Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Các vị La Hán chùa Tây Phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.45 KB, 7 trang )

Các vị la hán chùa Tây Phơng

-Huy Cận-
I. Tác giả Huy Cận:
- Nói đến thơ HC trớc cách mạng thế nào cũng phải nói đến chữ sầu, khi ông xuất hiện trên thi đàn với tập
Lửa thiêng, ngời ta có cảm giác nh cái mạch sầu vẫn ngấm ngầm trong mảnh đất này từ mấy trăm năm trớc,
dồn chứa tích tụ để thành một khối sầu lớn. Và cái khối sầu ấy chính là Lửa thiêng. Và để trốn nỗi sầu đời, HC
tìm đến cái mênh mông của vũ trụ. Nhng tránh vỏ da gặp vỏ dừa HC gặp nỗi sầu vũ trụ mêng mang hơn tha thiết
hơn. Cứ nh thế hồn thơ HC đi đi về về giữa hai cõi sầu ấy.
- Sau cách mạng cũng nh CLV, HC bế tắc, im lặng suốt mời mấy năm. Sau chuyện đi thực tế khu mỏ
Quảng Ninh ông mới sáng tác trở lại bằng tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng. Từ đó đến nay HC viết rất đều và rất
khỏe: Đất nở hoa, Bài thơ CĐ, Những năm 60 HC còn làm thơ cho trẻ em và rất phong phú với tập Hai bàn
tay em, các truyện thơ Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Mỵ Châu Trọng Thuỷ. Ông đã đợc xét tặng danh hiệu nghệ sỹ
nhân dân nghệ sỹ u tú
II..Tác phẩm :
1. Bố cục bài thơ CVLHCTP có 15 khổ thơ đợc chia làm ba phần.
- ở phần đầu HC dùng ngôn ngữ thi ca của mình để tạc lại các pho tợng La Hán. Có thể nói đây là phần
hay nhất, đặc sắc nhất của cả tác phẩm.
- ở phần hai, HC chủ động tạo ra một cuộc đối thoại giữa ông với những nghệ nhân xa, những ngời đã tạc
nên những pho tợng La hán. Thông qua cuộc đối thoại này ông muốn bày tỏ cách nhìn và thái độ của ông đối với
những nỗi đau và sự bế tắc của cha ông trong quá khứ.
- Phần tiếp theo của tác phẩm là lời giải đáp của XH hôm nay nhằm hoá giải những nỗi khổ đau và sự bế
tắc của thế hệ cha ông trớc kia.
2. Phân tích 8 khổ thơ đầu:
*Nhận xét tổng quát:
Chúng ta đều biết điêu khắc là một bộ môn nghệ thuật thuộc lĩnh vực nghệ thuật không gian mà đặc trng cơ
bản của loại nghệ thuật này là tính cụ thể trực cảm. Khi ngắm nhìn một pho tợng, cùng một lúc toàn bộ vẻ đẹp của
hình tợng điêu khắc hiển hiện ngay trớc mặt ta với những hình khối đờng nét, tỉ mỉ.Ta còn có thể đến ngay bên
cạnh bức tợng để vuốt lên những đờng nét của nó để có thể cảm nhận một cách cụ thể hơn. Trong khi ấy thì ngôn
ngữ thơ ca nói riêng và ngôn ngữ văn chuơng nói chung lại là một bộ môn nghệ thuật thuộc lãnh vực nghệ thuật
thời đại. Chẳng hạn nh : văn chơng, âm nhạc, điện ảnh.v.v... thuộc lĩnh vực này. Đặc trng của nghệ thuật này là tính


1
trừu tợng, mà hình tợng nghệ thuật của nó lại dợc các tác giả khắc bằng trí tởng tợng của ngời đọc ngời xem. Mà
trí tởng tợng thì chẳng ai giống ai cả. Nh vậy khi dùng ngôn ngữ thơ ca để tạc lại bức tuợng La Hán có thể nói HC
đã bị đặt trớc một thử thách rất nghiệt ngã. Ông phải vợt qua sự ngăn cách của hai lĩnh vực NT rất khác nhau. Nếu
non tay một chút thì thà để ngời ta trực tiếp ngắm nhìn các pho tợng có khi ngời ta lại thấy đẹp hơn. Nhng nếu ng-
ời viết có tài thì rất có thể những bức tợng mà ông tạo ra trong lòng ngời đọc lung linh hơn sống động hơn chính
những bức tợng thật ở ngoài đời. Có thể nói HC đã rất tài tình khi sử dụng ngôn ngữ thơ ca của mình để tạc lại các
bức tợng La Hán. Và bất kì ai đã đợc xem các bức tợng này ở chùa Tây Phơng rồi lại đợc đọc tác phẩm của HC
đều phải thừa nhận HC rất có tài. Chỉ bằng ngôn ngữ thơ ca thôi mà ông dựng lại các bức tợng rất sống động, có
hình khối, có đờng nét. Ngôn ngữ của ông ở 8 khổ thơ đầu này là một thứ ngôn ngữ của một ngời có kinh nghiệm
chạm khắc. Vì sự khắc hoạ quá tài tình của HC mà có ngời còn cho đoạn thơ này đã tạo ra những bức điêu khắc
bằng lời. Mặt khác hình tợng thơ ở đây còn chứa đựng những suy ngẫm triết lý về nhân sinh và một thời đại lịch
sử mà xã hội quănf quại trong đau khổ và bế tắc không tìm đợc lối ra.
- 8 khổ thơ đầu đã đợc HC sắp xếp theo một trình tự vừa hợp lí vừa hết sức chặt chẽ.
- ở khổ thơ đầu ghi lại ấn tợng chung nhất của ông khi đến thăm chùa TP, khi ngắm nhìn các pho tợng La
Hán ở ngôi chùa này.
- Tiếp theo ông tả hình ảnh ba pho tợng La Hán cụ thể.
- Sau đó ông lại lùi ra để tả bao quát cả nhóm tợng. Và ở phần này ông vừa tả bao quát vừa bộc lộ suy nghĩ
của mình.
- Phân tích khổ thơ mở đầu:
Các vị La Hán chùa Tây Phơng
Tôi đến thăm về lòng vấn vơng
Há chẳng phải đây là xứ phật
Mà sao ai nấy mặt đau thơng
- Hồi trớc cách mạng khi đang còn là sinh viên CĐ Nông lâm Đông Dơng, HC đã đến thăm chùa Tây Ph-
ơng. Ngắm nhìn các pho tợng La Hán bày ở đây, HC rất xúc động nhng ông vẫn không sáng tác đợc bởi lẽ HC
không sao lí giải nổi. Thờng thì cửa Phật là mơi thoát tục, ngời ta tìm đến với cửa Phật có lẽ chỉ một phần tin vào
giáo lý của nhà Phật còn cái phần chủ yêú hơn là tìm sự thanh thản cho bản thân. Vì cửa Phật lẽ ra phải là nơi thoát
tục, nơi mọi u phiền âu lo của cuộc sống đều không thể đến đợc. Thế mà đến chùa TP, HC lại không có đợc sự
thanh thản ấy. Ngợc lại ngắm nhìn các pho tợng La Hán ở chùa này, HC lại có cảm giác nỗi đau của cuộc đời đã

dồn tụ cả về đây để hiển hiện trong hình hài các pho tợng kia.
2
- Bẵng đi một thời gian dài cho mãi đến sau này gặp lại, nghĩa là mời mấy năm sau HC mới quay trở lại
ngôi chùa này lần hai, xúc cảm thì vẫn nguyên vẹn nh lần đến đầu tiên, chỉ khác là lần này HC đã hiểu và đã lí giải
đợc nỗi băn khoăn mà mời mấy năm trớc ông không làm đợc. Sau chuyến đi ấy HC đã viết tác phẩm Các vị La
Hán chùa Tây Phơng.
3.Phân tích ba khổ thơ tiếp theo:
- Sau ấn tợng chung tác giả đi vào miêu tả một cách rõ nét ở những pho tợng La Hán cụ thể. Mỗi pho tợng
một vẻ khác nhau.
a. Pho t ợng thứ nhất:
Đây vị xơng trần chân với tay
Có chi thiêu đốt tấm thân gày
Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt
Tự bấy ngồi y cho đến nay
- Cái ấn tợng rõ rệt nhất của HC khi ngắm nhìn bức tợng La Hán này là sự gầy guộc về thân xác. Vị La
Hán này cứ nh một bộ xơng hiện hình ngời chỉ toàn là những xơng trần chân với tay. Thế nhng cái hình hài khô
đét ấy tởng nh chẳng còn một chút sức sống nào lại có đời sống nội tâm dữ dội. Bằng động từ thiêu đốt tác giả HC
nh đã thổi linh hồn vào trong bức tợng, tạo cho nó một sức sống bên trong rất mãnh liệt. Những suy nghĩ bên trong
ấy nh thiêu đốt tâm can làm cho hai hố mắt của bức tợng La Hán này trũng sâu xuống.
- ở bức tợng La Hán thứ nhất này tác giả HC không chỉ cảm nhận đợc sự gầy guộc về thân xác mà ông
còn cảm nhận đựơc sự bế tắc và bất lực. Pho tợng La Hán này giống nh sự bế tắc và bất lực đông cứng lại. Thực tế
thì không ai ngạc nhiên hay thấy lạ vì vị La Hán ngồi yên lâu nh thế. Bởi đã là tợng thì phải ngồi yên. Ai cũng ví
ngồi yên nh tợng. Vậy mà chỉ riêng HC thắc mắc vì thấy Vị La Hán này ngồi lâu trong một t thế bất động hàng
trăm năm rồi. Cho nên đây lại là một cách nói, một cách nói khúc triết khiến sự thật hiển nhiên trở nên có tính vấn
đề, có ẩn chứa nội dung sâu sa.
Theo một hớng khác cũng có thể lý giải, thực ra hình xác bất động để dồn năng lợng vào tâm linh, cho nên
mới: Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt. Chữ sâu đắt vì nó thăm thẳm đến buốt nhói, gợi một sự thâm u, sâu
kín. Cũng nhờ chữ sâu, ngời đọc có cảm giác những suy t triền miên của tâm linh đã vắt héo cả thân xác nhà tu
hành. Đây là điểm dị biệt giữa cái nhìn của nhà thơ và cái nhìn của phật giáo. Nhà Phật quan niệm ép xác, giải thoát
linh hồn để lên cõi Niết Bàn cực lạc. Trong khi đó HC lại nhìn sự ép xác nh một nỗi đau đời. Vì hai chữ thiêu đốt

rừng rực nỗi đau. Thân xác hao gầy nh hệ quả của sự vật vã tâm linh.
b. Pho t ợng La Hán thứ hai:
Có vị mắt giơng, mày nhíu xệch
3
Trán nh nổi sóng biển luân hồi
Môi cong chua chát tâm hồn héo
Gân vặn bàn tay mạch máu sôi
- Khác hẳn với pho tợng La Hán thứ nhất đợc tác giả miêu tả hoàn toàn trong trạng thái tĩnh, ở pho tợng La
Hán thứ hai này mọi miêu tả đờng nét đều động. Và tất cả những vận động đều ở mức tột cùng căng thẳng. Bút
pháp HC nh réo sôi lên trong những đợt sóng của động từ và tính từ. Và hình xác pho tợng cũng nh rung chuyển
theo những đợt sóng ngôn từ ấy. Nào là: giong, nhíu xệch, nổi sóng, nào là cong, chua chát, héo, vặn, sôi. HC d-
ờng nh huy động hết cờng độ, và những khả năng có thể của các động từ tính từ để diễn tả một tâm linh sôi sục nh
muốn phá vỡ cái vỏ xác chật chội khô cứng. Đó hẳn phải là một tâm linh ẩn chứa những khát vọng lớn, nhng đang
rơi vào bất lực. Sự tinh tế trong cái nhìn, trong cách diễn đạt chứng tỏ sức tởng tợng mãnh liệt của thi sĩ. Với sức t-
ởng tợng của mình, ông còn muốn làm nổi bật đời sống nội tâm, cái thế giới tâm linh u kín ấy lên từng thớ gỗ.
Những câu thơ có hình khối đờng nét, có cả thần thái tâm linh, vì vậy đã trở thành những nét điêu khắc tài hoa về
một pho tợng có nỗi đau nhân thế.
c. Pho t ợng thứ 3:
Có vị chân tay co xếp lại
Tròn xoe tựa thể chiếc thai non
Nhng đôi tai rộng dài ngang gối
Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn
- Pho tợng thứ 3 này rất lạ, khác hẳn hai pho tợng trên. Thông thờng trong cuộc đời khi mà con ngời còn
có phản ứng trớc những nỗi đau dù là theo cách giấu nó vào trong hay bộc lộ nó ra bên ngoài thì ít nhiều con ngòi
vẫn còn yêu đời vẫn còn quan tâm đến cuộc sống. Sợ nhất là khi ngời ta trơ ra, chẳng biểu lộ gì cả. Nỗi đau đời của
các vị La Hán theo cái cách chìm vào bên trong nh pho tợng thứ nhất hay lộ ra bên ngoài nh pho tợng thứ hai dẫu
sao vẫn còn có sự gắn bó của những vị La Hán này đối với cuộc đời. Pho tợng thứ 3 lại khác. Nó lạ và bất ngờ hơn
hai pho tợng kia. Lạ và bất ngờ trớc hết là ở hình dáng pho tợng. Mặc dù thực tế thì pho tợng này ngồi trong t thế
thiền định an bằng, siêu thoát. Vậy mà trong cái nhìn của HC vị La Hán này cố co quắp lại chân tay co xếp
lại, cố thu mình thật nhỏ Tròn xeo tựa chiếc thai non dờng nh là để tách mình ra khỏi thế giới để khỏi phải nhìn

thấy nỗi khổ đau của cuộc đời.
- Thế nhng 2 câu thơ sau lại miêu tả một tình trạng gần nh ngợc lại, mâu thuẫn với 2 câu thơ đầu.
Nếu 2 câu thơ đầu vị La Hán cố thu nhỏ mình, cố né tránh để lánh đời thì ở 2 câu sau bằng cách miêu tả đôi tai
rộng dài ngang gối HC đã nhìn thấy cái thế không thể lánh đời mà ngợc lại còn nhập thế của pho tợng.
4
Thực tế theo quan niệm của nhà phật thì tai to khác thờng là phật tớng là tổng hợp bao đức tính tốt đẹp
nh: phúc đức, nhân từ, làm nhiều điều thiện Nhng trong mắt và theo quan niệm của HC thì tai chỉ để nghe thôi
(giống nh mắt để nhìn, miệng để ăn, để nói vậy). Đặc biệt điều quan trọng mà HC muốn nhấn mạnh là nghe
chuyện buồn chứ không phải nghe chuyện vui. Cho nên đây cũng là một cách nhìn độc đáo, một sáng tạo độc đáo
của HC khi đánh giá nghệ thuật tạc tợng của các nghệ nhân xa kia. Té ra muốn lánh đời để tu hành, tịch diệt, nhng
đời nh bể khổ cứ vỗ sóng vào tận cửa thiền khiến cõi tu hành trở thành cửa ngõ đón nhận, cảm thông với bể khổ
của chúng sinh.
Tóm lại: qua những pho tợng La Hán đợc tạc bằng ngôn từ, chúng ta thấy một thành công nữa của HC là
ở chỗ bút pháp tạo hình không chỉ sinh động mà luôn ngầm ẩn một ý vị triết học nhân sinh thấm thía, nhờ thế mà
tác giả đã tạo ra một hệ thống tợng La Hán cho riêng mình, và hấp dẫn ngời đọc hiểu tợng theo cách của ông.
4. Phân tích bốn khổ cuối:
Các vị ngồi đây trong lặng yên
Mà nghe giông bão nổ trăm miền
Nh từ vực thẳm đời nhân loại
Bóng tối đùn ra trận gió đen.
Mỗi ngời một vẻ mặt con ngời
Cuồn cuộn đau thơng cháy dới trời
Cuộc họp lạ lùng trăm vật vã
Tợng không khóc cũng đổ mồ hôi
Mặt cúi mặt nghiêng mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hớng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau
Có thực trên đờng tu đến Phật
Trần gian tìm cởi áo trầm luân

Bờy nhiêu quằn quại run lần chót
Các vị đau theo lòng chúng nhân.
5

×