Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module 1 đặc điểm tâm sinh lí của học sinh thcs

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.82 KB, 28 trang )

BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
MODULE 1: ĐẶC ĐIỂM TÂM SINH LÍ CỦA HỌC SINH THCS.
Họ và tên: Trần Thị Ca
Chức vụ: Giáo viên
Tổ: KH TN
Giảng dạy môn: Sinh
Sau khi tự học tự bồi dưỡng thường xuyên module 1: Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh
trung học cơ sở tôi đã tiếp thu được những kiến về đặc điểm tâm sinh lí của học sinh THCS
và từ đó tôi đã áp dụng những kiến thức lí thuyết này vào công tác giảng dạy, chăm sóc học
sinh ở lớp và học sinh bán trú trong trường, cụ thể như sau:
I. Về tiếp thu kiến thức lí thuyết trong tài liệu BDTX.
- Nội dung chính của module gồm những vấn đề sau:
+ Khái quát về giai đoạn phát triển của học sinh THCS.
+ Các điều kiện phát triển tâm lí của HS THCS.
+ Tìm hiểu hoạt động giao tiếp của học sinh trung học cơ sở.
+ Tìm hiểu sự phát triển nhận thức của học sinh trung học cơ sở.
+ Tìm hiểu sự phát triển nhân cách của học sinh trung học cơ sở.
1. Khái quát về giai đoạn phát triển của học sinh THCS.
Lứa tuổi HS THCS bao gồm những em có độ tuổi tù 11 - 15 tuổi. Đó là những em đang
theo học tù lớp 6 đến lớp 9 ở trường THCS. Lứa tuổi này còn gọi là lứa tuổi thiếu nìên và
nó có một vị trí đặc biệt trong quá trình phát triển của trẻ em.
Đây là thời kì quá độ từ tuổi thơ sang tuổi trường thành, thời kì trẻ ở ba đường của sụ
phát triển. Trong đó có rất nhiều khả năng, nhiều phương án, nhiều con đường để mỗi trẻ
em trở thành một cá nhân. Trong thòi kì này, nếu sự phát triển đuợc định huớng đúng, được
tạo thuận lợi thì trẻ em sẽ trở thành cá nhân thành đạt, công dân tốt. Ngược lại, nếu không
được định hướng đúng, bị tác động bời các yếu tố tiêu cực thì sẽ xuất hiện hàng loạt nguy
cơ dẫn trẻ em đến bên bờ của sự phát triển lệch lạc về nhận thức, thái độ, hành vi và nhân
cách.
Thời kì mà tính tích cực xã hội của trẻ em được phát triển mạnh mẽ, đặc biệt trong việc
thiết lập các quan hệ bình đẳng với người lớn và bạn ngang hàng.
Trong suổt thời kì tuổi thiếu niên đều diễn ra sự cấu tạo lại, cải tổ lại, hình thành các cấu


trúc mới về thể chất về sinh lí.
Tuổi thiếu niên là giai đoạn khó khăn, phúc tạp và đầy mâu thuẫn trong quá trình phát
triển.
2.Các điều kiện phát triển tâm lí của HS THCS.
a. Sự phát triển cơ thể.
- Bước vào tuổi thiếu niên có sự cải tổ lại hết sức mạnh mẽ và sâu sắc về cơ thể, về sinh
lí. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển cơ thể của cá nhân. Đây là giai đoạn phát
triển nhanh thứ hai, sau giai đoạn sơ sinh.
* Sự phát triển của chiều cao và trọng lượng:
Chiều cao của các em tăng rất nhanh: trung bình một năm, các em gái cao thêm 5 - 6
cm, các em trai cao thêm 7 - 8 cm. Trọng lượng của các em tăng từ 2 - 5kg /năm, sụ tăng
vòng ngực của thiếu niên trai và gái...
* Sự phát triển của hệ xương:
- Hệ xương đang diễn ra quá trình cốt hóa về hình thái, làm cho thiếu niên lớn lên rất
nhanh, xương sọ phần mặt phát triển mạnh. Ở các em gái đang diễn ra quá trình hoàn thiện
5


các mảnh xương chậu (chứa đựng chức năng làm mẹ sau này) và kết thúc vào tuổi 20 – 21.
Bởi vậy, cần tránh cho các em đi giày, guốc cao gót, tránh nhảy quá cao để khỏi ảnh hưởng
đến chức năng sinh sản của các em. Mặc khác trong sự phát triển hệ xương chân, xương tay
phát triển nhanh nhưng xương cổ tay và các đốt ngón tay chưa hoàn thiện nên các thao tác
hành vi ở các em còn lóng ngóng, làm gì cũng đổ vỡ, hậu đậu. Sự mất cân đối này sẽ diễn ra
trong thời gian ngắn, cuối tuổi thiếu niên sự phát triển thể chất sẽ êm ả hơn.
* Sự xuất hiện của tuyến sinh dục (hiện tượng dậy thì):
- Sự trưởng thành về mặt sinh dục là yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển cơ thể của
lứa tuổi thiếu niên.
+ Dấu hiệu dậy thì ở em gái là sự xuất hiện kinh nguyệt, sự phát triển tuyến vú. Ở em
trai là hiện tượng “vỡ giọng”, sự tăng lên của thể tích tinh hoàn và bắt đầu có hiện tượng
“mộng tinh”. Tuổi dậy thì ở các em gái Việt Nam vào khoảng 12 – 14 tuổi, ở các em trai bắt

đầu và kết thúc chậm hơn các em gái khoảng từ 1,5 đến 2 năm.
Dấu diệu phụ báo tuổi dậy thì có sự khác nhau giữa các em trai và gái. Các em trai cao rất
nhanh, giọng nói ồm ồm, vai to, có ria mép… Các em gái cũng lớn nhanh, thân hình duyên
dáng, da dẻ hồng hào, tóc mượt mà, môi đỏ, giọng nói trong trẻo…
Sự xuất hiện tuổi dậy thì phụ thuộc yếu tố khí hậu, thể chất, dân tộc, chế độ sinh hoạt (vật
chất, tinh thần…), lối sống… Tuy nhiên, hiện nay do gia tốc phát triển thể chất và phát dục
nên tuổi dậy thì có thể đến sớm hơn từ 1,5 – 2 năm.
+ Đến 15 – 16 tuồi, giai đoạn dậy thì kết thúc. Các em có thể sinh sản được nhưng các
em chưa trưởng thành về mặt cơ thể, đặc biệt về mặt tâm lý và xã hội. Bởi vậy lứa tuổi HS
THCS không được coi là có sự cân đối giữa sự phát dục, giữa bản năng tương ứng, những
tình cảm và ham muốn tình dục với mức trưởng thành về xã hội và tâm lý. Vì thế, người lớn
(cha mẹ, giáo viên, các nhà giáo dục…) cần hướng dẫn, trợ giúp một cách khéo léo, tế nhị
để các em hiểu đúng vấn đề, biết xây dựng mối quan hệ đúng đắn với bạn khác giới… và
không băn khoăn lo lắng khi bước vào tuổi dậy thì.
+ Sự phát dục và những biến đổi trong sự phát triển thể chất của tuổi thiếu niên có ý nghĩa
quan trọng đối với sự xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới. Những biến đổi rõ rệt về mặt giải
phẫu sinh lý đối với thiếu niên đã làm cho các em trở thành một người lớn một cách khách
quan và làm nảy sinh cảm giác về tính người lớn của bản thân các em. Sự phát dục làm cho
thiếu niên xuất hiện những cảm giác, tình cảm và rung cảm mới mang tính chất giới tính,
các em quan tâm nhiều hơn đến bạn khác giới.Tuy nhiên, những ảnh hưởng trên đến sự phát
triển tâm lí của HS THCS còn phụ thuộc nhiều yếu tố: kinh nghiệm sống, đặc điểm giao
tiếp của thiếu niên, những hoàn cảnh riêng trong cuộc sống và điều kiện giáo dục (gia đình
và nhà trường) đối với các em.
3. Tìm hiểu hoạt động giao tiếp của học sinh THCS.
Giao tiếp là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi ở lứa tuổi thiếu niên. Lứa tuổi thiếu niên có
những sự thay đổi rất cơ bản trong giao tiếp của các em với người lớn và với bạn ngang
hàng. Theo một nghiên cứu, HS THCS dành 1 nửa thời gian của mình cho bạn bè và khoảng
5% cho cha mẹ.
* Giao tiếp với người lớn: gồm những đặc điểm sau:
- Thứ nhất: các em có nhu cầu được tôn trọng cao trong quá trình giao tiếp với người

lớn. Các em đòi hỏi được bình đẳng, tôn trọng, được đối xử như người lớn, được hợp tác,
cùng hoạt động với người lớn. Nếu người lớn ra lệnh với các em thì bằng cách này hay cách
khác sẽ xuất hiện thái độ phản ứng tiêu cực, công khai hoặc ngấm ngầm. Mặt khác, các em
có khát vọng độc lập, được khẳng định, không thích sự quan tâm, can thiệp của người lớn,

6


không thích có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của người lớn. Rất dễ dẫn đến tình trạng mâu
thuẫn, xung đột trong gia đình (lời nói, việc làm, bỏ nhà ra đi…)
- Thứ hai: trong quan hệ với người lớn, ở thiếu niên thường xuất hiện nhiều mâu thuẫn.
Do sự phát triển mạnh về thể chất và tâm lý nên trong quan hệ với người lớn, thiếu niên có
nhu cầu thoát ly khỏi sự giám sát của người lớn, muốn độc lập. Tuy nhiên do địa vị còn lệ
thuộc, do chưa có nhiều kinh nghiệm ứng xử và giải quyết vấn đề liên quan trực tiếp tới
hoạt động và tương lai cuộc sống nên các em vẫn có nhu cầu được người lớn gần gũi, chia
sẻ và định hướng cho mình, làm gương để mình noi theo. Mặt khác là mâu thuẫn giữa sự
phát triển nhanh, bất ổn định về thể chất, tâm lý và vị thế xã hội của trẻ em với nhận thức và
hành xử của người lớn không kịp sự thay đổi đó. Vì vậy người lớn vẫn thường có thái độ và
cách cư xử với các em như với trẻ nhỏ.
- Thứ ba: trong tương tác với người lớn, thiếu niên thường cường điệu hóa các tác động
của người lớn trong ứng xử hằng ngày. Các em thường suy diễn, thổi phồng, cường điệu
hóa quá mức tầm quan trọng của các tác động đó, đặc biệt là đến danh dự và lòng từ trọng
của các em. Trong khi đó, hành vi của chính các em có thể gây hậu quả đến tính mạng mình
lại thường bị các em coi nhẹ. Vì vậy, chỉ cần một sự tác động của người lớn làm tổn thương
chút ít đến các em thì trẻ thiếu niên coi đó là sự xúc phạm lớn, sự tổn thất hồn nghiêm
trọng, từ đó dẫn đến các phản ứng tiêu cực cường độ mạnh.
* Giao tiếp giữa thiếu niên với nhau:
- Ở tuổi thiếu niên, giao tiếp với bạn trở thành một hoạt động riêng và chiếm vị trí quan
trọng trong đời sống các em. Nhiều khi giá trị này cao đến mức đẩy lùi học tập xuống hàng
thứ 2 và làm cho các em sao nhãng việc giao tiếp với người thân.

Các em giao tiếp với bạn để khẳng định mình, trao đổi những nhận xét, tình cảm, ý chí, tâm
tư, khó khăn của mình trong quan hệ với bạn, với người lớn…. các em mong muốn có bạn
thân để chia sẻ, giải bày tâm sự, vướng mắc, băn khoăn.
- Trong cuộc sống hằng ngày, các em không thể không có bạn. Sự tẩy chay của bạn bè,
của tập thể có thể thúc đẩy các em sửa chữa để hòa nhập với bạn, cũng có thể làm cho các
em tìm kiếm và gia nhập nóm bạn ngoài đường; hoặc nảy sinh các hành vi tiêu cực như phá
phách, gây hấn…hoặc cũng có thể khiến các em cảm thấy bế tắc và chán nản.
- Thiếu niên coi quan hệ với bạn là quan hệ riêng cá nhân và các em muốn được độc lập,
không muốn người lớn can thiệp. Người bạn kết giao phải là người tôn trọng, trung thực,
cởi mở, hiểu biết và sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau.Thiếu niên yêu cầu rất cao về phía bạn cũng
như bản thân. Vì vậy, các em thường lên án những thái độ và hành vi từ chối giúp bạn, ích
kỷ, tham lam, tự phụ, hay nói xấu bạn, nịnh bợ.
- Sắc thái giới tính trong quan hệ với bạn ở thiếu niên: sự dậy thì kích thích thiếu niên
quan tâm đến bạn khác giới. Xuất hiện những rung động, những cảm xúc mới lạ với bạn
khác giới. Sự quan tâm đến bạn khác giới có ý nghĩa đối với sự phát triển nhân cách HS
THCS: có tể động viên những khả năng của thiếu niên, gợi nên những nguyện vọng tốt.
Trong giao tiếp với bạn khác giới, các em cũng thể hiện mâu thuẫn giữa ý muốn, nhu cầu
với hành vi thể hiện (có nhu cầu giao tiếp với bạn khác giới nhưng lại cố ngụy trang ý
muốn, che giấu nội tâm của mình). Các bạn nam thể hiện khá mạnh mẽ, đôi khi còn thô bạo,
“gây sự” với bạn nữ để bạn chú ý tới mình. Các em nữ thường kín đáo, tế nhị hơn (các em
thường chú ý đến hình thức của mình, trang phục, cách ứng xử, che giấu, tình cảm của
mình…)
4. Tìm hiểu sự phát triển về nhận thức của học sinh THCS.
* Sự phát triển tri giác:

7


Ở HS THCS, khối lượng các đối tượng tri giác tăng lên rõ rệt. Tri giác có trình tự, có kế
hoạch và hoàn thiện hơn. Các em có khả năng phân tích và tổng hợp phức tạp khi tri giác sự

vật, hiện tượng.
Sự tri giác của HS còn 1 số hạn chế: thiếu kiên trì, còn vội vàng, hấp tấp trong tri giác, tính
tổ chức, tính hệ thống trong tri giác còn yếu.
*Sự phát triển trí nhớ:
Ghi nhớ chủ định, ghi nhớ ý nghĩa, ghi nhớ logic dần được chiếm ưu thế hơn ghi nhớ
máy móc.
Nếu trước đây các em học sinh tiểu học thường cố gắng ghi nhớ từng chữ từng bài thì
bây giờ học sinh THCS thường phản đối yêu cầu của giáo viên bắt học thuộc lòng và có
khuynh hướng muốn tái hiện bằng lời nói của mình.
* Sự phát triển chú ý:
Chú ý có chủ định phát triển mạnh. Sức tập trung chú ý cao hơn, khả năng duy trì chú ý
được lâu bền hơn so với nhi đồng, khả năng di chuyển sự chú ý từ thao tác này đến thao tác
kia cũng được tăng cượng. Chú ý của các em phụ thuộc vào tính chất đối tượng và mức độ
hứng thú với đối tượng. Chính vì thế các em có thể tập trung vào giờ học này nhưng lại lơ
đễnh vào giờ khác.
Mặt khác, chú ý có chủ định của các em chưa bền vững, dễ bị ấn tượng và rung động mạnh
mẽ, phong phú làm phân tâm.
* Sự phát triển tư duy:
Chuyển từ tu duy cụ thể sang tư duy trừu tượng. Đầu cấp THCS thì tư duy cụ thể vấn
phát triển mạnh và giữ vai trò quan trọng trong cấu trúc tư duy. Sang cuối cấp THCS, tư duy
trừu tượng phát triển mạnh. Biết phân tích tài liệu một cách đầy đủ, sâu sắc, đi vào bản chất.
*Sự phát triển tưởng tượng và ngôn ngữ:
- Khả năng tượng tưởng khá phong phú nhưng còn bay bổng, thiếu thực tiễn.
- Ngôn ngữ của HS THCS đang phát triển mạnh, vốn từ tăng lên rõ rệt. Ngôn ngữ phức
tạp hơn, từ vựng phong phú, logic chặt chẽ hơn.
- Tuy nhiên còn hạn chế: khả năng dùng từ để biểu đạt ý nghĩa còn hạn chế, các em dùng
từ chưa chính xác, chưa chú ý cách diễn đạt theo cấu trúc ngữ pháp chặt chẽ, một số em
thích dùng từ cầu kỳ bóng bẩy nhưng sáo rỗng do ý muốn bắt chước người lớn, hoặc sử
dụng một số thành ngữ dung tục.
5. Tìm hiểu sự phát triển nhân cách của học sinh THCS.

* Tự ý thức:
- Bắt đầu tự nhận thức những hành vi của mình (từ hành vi riêng lẻ toàn bộ hành vi và
nhận thức về phẩm chất đạo đức, tích cách và khả năng)
- Nhu cầu so sánh mình với người khác, xem xét và muốn vạch ra một nhân cách tương
lai.
- Đánh giá khả năng bản thân, tìm kiếm vị trí của mình trong tập thể.
- Từ nhận xét của người khác tự nhìn nhận bản thân mình
- Kỹ năng chưa đầy đủ để phân tích đúng đắn sự biểu lộ của nhân cách đánh giá mình và
người khác còn phiến diện
* Sự phát triển nhận thức đạo đức và hành vi ứng xử của học sinh THCS:
- Tuổi THCS là tuổi hình thành thế giới quan, lý tưởng, niềm tin đạo đức, những phán
đoán giá trị…Do sự mở rộng các quan hệ xã hội, sự phát triển tự ý thức, đạo đức của các
em phát triển mạnh. HS biết cách sử dụng những nguyên tắc riêng, các quan điểm, các sáng
kiến để chỉ đạo hành vi.

8


- Có một số kinh nghiệm và khái niệm đạo đức đuợc hình thành tự phát ngoài sự hướng
dẫn của giáo dục (sách báo, phim ảnh, bạn bè…) do đó các em có thể có những ngộ nhận,
hiểu biết phiến diện, không chính xác về các khái niệm đạo đức. Cần lưu ý điều này trong
giáo dục đạo đức cho các em.
* Sự hình thành tình cảm:
- Tình cảm: dễ xúc động, kích động, thất thường, bồng bột, dễ thay đổi, đôi khi còn mâu
thuẫn. Tình cảm bạn bè, tình đồng chí, tình tập thể ở lứa tuổi này phát triển mạnh. Các em
đối xử với nhau chân thành, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn. Các em
tin tưởng và kể cho nhau nghe những câu chuyện thầm kín. Các em không thể không có
bạn. Vì thế khi bị bạn phê bình các em cảm thấy khổ tâm, buồn phiền, đặc biệt những em bị
bạn bè không chơi, tẩy chay thì đó là một đòn tâm lý nặng nề đối với các em.
II. Vận dụng kiến thức lí thuyết vào thực tiễn.

Bản thân tôi đang là giáo viên đứng lớp giảng dạy môn Ngữ văn và kiêm nhiệm công tác
chủ nhiệm lớp của trường PTDT BT THCS Nà Khoang, qua học tập module tìm hiểu về
đặc điểm tâm sinh lí của học sinh trong học cơ sở, tôi đã hiểu sâu hơn tâm sinh lí của các
em học sinh trong lớp chủ nhiệm và học sinh của nhà trường. Từ học tập kiến thức lí thuyết
tôi đã áp dụng vào việc tìm hiểu, nắm bắt tâm tư, nguyệt vọng của các em học sinh thông
qua những việc làm sau:
- Đối với học sinh lớp chủ nhiệm: Tôi luôn quan tâm và tìm hiểu hoàn cảnh và những thay
đổi, những tác động của gia đình đến học sinh của lớp chủ nhiệm.
để hiểu biết những đặc điểm của từng em học sinh (về sức khỏe, sinh lý, trình độ nhận
thức, năng lực hoạt động, năng khiếu, sở thích, nguyện vọng, quan hệ xã hội, bạn bè….).
Thông qua các giờ học chính khoá hay ngoại khoá tôi thường giúp các em học sinh xác
định rõ động cơ học tập để các em tự giác trong học tập và rèn luyện, tránh tình trạng học
sinh đến trường vì bố mẹ ép buộc.
Trong các giờ học, giờ vui chơi tôi thường dạy cho các em những bài học đạo đức nhỏ
như biết cách chào hỏi lễ phép, cách ăn uống lịch sự, biết nói lời xin lỗi, lời cảm ơn trong
những tình huống khác nhau của cuộc sống.
- Đối với học sinh trong trường và học sinh bán trú: Thông qua các buổi trực bán trú, các
buổi lao động tôi luôn gần gũi, cởi mở nói chuyện với các em học sinh để từ đó các em
cảm thấy thầy cô giáo là người rất gần gũi để các em có thể dễ dàng tâm sự mọi chuyện
trong học tập và trong sinh hoạt.
- Tôi thường nhắc nhở các em giữ gìn vệ sinh cá nhân đặc biệt quan tâm hơn đến những
học sinh nữ đến tuổi dậy thì hướng dẫn các em biết cách chăm sóc, giữ gìn vệ sinh thân thể.
- Do sự phát triển tâm sinh lí của các em ở độ tuổi dậy thì đã xuất hiện tình cảm giữa
những bạn khác giới nên giáo viên cũng cần hướng các em vào tình bạn trong sáng lành
mạnh, tránh tình trạng yêu sớm.
- Hầu hết các em học sinh được sống rất tự do ở nhà nên khi hoà nhập với cuộc sống tập
thể ( ở bán trú) gặp một số khó khăn. Các em thích sống tự do, không thích gò bó chặt chẽ
vì thế các em có những thói quen chưa tốt như: chậm chạp, luộm thuộm, thiếu tập trung,
không có tinh thần tự học... Tôi cũng thường xuyên đến các phòng ở của học sinh bán trú
nhắc nhở các em có ý thức hơn trong việc vệ sinh phòng ở... Do các em học sinh có rất ít

vốn từ ngữ phổ thông và còn ảnh hưởng của việc sử dụng ngôn ngữ địa phương nên các em
nói năng còn chưa tế nhị, hay nói trống không, cộc lốc, không thưa gửi điều này cũng khiến
một số em ngại tiếp xúc, ngại trao đổi với người lớn và thầy cô giáo về những tâm tư,
nguyện vọng của mình.
III. Kết quả của việc áp dụng kiến thực tự học vào thực tế.

9


Sau khi tự học tự bồi dưỡng module 1 và áp dụng các biện pháp vào thực tế như tìm hiểu
tâm sinh lí , hoàn cảnh gia đình, sức khoẻ... của học sinh tôi đã thu được kết quả như sau:
- Mối quan hệ giữa cô giáo và học sinh trở lên gần gũi và thân thiện hơn.
- Học sinh đã biết những bài học đạo đức về phép lịch sự khi gặp các thầy cô giáo và người
lớn tuổi...
- Học sinh bán trú đã có sự thay đổi trong trong sinh hoạt, biết vệ sinh phòng ở gọn gàng,
sạch sẽ. các em đang hình thành tinh thần tự học trong các giờ học trên lớp buổi tối.
- Một số các em học sinh đã biết cách dùng từ đúng trong hoàn cảnh giao tiếp ví dụ như
khi giao tiếp với thầy cô giáo và người ở địa phương khác các em biết sử dụng từ “ vâng
ạ” để thể hiện thái độ lễ phép, kính trọng thay cho từ địa phương có sắc thái tình cảm
tương đương đó là từ “ ừ”.
- Các em học sinh nữ biết các chăm sóc, giữ gìn vệ sinh thân thể hơn.
Trên đây là bài thu hoạch BDTX về nội dung tự học trong module 1 của cá nhân tôi
trong tráng 9 và tháng 10 năm 2015.

MODULE THCS 5 :NÂNG CAO NĂNG LỤC HIỂU BIẾT VÀ XÂY DỰNG MÔI
TRƯỜNG GIÁO DỤC CỦA GIÁO VIÊN
TÌM HIỂU GIAI ĐOẠN LỨATUỔI HỌC SINH THCS
Khái niệm học sinh Trung học cơ sở
Lứa tuổi học sinh THCS bao gồm những em có độ tuổi từ 11 đến 15 tuổi. Đó là
những em đang theo học từ lớp 6 đến lớp 9 ở trường THCS. Lứa tuổi này còn gọi là lứa tuổi

thiếu niên và nó có một vị trí đặc biệt trong thời kì phát triển của trẻ em. Vị trí đặc biệt này
được phản ánh bằng các tên gọi: “ thời kì quá độ”,“ tuổi khó bảo”, “ tuổi bất trị” hay “ tuổi
khủng hoảng” … Những tên gọi đó nói lên tính phức tạp và tầm quan trọng của lứa tuổi này
trong quá trình phát triển của trẻ em.
Đây là thòi kì chuyển từ thời thơ ấu sang tuổi trường thành.
Đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh Trung học cơ sở
Nội dung cơ bản và sự khác biệt ở lứa tuổi học sinh THCS với các em ở lứa tuổi khác
là sự phát triển mạnh mẽ, thiếu cân đối về các mặt trí tuệ, đạo đức. Sự xuất hiện những yếu
tố mới của sự trưởng thành do kết quả của sự biến đổi cơ thể, của sự tự ý thức, của các kiểu
giao tiếp với người lớn, với bạn bè, của hoạt động học tập, hoạt động xã hội… yếu tố đầu
tiên của sự phát triển nhân cách ở lứa tuổi học sinh THCS là tính tích cực xã hội mạnh mẽ
của các em nhằm lĩnh hội những giá trị, những chuẩn mực nhất định, nhằm xây dựng những
quan hệ thỏa đáng với người lớn, với bạn ngang hàng và cuối cùng nhằm vào bản thân, thiết
kế nhân cách của mình một cách độc lập.
Tuy nhiên quá trình hình thành cái mới thường kéo dài về thời gian và phụ thuộc
vào điều kiện sống, hoạt động của các em. Do đó sự phát triển tâm lí ở lứa tuổi này diễn ra
không đồng đều về mọi mặt. điều đó quyết định sự tồn tại song song “ vừa tính trẻ con, vừa
tính người lớn” ở lứa tuổi này.
Nét đặc trưng trong giao tiếp của học sinh THCS với người lớn là sự cải tổ lại kiểu
quan hệ giữa người lớn với trẻ em ở tuổi nhi đồng, hình thành kiểu quan hệ đặc trưng của
10


tuổi thiếu niên và đặt cơ sở cho việc thiết lập quan hệ của người lớn với người lớn trong các
giai đoạn tiếp theo. Trong giao tiếp với người lớn có thể nảy sinh những khó khăn, xung đột
do thiếu niên chưa xác định đầy đủ giữa mong muốn về vị trí và khả năng của mình.
Đặc điểm đặc trưng trong sự phát triển cấu trúc nhận thức của học sinh THCS là sự
hình thành và phát triển của các tri thức lí luận, gắn với các mệnh đề các quá trình nhận
thức tri giác, chú ý, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng… ở học sinh THCS đều phát triển mạnh,
đặc biệt sự phát triển của tư duy hình tượng và tư duy trừu tượng.

Trong giao tiếp, thiếu niên định hướng đến bạn rất mạnh mẽ, giao tiếp với bạn chiếm
vị trí quan trọng trong đời sống và có ý nghĩa thiết thực đối với sự phát triển nhân cách của
thiếu niên. Khác với giao tiếp với người lớn, giao tiếp của thiếu niên với bạn ngang hàng là
hệ thống bình đẳng và mang đặc trưng của quan hệ xã hội giũa các cá nhân độc lập.
GIỚI THIỆU VỀ MÔI TRUỜNG HỌC TẬP
Khái niệm môi trường học tập
Môi trường học tập là các yếu tốcó tác động đến quá trình học tập của HS bao gồm:
Môi trường vật chất: Là không gian diễn ra quá trình dạy học gồm có đồ dùng dạy
học như bảng, bàn ghế, sách vở, nhiệt độ ánh sáng, âm thanh, không khí...
Môi trường tinh thần: Là mối quan hệ giữa GV với HS, HS với HS, giữa nhà trường- gia
đình - xã hội... Các yếu tố tâm lí như động cơ, nhu cầu, hứng thú tích học tập của HS và
phong cách, phương pháp giảng dạy của GV trong môi trường nhóm, lớp.
Môi trường học tập rất đa dạng, cần được tạo ra ờ nhà trường, gia đình, xã hội. Môi
trường sư phạm là tập hợp những con người phương tiện đảm bảo cho việc học tập đạt kết
quả tốt. Môi trường sư phạm là nội dung cơ bản của môi trường nhà trường.
Toàn bộ hệ thống môi trường học tập, môi trường dạy học, môi trường giáo dục trong
trường phải được tiếp cận hệ thống, đó là các quan hệ thầy - trò, quan hệ trò - trò, quan hệ
nhóm lớp của HS, quan hệ của HS với nhà quản lí, mà bản chất của các mối quan hệ là dựa
trên quan hệ pháp luật, nhân văn, đạo đức, cộng đồng hợp tác.
Như vậy, môi trường học tập là toàn bộ các yếu tố vật chất, không gian và thời gian,
tình cảm và tinh thần - nơi HS đang sinh sống, lao động và học tập, có ảnh hưởng trực tiếp,
gián tiếp đến sự hình nhân cách của HS phù hợp với mục đích giáo dục.
*CÁC LOẠI MÔI TRUỜNG HỌC TẬP
* Môi trường học tập ở trường;
Giáo dục nhà trường là hoạt động giáo dục trong các trường lớp thuộc hệ thống
giáo dục quốc dân theo mục đích, nội dung, phương pháp có chọn lọc trên cơ sở khoa học
và thực tiển nhất định.
So với gia đình, nhà trường là một môi trường giáo dục rộng lớn hơn, phong phú, hấp
dẫn hơn đổi với thế hệ trẻ.
Nhà trường là một thiết chế xã hội chuyên biệt thực hiện chức năng cơ bản là tái sản

xuất sức lao động, phát triển nhân cách theo hướng duy trì, phát triển xã hội. Nhà trường có
chức năng hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ thông qua hoạt động dạy học, giáo
dục.
Giáo dục nhà trường có sự thống nhất về mục đích, mục tiêu cụ thể, được thực hiện
bởi đội ngũ các nhà sư phạm được đào tạo và bồi dưỡng chu đáo, tiến hành giáo dục theo
một chương trình, nội dung, phương pháp sư phạm nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển nhân cách toàn diện, hướng tới sự thành đạt của con người.
11


Hoạt động học tập và các hoạt động khác cửa HS THCS có nhiề sự thay đổi, động
quan trọng đến việc hình thành những đặc điểm tâm lí lứa tuổi HS THCS, như:
- Bắt đầu thay đổi về nội dung dạy học:
- Sự thay đổi về phương pháp dạy học và hình thức học tập:
Thái độ đổi với học tập của HS THCS cũng rất khác nhau. Tất cả các em đều ý thức
được tầm quan trọng và sự cần thiết của học tập, nhưng thái độ biểu hiện rất khác nhau. Sự
khác nhau đó được thể hiện :
- Trong thái độ học tập
- Trong sự hiểu biết chung
- Trong phuơng thức lĩnh hội tài liệu học tập
- Trong hứng thú học tập
* Môi trường gia đình:
Ở lứa tuổi này, địa vị của các em ở trong gia đình đã thay đổi, các em được gia đình
thừa nhận như là một thanh viên tích cực của gia đình,
Gia đình là một đơn vị xã hội (nhóm nhỏ xã hội), hình thức tổ chức quan trọng nhất
của sinh hoạt cá nhân
Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên và là môi trường giáo dục suốt đời đối với quá
trình hình thành và phát triển nhân cách con người. Gia đình giữ vị trí quan trọng và có ý
nghĩa lớn lao đổi với quá trình hình thành và phát triển nhân cách
.* Môi trường xã hội:

Giáo dục xã hội là hoạt động của các tổ chức, các nhóm xã hội có chức năng giáo dục
theo quy định của pháp luật hoặc các chương trình giáo dục trên các phương tiện thông tin
đại chúng. Giáo dục xã hội tác động đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của
đứa trẻ thường qua hai hình thức: tự phát và tự giác.
Giáo dục cửa xã hội phải kết hợp chặt chẽ với giáo dục gia đình và nhà trường, góp
phần thực hiện mục tiêu đào tạo con người theo định hướn của Đảng và Nhà nước.
ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
. Ảnh hưởng của môi trường đẽn mục đích , động cơ học tập
Môi trường học tập ảnh hường không nhỏ tới mục đích, động cơ học tập. Mục đích của
hành động hoàn toàn không phải do con ngưòi nghĩ ra một cách chủ quan mà nó được hình
thành dần trong quá trình diễn ra hành động. Mục đích thực sự chỉ có thể có khi chủ thể bắt
đầu hành động.
Mục đích học chỉ đuợc hình thành khi chủ thể bắt đầu học tập. Thông qua học lập, người
học chiếm lĩnh được tri thúc, kỉ năng, kỉ xảo bộ phận (những khái niệm cửa tùng bài học,
tùng tiết học) - đây là mục đích bộ phận. Trên cơ sở chiếm lĩnh những tri thức, kỉ năng, kỉ
xảo bộ phận mà chiếm lĩnh được toàn bộ những tri thúc, kỉ năng, kỉ xảo hệ thống (những
khái niệm của môn học) - đây là mục đích môn học. Mỗi tri thức, kỉ năng, kỉ xảo bộ phận
được chủ thể tiếp thu và làm chủ lại trở thành phương tiện cho việc hình thành mục đích bộ
phận tiếp theo, cứ như vậy, mục đích học sẽ được hình thành trong quá trình thực hiện một
hệ thống các hành động học trong một môi trường nhất định.
Động cơ của hoạt động học không có sẵn mà hiện thân ở đối tượng của hoạt động học
(đó là những tri thức, kỉ năng, kỉ xảo...) mà người học cần chiếm lĩnh để hình thành và phát
triển nhân cách.

12


Có hai loại động cơ học là: động cơ hoàn thiện tri thức và động cơ quan hệ xã hội.
- Động cơ hoàn thiện tri thúc:

Trong quá trình học tập, học để mở rộng tri thức, mở rộng vốn hiểu biết là động cơ
thúc đẩy người học tích cực học tập nhằm lĩnh hội tri thúc, kỉ năng, kĩ xảo. Trong trường
hợp này, nguyện vọng hoàn thiện tri thức hiện thân ở đối tượng của hoạt động học.Đây là
động cơ bên trong của hoạt động học vì những yếu tố kích thích người học xuất phát từ
mục đích học, từ nhu cầu, hứng thú nhận thức của người học. Người học mong muốn
hiểu biết những điều mới lạ, mở rộng tri thúc và họ thấy thoải mái, không căng thẳng,
mệt mỏi khi học.
- Động cơ quan hệ xã hội:
Trong quá trinh học lập, người học say sưa học ngoài sụ hấp dẫn, lôi cuốn của tri thúc
còn vì các quan hệ xã hội (học để phục vụ xã hội, học để hài lòng cha mẹ). Trong trường
hợp này, những mổi quan hệ xã hội của cá nhân đuợc hiện thân ở đối tượng của hoạt động
học. Khi hoạt động học được thúc đẩy bởi động cơ quan hệ xã hội thì ở một mức độ nào
đấy nó mang tính chất cưỡng bức, có lúc xuất hiện như là vật cản trên con đường đạt mục
đích, vì vậy người học cảm thấy căng thẳng, mệt mỏi và có khi xuất hiện xung đột găy gắt
Hai loại động cơ nói trên cùng diễn ra trong quá trình học tập, nó làm thành một hệ
thống động cơ thúc đẩy người học học tập. Trong thục tế, có những HS học tập với sự nổ
lực như nhau, kết quả đạt được như nhau nhưng động cơ có thể rất khác nhau: có người
học là do muốn nâng cao trình độ hiểu biết, muốn có sự phát triển ngày càng cao; có người
học là do để đuợc khen, để bố me vui lòng hoặc đó là con đường tiến thân.
Động cơ của hoạt động học không có sẵn, nó đuợc hình thành trong chính quá trình
học tập dưới sự tác động của nhiều yếu tố : yếu tố chủ quan (nhu cầu, hứng thú, tình
cảm, thái độ... của người học) và yếu tố khách quan (cha me, thầy cô giáo, bạn
bè...).
**Ảnh hưởng của môi trường đến phương pháp học tập
Việc học tập ở trường THCS là một bước ngoặt quan trọng trong đời sống của trẻ. Ở
các lớp dưới, trẻ học tập các hệ thống các sự kiện và hiện tượng, hiểu những mối quan hệ
cụ thể và đơn giản giữa các sụ kiện và hiện tượng đó. Ở trường THCS, việc học tập của các
em phúc tạp hơn. Các em chuyển sang nghiên cứu có hệ thống những cơ sở của các khoa
học, các em học nhìều môn học hơn... Mỗi môn học gồm những khái niệm, những quy luật
được sắp xếp thành một hệ thống tương đối sâu sắc. Điều đó đòi hỏi các em phải tự giác và

độc lập cao. Ở đa số thiếu niên, nội dung khái niệm “học tập" đã đuợc mở rộng ; ở nhiều
em đã có yếu tố tự học, có hứng thú bền vững đổi với môn học, say mê học tập. Tuy nhiên,
tính tò mò, ham hiểu biết nhiều có thể khiến hứng thú của các em bị phân tán và không bền
vững, có thể hình thành thái độ dễ dãi, không nghiêm túc đổi với các lĩnh vục khác trong
cuộc sống, vì vậy, môi trường và phuơng pháp học tập có mối quan hệ tác động qua lại với
nhau. Môi trường là điều kiện để người học sử dụng những phương pháp học tập thích hợp.
Môi trường nhóm lớp, phương pháp giảng dạy của GV, quan hệ ứng xử của GV đối với HS
là yếu tố ảnh hưởng trục tiếp tới phương pháp học tập của HS THCS. Quá trình dạy học đòi
hỏi GV và HS cần nổ lực tìm ra các giải pháp để dạy và học đạt hiệu quả ngày càng cao,
trong đó, việc GV vận dụng phương pháp dạy học phù hợp với nhu cầu, trình độ và các đặc
điểm tâm lí khác của lứa tuổi HS THCS đuợc coi là một giải pháp tốt nhất. Các phương
pháp dạy học khác nhau phát triển những kĩ năng và những phẩm chất khác nhau của HS.
Phương pháp dạy học đa dạng làm cho bài giảng của GV trở nên thú vị và HS cảm thấy
hứng khởi hơn trong giờ học. Để xây dụng một môi trường học tập thân thiện nhằm khai
thác mặt giá trị và cảm xúc của HS trong quá trình học tập thì các moi quan hệ trong dạy

13


học có vai trò quyết định. Quan hệ giữa GV với HS, giữa cá nhân HS với nhau, giữa cá
nhân với nhóm, giữa nhóm và cả lớp được phát triển theo xu hướng tăng cường sự tương
tác, hợp tác và cạnh tranh, tham gia và chia sẻ. Đây là môi trường học tập giúp HS THCS
không ngừng tự hoàn thiện nhân cách và cải thiện kết quả học tập cá nhân.
Quan hệ thầy trò tốt đẹp đuợc dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau. HS tôn trọng GV bởi
kỉ năng giảng dạy, phẩm chất cá nhân, kiến thúc và trình độ chuyên môn; GV tôn trọng HS
vì mỗi HS là một nhân cách với những nổ lực học tập. .
Mối quan hệ tốt đẹp giữa GV với HS được biểu hiện cụ thể thông qua thái độ, cử chỉ,
điệu bộ, ngôn ngữ cửa GV trong quá trình dạy học. HS sẽ cảm thấy tự tin hơn khi GV tươi
cười hay có lời khen để động viên HS học tập; nó có thể thay đổi một trường hợp được coi
là tiêu cực trở thành tích cực. GV cần tỏ ra hài lòng khi HS thành công trong học tập; nhiệt

tình hướng dẫn và giải đáp thắc mắc cho HS; động viên các em bày tỏ nhu cầu, nguyện
vọng học tập và biết giúp đỡ, chia sẽ kinh nghiệm học tập với bạn; nhận xét và đánh giá kết
quả học lập đảm bảo sự công bằng... tạo cho HS có động lực để phấn đấu dành kết quả cao
trong học tập, tìm tòi phương pháp học tập hiệu quả.
Như vậy, GV là nguời chủ động tạo ra và điểu khiển mổi quan hệ giữa thầy và trò, dùng
ảnh huớng của mối quan hệ đó để xây dụng các mối quan hệ tốt đẹp giữa cá nhân với cá
nhân HS, giữa cá nhân với nhóm và giữa các nhóm với cả lớp..
** Ảnh hường của môi trường đến kết quả học tập
Môi trường học tập của HS THCS có sự tham gia của nhiều nhân tố :GV, người học,
gia đình, cơ sở vật chất, yếu tố quản lí của nhà trường. GV là người quyết định sự hợp tác
gắn bó giữa thầy và trò, giữa trò và trò, là nhân tố quyết định chẩt lượng giáo dục học lập ở
HS. Hình thức bên ngoài, đời sống nội tâm, phương pháp dạy học, kỉ năng giao tiếp, phong
cách sống... của GV có tác động mạnh mẽ đến tâm lí HS. Khi bài giảng của GV được HS
hưởng ứng, ủng hộ có nghĩa là GV đang ảnh hưởng tích cực đến môi trường học tập của
HS. Năng lực sư phạm, trình độ chuyên môn của GV, quan hệ ứng xử của GV đối với HS là
yếu tố quyết định chất lượng dạy học, là nhân tố tạo nên kết quả học tập ở người học.
- HS và tính tích cực học tập trong môi trường nhóm lớp: Tất cả mọi hoạt động trong các
nhà trường đều nhằm mục đích phát triển nguời học, người học đuợc coi là yếu tố trung
tâm. Việc xây dựng môi trường học tập cho HS THCS cũng dựa vào HS và hoạt động của
HS để khai thác mặt giá trị và cảm xức trong học tập và giao tiếp. Vì vậy, cần thiết phải tạo
ra môi trường học tập tự giác, tích cực, chủ động của HS trong hoạt động nhóm lớp nhằm
góp phần nâng cao kết quả học tập. Chính thành tích học tập của lớp, của nhóm sẽ góp phần
thúc đẩy thành tích học tập của mọi cá nhân HS trong nhóm, lớp.
- Cán bộ quản lí: Nhận thức và hành động của cán bộ quản lí là “cốt lõi" để tạo nên sự thân
thiện giữa các thành viên trong nhà trường. Trong mọi quan hệ, người cán bộ quản lí phải
dân chủ, minh bạch, công khai. Giữa cán bộ quản lí, GV, HS phải thực sự tôn trọng lẫn
nhau, quan hệ chia sẻ, cộng đồng trách nhiệm. Không thể có môi trường học tập tốt nếu
trong nhà trường các mối quan hệ thiếu dân chú, bất bình đẳng. Hình ảnh các thầy là hình
ảnh lí tường mà các thế hệ học trò học tập và làm theo. Chính tấm gương lao động của các
thầy, cô là bài học cho lớp lớp thế hệ HS, góp phần tạo nên thành tích của nhà trườmg.

Cơ sở vật chất: Môi trường học tập của HS giới hạn trong một không gian nhất định,
đó là trường học. Mọi hoạt động của HS diễn ra trong phạm vi không gian lớp học với các
yếu tố: bàn ghế, ánh sáng, âm thanh cùng với các phương tiện phục vụ dạy và học, các thiết
bị thực hành... Mỗi trường THCS đều có sự khác nhau nhất định về Cơ sờ vật chất tuy vào
nguồn lục kinh tế của nhà trường và địa phương. Nhìn chung, các nhà trường THCS hiện
nay đều phải hướng tới tiêu chuẩn tổi thiểu về điểu kiện cơ sở, vật chất, đó là điều kiện cần
14


và đủ để nâng cao chất lượng và đảm bảo chất lượng. Một môi trường học tập tốt trước hết
phải đảm bảo các điều kiện cơ sở vật chất tối thiểu. Ngược lai, cơ sở vật chất thiếu thốn sẽ
gây ra khó khăn về mọi mặt cho hoạt động học tập của HS, làm giảm sút kết quả học tập
của HS.
Môi trường giáo dục là tập hợp không gian với các hoạt động xã hội của cá nhân, các
phương tiện và giao lưu được phối hợp với nhau tạo điều kiện thuận lợi để giáo dục đạt kết
quả cao nhất. Do bản chất nhân văn của giáo dục, cùng với đạo lí và lẽ sống tình người
đang thôi thúc chúng ta phải góp một viên gạch vào việc xây dụng một môi trường học tập
lành mạnh, tích cực. Đồng thời, cũng cần thiết phải phân biệt rõ các khái niệm môi trường
và môi trường giáo dục là hai phạm trù khác nhau về đối tượng tiếp cận và nội dung nghiên
cứu. Tuy nhiên, có điểm chung là đều nghiên cứu sự tác động của con người với môi trường
xung quanh và ngược lại. Ở phạm vi môi trường giáo dục, chủ yếu đề cập đến quan hệ giữa
con người với con người trong một phạm vi hẹp hơn.
MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỤNG MÔI TRUỜNG GIÁO DỤC
*. Phối hợp giữa gia đinh, nhà trường và xã hội để giáo dục HS
• Nội dung phối hợp :
Việc liên kết, phối hợp giữa môi trường giáo dục gia đình, nhà trường và các tổ chức
xã hội nhằm thực hiện mục đích phát triển nhân cách công dân được coi là một nguyên tắc
quan trọng. Việc liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục nhằm đảm bảo sự
thống nhất về nhận thức cũng như cách thức hành động để hiện thực hóa mục tiêu quá trình
phát triển nhân cách; tránh sự tách rời, mâu thuẫn, vô hiệu hoá lẫn nhau gây nên tâm trạng

nghi ngờ, hoang mang, dao động đối với cá nhân trong việc lựa chọn, tiếp thu các giá trị tốt
đẹp.
Gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội liên kết, phối hợp thống nhất mục đích,
mục tiêu giáo dục thể hiện ở những nội dung cơ bản nhằm phát triển toàn diện các mặt đức,
trí, thể, mĩ, lao động... Mọi môi trường đều có một ưu thế trong việc thực hiện các nội dung
giáo dục. Gia đình có ưu thế đổi với việc giáo dục định hướng nghề nghiệp, rèn luyện kỉ
năng, kĩ xảo, thói quen lao động chân tay, quan hệ ứng xử... Nhà trường có ưu thế trong
việc giáo dục toàn diện, đặc biệt là tri thức văn hoá; các chuẩn mực đạo đúc, ý thức công
dân... bằng các phương pháp, phương tiện hiện đại nhằm thúc đẩy nhanh quá trình phát triển
nhân cách. Các đoàn thể xã hội bằng các hình thức tổ chức hoạt động xã hội ngoài giờ lên
lớp giúp các em mở rộng kiến thức, gắn tri thúc với thực tiễn, chủ trương, chính sách chung
của Nhà nước, của địa phương về các lĩnh vực trong đời sống xã hội.
Việc liên kết, phối hợp các môi trường giáo dục gia đình, nhà trường và các tổ chức
xã hội diễn ra dưới nhiều hình thức, vấn đề cơ bản, quan trọng hàng đầu là các lực lượng
giáo dục đó phải phát huy tinh thần trách nhiệm, chủ động tìm ra các hình thức, giải pháp,
tạo ra mối liên kết, phối hợp vì mục đích giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ thành những công dân
hữu ích của đất nước. Do đó, không thể coi đây là trách nhiệm riêng cửa lực lượng nào. Tuy
nhiên, gia đình và nhà trường có trọng trách lớn hơn, bởi vì trẻ em là con cái của gia đình,
là HS của nhà trường trước khi trở thành công dân xã hội.
Liên kết, phối hợp giáo dục giữa gia đình, nhà trường và xã hội nhằm thực hiện
những nội dung chú yếu sau:
-Thống nhất mục đích, kế hoạch chăm sóc, giáo dục HS của tập thể sư phạm nhà trường
với phụ huynh, với các đoàn thể, cơ sở sản xuất, các cơ quan văn hoá, giáo dục ngoài nhà
trường.
- Theo dõi, đánh giá kết quả quá trình giáo dục HS trong nhà trường và ở địa phương
15


nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả giáo dục.
Gia đình phải tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển toàn diện về đạo đức, trí

tuệ, thể chất, thẩm mĩ cho trẻ em; người lớn cỏ trách nhiệm giáo dục, làm gương cho con
em, cùng nhà trường nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục.
- Đẩy mạnh sự nghiệp xã hội hóa giáo dục nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ cũng như điều
kiện thuận lợi cho hệ thống nhà trường thực hiện tổt mục tiêu giáo dục đào tạo ở tất cả các
cấp học.
• Những yêu cầu để thực hiện tốt việc phối hợp:
-Đối với gia đình
Hoạt động tích cực trong tổ chúc hội phụ huynh nhà trường nhằm góp phần xây dựng
cơ sở vật chất, tinh thần, thực hiện sự nghiệp xã hội hoá giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi
cho nhà trường nâng cao chất lượng giáo dưỡng và giáo dục. Những cuộc họp phụ huynh
HS đuợc tổ chức theo khối, theo lớp do GV chủ nhiệm hoặc ban liên lạc phụ huynh tổ chức
đầu năm học hoặc từng học kì... yêu cầu các bậc cha mẹ cần đi đầy đủ để nắm vững mục
đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp giáo dục HS, tạo sự thống nhất giữa nhà trường với
gia đình trong quá trình giáo dục HS.
Duy trì thường xuyên, đều đận mổi quan hệ giữa nhà trường, gia đình bằng sổ liên lạc,
phiếu đánh giá, điện thoại để gia đình biết được kết quả học tập, rèn luyện và những ưu nhược điểm của con em mình. Ngược lai, nhà trường cũng nắm bắt được tình hình học tập,
sinh hoạt của HS ngoài giờ lên lớp. Tất cả những nhận xét, đánh giá về phía nhà trường
cũng như gia đình cần chính xác, thận trọng, nhấn mạnh đến ưu điểm, tiến bộ là chú yếu,
không nên chỉ tập trung nhấn mạnh vào những nhược điểm, yếu kém. Nếu trẻ có những sai
phạm nghiêm trọng thì các bậc cha mẹ và nhà trường cần gặp nhau trực tiếp nhằm tìm đúng
nguyên nhân và các biện pháp giáo dục phù hợp. cha mẹ không nên che giấu những nhược
điểm của con cái trong học tập, sinh hoạt ở gia đình, địa phuơng đối với nhà trường, dẫn
đến những hiện tương một số em ở trường được khen thửơng là Hs giỏi, tiên tiến nhưng ở
địa phương và gia đinh còn yếu kém về nhiều mặt. Gia đình cũng phát huy truyền thống
“tôn sư trọng đạo", bảo vệ uy tín, danh dự cho thầy cô giáo, tránh những lời nói, thái độ,
hành vi coi thường thầy cô giáo trước mặt các em.
Vì mục đích giáo dục nên các bậc cha mẹ cần mạnh dạn thẳng thắn liên lạc, phối hợp
với các cơ quan, đoàn thể, tổ chức ở mọi địa phương, kể cả những cơ quan bảo vệ pháp luật
như công an, chính quyền địa phương nếu thấy cần thiết để uốn nắn, ngăn chặn kịp thời
những biểu hiện xấu, lệch lạc có thể phát triển đối với con em mình.

- Đối với nhà trường
Cần phát huy vai trò trung tâm trong việc liên lạc, phối hợp giáo dục. Nhà trường
chủ động phổ biến nội dung, mục đích giáo dục đến các tổ chúc xã hội của địa phương như
Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ... nhằm định hướng tác động thống nhất đối với quá trình
hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Thực hiện vai trò là trung tâm văn hoá, giáo dục của địa phương, nhà trường cần tổ chức
tuyên truyền phổ biến các tri thức khoa học kĩ thuật, công nghệ, văn hoá, ,... những kiến
thúc về phuơng pháp, biện pháp giáo dục có hiệu quả tránh đuợc những sai lầm, lệch lạc đối
với quá trình phát triển nhân cách của trẻ, đặc biệt trong cơ chế thị trường có không ít
những tác động xấu ảnh hướng đến thế hệ trẻ.
Nhà trường cần phối hợp với chính quyền phương tổ chức cho các em tham gia tích
cực vào các hoạt động văn hoá, xã hội như: bảo vệ môi trường, đền ơn đáp nghĩa, bài trừ

16


ma túy, dân số - kế hoạch hóa gia đình... nhằm góp phần cải tạo môi trường ngày càng tốt
đẹp, lành mạnh đối với quá trình hình thành, phát triển nhân cách của trẻ.
Giúp địa phương theo dõi, đánh giá kết quả của quá trình giáo dục thanh thiếu niên,
phân tích nguyên nhân, đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của sự liên kết, phối
hợp chặt chẽ giữa các môi trường và khai thác vai trò, ưu thế đặc biệt của giáo dục gia đình.
Xây dựng, củng cố Hội Phụ huynh HS, ban giáo dục địa phuơng tạo nên sức mạnh
tổng hợp, đồng bộ, hướng vào mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ một cách thường xuyên, cótổ
chức, có kế hoạch.
- Với các tổ chức xã hội
Tiềm năng giáo dục của lực lượng xã hội như các cơ quan đoàn thể, các hội quần
chúng, các cơ sở sản xuất, các đơn vị quân đội... là vô cùng to lớn, được thể hiện trong tất
cả các lĩnh vực tư tưởng chính trị - đạo đức, khoa học- kĩ thuật văn hoá- nghệ thuật thể dụcthể thao, nghề nghiệp... dưới hình thức kết nghĩa với nhà trường hoặc đỡ đầu nhà trường
xây dựng cơ sở vật chất - kỉ thuật hoặc giúp các lớp HS tham quan, học tập, giao lưu, tiếp
xúc với việc thật, người thật điển hình, gương mẫu trong xã hội để hoàn thiện cá nhân, chủ

tịch Hồ chí Minh đã khẳng định “Nếu nhà trường dạy tốt mà gia đình ngược lại, sẽ có ảnh
hưởng không tốt đến trẻ và kết quả cũng không tốt. Cho nên muốn giáo dục các cháu thành
người tốt, nhà trường, gia đình, đoàn thể xã hội đều phải kết hợp chặt chẽ với nhau".
Chính quyền các cấp động viên tất cả mọi lực lượng, mọi tầng lớp xây dựng thực hiện
nếp sống văn minh, thực hiện các phong trào “ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu
thảo", “Gia đình văn hoá", xây dựng “Thôn xóm không có người nghiện hút"..., kiên quyết
đẩy lùi, xóa bỏ các tàn dư lạc hậu, các nguyên nhân gây ra những tệ nạn xã hội. Người lớn
cần gương mẫu trong mọi lĩnh vực của cuộc sống để thế hệ trẻ noi theo.
Xây dựng cơ sở vật chất, cảnh quan nhà trường:
Cơ sở vật chất và cảnh quan nhà trường có tác động mạnh đến cảm xúc, hình thành ấn
tượng và niềm tự hào đối với HS. Một môi trường xanh, sạch, đẹp với điều kiện cơ sở vật
chất đuợc đảm bảo tạo cho HS cảm giác tự tin, vui tươi khi đến trường, hình thành nên
hưng phấn tích cực đổi với mọi hoạt động. Cơ sở vật chất và cảnh quan nhà trường bao
gồm các điều kiện tự nhiên nơi trường đóng và các phương tiện kỉ thuật phục vụ cho mọi
hoạt động của nhà trường.
Các trường THCS cần phải đảm báo các điều kiện tối thiểu cơ sở vật chất như: không
gian trong lớp học da dạng và phong phú; bàn ghế cơ động; các phương tiện dạy học như
bảng, tranh ảnh, sách giáo khoa, Internet và các phuơng tiện máy tính, máy chiếu... hoạt
động tốt và an toàn. Các tài liệu học tập đuợc cung cấp theo yéu cầu học tập ở trường trung
học.
Cấu trúc phòng học, ánh sáng, âm thanh đạt yêu cầu về chất lượng, hệ thống nhà được
xây dung đứng tiêu chuẩn. Bài trí tranh ảnh, lô gô khẩu hiệu phải mang tính thẩm mĩ và tính
giáo dục tạo nên những nét đẹp văn hoá nhà trường.
Về cảnh quan nhà trường phải đảm bảo các điều kiện cơ bản như: Phòng học cần được
quét dọn thường xuyên, hệ thống cây xanh, thảm cỏ, cây cảnh được phổi hợp hài hoà tạo
nên sự thân thiện, dể chịu cho HS trong mọi hoạt động. Không khí trong lành, không gian
dành cho các hoạt động được mở rộng và sạch sẽ.
Việc xây dựng cơ sở vật chất và cảnh quan nhà trường là một nội dung cơ bản để có
một môi trường học tập thân thiện ở trường THCS. Nếu các yếu tố trên không được đảm
bảo thì không thể tạo ra được những ảnh hưởng tích cực đến nhận thức, tình cảm của HS,



17


làm hạn chế chất lượng dạy học trong nhà trường.
Nhà trường phải có sân chơi, có nhà vệ sinh, có đủ nước uống hợp vệ sinh cho HS, có
nhà tập thể thao, có đủ đồ dùng học tập, sách và tài liệu tham khảo cho HS. Đây là những
điều kiện giúp HS có thể học tập thành công và hiệu quả. Nhà trường phải có vườn trường,
có thư viện thân thiện thu hút HS tham gia và tạo sự tham gia tự giác tích cực ở HS.
Lựa chọn, vận dụng phối hợp các phương pháp dạy học có hiệu quả
Quá trình dạy học đòi hỏi GV và HS cần nổ lực tìm ra các giải pháp để dạy và học đạt
hiệu quả ngày càng cao, trong đó, việc GV vận dụng phương pháp dạy học phù họp với nhu
cầu, trình độ và các đặc điểm tâm lí khác của lứa tuổi HS THCS nhằm phát huy tính tự giác,
tính tích cực chủ động học tập của HS đuợc coi là một giải pháp tốt nhất. Mỗi phương pháp
dạy học có ưu điểm, nhược điểm khác nhau và sự phù hợp với nội dung khác nhau, do đó
GV cần phối hợp các phương pháp dạy học nhằm huy động tới mức cao nhất tính tích cực
học tập của HS, tạo quan hệ học tập hợp tác, chia sẻ trong môi trường nhóm lớp của HS.
Khi lựa chọn, vận dụng, phối hợp phương pháp dạy học, GV cần chú ý:
Nội dung cơ bản của bài học, đặc điểm trình độ nhận thức của HS, điều kiện phục vụ
cho dạy học, năng lực của bản thân để thiết kế và tổ chức bài học trong môi trường học tập
thân thiện, hiệu quả.
Xây dựng quan hệ sư phạm mang tính chuẩn mực
Để xây dựng một môi trường học tập thân thiện nhằm khai thác mặt giá trị và cảm xúc
của HS trong qua trình học tập thì các mối quan hệ trong dạy học có vai trò quyết định.
Quan hệ giữa GV với HS, giữa cá nhân HS với nhau, giữa cá nhân với nhóm, giữa nhóm và
cả lớp được phát triển theo xu hướng tăng cường sự tương tác, hợp tác và cạnh tranh, tham
gia và chia sẻ. Nhà trường cần tăng cường xây dựng các mối quan hệ sư phạm chuẩn mực
giữa GV với đồng nghiệp, giữa GV với HS, giữa HS với GV và HS với HS... Tính chuẩn
mực trong quan hệ sư phạm phải trở thành nét văn hoá truyền thống của nhà trường, có tác

dụng tạo động lực cho hoạt động dạy và học phát triển.
I. Nội dung bồi dưỡng: Module 9
HƯỚNG DẪN ĐỒNG NGHIỆP TRONG PHÁT TRIỂN NGHỀ NGHIỆP
- Phát triển nghề nghiệp giáo viên
- Nội dung và phương pháp hướng dẫn.
II. Thời gian bồi dưỡng:
Từ 01/03/2015 đến 31/03/2015
III. Hình thức bồi dưỡng: Tự bồi dưỡng
IV. Kết quả bồi dưỡng: Qua quá trình bồi dưỡng thường xuyên bản thân tôi đã ghi nhận và
tiếp thu những kiến thức cơ bản về các nội dung trên như sau:
1. Phát triển nghề nghiệp của giáo viên
Phát triển nghề nghiệp của giáo viên bao gồm phát triển năng lực của giáo viên về
chuyên môn và năng lực nghiệp vụ của nghề (nghiệp vụ sư phạm). Năng lực nghiệp vụ sư

18


phạm của giáo viên lại được xác định bởi năng lực thực hiện các vai trò của giáo viên trong
quá trình lao động nghề nghiệp của mình. Bản thân các vai trò của giáo viên gắn liền với đó
là các chức năng của họ.
Nhà trường hiện đại đã và đang đặt ra những yêu cầu mới đối với giáo viên, theo đó,
người giáo viên phải đảm nhận thêm những vai trò mới. Vai trò người hướng dẫn, tư vấn và
chăm sóc tâm lí mà người giáo viên trong nhà trường hiện đại phải đảm nhận là một minh
hoạ.
Theo logic trên, nội dung phát triển nghề nghiệp liên tục của giáo viên rất phong phú,
bao gồm cả việc mở rộng, đổi mới tri thức khoa học liên quan đến giảng dạy môn học do
giáo viên giảng dạy đến mở rộng, phát triển, đổi mới tri thức, kĩ năng thực hiện các hoạt
động dạy học và giáo dục trong nhà trường
Thực tiễn dạy học đã khẳng định: Những phương pháp giảng dạy tốt sẽ có ảnh hưởng
tích cực đến việc học sinh học cái gì và học như thế nào. Học cách dạy và làm việc để trở

thành một giáo viên giỏi (gặt hái được những thành tựu cao trong lao động nghề nghiệp) là
cả một quá trình lâu dài. Kết quả của quá trình này như thế nào phụ thuộc vào mức độ tích
cực của mọi giáo viên trong việc phát triển những kiến thức nghề nghiệp cũng như các giá
trị và quan điểm đạo đức nghề nghiệp của họ. Bên cạnh đó, việc giám sát và hỗ trợ của các
chuyên gia hoặc đồng nghiệp có kinh nghiệm để mỗi giáo viên phát triển được các kĩ năng
nghề nghiệp đóng vai trò không kém phần quan trọng.
Phát triển nghề nghiệp giáo viên là một quá trình mang tính tất yếu và lâu dài đổi với
mọi giáo viên. Tất yếu bởi dạy học và giáo dục là những quá trình thay đổi và gắn liền với
sự sáng tạo của mỗi giáo viên. Lâu dài bởi phát triển nghề nghiệp giáo viên bắt đầu từ sự
chuẩn bị khởi đầu ở cơ sở đào tạo nghề và tiếp tục trong quá trình lao động nghề nghiệp của
giáo viên tại cơ sở giáo dục cho đến khi về hưu.
Về bản chất, đó là quá trình gia tăng sự thích ứng trong lao động nghề nghiệp của
người giáo viên. Mức độ thích ứng nghề của cá nhân diễn ra dưới sự tác động của nhiều yếu
tố, tuy nhiên những yếu tố liên quan đến cá nhân và nghề nghiệp có vai trò quan trọng hơn
cả. Đây cũng là lí do khiến cho mọi giáo viên cần phát triển nghề nghiệp của mình một cách

19


liên tục, mỗi trường học phải coi việc phát triển nghề nghiệp liên tục cho đội ngũ giáo viên
là nhiệm vụ quan trọng.
Quan sát các giáo viên trẻ trong lao động nghề nghiệp, có thể nhận thấy những hạn
chế nhất định của họ so với những yêu cầu của dạy học, giáo dục trong nhà trường. Điều
này không chỉ là sự cánh báo về một khoảng cách đã có giữa đào tạo giáo viên (công việc
của các trường sư phạm) với thực tiến lao động nghề nghiệp tại các cơ sở giáo dục mà còn
là những gợi ý về những vấn đề liên quan đến phát triển nghề nghiệp liên tục của giáo viên.
Một cách diễn đạt khác, chức năng phát triển của phát triển nghề nghiệp giáo viên là
quá trình làm cho các năng lực nghề nghiệp của giáo viên ngày càng được nâng cao, giúp
giáo viên có thể thực hiện hoạt động nghề nghiệp của mình ở những tình huống khác nhau
(các tình huống phi chuẩn) mà vẫn đảm bảo kết quả.

Có thể xem xét quá trình hình thành kĩ năng như một minh hoạ cho chức năng phát
triển của phát triển nghề nghiệp giáo viên. Mọi kĩ năng mà cá nhân có được đều trải qua các
giai đoạn cụ thể, từ giai đoạn hình thành, củng cổ đến giai đoạn thuần thục (đôi khi có tính
chất của tự động hoá). Ở giai đoạn hình thành phải từ những tình huống mẫu, bằng sự luyện
tập của mình, cá nhân sẽ hình thành kĩ năng xác định. Sang giai đoạn củng cố, cá nhân có
thể thực hiện được kĩ năng ở tình huống đã có những thay đổi ít nhiều so với tình huống
mẫu. Trong những tình huống biến đổi, hoặc những tình huống hoàn toàn khác biệt với tình
huống mẫu, cá nhân vẫn có thể đạt đuợc mục tiêu của hoạt động. Đây là giai đoạn cá nhân
đã có kĩ năng ở mức độ phát triển cao.Chức năng đổi mới của phát triển nghề nghiệp giáo
viên chỉ quá trình tạo ra những thay đổi theo chiều hướng tích cực trong năng lực nghề
nghiệp của giáo viên.
Thay đổi là thuộc tính của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Dựa vào
thuộc tính này, con người có thể chủ động tạo ra sự thay đổi cho sự vật, hiện tượng. Những
thuật ngữ như cải tiến, đổi mới, cách mạng... dùng để chỉ sự thay đổi đuợc con người thực
hiện một cách có chủ định.

20


Đổi mới năng lực nghề nghiệp của giáo viên là quá trình phúc tạp, là kết quả của sự thay đổi
trong nhận thức, hành động và khắc phục những rào cản của hành vi, thói quen trong dạy
học, giáo dục của giáo viên.
Kinh nghiệm nghề nghiệp là tài sản của mọi giáo viên, tuy nhiên đôi khi kinh nghiệm
này lại trở thành rào cản đối với những đổi mới mang tính hệ thổng hoặc đổi mới đối với
từng phương diện năng lực nghề nghiệp của họ. Trong trường hợp này, người giáo viên cần
thay đổi chính những kinh nghiệm của họ. chẳng hạn, để đổi mới phương pháp dạy học,
giáo viên phải đổi mới tư duy về dạy học và tổ chức dạy học (xác lập quan điểm/những
quan điểm mới về dạy học và tổ chức dạy học), đổi mới trong thiết kế các mô hình/chiến
lược dạy học và tiếp đến là đổi mới trong thực thi từng phương pháp dạy học cụ thể.
Các chương trình nhằm mục đích phát triển nghề nghiệp cho giáo viên:

(i) Phát triển các kĩ năng sổng;
(iì) Trở thành người có năng lực đối với các kĩ năng cơ bản của nghề dạy học;
(iii) Phát huy tính linh hoạt của người giảng dạy; Có chuyên môn giảng dạy; Đóng
góp vào sự phát triển nghề nghiệp của đồng nghiệp;
(iv) Thực hiện vai trò lãnh đạo và tham gia vào việc ra quyết định.
Các quan niệm về tiêu chí định hướng của chương trình phát triển nghề nghiệp giáo
viên nêu trên cho thấy, phát triển nghề nghiệp giáo viên có thể được thực hiện một cách có
chủ định hoặc không chủ định. Không ít những trường hợp, nhiều hoạt động được thực hiện
liên quan đến giáo viên (hoặc được thực hiện bởi giáo viên) nhưng không có chú ý thực
hiện các tiêu chí của phát triển nghề nghiệp giáo viên. Tuy nhiên, nếu các hoạt động đó
được định hướng từ trước bởi mục đích phát triển nghề nghiệp giáo viên thì hiệu quả của
các hoạt động đó sẽ cao hơn rất nhiều. Nói cách khác, cần thiết phải quan tâm đến những cơ
hội mà ở đó giáo viên có thể phát triển nghề nghiệp của bản thân. Các cơ hội phát triển nghề
nghiệp có thể được tạo ra cùng lúc bởi các giáo viên và những người hỗ trợ, hoặc bởi cách
lựa chọn tập trung vào một nhiệm vụ mới mà giáo viên hứng thú với việc thực hiện nó (ví
dụ, học tập một lí thuyết dạy học mới hay thực hành một kĩ năng dạy học hoặc giáo dục mà

21


giáo viên muốn có sự thay đổi). Đây chính là những gợi ý trực tiếp cho sự hình thành các
mô hình phát triển nghề nghiệp giáo viên.
2. Mô hình hướng dẫn đồng nghiệp trong phát triển nghề nghiệp giáo viên
Mô hình phát triển nghề nghiệp giáo viên là cái thể hiện của phát triển nghề nghiệp
giáo viên (cái được thể hiện). Tuy nhiên, giữa cái thể hiện và cái được thể hiện thưững có sự
phản ánh không đầy đủ. Hơn nữa, do quan niệm về tiêu chí của chương trình phát triển giáo
viên tương đổi phong phú, vì thế có nhiều cách xác định mô hình phát triển nghề nghiệp
giáo viên. Bảng dưới đây hệ thống một số mô hình phát triển nghề nghiệp giáo viên đã được
tổng kết từ thực tiễn giáo dục của nhiều quốc gia.
Mô hình hợp tác các tổ chức


Mô hình nhóm nhỏ hoặc riêng lẻ (cá

nhân)
Phát triển nghề nghiệp giáo viên ở Giám sát
trường học
Quan hệ trường phổ thông với
Đánh giá công việc của học sinh
trường cao đẳng, đại học sư phạm
Hợp tác giữa các viện nghiên cứu Hội thảo,semine, cáckhoá học
Mạng trường học
Nghiên cứu trường hợp
Tụ phát triển (giáo viên nghiên cứu để
Mạng giáo viên
Giáo dục từ xa

phát triển)
Phát triển các quan hệ hợp tác
Giáo viên tham gia vào quá trình đổi
mới
Hồ sơ
Nghiên cứu hành vi
Dùng các bài nói của giáo viên
Tập huấn

Bảng tổng hợp trên cho thấy, các mô hình phát triển nghề nghiệp giáo viên tương đối
đa dạng, được phát triển và thực hiện ở nhiều quốc gia để phát huy và hỗ trợ giáo viên phát
triển nghề nghiệp từ khi họ bắt đầu khởi nghiệp đến khi nghỉ hưu. Điểm chung nhất dễ nhận
thấy của các mô hình là tính mục đích của nó.
Mô hình tập huấn

Giáo viên tham dự các lớp tập huấn theo:

22


(i) nhu cầu của bản thân;
(iì) yêu cầu của tố chức/người quân lí để phát triển năng lực chuyên môn, nghiệp vụ
đáp ứng yêu cầu mói của hoạt động dạy học và giáo dục.
Hoạt động tập huấn cho giáo viên có thể được thực hiện theo những hình thức khác
nhau: tập huấn đại trà, tập huấn cho nhóm giáo viên; tập huấn tập trung hoặc tập huấn tại cơ
sở giáo dục.
Mô hình mạng lưới giáo viên trong hướng dẫn, tư vấn hỗ trợ đồng nghiệp phát triển
nghề nghiệp. Mạng lưới của các giáo viên tạo điều kiện cho các giáo viên xích lại gần nhau
để giải quyết các vấn đề mà họ gặp phải trong công việc, nhờ đó có thể phát triển được sự
nghiệp riêng của mỗi người với tư cách là các cá nhân hay với tư cách là nhóm giáo viên.
Các mạng lưới này có thể được tạo ra một cách tương đổi không chính thúc thông qua các
cuộc họp thường kì giữa các giáo viên; hoặc chính thúc thông qua việc thiết lập các mổi
quan hệ, giao tiếp và hội thoại.
Mặc dù các mô hình có tên gọi khác nhau, nhưng những nội dung cơ bản trong mô
hình phát triển nghề nghiệp liên tục cho giáo viên được xác định tương đổi thổng nhất. Các
nội dung này bao gồm:
(i) xác định nhu cầu phát triển nghề nghiệp liên tục của giáo viên: nhằm xác định có
xuất hiện khoảng cách giữa yêu cầu về vị trí mà giáo viên đang đảm nhận với khả năng đáp
ứng hiện có của giáo viên hay không? Kết quả này cho phép xác nhận giáo viên đó cần mở
rộng, phát triển hay đổi mới cái gì trong năng lực nghề nghiệp của bản thân.
(ii) Thiết kế mục tiêu, từ đó dựng nội dung để phát triển nghề nghiệp liên tục cho
giáo viên.
(iii) Thực hiện các hoạt động phát triển nghề nghiệp liên tục cho giáo viên: triển khai
các hoạt động đã được hoạch định trong bước (ii).
(iv) Đánh giá và điều chỉnh: Đánh giá quá trình thực hiện các hoạt động theo mục

tiêu đã đề ra để có những điều chỉnh phù hợp.
* Chức năng của phát triển nghề nghiệp giáo viên
Chức năng của phát triển nghề nghiệp giáo viên là mở rộng, đổi mới và phát triển
năng lực nghề nghiệp cho giáo viên. Phát triển nghề nghiệp giáo viên mang lại những thay

23


đổi cho hệ thống giáo dục (ở cả cấp độ vi mô và vĩ mô) và cho cá nhân mỗi giáo viên. Phát
triển nghề nghiệp giáo viên có những đặc điểm chính sau:
Phát triển nghề nghiệp giáo viên dựa trên xu hướng tạo dựng thay vì dựa trên mô
hình chuyển giao.
Phát triển nghề nghiệp giáo viên là một quá trình lâu dài.
Phát triển nghề nghiệp giáo viên đuợc thực hiện với những nội dung cụ thể.
Phát triển nghề nghiệp giáo viên liên quan mật thiết với những thay đổi, cải cách
trường học.
Phát triển nghề nghiệp giáo viên có vai trò giúp giáo viên trong việc xây dụng những
lí thuyết và thực tiễn sư phạm, giúp họ phát triển sự thành thạo trong nghề.
Phát triển nghề nghiệp giáo viên là một quá trình cộng tác.
Phát triển nghề nghiệp giáo viên được thực hiện và thể hiện rất đa dạng và có thể rất
khác biệt ở những bổi cánh khác nhau.
Không một giáo viên nào có thể tự khẳng định mình là người đã hiểu biết tất cả và
luôn thành công trong hoạt động nghề nghiệp. Nói cách khác, ngay cả những giáo viên giỏi,
trong nhiều trường hợp, vẫn cần đến sự trợ giúp từ những người khác để hoàn thành các
nhiệm vụ đuợc phân công trong lao động nghề nghiệp tại cơ sở giáo dục.
Mọi giáo viên đều phải đóng vai là một người hướng dẫn đối với đồng nghiệp, đồng
thời họ được trợ giúp từ chính vai trò mà họ đảm nhiệm để phát triển nghề nghiệp của bản
thân. Hướng dẫn có vai trò quan trọng trong phát triển nghề nghiệp của mọi giáo viên, nhất
là đổi với các giáo viên còn ít kinh nghiệm nghề nghiệp.
Cán bộ quản lí trường học, các giáo viên có kinh nghiệm thưởng là những người

đóng vai trò hướng dẫn đồng nghiệp. Ở đây, những vấn đề về giảng dạy cũng như về
chuyên môn đuợc thực hiện theo kĩ thuật chung của hoạt động hướng dẫn và đem lại hiệu
quả đáng kể cho sự phát triển nghề nghiệp của các đổi tượng được hướng dẫn.
Hướng dẫn đồng nghiệp trong phát triển nghề nghiệp là một trong các mô hình phát
triển nghề nghiệp giáo viên ở trường học. Sự tham gia nhiệt tình của giáo viên vào mô hình
này là một trong những yếu tố đảm bảo sự thành công của mô hình tại từng nhà trường. Căn

24


cứ vào nội dung của phát triển nghề nghiệp giáo viên, có thể khái quát những lĩnh vục
hướng dẫn chính trong phát triển nghề nghiệp giáo viên như sau:
Hướng dẫn đồng nghiệp vẽ chuyên môn
Mọi giáo viên, trong thời gian học nghề ở trường sư phạm, đều được đào tạo theo
một chuyên môn xác định. Đó là ngành học mà họ theo đuổi và sau đó thực hiện lao động
nghề nghiệp (dạy học) theo ngành học này ở cơ sở giáo dục. Ngành học của người giáo viên
ở trường sư phạm là khoa học mà dựa vào đó, người ta xây dựng nên môn học trong
chương trình giáo dục ở các cơ sở giáo dục phổ thông.
Một số giáo viên thụ hưởng và có trinh độ học vấn cao hơn so với chuẩn đào tạo đã
quy định. Các giáo viên này có trình độ thạc sĩ hoặc tiến sĩ. Ở trình độ này, họ được đào tạo
theo những chuyên ngành của ngành đào tạo mà họ đã có ở trình độ cử nhân cao đẳng hoặc
đại học.
Như vậy, ngành hoặc chuyên ngành được đào tạo của giáo viên ở trường sư phạm
thuộc phạm trù chuyên mòn đổi với nghề nghiệp giáo viên. Những gì còn lai, liên quan đến
việc đảm bảo kết quả hoạt động dạy học và giáo dục của giáo viên ở cơ sở giáo dục được
gọi là nghiệp vụ của nghề nghiệp giáo viên.
Xét về lĩnh vục chuyên môn, theo quan niệm thông thưởng học 10 dạy 1, các trường
sư phạm đảm bảo trang bị chuyên môn để người giáo viên có thể thực thi tốt chương trình
môn học tương ứng ở các cơ sở giáo dục phổ thông.
Chương trình giáo dục ở các cơ sở giáo dục bao gồm các môn học và các hoạt động

giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của từng cấp học cụ thể. Học sinh ở các cơ sở
giáo dục phổ thông tham gia các hoạt động giáo dục và nghiên cứu/học các môn học (theo
kĩ thuật thiết kế chương trình giáo dục hiện nay ở nước ta). Môn học thuộc chương trình
giáo dục ở cơ sở giáo dục phổ thông đuợc xây dựng trên cơ sở của một khoa học tương ứng.
Như vậy, học sinh học môn học chú không học khoa học. Trong khi đó, trong quá trình đào
tạo của giáo viên ở trường sư phạm, hoạt động học tập của họ có tính chất nghiên cứu và
tiếp cận với khoa học (ngành/chuyên ngành khoa học họ đựợc đào tạo).

25


Hướng dẫn đồng nghiệp có thể được thực hiện trực tiếp, gián tiếp, hướng dẫn chung hoặc
hướng dẫn cá nhân. Mọi hình thức hướng dẫn đều có điểm mạnh và những hạn chế nhất
định. Việc lựa chọn hình thức hướng dẫn đôi khi không phụ thuộc vào người hướng dẫn.
Để hướng dẫn đồng nghiệp thành công, bạn cần có thông tin về họ. Phương tiện để
bạn có được những thông tin này là các công cụ như: các trắc nghiệm, phiếu điều tra, bảng
kiểm, hướng dẫn phỏng vấn và sơ đồ quan sát... Các công cụ này phải được phát triển và
kiểm tra hiệu lực. Căn cứ mục đích thu thập thông tin về đối tương cần hướng dẫn, bạn lựa
chọn và sử dụng các công cụ để thu thập thông tin cần thiết bằng các phương pháp như:
Phỏng vấn nhóm và phỏng vấn từng cá nhân; Quan sát theo nhóm và quan sát cá
nhân;Ghi chép.
Dữ liệu có đuợc bằng việc sử dụng công cụ bạn đã lựa chọn cần được xử lí. Việc xử lí
dữ liệu có thể thực hiện đơn giản bằng tính toán thú công nhưng cũng có thể thực hiện trên
máy vĩ tính đổi với những phân tích phức tạp hơn.
3. Yêu cầu đối với người hướng dẫn đồng nghiệp và phương pháp lập kế hoạch
hướng dẫn đồng nghiệp.
3.1. Yêu cầu đối với người hướng dẫn đồng nghiệp
Người hướng dẫn đồng nghiệp phát triển nghề nghiệp giáo viên phải là người tôn
trọng sở thích và tin tưởng vào khả năng của đồng nghiệp; có uy tín trong nghề nghiệp và
khả năng tạo đuợc sự tin tưởng của đồng nghiệp. Hiểu được nguyện vọng của đồng nghiệp,

mức độ thực hiện các hoạt động nghề nghiệp của đồng nghiệp (biết đuợc đồng nghiệp làm
gì, làm như thế nào trong dạy học và giáo dục học sinh); thực hiện hướng dẫn đồng nghiệp
dụa trên cái đồng nghiệp cần. có thái độ thông cảm, có kĩ năng động viên, thúc đẩy đồng
nghiệp; biết đưa ra nhiều lựa chọn để đồng nghiệp quyết định và làm cho đồng nghiệp biết
họ phải làm gì để hoạt động nghề nghiệp của họ tốt hơn so với hiện tại.
Mặc dù là người có nhiều kinh nghiệm nghề nghiệp, tuy nhiên, người hướng dẫn
đồng nghiệp không phải là một nhà thông thái, vì vậy, bạn cần biết giới hạn của mình trong
hướng dẫn đồng nghiệp. Nếu giới hạn của bạn là hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ cho
đồng nghiệp thì hãy dùng lại ở phạm vi đó, đừng lan man sang lĩnh vực khác mà bạn không
quen.

26


3.2. Phương pháp lập kế hoạch hướng dẫn đồng nghiệp.
Lập kế hoạch hướng dẫn đồng nghiệp là quá trình chuẩn bị cho những thay đổi trong
hoạt động nghề nghiệp của đồng nghiệp bằng việc ấn định trước các phuơng án hoạt động
của đồng nghiệp hoặc của người hướng dẫn và đồng nghiệp trong tương lai.
Lập kế hoạch hướng dẫn đồng nghiệp là một quá trình, bao gồm các giai đoạn (lập kế
hoạch, thực hiện, đánh giá và điều chỉnh kế hoạch) và những bước đi cụ thể trong từng giai
đoạn.
Giai đoạn lập kế hoạch tạo ra sản phẩm là những vân bản kế hoạch để người hướng
dẫn có thể triển khai trong thực tiễn. Văn bản kế hoạch hướng dẫn đồng nghiệp giúp người
hướng dẫn có được những thông tin cần thiết về:
Vấn đề cần ưu tiên trong hướng dẫn đồng nghiệp là gì?
Giải quyết vấn đề đó nhằm đạt đến mục tiêu gì? Khi nào thì đạt được?
Những hoạt động nào cần triển khai để có thể hướng dẫn được đồng nghiệp?
Những nguồn lực nào cần khai thác để thực hiện được các hoat động nói trên?

MODULE TH 13

KĨ NĂNG LẬP KẾ HOẠCH BÀI HỌC THEO HƯỚNG
DẠY HỌC TÍCH CỰC
Số tiết tự học: 30
Số tiết lí thuyết: 15
Số tiết thực hành: 15
Việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục Tiểu học đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ
từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học đến cách thức đánh giá kết quả
dạy học, trong đó khâu đột phá là đổi mới phương pháp dạy học. Mục đích của việc đổi mới
phương pháp dạy học là phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo; rèn luyện thói
quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào những tình
huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn, có niềm vui, hứng thú trong học tập.
I. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học:
Đổi mới phương pháp dạy học ở trường Tiểu học cần được thực hiện theo các định
hướng sau:
1. Bám sát mục tiêu giáo dục.
2. Phù hợp với nội dung dạy học cụ thể.
3. Phù hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh.
4. Phù hợp với cơ sở vật chất, các điều kiện dạy học của nhà trường.
5. Phù hợp với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học.

27


6. Kết hợp giữa việc tiếp thu và sử dụng có chọn lọc, có hiệu quả các phương pháp dạy
học tiên tiến, hiện đại với việc khai thác những yếu tố tích cực của các phương pháp
dạy học truyền thống.
7. Tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học và đặc biệt lưu ý đến những ứng dụng
của công nghệ thông tin.
II. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học ở trường Tiểu học.
1. Yêu cầu đối với học sinh::

- Tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia các hoạt động học tập để tự khám phá và lĩnh hội
kiến thức, rèn luyện kĩ năng, xây dựng thái độ và hành vi đúng đắn.
- Mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến, quan điểm cá nhân; tích cực thảo luận, tranh luận,
đặt câu hỏi cho bản thân, cho thầy, cho bạn; biết tự đánh giá và đánh giá các ý kiến, quan
điểm, các sản phẩm hoạt động học tập của bản thân và bạn bè.
- Tích cực sử dụng thiết bị, đồ dùng học tập; thực hành thí nghiệm; thực hành vận dụng kiến
thức đã học để phân tích, đánh giá, giải quyết các tình huống và các vấn đề đặt ra từ thực
tiễn; xây dựng và thực hiện các kế hoạch học tập phù hợp với khả năng và điều kiện.
2. Yêu cầu đối với giáo viên::
- Giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập
với các hình thức đa dạng, phong phú, có sức hấp dẫn phù hợp với đặc trưng bài học, với
đăc điểm và trình độ học sinh, với điều kiện cụ thể của lớp, trường và địa phương.
- Động viên, khuyến khích, tạo cơ hội và điều kiện cho học sinh được tham gia một cách
tích cực , chủ động, sáng tạo vào quá trình khám phá và lĩnh hội kiến thức; chú ý khai thác
vốn kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng đã có của học sinh; bồi dưỡng hứng thú, nhu cầu hành
động và thái độ tự tin trong học tập cho học sinh; giúp các em phát triển tối đa tiềm năng
của bản thân.
- Sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách hợp lý, hiệu quả, linh
hoạt, phù hợp với đặc trưng của cấp học, môn học; nội dung, tính chất của bài học, đặc
điểm và trình độ học sinh; thời lượng dạy học và các điều kiện dạy học cụ thể của trường,
địa phương.
III. Quy trình chuẩn bị và thực hiện một giờ học theo định hướng đổi mới phương
pháp dạy học.
1.Các bước thiết kế một giáo án:
- Xác định mục tiêu của bài học căn cứ vào chuẩn kiến thức kĩ năng và yêu cầu về thái độ
trong chương trình.
- Nghiên cứu SGK và các tài liệu liên quan để:
+ Hiểu chính xác, đầy đủ những nội dung của bài học.
+ Xác định những kiến thức, kĩ năng, thái độ cơ bản cần hình thành và phát triển ở học sinh.
+ Xác định trình tự logic của bài học.

+ Xác định khả năng đáp ứng nhiệm vụ nhận thức của học sinh.
+ Xác định những kiến thức, kĩ năng mà học sinh đã có và cần có.
+ Dự kiến những khó khăn, những tình huống có thể nảy sinh và các phương án giải quyết.
- Lựa chọn phương pháp dạy học, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách
thức đánh giá thích hợp nhằm giúp học sinh học tập tích cực, chủ động, sáng tạo.
- Thiết kế giáo án: Thiết kế nội dung, nhiệm vụ, cách thức hoạt động, thời gian và yêu cầu
cần đạt cho từng hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học tập của học sinh.
2. Cấu trúc của một giáo án được thể hiện ở các nội dung sau:
* Mục tiêu bài học:
+ Nêu rõ mức độ học sinh cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ.

28


+ Các mục tiêu được biểu đạt bằng động từ cụ thể, có thể lượng hóa được.
* Chuẩn bị về phương pháp và phương tiện dạy học:
+ Giáo viên chuẩn bị các thiết bị dạy học (Tranh ảnh, mô hình, hiện vật, hóa chất…), các
phương tiện và tài liệu dạy học cần thiết.
+ Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học (soạn bài, làm bài tập, chuẩn bị tài liệu và
đồ dùng học tập cần thiết).
* Tổ chức các hoạt động dạy học: Trình bày rõ cách thức triển khai các hoạt động dạy học
cụ thể. Với mỗi hoạt động cần chỉ rõ:
+ Tên hoạt động.
+ Mục tiêu của hoạt động.
+ Cách tiến hành hoạt động.
+ Thời lượng để thực hiện hoạt động.
+ Kết luận của giáo viên về: Những kiến thức, kĩ năng, thái độ học sinh cần có sau các hoạt
động; những tình huống thực tiễn có thể vận dụng kiến thức, kĩ năng, thái độ đã học để giải
quyết; những sai sót thường gặp; những hậu quả có thể xảy ra nếu không có cách giải quyết
phù hợp…

- Hướng dẫn các hoạt động tiếp nối: Xác định những việc học sinh cần phải tiếp tục thực
hiện sau giờ học để củng cố, khắc sâu, mở rộng bài cũ hoặc để chuẩn bị cho việc học bài
mới.
3. Một giờ dạy học cần thực hiện theo các bước cơ bản sau:
a. Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh:
+ Kiểm tra việc nắm vững kiến thức của bài học cũ.
+ Kiểm tra việc chuẩn bị bài mới.
Lưu ý: Việc kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh có thể thực hiện đầu giờ học hoặc đan xen
trong quá trình dạy bài mới.
b. Tổ chức dạy và học bài mới:
- Giáo viên giới thiệu bài mới: Nêu nhiệm vụ học tập và cách thức thực hiện để đạt được
mục tiêu bài học; tạo động cơ học tập cho học sinh.
- Giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh suy nghĩ, tìm hiểu, khám phá và lĩnh hội nội dung
bài học, nhằm đạt được mục tiêu bài học với sự vận dụng phương pháp dạy học phù hợp.
c. Luyện tập củng cố:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh củng cố, khắc sâu những kiến thức, kĩ năng, thái độ đã có
thông qua hoạt động thực hành luyện tập có tính tổng hợp, nâng cao theo những hình thức
khác nhau.
d. Đánh giá:
- Trên cơ sở đối chiếu với mục tiêu bài học, giáo viên dự kiến một số câu hỏi, bài tập và tổ
chức cho học sinh tự đánh giá về kết quả học tập của bản thân và của bạn.
- Giáo viên đánh giá, tổng kết về kết quả giờ học.
e. Hướng dẫn học sinh học bài và làm bài ở nhà:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh luyện tập củng cố bài cũ (thông qua làm bài tập, thực hành,
thí nghiệm…).
- Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học mới.
IV. DẠY HỌC THEO HƯỚNG TÍCH CỰC
Theo Bà Đặng Huỳnh Mai - Thứ trưởng BGD & ĐT thì: “ Nếu một giờ dạy được
giáo viên kế hoạch hoá với những hoạt động cần thiết cho cả thầy và trò chỉ trên một trang
giấy thì cũng phục vụ thiết thực cho công cuộc đổi mới phương pháp rất nhiều”.“Chúng ta

đang còn chép quá nhiều những điều khi dạy không dùng đến, bài soạn thì dài mà chất

29


×