Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Đề án tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng ở đảng bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.4 KB, 43 trang )

0
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC


NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT
VÀ KỶ LUẬT ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ TỈNH TRÀ VINH HIỆN NAY

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG TRÌNH CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Trà Vinh, tháng 5 năm 2015


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC III


NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT
VÀ KỶ LUẬT ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ TỈNH TRÀ VINH HIỆN NAY

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG TRÌNH CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học:

Trà Vinh, tháng 5 năm 2015


MỤC LỤC
Trang


MỞ ĐẦU
01
1. Sự cần thiết của đề án
01
2. Mục đích, ý nghĩa của đề án
03
3. Đối tượng và phạm vi của đề án
03
PHẦN 1
04
CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ PHÁP LÝ CỦA ĐỀ ÁN
04
1.1. Cơ sở lý luận
04
1.1.1.Khái niệm nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát.
04
1.1.2.Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của
05
Đảng ta về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng.
1.2. Cơ sở thực tiễn
07
1.2.1. Đặc điểm tình hình của Đảng bộ tỉnh Trà Vinh:
07
09
1.2.2. Tình hình thực hiện và kết quả công tác kiểm tra, giám sát và
kỷ luật đảngở Đảng bộ tỉnh Trà Vinh (từ Nghị quyết TW 5 khóa X đến
2014).
1.2.3. Nhận xét chung
14
1.3. Cơ sở pháp lý xây dựng đề án

17
PHẦN 2
18
MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP THỰC
18
HIỆN ĐỀ ÁN
2.1. Mục tiêu đề án
18
2.1.1. Mục tiêu chung:
18
18
2.1.2. Mục tiêu cụ thể:
2.2. Quan điểm
19
2.3. Nhiệm vụ thực hiện đề án
20
2.3.1. Đối với cấp ủy các cấp:
20
2.3.2. Đối với các Ban đảng của các cấp ủy.
21
2.3.3. Đối với Ủy ban Kiểm tra các cấp.
21
2.3.4. Đối với Chi bộ.
22
2.3.5. Củng cố tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng, năng lực đội ngũ
22
cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát các cấp.
2.4. Các giải pháp tổ chức thực hiện đề án
23
PHẦN 3

31
TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
31
3.1. Các cơ quan liên quan tới việc thực hiện đề án
31
3.1.1. Đối với Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy và Ủy ban kiểm tra các cấp
31


3.1.2. Đối với các cơ quan phối hợp thực hiện
3.1.3. Các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, cá nhân cán bộ, đảng viên
diện kiểm tra
3.2. Các nguồn lực để thực hiện đề án
3.2.1. Về nguồn lực con người:
3.2.2. Về nguồn lực tài chính:
3.3. Tiến độ thực hiện đề án
3.4. Dự kiến kết quả thực hiện đề án
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

31
32
32
32
33
33
33
34


MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề án
Ngay từ khi thành lập, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến
công tác kiểm tra, xác định kiểm tra, giám sát là một trong những chức năng lãnh
đạo của Đảng, một bộ phận quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Qua mỗi
thời kỳ cách mạng, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đều có sự đổi mới
nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả lãnh đạo. Trong đó, không ngừng hoàn thiện
quan điểm, nguyên tắc, phương pháp công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật trong
Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, việc nâng cao chất lượng công tác kiểm
tra, giám sát và kỷ luật Đảng đối các tổ chức đảng và đảng viên trong việc chấp
hành chủ trương, nghị quyết, chỉ thị và các quy định của Đảng, Điều lệ Đảng là đòi
hỏi tất yếu khách quan.
Công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành
tựu bước đầu quan trọng, đưa đất nước ta chuyển sang một thời kỳ mới- thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa mà
do Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Song, trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế, phát
triển kinh tế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc
tế…có rất nhiều vấn đề mới phát sinh. Đối tượng và nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng
ngày càng đa dạng, phong phú, sinh động; phạm vi hoạt động của đội ngũ đảng
viên rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc
phòng. Tính chất phức tạp và mặt trái của cơ chế thị trường đang tác động sâu sắc
đến các mặt của đời sống xã hội. Đại đa số cán bộ, đảng viên vẫn kiên định, vững
vàng, tiên phong, gương mẫu đi đầu trong công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước
nhưng vẫn còn một bộ phận giảm sút ý chí phấn đấu, phai nhạt lý tưởng, không
phát huy vai trò tích cực của người cán bộ, đảng viên.
Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua một số tổ chức đảng chưa nhận thức được
đầy đủ, đúng đắn, chưa coi trọng và quan tâm đến công tác kiểm tra, giám sát, kỷ
luật Đảng. Nghị quyết Trung ương 5(Khoá X) về tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng đã nêu: “…Chất lượng hiệu quả công tác kiểm tra chưa cao,
chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của các nghành, các lĩnh vực trong công
tác kiểm tra; chưa coi trọng kiểm tra phòng ngừa, phát huy nhân tố tích cực; nhiều



khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện khắc
phục, công tác kiểm tra của nhiều tổ chức Đảng, nhất là Ban cán sự Đảng, Đảng
Đoàn còn mang tính hình thức, chất lượng, hiệu quả thấp; kiểm tra việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị, nghị quyết, chỉ thị của Đảng chưa được quan tâm đúng mức.
Năng lực, trình độ, phong cách công tác của một bộ phận cán bộ kiểm tra chưa
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ” [4, tr.71,72].Đặc biệt Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 9 (Khoá X) cũng tiếp tục chỉ rõ:“Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật trong
Đảng trên một số mặt còn hạn chế, thiếu sót. Tình hình vi phạm Điều lệĐảng, Nghị
quyết, Chỉ thị của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước còn diễn ra ở nhiều
nơi” [5, tr.71]. Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của Đảng tiếp tục chỉ rõ những hạn
chế, yếu kém thời gian qua: “Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng, chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám
sát chưa cao; chưa coi trọng việc kiểm tra, giám sát thực hiện đường lối, chủ
trương, chỉ thị, nghị quyết, thi hành Điều lệ Đảng, kiểm tra, giám sát phòng ngừa
tiêu cực và phát huy nhân tố tích cực. Nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và
tổ chức đảng chậm được phát hiện. Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái
đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Kỷ luật, kỷ cương ở nhiều tổ chức đảng không nghiêm…”[2, tr.12].
Đảng bộ tỉnh Trà Vinh trong những năm qua, công tác kiểm tra, giám sát luôn
được cấp uỷ, tổ chức đảng, Uỷ ban kiểm tra (UBKT) các cấp quan tâm và tiến hành
thường xuyên nhưng kết quả vẫn còn đạt ở mức độ nhất định, chất lượng chưa cao.
Có nhiều nguyên nhân, đáng chú ý là một số cấp uỷ, tổ chức đảng nhất là cơ sở
chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa, vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác kiểm
tra, giám sát; UBKT ở một số tổ chức đảng chưa phát huy tính chủ động, tích cực
tham mưu cho cấp uỷ thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng trong
thực hiện toàn diện nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định. Chất lượng một số cuộc
kiểm tra, giám sát còn hạn chế so với yêu cầu đặt ra.
Từ những lý do cơ bản trên, nhằm góp phần thực hiện tốt Nghị quyết Trung

ương 5(khoá X), Nghị quyết Trung ương 4 (khóaXI) của Đảngvà Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh Trà Vinh lần thứ XV (2010-2015), tôi xin mạnh dạn lựa chọn vấn
đề:“Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng ở Đảng bộ


tỉnh Trà Vinh hiện nay” để làm đề án tốt nghiệp chương trình Cao cấp lý luận chính
trị.
2. Mục đích, ý nghĩa của đề án
2.1. Mục đích:
Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác kiểm tra, giám sát
và kỷ luật của Đảng bộ tỉnh Trà Vinh; tìm ra ưu điểm, tồn tại hạn chế và nguyên
nhân tồn tại. Qua đó, đề ra quan điểm, các giải pháp, cách thức tổ chức thực hiện
nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật ở Đảng bộ.
2.2.Ý nghĩa:
Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảngở Đảng bộ Trà
Vinh có ý nghĩa sâu sắc, tác dụng trực tiếp trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của tổ chức Đảng; góp phần tích cực vào củng cố, xây dựng hệ
thống chính trị vững mạnh, thúc đẩy việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của cơ
quan, đơn vị đưa tỉnh nhà ngày càng phát triển bền vững.
3. Đối tượng và phạm vi của đề án
3.1. Đối tượng:
Kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng đối với cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên
trong thực hiện Nghị quyết của Đảng, Điều lệ Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước
và nhiệm vụ chính trị được giao của cán bộ, đảng viên.
3.2. Phạm vi:
Chất lượng công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng ở Đảng bộ
tỉnh Trà Vinh trong nhiệm kỳ 2010-2015 và 2015-2020.


PHẦN 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ PHÁP LÝ CỦA ĐỀ ÁN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1.Khái niệm nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát.
* Kiểm tra là “Xem xét kỹ đến chi tiết để xác định tính hợp pháp, mức độ
đúng sai”[10, tr.437]. Hoặc kiểm tra là: “Xem xét tình hình thực tế thi hành pháp
luật, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung hay một công tác cụ thể được giao
để đánh giá, nhận xét…”[11, tr.264].
Công tác kiểm tra của Đảng là hoạt động của Đảng, được tiến hành đối với tổ
chức đảng và đảng viên, nhằm nắm vững tình hình; nhận xét, đánh giá việc chấp
hành các quy định, quyết định của Đảng; xác định sự đúng đắn hay vi phạm của các
hành vi có liên quan đến kỷ cương, kỷ luật của Đảng.
* Giám sát, theo Từ điển Luật học, “giám sát” được hiểu là “sự theo dõi, quan
sát hoạt động mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động
bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của các đối tượng chịu sự
giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã xác định
từ trước, đảm bảo cho pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh” [11, tr.264].
Từ cách hiểu về khái niệm giám sát nói trên, có thể định nghĩa về công tác
giám sát của Đảng như sau:Giám sát của Đảng là việc các cấp uỷ, tổ chức đảng
theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên chịu sự giám
sát trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
Kiểm tra và giám sát đều là hoạt động của nội bộ đảng, do cấp uỷ, tổ chức
đảng và Ủy ban kiểm tra thực hiện. Nội dung kiểm tra và giám sát đều là việc chấp
hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Mục đích của kiểm tra, giám sát đều nhằm
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, góp phần hoàn thành thắng
lợi nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng.
* Chất lượng, theo Từ điển tiếng Việt, “chất lượng” là cái tạo nên phẩm chất,
giá trị của một con người, một sự việc [12, tr.144]. Chất lượng của công tác kiểm
tra, giám sát là tổng thể những đặc điểm tâm lý, sinh lý, năng lực, những nguồn lực,

cơ chế, điều kiện cần thiết bảo đảm cho hoạt động kiểm tra, giám sát đúng mục


tiêu, yêu cầu đặt ra; góp phần thúc đẩy việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và công
tác xây dựng Đảng.
Chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được thể hiện qua chất lượng
đội ngũ cán bộ kiểm tra. Đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát phải có
bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất, đạo đức tốt, có khả năng và năng lực
tham mưu giải quyết vấn đề, hết lòng phục vụ Đảng và nhân dân. Trong nhiệm kỳ
công tác, hằng năm, cấp uỷ, tổ chức đảng, UBKT các cấp đều phải đề ra phương
hướng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch công tác kiểm tra, giám sát có trọng tâm,
trọng điểm, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng và
tình hình thực tế địa phương, đơn vị, cơ sở mình và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực
hiện đạt kết quả cao nhất theo mục tiêu, yêu cầu đề ra. Công tác kiểm tra, giám sát
phải được tiến hành toàn diện và thực hiện đều khắp ở các cấp uỷ, tổ chức đảng,
UBKT trong từng đảng bộ; có sự lãnh đạo chặt chẽ, thống nhất, thường xuyên của
cấp uỷ, sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức đảng với UBKT và giữa UBKT với
các tổ chức đảng và các cơ quan có liên quan trong công tác kiểm tra, giám sát và
kỷ luật của Đảng. Các cuộc kiểm tra, giám sát phải đảm bảo đúng quy trình, quy
định, hướng dẫn về nghiệp vụ của UBKT Trung ương, kết luận đúng, sai rõ ràng,
xử lý đúng người, đúng lỗi phạm làm cho đối tượng được kiểm tra phải tâm phục,
khẩu phục, có tác dụng giáo dục tốt cho cán bộ, đảng viên.
* Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát là phải trên cơ sở sơ kết,
tổng kết đánh giá chất lượng công tác kiểm tra, giám sát qua mỗi giai đoạn, mỗi
thời kỳ, để qua đó đưa ra giải pháp khắc phục những tồn tại, yếu kém nhằm thực
hiện ngày càng tốt hơn công tác kiểm tra, giám sát; góp phần tích cực vào việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng.
1.1.2.Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của
Đảng ta về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng.
* Ngay từ khi thành lập Đảng cộng sản, C.Mác - Ph.Angghen đã quan tâm đến

kiểm tra để để bảo đảm cho Đảng luôn vững mạnh. VI.Lênin luôn coi công tác
kiểm tra, giám sát, kiểm soát là một công cụ hữu hiệu và là một trong những nội
dung lãnh đạo quan trọng đối với tổ chức đảng, cơ quan nhà nước. Người cho rằng,
ý nghĩa và tác dụng lớn nhất của công tác kiểm tra, giám sát là để: sửa chữa, uốn
nắn công việc, ngăn ngừa thiếu sót và sai lầm. VI.Lênin cũng đã chỉ rõ nội dung và


nhiệm vụ chính của công tác kiểm tra, giám sát là: kiểm tra, giám sát “việc” và
kiểm tra, giám sát “người”, nhưng không chỉ giới hạn ở các lĩnh vực kinh tế, tài
chính,… mà còn đặc biệt coi trọng kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước [6, tr.109].
* Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đặc biệt quan tâm đến công tác kiểm tra,
giám sátvà việc giữ gìn kỷ luật của Đảng. Theo Người: khi mục đích, nhiệm vụ
chính trị đã được xác định, nghị quyết đã được thông qua thì nhiệm vụ tổ chức thực
hiện phải đặt lên hàng đầu. Điều cốt yếu là chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các
nghị quyết, chỉ thị sang việc lựa chọn người lãnh đạo và kiểm tra, giám sát việc
thực hiện, đó là vấn đề then chốt đối với đảng cầm quyền: tìm người, kiểm tra,
giám sát công việc - tất cả là ở đó. Sự đúng đắn chính xác của các quyết định của
Đảng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó công tác kiểm tra, giám sát là yếu tố
quan trọng. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “chính sách đúng là nguồn gốc của thắng
lợi. Song từ nguồn gốc đi đến thắng lợi thực sự, còn phải tổ chức, phải đấu tranh.
Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do
nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều
ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”[7, tr.520].
Kiểm tra thường xuyên là biện pháp tốt nhất để ngăn ngừa khuyết điểm.
Người tổng kết: “Chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì
thiếu sự kiểm tra”[8, tr.17].
Mục đích ý nghĩa của công tác kiểm tra, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là: Giúp
cho cấp uỷ Đảng nắm được thực chất lãnh đạo, thấy rõ mặt tốt, chưa tốt và những
lệch lạc trong chấp hành chỉ thị, nghị quyết; hiểu được mạnh, yếu của đội ngũ và

từng người cán bộ, đảng viên. Tổ chức kiểm tra chu đáo, đó là: “Ngọn đèn pha”, giúp
các cấp uỷ đảng thấy rõ và thấy hết những ưu điểm, khuyết điểm của từng tổ chức, từng
con người trong mọi công việc. Người khẳng định: “Nếu tổ chức sự kiểm tra chu đáo
thì công việc của chúng ta nhất định tiến bộ gấp mười, gấp trăm”[9, tr.521].
Đảng ta từ khi thành lập đến nay đã khẳng định kiểm tra là một trong những
chức năng lãnh đạo của Đảng; lãnh đạo phải có kiểm tra; lãnh đạo mà không kiểm
tra thì coi như không có lãnh đạo. Vì vậy, Đảng ta đã rút ra sáu bài học kinh nghiệm
chủ yếu qua 25 năm đổi mới, trong đó có bài học kinh nghiệm về công tác kiểm tra,
giám sát là: Đảng phải tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm


tra, giám sát. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, quyết
định của Đảng để phát huy ưu điểm, phòng ngừa và khắc phục kịp thời sai lầm,
khuyết điểm; kiểm tra, giám sát công tác, năng lực và phẩm chất của cán bộ, đảng
viên, xây dựng tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và cán bộ, đảng viên ngày càng
trong sạch, vững mạnh.Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X tại Đại hội lần thứ XI của Đảng cũng đã tiếp tục chỉ đạo nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, trong đó phải đổi mới, nâng cao hiệu quả công
tác kiểm tra, giám sát:“Các cấp uỷ, tổ chức đảng phải nâng cao tinh thần trách
nhiệm, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng. Tập trung
kiểm tra, giám sát việc chấp hành Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của
Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước;... Chú trọng kiểm tra, giám sát người
đứng đầu tổ chức đảng, nhà nước, mặt trận và các đoàn thể nhân dân các cấp
trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng phải phối hợp chặt chẽ với công tác thanh tra của Chính phủ, công tác
giám sát của Quốc hội và các cơ quan hành pháp, tư pháp, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân theo đúng chức năng và thẩm quyền của mỗi cơ quan. Nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ và hoạt động của hệ thống uỷ ban kiểm tra các
cấp…”[2, tr.52].
Như vậy, trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

Đảng ta đã xuyên suốt, nhất quán và luôn khẳng định: Kiểm tra, giám sát là một tất
yếu, là nhu cầu không thể thiếu đối với hoạt động của Đảng. Từ đó xác định rõ mục
đích, ý nghĩa, vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát và
việc thi hành kỷ luật trong Đảng. Nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật của cấp uỷ
và Ủy ban kiểm tra các cấp đã luôn được bổ sung, hoàn thiện qua mỗi kỳ Đại hội
để phù hợp với từng nhiệm vụ cách mạng.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Đặc điểm tình hình của Đảng bộ tỉnh Trà Vinh:
Đảng bộ tỉnh Trà Vinh hiện có 14 đảng bộ trực thuộc, 4 ban cán sự đảng, 8
đảng đoàn, với 475 tổ chức cơ sở đảng (đảng bộ cơ sở 236 tổ chức, trong đó có 112
Tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) đảng xã, phường, thị trấn; chi bộ cơ sở 239 tổ chức);
100% thôn, buôn, khu phố (625/625); 100% trường học công lập và trạm y tế cấp


xã trong tỉnh có chi bộ đảng hoạt động; tổng số 32.268 đảng viên, có 318 đảng viên
thuộc diện Thường trực vàBan Thường vụ Tỉnh ủy quản lý.
Tình hình tư tưởng trong Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân cơ bản ổn định,
đoàn kết, tin tưởng vào chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng, bảo đảm thống
nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng bộ. Công tác xây dựng Đảng được tăng
cường. Tổ chức tốt việc tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho
cán bộ, đảng viên. Cấp ủy các cấp tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới.
Công tác đánh giá, phân loại chất lượng TCCSĐ và đảng viên được các cấp ủy
đảng quan tâm chỉ đạo, thực hiện thành nền nếp, bảo đảm yêu cầu, phản ánh thực
chất hơn chất lượng TCCSĐ và đảng viên, góp phần xây dựng, củng cố, nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Công tác kiểm tra, giám sát đã được tăng cường; hằng năm, cấp ủy và UBKT
các cấp trong tỉnh đều xây dựng và thực hiện chương trình kiểm tra, giám sát. Qua

kiểm tra, giám sát đã rút ra kinh nghiệm trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ
chức thực hiện ở cơ sở, phát huy ưu điểm, uốn nắn kịp thời những lệch lạc, khuyết
điểm, đồng thời kiến nghị bổ sung, sửa đổi những chủ trương, chính sách, chế độ
cho phù hợp, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
đảng, đảng viên, tăng cường sự đoàn kết thống nhất, giữ vững kỷ cương, kỷ luật
trong toàn Đảng bộ tỉnh; phòng ngừa, ngăn chặn sự suy thoái về chính trị tư tưởng,
đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên.Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ (BTV)Tỉnh uỷ
và cấp uỷ các cấp thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện nhiệm
vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng. Nhận thức của một số cấp uỷ,
tổ chức đảng và đảng viên về công tác này có nhiều chuyển biến, tạo điều kiện tốt
để Uỷ ban kiểm tra các cấp thực hiện nhiệm vụ.
Tuy nhiên, một số cấp ủy chưa thực hiện tốt nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng nên thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát có vụ
việc chưa cụ thể, chưa sâu sát, hiệu quả thấp; còn một bộ phận cán bộ, đảng viên sa
sút về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu tinh thần trách nhiệm trong thực
hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, ảnh hưởng đến công tác xây dựng đảng và


thực hiện nhiệm vụ chính trị và đấu tranh chống suy thoái, nâng cao phẩm chất
chính trị, đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng viên.Một số ít tổ chức đảng và
đảng viên chưa thực hiện tốt tính tự giác, tự phê bình, phê bình và tự kiểm tra của
tổ chức đảng và đảng viên; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, không có
chính kiến vẫn còn phổ biến trong sinh hoạt đảng và trong công tác kiểm tra, giám
sát và thi hành kỷ luật đảng.
1.2.2. Tình hình thực hiện và kết quả công tác kiểm tra, giám sát và kỷ
luật đảngở Đảng bộ tỉnh Trà Vinh (từ Nghị quyết TW 5 khóa X đến 2014).
1.2.2.1. Đối với cấp ủy các cấp:
Hằng năm, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc
xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện chương trình kiểm tra, giám sát của cấp
trên và cấp mình kịp thời, xác định nội dung đối tượng kiểm tra, giám sát phù hợp

với tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Nội dung kiểm
tra có trọng tâm, trọng điểm; giám sát được mở rộng toàn diện hơn; tập trung kiểm
tra, giám sát việc chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ
thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước, một số lĩnh vực dễ phát sinh sai phạm, tiêu
cực nhằm sớm phát hiện, ngăn ngừa sai phạm.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Ban Thường vụcấp ủy các cấp quan tâm đến việc
đổi mới quá trình xây dựng và tổ chức triển khai, thực hiện chương trình kiểm tra,
giám sát của cấp ủy; thành lập các đoàn kiểm tra, giám sát, phân công các đồng chí
trong cấp ủy, Ban Thường vụ cấp ủy trực tiếp làm trưởng đoàn; giao các ban cấp ủy
thực hiện nhiệm vụ giám sát chuyên đề theo chương trình kiểm tra, giám sát của cấp
ủy. Sau kiểm tra, các đoàn kiểm tra báo cáo cho Ban Thường vụ cấp ủy xem xét, kết
luận về những ưu khuyết điểm, kịp thời biểu dương những tổ chức đảng và đảng
viên thực hiện tốt, đồng thời nhắc nhở, phê bình những tổ chức đảng và đảng viên
thực hiện chưa tốt, chỉ đạo xử lý những trường hợp vi phạm; kiểm tra, giám sát việc
thực hiện các kết luận sau kiểm tra, giám sát.
Trong 06 năm (từ năm 2008 đến 2014), BTV Tỉnh ủy đã thành lập 25 đoàn,
kiểm tra 134 tổ chức, đơn vị và 47 đảng viên (05 đồng chí là cấp ủy viên các cấp).


Đồng thời lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiệnchương trình kiểm tra hàng năm của
Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Cấp ủy cấp dưới đã thành lập nhiều đoàn, tổ kiểm tra để
kiểm tra 1.339 tổ chức, đơn vị và 2.712 đảng viên (xem Phụ lục 1).
Ban Thường vụ cấp ủy các cấp đã phân công các đồng chí trong BTV, một số
đồng chí trong cấp ủy phụ trách địa bàn và UBKT phân công các thành viên UBKT
theo dõi địa bàn, lĩnh vực để trực tiếp chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ giám sát
thường xuyên. Qua các năm đã thực hiện giám sát theo chuyên đề đối với 2.211 tổ
chức đảng và 8.637 đảng viên (có 3.280 đồng chí là cấp ủy viên các cấp). Ngoài ra,
cấp ủy còn giám sát thường xuyên thông qua các báo cáo định kỳ, tháng, quý, 6
tháng, năm của cấp ủy và tổ chức đảng cấp dưới(xem Phụ lục 2).
Cấp ủy, Ban thường vụ cấp ủy xây dựng và chỉ đạo cấp ủy cấp dưới và ủy ban

kiểm tra thực hiện các chương trình kiểm tra, giám sát hằng năm; lãnh đạo, chỉ đạo
ủy ban kiểm tra cấp mình chủ động phát hiện, kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi
có dấu hiệu vi phạm. Trường hợp tổ chức đảng vi phạm đến mức phải thi hành kỷ
luật ủy ban kiểm tra trình cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy xem xét, xử lý kỷ luật theo
thẩm quyền, chưa có trường hợp nào quyết định thi hành kỷ luật tổ chức đảng sai
thẩm quyền. Từ 2008-2014, Ban Thường vụ Tỉnh ủy xem xét, xử lý kỷ luật 6 tổ
chức; ban thường vụ huyện, thị ủy, đảng ủy trực thuộc kỷ luật 26 tổ chức; đảng ủy
cơ sở kỷ luật 12 tổ chức (xem Phụ lục 3).
BTV Tỉnh ủy và một số BTV cấp ủy cấp dưới tổ chức sơ, tổng kết các chuyên
đề, quy định, quy chế phối hợp về công tác kiểm tra, giám sát. BTV Tỉnh ủy định kỳ
làm việc với UBKT Tỉnh ủy theo quy chế làm việc để nghe, cho ý kiến chỉ đạo về
tình hình công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng trong toàn Đảng bộ. Một số vụ
việc kiểm tra phức tạp, dư luận xã hội quan tâm, BTV Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy
và BTV cấp ủy các cấp trực tiếp chỉ đạo UBKT phối hợp với các cơ quan, tổ chức
đảng có liên quan để kiểm tra, xem xét, đánh giá, kết luận và xử lý kịp thời, dứt điểm.
Cấp ủy các cấp quán triệt, triển khai, tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện
nay”. Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện biện pháp khắc phục những vấn đề đã kết luận
sau đợt tự phê bình và phê bình. Gắn trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống


chính trị và của nhân dân trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí theo
tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X).
Việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám
sát đã giúp cho cấp ủy nắm rõ tình hình thực tế tại địa phương, đơn vị.Qua đó phát
huy ưu điểm, ngăn ngừa, uốn nắn, sửa chữa khuyết điểm, kịp thời bổ sung hoàn
thiện các chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng. Đồng thời nâng cao ý thức
chấp hành kỷ luật của Đảng trong toàn Đảng bộ. BTV Tỉnh uỷ đã tập trung chỉ đạo
xử lý cơ bản các vụ việc nổi cộm còn tồn đọng sau Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XV
và sau kiểm điểm phê bình, tự phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI)

“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
1.2.2.2. Đối với Ủy ban kiểm tra các cấp:
UBKT Tỉnh uỷ và UBKT các cấp đã kịp thời tham mưu, giúp BTV Tỉnh ủy, các
cấp uỷ tổ chức nghiên cứu, quán triệt Điều lệ Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng; Nghị
quyết Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2010-2015 và các văn bản liên quan về công
tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng. Tham mưu cấp ủy xây dựng, ban hành Quy chế
làm việc, các quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với đảng viên là cán bộ thuộc diện
cấp ủy quản lý thuộc thẩm quyền thi hành kỷ luật của cấp uỷ, các quy chế phối hợp giữa
UBKT với các cơ quan, đơn vị, tổ chức đảng có liên quan về công tác kiểm tra, giám sát
và kỷ luật Đảng; các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và
các kết luận, quyết định trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng.
Hằng năm, UBKT các cấp đã chủ động phối hợp các ban Đảng tham mưu giúp cấp
ủy xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát của cấp ủy, hướng dẫn, đôn đốc các tổ chức
đảng cấp dưới xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát
đã đề ra. Nội dung kiểm tra, giám sát thường xuyên được đổi mới, tập trung chủ yếu vào
việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước trên lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng,
công tác xây dựng Đảng. Kịp thời tham mưu, giúp cấp ủy sơ, tổng kết công tác kiểm tra,
giám sát hằng năm và triển khai phương hướng, nhiệm vụ năm đến; nghiên cứu các
chuyên đề về công tác kiểm tra, giám sát và việc thi hành kỷ luật trong Đảng ở địa
phương, đơn vị. Sơ, tổng kết tình hình thực hiện các quy định, quyết định, hướng dẫn
của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và UBKT Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát.


UBKT các cấp trong tỉnh đã xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực
hiện toàn diện các nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định. Tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên, trước hết là cấp ủy viên cùng cấp,
cán bộ thuộc diện cấp ủy cấp mình quản lý. Trong đó, xác định kiểm tra đảng viên
và tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm là nhiệm vụ trọng tâm nên đã
tăng cường công tác giám sát, phát hiện tình hình đảng viên và tổ chức đảng có dấu

hiệu vi phạm để tiến hành kiểm tra. Số đảng viên được kiểm tra khi có dấu hiệu vi
phạm trong 06 năm là 721 đồng chí, trong đó, số đảng viên có vi phạm 659 đồng
chí, chiếm 91,4% số được kiểm tra; phải thi hành kỷ luật 562 đồng chí, đã thi hành
kỷ luật 528 đồng chí, chiếm 80% số đảng viên có vi phạm. Số tổ chức đảng có vi phạm
được kiểm tra 49 tổ chức, trong đó có vi phạm 41 tổ chức, phải thi hành kỷ luật 32 tổ
chức, đã thi hành kỷ luật 31 tổ chức, chiếm 75,6% số tổ chức đảng có vi phạm.
Qua công tác kiểm tra, giám sát của UBKT các cấp trong tỉnh đã phát hiện một
số tổ chức đảng buông lỏng công tác quản lý cán bộ đảng viên, một số đảng viên có
biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, vi phạm nguyên tắc sinh
hoạt Đảng, vi phạm những điều đảng viên không được làm, vi phạm pháp luật Nhà
nước. Phát hiện được đường dây lừa đảo chạy xin việc làm vào các cơ quan hành
chính Nhà nước trong tỉnh và đã chuyển cơ quan cảnh sát điều tra khởi tố vụ án, bắt
tạm giam bị can. Một số đảng viên có liên quan đã kịp thời xử lý và tham mưu cho
BTV Tỉnh ủy xử lý kỷ luật nghiêm minh, đã tạo sự đồng tình cao trong Đảng bộ và
dư luận nhân dân.
UBKT các cấp trong tỉnh cũng đã duy trì việc kiểm tra cấp ủy, UBKT cấp
dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát trong Đảng. Trong 06 năm, UBKT các
cấp đã tiến hành kiểm tra 614 tổ chức đảng cấp dưới về thực hiện nhiệm vụ kiểm
tra, giám sát. Những hạn chế qua kiểm tra đã được hướng dẫn, nhắc nhở, chấn
chỉnh làm chuyển biến nhận thức trách nhiệm của cấp ủy và UBKT về thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra theo Điều lệ Đảng, đưa công tác kiểm tra đi vào nề nếp, cơ bản
khắc phục tình trạng lãnh đạo thiếu kiểm tra.
Công tác kiểm tra tài chính Đảng có nhiều tiến bộ. Trong 06 năm, Ủy ban kiểm
tra các cấp trong Tỉnh đã đã kiểm tra thu, chi ngân sách và việc thu nộp, quản lý và
sử dụng đảng phí đối với 702 tổ chức đảng và 9.943 đảng viên. Qua kiểm tra đã kịp
thời nhắc nhở cấp ủy và các đơn vị rút kinh nghiệm, nâng cao ý thức chấp hành chế


độ quản lý, sử dụng ngân sách Đảng; chấm dứt việc ban hành một số chế độ chi tiêu
sai nguyên tắc không đúng quy định của một số cấp ủy. Đồng thời kiểm điểm

nghiêm túc chủ tài khoản, kế toán và cán bộ, đảng viên liên quan sai sót trong công
tác quản lý, sử dụng tài chính cấp ủy. Qua kiểm tra, có 92 tổ chức đảng và 1.316
đảng viên có vi phạm, với tổng số tiền đề nghị thu hồi nộp ngân sách Đảng trên 400
triệu đồng.
Cấp ủy và UBKT các cấp đã tích cực, chủ động giải quyết tố cáo tổ chức đảng,
đảng viên; phối hợp tốt giữa UBKT cấp trên với UBKT cấp dưới, với các cơ quan
chức năng để kịp thời kết luận, làm rõ, xử lý đơn thư khách quan, đúng thẩm quyền
theo các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Trong 6 năm, UBKT các
cấp trong Tỉnh đã giải quyết 265 đơn thư tố cáo đảng viên, kết luận có vi phạm 163
đồng chí, phải thi hành kỷ luật 81 đồng chí, đã thi hành kỷ luật 79 đồng chí (chiếm
97,5% số phải thi hành kỷ luật); giải quyết tố cáo 01 tổ chức đảng. Trong đó đã giải
quyết một số vụ đơn thư tố cáo đảng viên được dư luận xã hội quan tâm như: tố cáo
đối với các đảng viên chủ chốt ở Sở Tài nguyên và Môi trường có sai phạm nghiêm
trọng trong quản lý dự án nâng cao năng lực tài nguyên và môi trường; tố cáo
nguyên Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tây Hòa sai phạm trong
việc thi hành án gây thiệt hại tài sản công dân…
Cấp ủy và UBKT các cấp đã giải quyết 62 trường hợp khiếu nại kỷ luật đảng,
trong đó giữ nguyên hình thức kỷ luật 49 trường hợp, tăng hình thức kỷ luật 03
trường hợp, giảm hình thức kỷ luật 10 trường hợp. UBKT các cấp trong Tỉnh đã xử
lý và tham mưu cho cấp ủy xử lý kỷ luật 42 tổ chức đảng và 1.030 đảng viên, trong
đó có 386 cấp ủy viên các cấp. Việc thi hành kỷ luật đảng viên và tổ chức đảng cơ bản
bảo đảm đúng phương hướng, phương châm thi hành kỷ luật; bảo đảm công minh, chính
xác, kịp thời nên có tác dụng tích cực trong việc phòng ngừa, răn đe, giáo dục đảng viên.
Công tác giám sát đối với tổ chức đảng, đảng viên được ủy ban kiểm tra các
cấp được quan tâm, qua 06 năm đã giám sát 1.820 tổ chức đảng và 8.636 đảng viên
(2.438 cấp ủy viên các cấp). Qua giám sát đã phát hiện 45 tổ chức đảng và 45 đảng
viên có dấu hiệu vi phạm đã kịp thời chuyển sang kiểm tra 03 tổ chức đảng và 13
đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm.
1.2.2.3. Công tác kiểm tra, giám sát của các ban Đảng của các cấp ủy:



Công tác kiểm tra, giám sát của các ban tham mưu, giúp việc của cấp ủy đã có
chuyển biến bước đầu. Các ban Đảng đã thực hiện tốt quy chế phối hợp trong công
tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng. Phối hợp với UBKT tham mưu giúp
cấp ủy xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát hằng năm; cử cán bộ tham gia các
đoàn kiểm tra, giám sát của cấp ủy; chủ động thành lập các đoàn, tổ để thực hiện
công tác giám sát hoặc trực tiếp tổ chức các cuộc giám sát theo quy chế giám sát
trong Đảng và cấp ủy giao theo chương trình, kế hoạch hàng năm. Tham gia việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo đảng viên, tổ chức đảng và thực hiện một số nhiệm vụ
khác liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát khi được cấp ủy giao.
1.2.2.4. Công tác kiểm tra, giám sát của chi bộ:
Công tác kiểm tra, giám sát của các chi bộ đã có những chuyển biến tốt, nhiều
chi bộ đã chú trọng công tác giám sát cán bộ, đảng viên thuộc phạm vi quản lý của
mình về việc chấp hành Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; về trách nhiệm nêu gương, về đạo đức lối sống; chủ
động xây dựng kế hoạch kiểm tra đảng viên trong chi bộ hàng năm; công tác xem
xét, xử lý kỷ luật đảng thuộc thẩm quyền được thực hiện đúng nguyên tắc, quy trình
và thủ tục theo quy định của Đảng.
1.2.3. Nhận xét chung
* Ưu điểm:
Trong những năm qua, việc triển khai, tổ chức thực hiện Chương trình hành
động của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X), Nghị quyết Đại hội
lần thứ XI của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV nhiệm kỳ 2010
- 2015 cho thấy những chủ trương và giải pháp nêu trong Chương trình hành động
của Tỉnh ủy đã thực hiện đồng bộ, có hiệu quả. Một số mục tiêu được nêu trong
Nghị quyết và Chương trình hành động của Tỉnh ủy được cấp ủy các cấp quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đạt được kết quả như: đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
trong nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp, của đội ngũ cán bộ,
đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành
kỷ luật trong Đảng. Từng bước đổi mới, hoàn thiện và thực hiện tốt nội dung,

phương pháp, quy trình công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bảo đảm hiệu lực,


hiệu quả; xây dựng, từng bước hoàn thiện các quy chế, quy định về mối quan hệ
trong Đảng, các quy chế phối hợp giữa các tổ chức đảng với các tổ chức Nhà nước,
đoàn thể chính trị - xã hội trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng để
tạo cơ sở cho việc kiểm tra, giám sát.
Công tác kiểm tra, giám sát được thực hiện toàn diện, có hiệu lực, hiệu quả.
Tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành đường lối, chủ trương, nghị quyết, chỉ
thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chú trọng kiểm tra, giám sát
người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng. Qua kiểm tra, giám sát đã kịp thời phát huy
ưu điểm, uốn nắn, chấn chỉnh tồn tại, khuyết điểm, xử lý nghiêm các tổ chức đảng,
đảng viên có khuyết điểm, vi phạm, có tác dụng quan trọng trong việc phòng ngừa,
ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán
bộ, đảng viên, góp phần giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng.
Việc cụ thể hóa nghị quyết của Trung ương thành Chương trình hành động của
Tỉnh ủy đã góp phần bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của các cấp
ủy từ tỉnh đến cơ sở, giúp các tổ chức đảng từng bước khắc phục khó khăn, lúng
túng trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng.
Cấp ủy và Ủy ban kiểm tra các cấp đã chú trọng kiện toàn tổ chức bộ máy,
chăm lo quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ; thực hiện tốt phong trào
thi đua, khen thưởng, kịp thời giải quyết các chế độ, chính sách cho đội ngũ cán bộ,
công chức trong ngành kiểm tra của Đảng. Hầu hết cán bộ, công chức trong ngành
kiểm tra của Đảng giữ vững phẩm chất, đạo đức, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
* Hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân
- Hạn chế, khuyết điểm:
Một số cấp ủy, tổ chức đảng chậm xây dựng chương trình hành động thực hiện
Nghị quyết của Trung ương và Chương trình hành động của Tỉnh uỷ; có nơi còn
chung chung, chưa cụ thể, chưa phù hợp với tình hình địa phương, đơn vị. Việc lãnh

đạo, chỉ đạo thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ trong Chương trình hành động của
Tỉnh ủy còn có mặt hạn chế; việc tuyên truyền, giáo dục về công tác kiểm tra, giám
sát của Đảng chưa thường xuyên. Từ đó nhận thức của một số cấp ủy, tổ chức đảng


và đảng viên về vị trí, vai trò của công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật trong Đảng
chưa đầy đủ; chưa quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ này, đã làm
ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả các cuộc kiểm tra, giám sát nói riêng và công
tác xây dựng Đảng nói chung.
Công tác chỉ đạo thực hiện, sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong công tác
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng có việc, có nơi chưa đồng bộ, chưa kịp thời.
Chất lượng, hiệu quả kiểm tra, giám sát ở một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa cao,
chưa chủ động phòng ngừa, ngăn chặn xảy ra khuyết điểm, vi phạm của cán bộ,
đảng viên; kiểm tra, giám sát đối với cán bộ, đảng viên còn dàn trải, thiếu trọng
tâm, trọng điểm, chưa tập trung vào những lĩnh vực, địa bàn dễ phát sinh sai phạm;
lĩnh vực tư tưởng, lĩnh vực tuyển dụng công chức, viên chức; việc thực hiện các chủ
trương, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp trong điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án, nhất là những vụ án nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận. Một số chi
bộ trong sinh hoạt, kiểm điểm đảng viên có vi phạm chưa phát huy tốt tinh thần đấu
tranh tự phê bình và phê bình, có trường hợp còn né tránh, ngại va chạm. Một sốcấp ủy
chậm chỉ đạo giải quyết đơn thư tố cáo của công dân, giải quyết tố cáo có trường hợp
thiếu triệt để dẫn đến đơn thư tố cáo phát sinh, tố đi tố lại nhiều lần, tố cáo vượt cấp…
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tình trạng tham
nhũng, lãng phí của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp vẫn còn diễn biến phức tạp, công tác kiểm tra, giám sát chưa
phát hiện được nhiều. Việc thực hiện một số nhiệm vụ, quy định của Đảng như Quy
chế chất vấn trong Đảng, nhiệm vụ giám sát của các Ban đảng, của Chi bộcòn lúng
túng, hiệu quả chưa cao.
Một số Ủy ban kiểm tra còn bị động, lúng túng trong tham mưu giúp cấp ủy
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều 30 Điều lệ Đảng và nhiệm vụ cấp

ủy giao; việc triển khai thực hiện nhiệm vụ được quy định tại Điều 32 Điều lệ Đảng
chưa đồng bộ, chưa toàn diện và thiếu chủ động; vẫn còn nhiều Ủy ban kiểm tra
đảng ủy, Chi bộ cơ sở chưa xây dựng được chương trình kiểm tra, giám sát hàng
năm. Chất lượng báo cáo, sơ, tổng kết các chuyên đề về công tác kiểm tra của một
số cấp ủy vàỦy ban kiểm tra còn hạn chế.
- Nguyên nhân:


Vẫn còn một số cấp ủy chưa bám sát mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ trong
Chương trình hành động của Tỉnh ủy về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng nên khi tổ chức thực hiện còn lúng túng, thiếu tính định hướng trong xây
dựng chương trình kiểm tra, giám sát hàng năm. Công tác chỉ đạo phối hợp giữa các
cơ quan liên quan trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật có việc, có
nơi chưa đồng bộ, chưa kịp thời. Chất lượng, hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao, chưa
chủ động phòng ngừa, ngăn chặn xảy ra khuyết điểm, vi phạm của cán bộ, đảng viên.
Đội ngũ cán bộ kiểm tra có nơi còn thiếu, chưa đủ mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ
nhưng chưa kịp thời có biện pháp củng cố, kiện toàn để đủ số lượng, bảo đảm chất
lượng. Một số cán bộ kiểm tra chưa bám sát cơ sở, địa bàn, lĩnh vực được phân công để
chủ động tham mưu, đề xuất giải quyết những vụ việc bức xúc, nổi cộm ngay tại địa
phương, đơn vị, có nơi để vi phạm xảy ra trong một thời gian dài không phát hiện được.
1.3. Cơ sở pháp lý xây dựng đề án
- Nghị quyết số 14-NQ/TW, ngày 30/7/2007 của Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương 5 khoá X về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
- Quyết định số 158-QĐ/TW, ngày 12/5/2008 của Bộ Chính trị về ban hành
Quy chế chất vấn trong Đảng.
- Nghị quyết số 31-NQ/TW, ngày 02/02/2009 của Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ chín khoá X về một số nhiệm vụ, giải pháp lớn nhằm tiếp
tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng.
- Thông báo kết luận số 226-TB/TW, ngày 03/3/2009 của Ban Bí thư về đổi
mới nội dung tuyên truyền, phổ biến công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng.

- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI của Đảng.
- Kết luận số 72-KL/TW, ngày 17/5/2010 của Bộ Chính trị về “Chiến lược
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020”.
- Quy định số 45-QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương
về thi hành Điều lệ Đảng khóa XI.
- Quyết định số 46-QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương
về ban hành Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ
luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng khóa XI.


- Chương trình hành động số 18-CTr/TU,ngày 02/10/2007 của Tỉnh ủy Trà
Vinh thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa X,về tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng.
- Quyết định số 425-QĐ/TU, ngày 16/3/2012 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Trà
Vinh về ban hành Quy chế phối hợp trong công tác kiểm tra, giám sátvà kỷ luật
đảng giữa UBKT Tỉnh uỷ với các ban, ngành, tổ chức Đảng có liên quan.
- Quyết định số 760-QĐ/TU, ngày 20/6/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Trà
Vinh về thực hiện quy trình kiểm tra, giám sát.

PHẦN 2
MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM, NHIỆM VỤ
VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
2.1. Mục tiêu đề án
2.1.1. Mục tiêu chung:
Nâng cao chất lượng, công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật ở Đảng
bộ và hệ thống chính trị phải dựa trên Nghị quyết, Điều lệ Đảng và hướng dẫn
của Ủy Ban kiểm tra Trung ương.Thực hiện kiểm tra, giám sát trên tất cả các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng nhằm tạo sự đoàn kết
thống nhất và bảo đảm thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ vững kỷ cương, kỷ
luật của Đảng; phòng ngừa, ngăn chặn suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức

lối sống, quan liêu, xa dân, tham nhũng, lãng phí trong cán bộ, đảng viên . Qua
đó, đảm sự lãnh đạo toàn diện về phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng an ninh
của tỉnh nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, xây
dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch,vững mạnh.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể:


2.1.2.1. Cấp uỷ, BTV cấp ủy các cấp trong tỉnh tăng cường chỉ đạo việc
tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng và đảng
viên về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
trong Đảng. Tạo sự chuyển mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của cấp
uỷ, tổ chức đảng và đảng viên về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng.
2.1.2.2. Cấp ủy các cấp trực tiếp kiểm tra, giám sát và chỉ đạo các tổ
chức đảng, tiến hành kiểm tra toàn diện hoặc kiểm tra, giám sát chuyên đề đối
với 100% các tổ chức đảng trực thuộc. Cụ thể:
- Tỉnh ủy kiểm tra, giám sát đối với 14/14 đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy.
- Các huyện, thị, thành ủy và đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy kiểm tra, giám sát
đối với 100% các đảng bộ, chi bộ trực thuộc.
-Các đảng bộ cơ sở kiểm tra, giám sát đối với 100% các chi bộ trực thuộc.
Nội dung kiểm tra, giám sát: 100% các chương trình trọng tâm, 70% đề
án chuyên đề của cấp ủy được kiểm tra hoặc giám sát.
2.1.2.3. Ủy ban Kiểm tra các cấp kiểm tra tăng từ 20% - 30% cuộc kiểm
tra so với nhiệm kỳ trước.Đối với tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên kể cả cấp
ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm.
2.1.2.4. Ủy ban Kiểm tra Tỉnh uỷ kiểm tra tài chính đối với Văn phòng
Tỉnh ủy ít nhất 02 cuộc/nhiệm kỳ; Ủy ban Kiểm tracác huyện, thị, thành uỷ và
đảng uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ kiểm tra tài chính đối với cơ quan, bộ phận tài
chính cấp uỷ cùng cấp 04 cuộc/nhiệm kỳ.
2.1.2.5. Các cơ quan chuyên trách tham mưu giúp việc của Tỉnh uỷ và
đảng bộ trực thuộc kiểm tra, giám sát và giúp cấp ủy tiến hành kiểm tra, giám

sát chuyên đề đối với 100% các cấp ủy cấp dưới trực tiếp, các cơ quan chuyên
trách tham mưu giúp việc của cấp uỷ cấp dưới trực tiếp.
2.1.2.6. 100% các Đảng đoàn, Ban cán sự đảng xây dựng được nghị quyết
chuyên đề về lãnh đạo công tác kiểm tra việc chấp hành chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng.
2.1.2.7. Các chi bộ tiến hành kiểm tra, giám sát thường xuyên trong nhiệm
kỳ thông qua công tác sinh hoạt thường kỳ của chi bộ đối với 90% đảng viên
sinh hoạt ở chi bộ.


2.1.2.8. 100% hệ thống các tổ chức Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả chương trình kiểm
tra, giám sát theo quy định Điều lệ của mỗi tổ chức và các luật liên quan.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội tỉnh chủ trì, phối hợp
với tổ chức khác trong hệ thống chính trị giám sát chuyên đề về việc thực hiện
các đề án của Tỉnh ủy hoặc các dự án thành phần (liên quan đến lĩnh vực hoạt
động của tổ chức mình) 01 cuộc/năm.
2.2. Quan điểm
- Kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo, nhiệm vụ thường xuyên của
toàn Đảng, trước hết là nhiệm vụ của cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, do cấp
ủy trực tiếp tiến hành. Tổ chức đảng và đảng viên phải nghiêm chỉnh phục tùng
kỷ luật của Đảng. Tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát
của Đảng và chịu sự giám sát của nhân dân.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát phải gắn chặt với công tác tư
tưởng, công tác tổ chức và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ; Thực hiện
đồng bộ giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát, “giám sát phải mở rộng”,
“kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm”.
- Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng phải kết hợp chặt chẽ giữa
“xây” và “chống”, lấy “xây” là chính. Kiên quyết xử lý nghiêm minh các vụ
việc vi phạm đã kiểm tra, kết luận để răn đe và giáo dục.

- Đề cao trách nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên; phát huy vai trò,
trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân trong
công tác kiểm tra, giám sát.
2.3. Nhiệm vụ thực hiện đề án
2.3.1. Đối với cấp ủy các cấp:
- Xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát theo tinh thần chỉ đạo
của cấp ủy cấp trên, phù hợp với tình hình thực tiễn, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ
và địa phương, trong đó, phải xác định rõ đối tượng, nội dung, thời gian kiểm tra,
giám sát; phân công cụ thể cho các đồng chí ủy viên Ban Thường vụ (nếu có BTV
cấp ủy) hoặc các đồng chí cấp ủy viên phụ trách các cuộc kiểm tra, giám sát.
- Chú trọng kiểm tra, giám sát đối với người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức
đảng, tổ chức nhà nước.


- Cấp uỷ các cấp cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức đảng, các cơ
quan chức năng đổi mới phương pháp kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; kết hợp
giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước và giám sát của nhân dân.
- Cấp ủy các cấp lãnh đạo, chỉ đạolựa chọn những vấn đề trọng tâm, trong
đó tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành các chủ trương, đường lối, nghị
quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về các
nội dung, lĩnh vực sau:
+ Việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Chương trình kiểm tra, giám sát
của Tỉnh uỷ; Việc thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, việc thi hành Điều
lệ Đảng, các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong công tác chính
trị, tư tưởng, hoạt động báo chí, tuyên truyền.
+ Việc chấp hành các nguyên tắc của Đảng; chấp hành quy chế làm việc,
chế độ công tác; thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ; về mối
quan hệ giữa tổ chức đảng và đảng viên với quần chúng nhân dân; việc giáo
dục rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.
+ Việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở các lĩnh

vực quản lý tài chính - kinh tế, xây dựng cơ bản, quản lý và sử dụng đất đai;
rèn luyện phẩm chất, đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên.
+ Việc thực hiện cải cách hành chính và thủ tục hành chính, cải cách tư
pháp, trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
+ Việc tuyển dụng, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ
nhiệm, bố trí, sử dụng, khen thưởng và thực hiện chính sách cán bộ.
+ Việc lãnh đạo, chỉ đạo và giải quyết khiếu nại, tố cáo của đảng viên và
nhân dân, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Tăng cường chỉ đạo việc khắc phục, sửa chữa, thực hiện các kết luận sau
kiểm tra, giám sát. Kiên quyết xử lý các hành vi bao che, cố tình trì hoãn hoặc
cố ý không chấp hành các quyếtđịnh, kết luận kiểm tra, giám sát.
2.3.2. Đối với các Ban đảng của các cấp ủy.
- Xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát toàn khoá và hằng năm theo
lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ cùng cấp và yêu cầu nhiệm vụ chính trị của tổ
chức cơ quan, đơn vị mình.


×