An Dương - Hải Phòng nói riêng.
- Khái quát một số đặc điểm nói lên thực trạng tư duy ở cán bộ lãnh đạo
quản lý ở huyện An Dương - Hải Phòng, từ đó đề xuất một số phương hướng
và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho đội ngũ
cán bộ này.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được kết cấu thành 02 chương, 04 tiết.
Chương 1: Năng lực tư duy biện chứng và sự cần thiết bồi dưỡng năng
lực tư duy biện chứng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý huyện An Dương -
Hải Phòng hiện nay.
Chương 2: Thực trạng, phương hướng và một số giải pháp bồi dưỡng
năng lực tư duy biện chứng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý huyện An
Dương - Hải Phòng hiện nay.
8
9
NỘI DUNG
Chương 1
NĂNG LỰC TƯ DUY BIỆN CHỨNG VÀ SỰ CẦN THIẾT BỒI DƯỠNG
NĂNG LỰC TƯ DUY BIỆN CHỨNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ HUYỆN AN DƯƠNG - HẢI PHÒNG HIỆN NAY
1.1. Tư duy biện chứng và năng lực tư duy biện chứng
1.1.1. Tư duy biện chứng
Tư duy nói riêng, nhận thức nói chung là một trong những hoạt động
sống cơ bản nhất của loài người. Vấn đề tư duy chiếm vị trí quan trọng trong
lịch sử tư tưởng triết học, cũng như trong triết học mác-xít.
Theo Từ điển tiếng Việt, tư duy là: “Giai đoạn cao của quá trình nhận
thức, đi sâu vào bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những
hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán và suy lý” [66, tr. 1070].
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư duy là giai đoạn
cao, trình độ cao của quá trình nhận thức thế giới của con người, là sự phản
ánh gián tiếp, khái quát, tích cực và sáng tạo thế giới bằng các khái niệm,
phán đoán, suy luận , và nhờ đó có thể phản ánh được những mặt, những
mối liên hệ, bản chất, có tính quy luật của khách thể nhận thức.
Tư duy con người bắt nguồn từ thuộc tính phản ánh của vật chất và là
kết quả của quá trình phát triển rất lâu dài của giới tự nhiên. Tư duy là thuộc
tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc
tính của một dạng vật chất sống có tính tổ chức cao, hệ thống cực kỳ phức
tạp, đó là bộ não con người. Bộ não con người hiện đại là sản phẩm của quá
trình tiến hóa lâu dài về mặt sinh vật - xã hội sau khi vượn biến thành người.
Quá trình tư duy của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh
của bộ não con người. Tuy nhiên, nếu tách rời thế giới bên ngoài, tách rời môi
10
trường xã hội thì con người không thể tư duy được. Tư duy của con người
mang bản chất xã hội, có quan hệ chặt chẽ với lao động và ngôn ngữ. Bản
chất xã hội của tư duy thể hiện ở chỗ, tư duy nảy sinh từ tình huống có vấn đề
được đặt ra do yêu cầu của lao động, của cuộc sống xã hội và phản ánh những
quan hệ xã hội. Lao động, thực tiễn xã hội là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp
nhất quyết định sự hình thành và phát triển của tư duy con người. Sự xuất
hiện, biến đổi, phát triển của tư duy diễn ra trong quá trình thực tiễn lịch sử -
xã hội. Nhờ tác động vào giới tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên, cải tạo xã hội,
con người đồng thời cải tạo chính bản thân mình. “Trí tuệ con người đã phát
triển song song với việc người ta học cải biến tự nhiên” [52, tr. 720].
Theo C.Mác, ngôn ngữ là cái “vỏ vật chất” của tư duy, là hiện thực trực
tiếp của tư tưởng, vì nó không chỉ biểu đạt tư duy, tư tưởng ra bên ngoài mà
còn là công cụ của chính quá trình tư duy diễn ra trong bộ óc con người. Các
thao tác tư duy, các hình thức tư duy chỉ có thể được thực hiện, được vận
dụng khi chúng được biểu đạt thông qua cái “vỏ vật chất” là những từ ngữ
hay cấu trúc ngữ pháp cụ thể, tương ứng.
Tư duy của con người mang bản chất sáng tạo. Đó chính là năng lực
đem lại những tri thức mới về các mối liên hệ chung, bản chất, những tính
quy luật của hiện thực vốn rất đa dạng, phong phú và biến đổi không ngừng.
Nhờ “tính sáng tạo” mà tư duy “bóc, tách” được sự vật, nắm bắt được các
thuộc tính, các mối liên hệ bên trong của đối tượng. Với sức mạnh sáng tạo
của tư duy, con người có thể dự báo tương lai, đưa những giả thuyết, những lý
thuyết khoa học
Thế giới vô cùng, vô tận và biến đổi không ngừng, vả lại thực tiễn luôn
luôn mới - điều đó đòi hỏi tư duy phải luôn năng động sáng tạo, phát hiện ra
những cái mới, đưa ra những “lời giải” đáp ứng nhu cầu của nhận thức và
thực tiễn. Do vậy, tư duy là một quá trình vô tận, vận động và phát triển
không ngừng.
11
Con đường tiến tới chân lý khách quan của nhận thức loài người rất lâu
dài, khó khăn và phức tạp. Trong hàng triệu năm của thời kỳ nguyên thủy, tư
duy loài người chỉ dừng lại ở trình độ thấp nhất, sơ khai nhất của nó, biểu
hiện qua các hình thức: tư duy hỗn hợp - nguyên thủy, tư duy hoang đường
-huyền thoại, tư duy đạo đức và thẩm mỹ nguyên thủy Đến thời cổ đại, tư
duy của loài người đạt tới một trình độ mới, cao hơn về chất so với tư duy của
người nguyên thủy; hình thành một phương thức mới của tư duy để nhận thức
thế giới - tư duy triết học
Cũng từ thời cổ đại, khi con người bắt đầu tìm hiểu các sự vật, hiện
tượng của thế giới xung quanh mình và suy xét về chúng đã xuất hiện hai
phương pháp tư duy triết học đối lập nhau: phương pháp biện chứng và
phương pháp siêu hình.
Phương pháp siêu hình, như Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Chỉ nhìn thấy những
sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy,
chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật mà không nhìn thấy sự phát sinh và
sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự
vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà
không thấy rừng” [52, tr. 37].
Ngược lại, phương pháp biện chứng không chỉ thấy những sự vật cá
biệt mà còn thấy cả mối liên hệ qua lại giữa chúng, không chỉ thấy sự tồn tại
của sự vật mà còn thấy cả sự sinh thành và sự tiêu vong của sự vật, không chỉ
thấy trạng thái tĩnh của sự vật mà còn thấy trạng thái động của sự vật, không
chỉ “thấy cây” mà còn “thấy cả rừng”. Nói cách khác, phương pháp siêu hình
xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại, ngưng đọng với
một tư duy cứng nhắc; còn phương pháp biện chứng xem xét sự vật hiện
tượng trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau và trong trạng thái vận động biến
đổi không ngừng với một tư duy mềm dẻo, linh hoạt.
12
Lịch sử phát triển của phương pháp biện chứng luôn gắn liền với lịch
sử phát triển của khoa học cũng như của thực tiễn xã hội và đã trải qua nhiều
giai đoạn khác nhau.
Những yếu tố biện chứng tự phát đầu tiên gắn với những kiến giải theo
quan điểm về thế giới người xưa. Tư tưởng triết học Phật giáo nguyên thủy
chứa đựng những yếu tố duy vật và biện chứng chất phác, thể hiện rõ nét nhất
ở quan niệm về tính tự thân sinh thành, biến đổi của vạn vật, tuân theo tính tất
yếu và phổ biến của luật nhân - quả. Ở Trung Quốc cổ đại, những quan niệm
biện chứng tự phát thể hiện rõ nét trong thuyết Âm - Dương, Ngũ hành, cũng
như trong Đạo Lão, Thuyết Âm - Dương diễn tả sự thống nhất, chế ước lẫn
nhau của các mặt đối lập theo các nguyên lý căn bản. Trong thuyết Ngũ hành,
các yếu tố cơ bản: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ nằm trong các mối quan hệ
tương sinh, tương khắc , vừa nương tựa, hỗ trợ nhau, vừa bài trừ, hủy hoại,
tiêu diệt nhau. Trong cuốn “Đạo đức kinh”, Lão tử cho rằng thế giới là do
“Khí” tạo thành và mọi vật trong thế giới không phải đứng yên mà vận động,
phát triển không ngừng theo sự chi phối của quy luật khách quan là Đạo. Sở
dĩ sự vật, hiện tượng vận động và phát triển được vì bản thân Đạo là sự thống
nhất của những mặt đối lập
Quan điểm biện chứng thể hiện trong học thuyết của nhiều nhà triết học
Hi Lạp cổ đại như Hêraclít, Xôcrát, Arixtốt Các nhà “biện chứng bẩm sinh”
thời kỳ này đã nhìn thấy các sự vật, hiện tượng của vũ trụ sinh thành, biến hóa
không ngừng trong những sợi dây liên hệ vô cùng vô tận. Ph.Ăngghen cho
rằng trong quan điểm của các nhà triết học Hi Lạp cổ đại, “chúng ta thấy một
bức tranh về sự chằng chịt vô tận của những mối liên hệ và những sự tác động
qua lại, sự vận động và phát triển, trong đó không có cái gì là đứng nguyên,
không thay đổi, mà tất cả đều vận động, biến đổi, phát sinh và mất đi” [52, tr.
35]. Mặc dù quan điểm của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại còn mộc mạc,
13
chất phác nhưng có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tư duy biện chứng của
nhân loại.
Do trình độ và nét đặc trưng của khoa học tự nhiên thời kỳ phục hưng
và cận đại mà triết học thời kỳ này mang tính chất siêu hình, máy móc. Khi
khoa học tự nhiên chuyển từ giai đoạn sưu tập sang giai đoạn chỉnh lý các tài
liệu, đến giai đoạn nghiên cứu về các quá trình, về sự phát sinh và phát triển
của các sự vật, thì phương pháp siêu hình không còn đáp ứng được yêu cầu
của nhận thức khoa học nữa.
Nền triết học cổ điển Đức đã phát triển theo tinh thần biện chứng, được
khởi đầu từ triết học của Cantơ và phát triển đến đỉnh cao trong phép biện
chứng duy tâm của Hêghen. Theo nhận xét của Ph.Ăngghen, công lao to lớn
của Hê ghen là “đã quay trở lại phép biện chứng, coi đó là hình thức cao nhất
của tư duy” [52, tr. 34]. Tuy nhiên, triết học Hêghen có những hạn chế nhất
định, bên cạnh tính chất duy tâm, nó còn bộc lộ mâu thuẫn giữa một bên là tư
tưởng biện chứng, cách mạng và một bên là hệ thống quan điểm duy tâm,
khép kín, bảo thủ.
Kế thừa có chọn lọc những thành quả của các nhà triết học tiền bối, mà
trực tiếp là phép biện chứng của Hêghen, dựa trên việc khái quát những thành
quả mới nhất của khoa học đương thời cũng như thực tiễn lịch sử, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã xây dựng phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật
là thành quả tư duy sáng tạo của C.Mác và Ph.Ăngghen và được V.I.Lênin
với thiên tài của mình đã bổ sung và hoàn thiện, làm cho nó trở nên sâu sắc và
phong phú hơn. Đó là “học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị
nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện” [42, tr. 53].
Với tư cách là giai đoạn cao của nhận thức, tư duy có những tính chất
cơ bản sau:
Tư duy phản ánh cái chung. Cái chung ở đây được hiểu là những dấu
hiệu, những thuộc tính chung của sự vật, hiện tượng. Tư duy là trình độ cao
14
của quá trình nhận thức. Chỉ có ở trình độ nhận thức này, con người mới phản
ánh được những thuộc tính chung mang tính phổ biến và cơ bản của khách
quan. Cái chung trong thế giới hiện thực không bao giờ tồn tại một cách cụ
thể, độc lập mà cùng tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau; vì thế nó
không tách rời khỏi cái riêng, cái đặc thù. Nhưng trong tư duy, cái chung lại
đươc khu biệt ra một cách độc lập, được trừu tượng hóa tách ra khỏi mọi cái
riêng cảm tính.
Trừu tượng hóa. Việc tách cái chung ra khỏi mọi cái riêng trong tư duy
là sự trừu tượng hóa. Trừu tượng hóa chính là một đặc trưng cơ bản của tư
duy. Sức mạnh trừu tượng hóa của tư duy là hướng vào việc tìm chân lý, nắm
bắt những mối liên hệ khách quan có tính bản chất, phát hiện những quy luật
chi phối sự vật, hiện tượng, quá trình xảy ra trong quá khứ cũng như đang
diễn ra trong khoảng không bao la của vũ trụ, trong thế giới vi mô hay những
lĩnh vực mà con người không thể hoặc không có điều kiện quan sát trực tiếp.
Từ những thuộc tính đã trừu tượng hóa, tư duy đi tới cái chung, bản chất, quy
luật.
Tư duy phản ánh thế giới khách quan một cách gián tiếp. Tư duy phản
ánh sự vật những tái hiện cảm tính, vì vậy nó mang tính gián tiếp. Chính vì
phản ánh thế giới khách quan một cách gián tiếp mà tư duy có khả năng tách
rời nhất định với sự vật, không bị sự vật, hiện tượng chi phối nên có một sự
độc lập tương đối. Do sự độc lập này mà tư duy có một sức mạnh to lớn trong
sự phản ánh thế giới khách quan.
Tư duy phản ánh thế giới khách quan một cách tích cực, sáng tạo. Bản
chất của con người là một thực thể năng động, sáng tạo, luôn muốn vươn tới
nhận thức và cải tạo thế giới. Xuất phát từ cơ sở hoạt động thực tiễn nên tư
duy của con người cũng phản ánh thế giới một cách sáng tạo và tích cực.
V.I.Lênin cho rằng, sự chuyển hóa từ tư duy đến thực tại là rất quan trọng đối
với tiến trình phát triển của lịch sử. Chính bằng tư duy mà con người có thể
15
xây dựng các giả thuyết khoa học, các lý thuyết trừu tượng, các mô hình lý
tưởng cho hiện thực và dự báo tương lai.
Cũng tùy theo cách tiếp cận khác nhau mà người ta có thể có các cách
phân loại tư duy khác nhau. Chẳng hạn, về phương thức tư duy, có tư duy
biện chứng và tư duy siêu hình; về loại tư duy, có tư duy lôgic và tư duy triết
học, tư duy toán học, tư duy chính trị, tư duy văn hóa, tư duy nghệ thuật; về
cấp độ tư duy, có tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận…
Theo từ điển Bách khoa Xô Viết đã nêu khái niệm khá đầy đủ và khẳng
định: Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức mà con người có được,
của quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Nó tạo ra tri thức về các khách
thể, các thuộc tính và quan hệ của thế giới thực tại mà trình độ nhận thức cảm
tính trực tiếp không thể nắm bắt được.
Lịch sử triết học là lịch sử phát triển của nhận thức, của tư duy qua các
giai đoạn phát triển của xã hội. Tư duy biện chứng được thể hiện trong triết
học Mác - Lênin là sự đúc kết những tư tưởng biện chứng trong lịch sử, sản
phẩm của sự kết tinh tư duy nhân loại, đồng thời được bổ sung, phát triển trên
cơ sở khoa học và thực tiễn mới, do đó là đỉnh cao của tư duy biện chứng.
Tư duy biện chứng được thể hiện trong triết học Mác - Lênin là tư duy
biện chứng duy vật. Hêghen đã phê phán triết học siêu hình và ông là người
đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá
trình, nghĩa là trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Đồng
thời, trong hệ thống lý luận của mình, ông đã trình bày các phạm trù, các quy
luật của phép biện chứng. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hêghen là phép
biện chứng duy tâm, bởi vì ông cho rằng biện chứng của ý niệm sản sinh ra
biện chứng của bản thân sự vật. C.Mác khẳng định rằng, những ý niệm trong
đầu óc của con người chẳng qua chỉ là sự phản ánh các sự vật hiện thực, do
đó, bản thân biện chứng của ý niệm cũng chỉ là sự phản ánh biện chứng của
hiện thực. Trong Lời tựa viết cho lần xuất bản thứ hai của bộ “Tư bản”,
16
C.Mác nhấn mạnh: “Phương pháp biện chứng của tôi không những khác
phương pháp của Hêghen về cơ bản, mà còn đối lập hẳn với phương pháp ấy
nữa. Đối với Hêghen, quá trình tư duy - mà ông ta thậm chí còn biến thành
một chủ thể độc lập dưới cái tên gọi ý niệm - chính là vị thần sáng tạo ra hiện
thực, và hiện thực này chẳng qua chỉ là biểu hiện bên ngoài của tư duy mà
thôi. Đối với tôi thì trái lại, ý niệm chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển
vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó” [42, tr. 35].
V.I.Lênin cũng khẳng định: Biện chứng của sự vật sản sinh ra biện chứng của
ý niệm, chứ không phải ngược lại.
Tư duy biện chứng đòi hỏi phải tuân thủ các nguyên tắc phương pháp
luận biện chứng duy vật.
Trước hết, tư duy biện chứng mác-xít đòi hỏi tuân thủ các nguyên tắc
phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật, như nguyên tắc toàn
diện, nguyên tắc phát triển, nguyên tắc lịch sử - cụ thể. Nó yêu cầu xem xét
các sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng,
trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng. Nếu
những người theo quan điểm siêu hình tìm nguồn gốc sự vận động, phát triển
của sự vật ở bên ngoài chúng, thì những người theo quan điểm biện chứng
mác-xít thừa nhận tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn, coi mâu thuẫn
là nguồn gốc của sự vận động, phát triển của bản thân sự vật. Chủ thể của tư
duy biện chứng phải là người nắm vững và vận dụng được mối quan hệ biện
chứng giữa sự thay đổi về chất và kiên quyết thực hiện bước nhảy khi điều
kiện về lượng đã được chuẩn bị đầy đủ; nhìn nhận xu hướng phát triển của sự
vật một cách mềm dẻo, sinh động, hiểu phủ định biện chứng là quá trình
khách quan, tự thân, kế thừa cái tích cực đã đạt được từ cái cũ, là một khâu
trong quá trình dẫn tới sự ra đời của cái mới cao hơn, tiến bộ hơn…
Theo V.I.Lênin, nếu coi sự phát triển chỉ như là sự giảm đi và tăng lên
đơn thuần về lượng, như là lặp lại thì “sự tự vận động, động lực của nó, nguồn
17
gốc của nó… là nằm trong bóng tối, là “chết cứng, là nghèo nàn, là khô
khan”. Chỉ có quan niệm sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt
đối lập mới cho ta chìa khóa của “sự vận động” của tất cả thảy mọi cái đang
tồn tại; “chìa khóa của những “bước nhảy vọt”, của sự gián đoạn của tính tiệm
tiến”, của sự “chuyển hóa thành mặt đối lập” của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy
sinh cái mới” [44, tr. 379].
Tư duy biện chứng mác-xít đòi hỏi phải đi sâu vào bản chất, lấy bản
chất soi sáng cho hiện tượng, mặt khác, phải tìm ra bản chất của sự vật ở
trong chính sự vật thông qua nghiên cứu nhiều hiện tượng khác nhau và từ
nhiều góc độ khác nhau. V.I.Lênin viết: “Tư tưởng của người ta đi sâu một
cách vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một, nếu có thể nói
như vậy, đến bản chất cấp hai… cứ như thế mãi” [44, tr. 268].
Tư duy biện chứng mác-xít đòi hỏi phải xem xét các sự vật trong tính
thống nhất giữa lịch sử và lôgíc; nắm vững và vận dụng một cách chủ động,
sáng tạo phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc. Phương pháp lịch sử và
phương pháp lôgíc là hai phương pháp nghiên cứu khác nhau, nhưng lại thống
nhất biện chứng với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau. Tùy theo đối tượng
nghiên cứu và yêu cầu cụ thể khác nhau mà người ta có thể sử dụng phương
pháp lịch sử hay phương pháp lôgíc là chủ yếu, song dù trong trường hợp nào
cũng đều phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lịch sử và lôgíc.
Tư duy biện chứng mác-xít đòi hỏi phải tuân thủ nguyên tắc đi từ trừu
tượng đến cụ thể. C.Mác coi đi từ trừu tượng đến cụ thể là phương pháp nhận
thức khoa học quan trọng. C.Mác chỉ rõ: “Phương pháp đi từ trừu tượng đến
cụ thể chỉ là cái phương pháp nhờ đó mà tư duy quán triệt được cái cụ thể và
tái tạo ra nó với tư cách là một cái cụ thể trong tư duy” [51, tr. 877, 878].
Các nguyên tắc phương pháp luận biện chứng duy vật gắn liền với
nhau, không tách rời nhau. Chủ thể của tư duy biện chứng phải là người nắm
vững và biết vận dụng tổng hợp các nguyên tắc, không tuyệt đối hóa hoặc
18
xem nhẹ bất cứ nguyên tắc nào; đồng thời tùy từng trường hợp cụ thể mà chú
trọng, đặt nguyên tắc nào đó lên hàng đầu.
1.1.2. Năng lực tư duy biện chứng
Tư duy gắn liền với từng chủ thể nhất định, vì thế khi nói về tư duy
người ta thường quan tâm đến năng lực và trình độ tư duy của các chủ thể.
Khái niệm năng lực và năng lực tư duy được đề cập tới trong một số
công trình nghiên cứu ở nước ta. Theo Từ điển tiếng Việt do GS. Hoàng Phê
chủ biên, năng lực là: “1. Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có
để thực hiện một hoạt động nào đó”; 2. Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho
con người khả năng hoàn thành một loạt hoạt động nào đó với chất lượng
cao” [66, tr. 660, 661].
Tác giả Cung Kim Tiến cho rằng, theo nghĩa rộng thì năng lực “là
những đặc tính tâm lý của cá thể điều tiết hành vi của cá thể và là điều kiện
cho hoạt động sống của cá thể”. “Hiểu theo nghĩa đặc biệt thì năng lực là toàn
bộ những đặc tính tâm lý của con người khiến cho nó thích hợp với một hình
thức hoạt động nghề nghiệp nhất định được hình thành trong lịch sử” [78, tr.
753].
Những cách hiểu trên đây đều có sự thống nhất ở chỗ coi năng lực là
toàn bộ những khả năng vốn có, những phẩm chất, đặc tính tâm - sinh lý của
con người đảm bảo cho việc thực hiện một hoạt động nhất định.
Năng lực của con người có những tiền đề tự nhiên, những mầm mống
sẵn có nhờ di truyền, song những mầm mống đó được phát triển ra sao lại tùy
thuộc vào môi trường xã hội, điều kiện sống của con người. Năng lực được
biểu hiện trên nhiều dạng khác nhau như: năng lực nghiên cứu khoa học, năng
lực hoạt động nghệ thuật, năng lực cảm giác, năng lực tư duy…
Ngay từ những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước, vấn đề năng
lực được các nhà nghiên cứu đề cập đến từ nhiều khía cạnh khác nhau.
GS.Nguyễn Ngọc Long coi “năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất trí
19
tuệ đáp ứng yêu cầu nhận thức thế giới và bản thân con người, bảo đảm cho
hành động sáng tạo của mình” [49, tr. 48]. Theo tác giả, năng lực tư duy chính
là khả năng, sức mạnh của con người trong nhận thức và thực tiễn, do đó, việc
rèn luyện, nâng cao năng lực tư duy, trước hết là năng lực tư duy lý luận có
tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình đổi mới tư duy.
Trong luận án tiến sĩ Triết học của mình, tác giả Hồ Bá Thâm cho
rằng: “Năng lực tư duy là tổng hợp những khả năng ghi nhớ, tái hiện, liên
tưởng, trừu tượng hóa, khái quát hóa và xử lý tri thức trong quá trình phản
ánh, tái tạo, phát triển và vận dụng chúng vào những tình huống thực tiễn nhất
định” [75, tr. 18]. Ở đây, tác giả chỉ ra những biểu hiện cụ thể của năng lực tư
duy trong quá trình phản ánh hiện thực, như ghi nhớ, tái hiện, liên tưởng…
cũng như khả năng vận dụng tri thức vào việc giải quyết những vấn đề của
thực tiễn.
Kế thừa những ý kiến trên, chúng tôi cho rằng năng lực tư duy của chủ
thể vừa phụ thuộc vào yếu tố di truyền, vừa là sản phẩm của lịch sử - xã hội;
phụ thuộc vào môi trường xã hội, gắn liền với trình độ phát triển của xã hội,
với hệ thống giáo dục nhất định. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa mặt tự
nhiên và mặt xã hội tạo nên sức mạnh trí tuệ ở con người.
Năng lực tư duy là khả năng nhận thức và vận dụng thành thạo các
phương pháp tư duy. Theo lý luận nhận thức mác-xít, nhận thức là một quá
trình biện chứng, trong đó con người tiến hành hàng loạt các thao tác tư duy
như phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa… theo một lôgic nhất
định. Những thao tác này có nội dung khác nhau nhưng quan hệ hữu cơ với
nhau, thống nhất biện chứng với nhau. Các thao tác tư duy được tiến hành ra
sao, theo trật tự nào lại do đối tượng, mục đích nghiên cứu quy định. Cách
thức tư duy từng bước được ghi nhận như những dấu ấn trong bộ nhớ con
người và dần dần hình thành như những phương pháp tư duy. Và những
20
phương pháp tư duy này được truyền thụ, phát triển từ thế hệ này sang thế hệ
khác trong quá trình lịch sử.
Việc áp dụng một cách có ý thức những phương pháp đã được luận
chứng một cách khoa học là điều kiện quan trọng để tìm kiếm tri thức mới.
Nhà triết học người Anh Ph.Bêcơn đã coi phương pháp như “ngọn đuốc
soi đường cho người đi trong đêm tối”. Nhà triết học người Pháp R.Đêcáctơ
cũng rất chú trọng vai trò của phương pháp và chính ông là người đã nêu lên
các nguyên tắc phương pháp luận nhận thức khoa học. Viện sĩ Lan Đao nhận
xét rằng, “phương pháp quan trọng hơn phát minh bởi lẽ, với những phương
pháp đúng đắn, sáng tạo, con người có thể phát minh ra nhiều hơn, khám phá
ra nhiều điều mới mẻ kỳ diệu hơn so với những phát minh hiện có, nâng cao
trình độ hiểu biết và tăng cường sức mạnh trí tuệ của con người” [1, tr. 101].
Các nhà kinh điển Mác - Lênin nhấn mạnh rằng vấn đề quan trọng
không chỉ là chân lý mà là con đường đi tới chân lý. Thực tế cho thấy, khi đã
xác định được mục tiêu thì phương pháp trở thành nhân tố góp phần quyết
định thành công hay thất bại trong việc thực hiện mục tiêu. Nhưng phương
pháp tư duy dù khoa học đến đâu chăng nữa cũng không thể tự quyết định
được kết quả của nhận thức. Phương pháp ấy phải được vận dụng thành thạo
thì mới trở thành sức mạnh của tư duy. Vì thế, điều quan trọng không chỉ là ở
chỗ nắm được phương pháp khoa học, mà còn đòi hỏi con người phải biết vận
dụng phương pháp ấy một cách thành thạo, có hiệu quả. Thực tế cho thấy
rằng giữa những người có hiểu biết về phương pháp tương đối ngang nhau
vẫn có được những kết quả nghiên cứu không giống nhau do khả năng vận
dụng phương pháp của từng người là khác nhau.
Năng lực tư duy thể hiện ở khả năng lựa chọn, sắp xếp các phương
pháp tư duy theo một trật tự nhất định nhằm đạt tới kết quả tốt nhất. Đó chính
là việc xác định mục đích, các bước tiến hành, các khâu chủ yếu trong quá
trình tư duy để từ đó xác định rõ cần vận dụng những phương pháp nào,
21
phương pháp nào là chủ yếu cũng như cách thức phối hợp những phương
pháp đó ra sao. Càng có năng lực tư duy phát triển, chủ thể càng có thể hình
dung được rõ ràng kết quả công việc của mình với những cách thức, biện
pháp hoạt động cần thiết.
Năng lực tư duy biểu hiện ở sự tích lũy và vận dụng hiệu quả vốn tri
thức. Cơ sở để xây dựng phương pháp là tri thức về những quy luật của thực
tại khách quan. Từ hệ thống những tri thức về những quy luật của thế giới
khách quan, con người rút ra những nguyên tắc để điều chỉnh hoạt động nhận
thức và thực tiễn nhằm đạt tới mục đích nhất. Đồng thời, quá trình nhận thức
khoa học là quá trình con người tiến hành những thao tác tư duy trên cơ sở
những tri thức sẵn có để tiếp tục hình thành những khái niệm, phạm trù,
những lý thuyết mới làm cơ sở cho việc xây dựng phương pháp. Vốn tri thức
được xem như một nguồn vào để chủ thể thông qua hoạt động tư duy rút ra tri
thức mới. Chính vì vậy, vốn tri thức càng phong phú, hiện đại thì tri thức mới
được hình thành càng phản ánh sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về đối tượng và sự
vận dụng nó vào cuộc sống càng hiệu quả hơn.
Tư duy là một quá trình tiếp nhận và xử lý thông tin một cách đặc biệt
và khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin ở từng chủ thể là khác nhau. Khả
năng tiếp nhận thông tin là tổng hợp của cả hai khả năng: “tiếp” và “nhận”
thông tin. Năng lực xử lý thông tin chính là khả năng tách, chọn, tổng hợp,
khái quát hóa, trừu tượng hóa… các thông tin, hình thành nên tri thức mới về
sự vật. Trên thực tế, có những người tiếp nhận thông tin tốt, nhưng năng lực
xử lý thông tin hạn chế nên lượng thông tin đó chỉ được lưu giữ lại trong trí
nhớ mà không được xử lý để làm tăng thêm sự hiểu biết, làm giàu thêm tri
thức cho họ. Ngược lại, có những người tuy tiếp nhận thông tin kém hơn,
nhưng năng lực xử lý thông tin tốt hơn thì họ cũng có thể làm cho sự biết của
mình tăng lên, vốn tri thức của mình giàu hơn.
22
Như vậy, năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất tâm, sinh lý, trí
tuệ đáp ứng yêu cầu nhận thức và cải tạo thế giới, đảm bảo cho hoạt động của
con người phù hợp với quy luật, đạt hiệu quả. Nó biểu hiện ở khả năng nắm
bắt và vận dụng một cách chủ động, nhuần nhuyễn, sáng tạo những tri thức,
phương pháp, khả năng tiếp nhận và xử lý những thông tin, hình thành tri
thức mới về sự vật, từ đó lựa chọn phương án, ra quyết định đúng đắn cho
hành động.
Năng lực tư duy và trình độ tư duy quan hệ chặt chẽ với nhau, không
tách rời nhau: năng lực tư duy nào cũng thể hiện một trình độ tư duy nhất
định. Trình độ tư duy là mức độ đạt được về nội dung và phương pháp tư duy.
Chẳng hạn, chủ thể tư duy kinh nghiệm chủ yếu dựa trên kinh nghiệm cả về
nội dung lẫn phương pháp. Những chất liệu được chủ thể sử dụng chủ yếu là
những tri thức kinh nghiệm và phương pháp tư duy mang nặng tính kinh
nghiệm, dựa trên nếp nghĩ quen thuộc, những lối mòn được hình thành một
cách tự phát. Ngược lại, người có trình độ tư duy lý luận biết dựa trên tri thức
lý luận và vận dụng một cách chủ động, thành thạo các thao tác, phương pháp
nhận thức khoa học.
Trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chúng ta rất chú trọng
nhiệm vụ rèn luyện, nâng cao năng lực tư duy, đặc biệt là năng lực tư duy
biện chứng. Vì thế, phạm trù năng lực tư duy biện chứng được bàn đến trong
các công trình nghiên cứu ở nước ta. Chẳng hạn, trong luận án tiến sĩ Triết
học, tác giả Nguyễn Thị Bích Thủy đề cập tới khái niệm này ở góc độ hẹp
mang tính đặc thù: “năng lực tư duy biện chứng là khả năng đưa ra những kết
luận đúng đắn, hợp lý, kịp thời của chủ thể. Đó còn là khả năng lãnh đạo, tổ
chức để biến quyết định thành hiện thực” [77, tr. 20]. Năng lực tư duy biện
chứng mà tác giả đề cập ở đây là năng lực tư duy biện chứng của cán bộ lãnh
đạo kinh tế, Nó biểu hiện trong quá trình nhận thức, ra quyết định, tổ chức
23
thực hiện, xử lý các mối quan hệ nảy sinh, kiểm tra, tổng kết rút kinh
nghiệm…
Theo chúng tôi, để xác định phạm trù năng lực tư duy biện chứng, cần
thấy được thực chất của hoạt động tư duy con người. Cũng như mọi hoạt động
khác, hoạt động tư duy bị chi phối bởi phương pháp luận chung nhất định với
chức năng định hướng, gợi mở cho quá trình hoạt động. Khi nói tư duy biện
chứng hay phương pháp tư duy biện chứng, tư duy siêu hình hay phương
pháp tư duy siêu hình là nói đến các loại hình tư duy được định hướng bởi
phương pháp luận biện chứng hay phương pháp luận siêu hình. Tư duy biện
chứng được định hướng bởi phương pháp luận biện chứng duy vật - phương
pháp luận khoa học của nhận thức và thực tiễn.
Phương pháp có vai trò đặc biệt quan trọng, thể hiện sức mạnh trí tuệ
của con người trong sự sáng tạo và theo đuổi các hoạt động sáng tạo. Cái đặc
sắc, cái giá trị căn bản của năng lực sáng tạo là sáng tạo phương pháp. Nhà
triết học biện chứng lỗi lạc Hê ghen từng nói rằng “mọi tri thức của loài người
được kết tinh trong lịch sử tư tưởng triết học, quy đến cùng, đó là vấn đề
phương pháp” [76, tr. 58]. Dĩ nhiên, phương pháp thật sự khoa học và cách
mạng, có khả năng mang lại hiệu quả thiết thực trong mọi lĩnh vực nhận thức
và thực tiễn là phương pháp biện chứng duy vật.
Lý luận là cơ sở của phương pháp, nó chứa đựng những quan điểm,
những nguyên lý phương pháp luận, nhưng bản thân lý luận tự nó chưa phải
là phương pháp. Từ hệ thống tri thức về những quy luật chung nhất của thế
giới, con người phải biết rút ra những nguyên tắc, yêu cầu để điều chỉnh hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm đạt được mục đích nhất định.
Nghiên cứu lý luận mác-xít, đòi hỏi phải vận dụng lý luận đó một cách nhuần
nhuyễn, thực sự biến lý luận đó thành hiểu biết của bản thân, thành phương
pháp, công cụ thiết yếu để giải quyết các vấn đề của nhận thức và thực tiễn.
Chính theo tinh thần ấy mà Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, học tập, nghiên
24
cứu chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là thuộc lòng từng câu từng chữ trong
các sách vở kinh điển mà cái chủ yếu, quan trọng nhất là nắm lấy tinh thần và
phương pháp của nó để ứng xử với con người và công việc.
Hồ Chí Minh rất chú trọng và am hiểu sâu sắc phương pháp biện
chứng. Người không những bàn tới phương pháp biện chứng một cách trực
tiếp trong tác phẩm, trong hình thức lý luận mà còn đề cập tới phương pháp
biện chứng một cách gián tiếp, từ tư tưởng mà dẫn tới phương pháp, từ thực
tiễn đấu tranh cách mạng, từ việc giải quyết các công tác thực tiễn, gây dựng
phong trào và lực lượng, giáo dục cán bộ, vận động quần chúng… mà nổi bật
lên ý nghĩa phương pháp. Phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh kế thừa
những giá trị của phương pháp biện chứng trong triết học Mác - Lênin, tinh
hoa trong tư tưởng biện chứng cổ truyền Việt Nam và phương Đông, đồng
thời phản ánh đúng đắn quy luật của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy,
phương pháp biện chứng của Người thực sự là phương pháp khoa học và cách
mạng.
Nhưng phương pháp biện chứng, dù khoa học đến đâu chăng nữa cũng
không thể tự quyết định được kết quả của hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Phương pháp ấy phải được rèn luyện, vận dụng thành thạo, nhuần nhuyễn,
linh hoạt như một nghệ thuật thì mới trở thành sức mạnh của chủ thể. Thực tế
cho thấy, có những người hiểu biết về phương pháp biện chứng tương đối tốt
nhưng lại lúng túng khi giải quyết những vấn đề cụ thể, thậm chí giải quyết
những vấn đề đó một cách máy móc, phiến diện. Bên cạnh đó, có những
người hiểu biết về phương pháp biện chứng cũng tương đương như vậy nhưng
lại có được những kết quả tốt trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể, do
năng lực vận dụng phương pháp biện chứng tốt hơn.
Hồ Chí Minh là một nhà biện chứng mà nét nổi bật ở Người là sự thực
hành phép biện chứng. Với Hồ Chí Minh, lý luận biện chứng được vận dụng
một cách nhuần nhuyễn, thực sự biến thành tri thức của bản thân, biến thành
25