Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Thơ Duyên - Xuân Diệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.11 KB, 12 trang )

Thơ Duyên
- Xuân Diệu -
I - Kiến thức cơ bản
- Nhận thức chung:
- Rất nhiều ngời đã nhận thấy: nếu đặt Thơ duyên vào toàn bộ sáng tác của
Xuân Diệu trớc CM thì nó sẽ là một trong số ít bài đứng bên lề các sáng tác của ông.
Bởi vì thơ Xuân Diệu trớc CM nói chung là u sầu, buồn bã, cô đơn... vậy mà Thơ
duyên không có một chút gì những thứ đó. Thơ duyên là tiếng thơ yêu đời, ấm áp, là
tiếng lòng gắn bó với cuộc đời, với con ngời và tạo vật.
- Điều này rất khó phủ nhận, bởi thơ Xuân Diệu trớc CM đúng là thơ u sầu,
buồn bã cô đơn thật. Tuy nhiên nếu xét kỹ, phải thấy bản chất thơ Xuân Diệu trớc
CM cho dù có u sầu cô đơn vẫn là thơ của lòng yêu đời, ham sống đến si mê. Chính
vì vậy hình ảnh cuộc đời qua lăng kính hồn thơ Xuân Diệu mới đẹp đẽ nh một thiên
đờng đầy hoa thơm trái ngọt vậy. Chỉ có điều khát vọng sống, khát vọng yêu của cái
tôi ấy đợc thỏa mãn đến đâu lại là điều nằm ngoài ý muốn chủ quan của nhà thơ. Đó
là mâu thuẫn không thể dung hoà. Vậy nên hiểu cái u sầu u uất của Xuân Diệu là hệ
quả tất yếu của lòng ham sống. Khi tâm hồn ham sống ấy không gặp mảnh đất để
sinh sôi nảy nở.
- Nếu để nhận xét về phong cách thơ Xuân Diệu trong bài này lại phải thấy, tâm hồn
Xuân Diệu là sự kết hợp hai trạng thái dờng nh trái ngợc nhau: Sự sôi sục tràn đầy và sự tinh tế,
duyên dáng. Nếu trạng thái thứ nhất tạo ra những bài thơ sôi nổi cuồng nhiệt nh Vội vàng, Xa
cách, Giục giã... thì trạng thái thứ hai lại tạo ra những bài thơ tinh tế nhạy cảm nh Đây mùa thu
tới, Nhị hồ, Nguyệt cầm... Nhà phê bình Hoài Thanh đã nhận xét: Sự bồng bột của Xuân Diệu
có lẽ đã biểu hiện ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi (Thi nhân Việt
Nam). Nh thế thực ra hai trạng thái dờng nh trái ngợc kia ở Xuân Diệu vẫn là một tâm hồn
nhất quán. Thơ duyên là một trờng hợp rất tiêu biểu cho cái đặc sắc của tâm hồn và lối
xúc cảm của Xuân Diệu.
Cho nên ở Xuân Diệu không phải chỉ có cái khát khao giao cảm mà còn có
năng lực giao cảm kỳ diệu với thế giới xung quanh. Cho nên Thơ duyên mới chính là
1
bài thơ đã bắt vào cái nguồn mạch thơ của Xuân Diệu: là thế giới của sự giao cảm là


năng lực giao cảm và hoà điệu - hoà điệu của thiên nhiên và giao cảm của con ngời.
Có hiểu nh thế mới thấy tính nhất quán của một dòng chảy trong các bài thơ
Xuân Diệu. Dù là Đây mùa thu tới, Vội vàng hay Thơ duyên đều chảy từ một nguồn
cội Xuan Diệu.
- Kiến thức cơ bản cần nắm :
1/ Sự hoà điệu và giao cảm giữa thiên nhiên và con ng ời
a) Sự hoà điệu của thiên nhiên:
- Sự vật gắn bó với nhau trong sự cặp đôi (chiều mộng nhánh duyên, cây me,
cặp chim chuyền )
- Thiên nhiên hoà điệu vì đợc cảm nhận qua tâm trạng lần đầu rung động nỗi
thơng yêu [phân tích cách dùng từ, (chiều mộng nhánh duyên, cây me, cặp chim
chuyền, con đờng nho nhỏ, gió xiêu xiêu )]
b) Sự giao cảm của con ngời:
- Thiên nhiên là bối cảnh là khúc nhạc đêm để làm nổi bật bản tình ca say đắm
của con ngời (Mặc dù nhiều câu thơ nói về thiên nhiên nhng con ngời mới là chủ thể)
- Niềm giao cảm của con ngời bền chặt hơn huyền diệu hơn cả thiên nhiên nhng
con ngời mới là chủ thể (lúc đầu là vô tâm nhng sau đó là hữu tình, lúc đầu là lòng ta
ý bạn nhng sau đó là lòng anh cới lòng em. Phân tích cái hay của cách dùng từ; dùng
hình ảnh cặp vần, lòng anh cới lòng em
2/ Sự thể hiện niềm yêu cuộc sống bằng hồn thơ mãnh liệt, tinh tế
a) Viết về chiều thu nh ng không buồn mà rạo rực niềm vui :
- Thơ xa viết về chiều thu vào buổi chiều thờng buồn (nỗi buồn cộng hởng)
- Chiều thu trong thơ duyên không buồn, chan hoà ánh sáng và âm thanh
b) Sự cảm nhận tinh tế của 1 hồn thơ khát khao yêu đời yêu cuộc sống đến mãnh liệt
- Cảnh vật đều có hồn, có tâm trạng (từ 1 cái nhìn tinh tế của nhà thơ)
- Phát hiện ra sức sống bên trong của sự vật. Phân tích hình ảnh cánh cò trong
thơ Duyên ( có so sánh với hình ảnh cánh cò trong thơ Vơng Bột đời Đờng, lu ý tới
lời bình của Hoài Thanh).
II - Gợi ý phân tích
1. ý nghĩa nhan đề của thơ Duyên :

2
- Duyên chứ không phải là tình, duyên là nguyên cớ, nguyên do dẫn đến mối
quan hệ. Duyên là ngẫu nhiên là vô tình mà dẫn đến sự gắn bó trong tình yêu, sự gắn bó
bền chặt vì vậy mà càng thú vị.
- Thơ duyên chứ không phải thơ tình bởi bài thơ không đơn thuần nói về tình yêu lứa
đôi, cái duyên mà tác giả nói tới có ý nghĩa rộng hơn. Đó là cái duyên của thiên nhiên với
thiên nhiên, của thiên nhiên với con ngời và của con ngời với con ngời.
Vậy mà rất nhiều ngời vẫn đồng nhất Thơ duyên với thơ tình. Thực ra duyên phải
đợc hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm cả tình trong đó (duyên trong thơ HXH: Có
phải duyên nhau thì thắm lại duyên trong Nguyễn khuyến: Kính yêu từ tr ớc đến
sau Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời(Khóc Dơng Khuê). Hoặc trong thơ cổ:
Hữu duyên thiên lý thì khái niệm duyên đã đ ợc mở rộng cho nhiều cuộc tao ngộ
tơng phùng.
Trong bài Thơ duyên, cảm hứng của tác giả có thể bắt đầu từ tình yêu, nhng
nó chỉ là điểm nhìn để từ đó phát hiện ra bao mối tơ duyên hoà hợp, phát hiện ra thế
giới của hoà điệu và giao cảm sự hoà điệu của thiên nhiên và sự giao cảm của con
ngời.
2. Phân tích giá tri tác phẩm:
a) Kết cấu: Mạch cảm xúc đI từ sự bén duyên nhau giữa tạo vật với tạo vật
khiến con ngời cũng xích lại bên nhau. ậ đây cảnh tác động, lây lan cảm xúc sang
ngời. Khác hẳn với các trờng hợp khác nghĩa là cảm xúc con ngời lây lan sang cảnh.
Tâm trạng vui buồn của ngời phủ sang cảnh khiến cảnh buồn theo.
Đối với Thơ duyên chúng ta có thể chọn cả hai cách tiếp cận là bổ ngang hoặc
bổ dọc.
- Nếu bổ ngang cắt từng khổ một ta thấy:
+ Khổ 1: cảnh vật mùa thu tơI tắn, rộn ràng, thơ mộng
+ Khổ 2: Cảnh nh xui khiến con ngời (ta và bạn) để ý nhau.
+ Khổ 3: hai ngời (anh và em) tởng nh vô tâm nhng thực ra đã tạo thành một
cặp vần giữa bài thơ dịu.
+ Khổ 4: Cảnh trong chiều mộng đẫ ngả hoàng hôn, trời thấm lạnh, ngẩn ngơ

lúc giáp ranh sáng tối khiến con ngời không thể vô tâm đợc nữa mà nh hữu ý với
nhau, tìm nhau và gắn bó cùng nhau.
3
+ Khổ 5: Hai tâm hồn hòa làm một
- Nếu bổ dọc khai thác trên 2 ý lớn: hoà điệu của thiên nhiên và sự giao cảm
của con ngời (Trong đó: Mối liên tự nhiên bên trong giữa vạn vật (khổ 1, 4), giữa vạn
vật với con ngời (khổ 2), giữa con ngời với con ngời (khổ 3, 5)
ở đây chúng ta chọn cách bổ ngang:
- Phân tích khổ 1 Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền.
- Khi phân tích thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu, phải thấy thiên nhiên ấy bao
giờ cũng đầy sức sống, luôn rạo rực và không tồn tại biệt lập mà luôn tìm đến
với nhau để giao cảm, hay chính xác là để giao hoà tình tự:
Dù là buổi tối:
Một tối bầu trời đắm sắc mây,
Cây tìm nghiêng xuống nhánh hoa gầy,
Hoa nghiêng xuống cỏ trong khi cỏ
Nghiêng xuống làn rêu, một tối đầy.
(Với bàn tay ấy)
Hay một sớm mai giữa vờn xuân:
ánh sáng ôm trùm những ngọn cao
Cây vàng rung nắng, lá xon xao;
Gió thơm phơ phất bay vô ý
Đem đụng cành mai sát nhánh đào.
(Nụ cời xuân)
- Nh vậy dù ở đâu và lúc nào thiên nhiên ấy cũng nồng nàn say đắm. Đây
chính là cái tôi bản ngã của Xuân Diệu. Bởi XD khi vui hay buồn cũng đều
nồng nàn da diết. Đặc biệt đối với thiên nhiên ông càng nồng nàn say đắm

hơn bao giờ hết.
- Câu 1 : Mở đầu bài thơ là một khung cảnh buổi chiều thu thật đẹp và thơ
mộng. Hình ảnh đầu tiên mà chúng ta bắt gặp ở khổ đầu là chiều mộng.
4
Nhiều ngời đã từng đặt câu hỏi: Chiều mộng là buổi chiều thơ mộng, hay
buổi chiều trong cõi mộng.
Trớc khi trả lời câu hỏi này lại phải thấy, miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên
Xuân Diệu ít khi gọi chúng với cách gọi sáo mòn, cũ kĩ mà thờng gọi một
cách đắm đuối yêu thơng. Chẳng hạn xuân hồng, chiều thơm tháng
giêng ngon Trong bài này chiều thu cũng đã thành chiều mộng nhánh
cây thành nhánh duyên nghĩa là đã đợc gọi theo cách riêng rất Xuân Diệu.
Mặt khác không phải ai cũng có thể nhận ra thế giới hữu tình của thiên nhiên
để có thể nhìn sự vật trong sự cặp đôi. 2 ngời trong bài thơ này đang ở trong
tâm trạng lần đầu rung động nỗi thơng yêu cho nên nhìn sự vật qua con mắt
thơng yêu vì thế hiện thực trở thành thơ mộng huyền ảo, cho nên chiều thu
thành chiều mộng, nhánh cây thành nhánh duyên.
- Hình ảnh tiếp theo là nhánh duyên. Nhiều ngời cũng đã từng đặt câu hỏi:
nhánh duyên là Một câu hỏi đợc đặt ra: Nhánh duyên là làm duyên hay sự
duyên dáng tình tứ? Có lẽ nên hiểu nhánh duyên là những đờng nét duyên dáng
của nhành lá.
- Câu 2 : Cây me ríu rít cặp chim chuyền Tại sao lại là cặp chim chuyền chứ
không phải là đôi, là 2 chim chuyền? Thực ra nếu dùng đôi hay là 2 thì việc
miêu tả chim chỉ thuần túy là miêu tả cảnh quan, 2 con chim chỉ đơn thuần là
số lợng. Khi XD dùng cặp chim thì không phải chỉ là miêu tả cảnh quan
nữa là là miêu tả mà là miêu tả thế giới tinh thần của nó. Cặp đôi diễn tả sự
gắn bó khăng khít thân mật.
- Câu 3 : Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá Đây là một câu thơ miêu tả màu
sắc màu xanh ngọc, màu xanh đợc lọc qua ánh sáng (So sánh với Vờn ai
mớt quá xanh nh ngọc màu xanh non tơ của Hàn Mặc Tử). ở đây màu xanh
đẹp bởi kết hợp với sắc trời bầu trời xanh trong, ánh sáng của nó đổ xuống

muôn lá nhuộm không gian một màu xanh ngọc (màu xanh có ánh sáng bên
trong).
- Câu 4: Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền. Tiếng huyền là tiếng thu
hay sự huyền ảo?
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×