Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

skkn rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp một

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.68 KB, 11 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Nước ta đang bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế. Để đất nước ngày càng
phát triển thì giáo dục và đào tạo phải gánh vác một trách nhiệm vô cùng to
lớn. Đó là phải đào tạo cho đất nước một đội ngũ nhân lực hùng hậu để đáp
ứng nhu cầu phát triển và hội nhập. Đây là điều mà tất cả những người làm
công tác trong ngành giáo dục nói chung và bản thân tôi nói riêng cũng rất
trăn trở và suy nghĩ làm thế nào để nâng cao chất lượng học sinh. Giúp các
em nắm được kiến thức cơ bản ngay từ đầu lớp Một, giúp các em học tốt và
thích học. Nhất là giúp các em có một nền móng vững chắc trong học tập bởi
lớp Một là nền móng cho sự phát triển của các em sau này ở các lớp kế tiếp.
Người ta thường nói “Cấp một là nền, lớp một là móng” vì thế móng có chắc
thì nền mới vững.

Kỹ năng đọc là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để
sử dụng trong học tập và trong giao tiếp. Nếu kỹ năng viết được coi là phương tiện
ưu thế nhất trong hệ thống ngôn ngữ thì kỹ năng đọc có một vị trí quan trọng không
thiếu được trong chương trình môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học.
Cùng với kỹ năng viết, kỹ năng đọc có nhiệm vụ lớn lao là trao cho các em chìa
khóa để vận dụng chữ viết trong học tập. Khi biết đọc, biết viết các em có điều kiện
nghe lời thầy giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa, sách tham khảo, … Từ đó có
điều kiện học tốt các môn học khác có trong chương trình.
Ở lớp Một các em học sinh bắt đầu làm quen với: nghe, nói, đọc, viết. Và kỹ
năng đọc rất quan trọng, nếu kỹ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành tốt ở các
em nó sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển tư duy, cảm
nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu, đoạn
văn, bài văn mình vừa đọc, hiểu được các lệnh, các yêu cầu trong các môn học
khác. Mặt khác ở lớp Một các em đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi
lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt hơn. Các em sẽ ham học, tích cực
trong học tập hơn nếu kết quả học tập của các em tốt. Chính vì những lý do trên mà
tôi chọn đề tài “Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một”.


2. Cơ sở lý luận
Kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một rất quan trọng, đó cũng là sự phản hồi
của kết quả tiếp thu sau một quá trình học tập của các em. Nó thể hiện kết
quả nhận biết các con chữ, các vần và khả năng ghép các âm với nhau thành
vần, ghép âm với vần thành tiếng và khả năng đọc từ, đọc câu, sau cùng là
đọc được một bài văn ngắn, một đoạn thơ ngắn, …
Học sinh đã nhận được mặt chữ, biết ghép vần, ghép tiếng, ghép từ, đọc
câu còn yêu cầu các em phải đọc đúng, đọc chuẩn, đọc chính xác. Vì nếu các
em đọc đúng các em sẽ viết đúng, bài chính tả sai ít lỗi và các em sẽ hiểu
được ý của tiếng, từ, câu mà các em viết.
3. Cơ sở nghiên cứu
Tôi thường nghiên cứu các giáo trình Phương Pháp Dạy Học Tiếng Việt 1 các tài liệu liên
quan: Sách Giáo Viên, Sách Giáo Khoa, Tổ chức các trò chơi trong dạy học môn Tiếng Việt, các
ấn phẩm: Để học tốt, dạy tốt môn tiếng việt lớp Một, Sách báo, Các loại sách tham khảo, bổ
1


trợ Tiếng Việt lớp Một . . .
4. Cơ sở thực tiễn
Trong phạm vi trường Tiểu học Long Phước và tình hình địa phương nơi
công tác, tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau:

a. Thuận lợi:
* Giáo viên:
- Được sự quan tâm và chỉ đạo tốt của các cấp lãnh đạo về chuyên môn. Tổ chức
bồi dưỡng giáo viên, tổ chức những tiết thao giảng, dự giờ ở trường bạn để học tập
kinh ngiệm,… cung cấp đủ tài liệu, phương tiện để nghiên cứu, học hỏi, giảng dạy.
- Được sự giúp đỡ của Ban Giám Hiệu trường: tổ chức thao giảng, dự giờ hàng
tháng, tổ chức những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút ra những
ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy.

- Đội ngũ giáo viên trường có tay nghề vững lâu năm trong công tác, có nhiều
kinh nghiệm, có ý thức tốt về trách nhiệm người giáo viên và sẵn sàng giúp đỡ đồng
nghiệp về chuyên môn cũng như giúp nhau tháo gỡ những khó khăn hay xử lý các
trường hợp học sinh cá biệt về học tập cũng như hạnh kiểm.
* Học sinh:
- Ở độ 6-7 tuổi của học sinh lớp Một các em đa số rất ngoan, dễ vâng lời, nghe lời
cô giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ, động viên khen thưởng,
….
- Có được sự quan tâm về việc học tập của con em mình của một số phụ huynh.
Một số phụ huynh có ý thức trách nhiệm không khoán trắng cho nhà trường, cho
giáo viên và đồng hành cùng với giáo viên trong việc học tập của con em mình như:
Chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập, thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện
tốt cho con em mình đến lớp cũng như học tập ở nhà.
b. Khó khăn
Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi trên, bản thân tôi vẫn còn gặp một số khó
khăn sau:
* Giáo viên:
- Tranh ảnh minh họa có sẵn cho môn Tiếng Việt còn hạn chế. Giáo viên còn tự
làm thêm đồ dùng dạy học để tạo sinh động cho tiết dạy, nên còn mất thời gian đầu
tư.
- Đèn chiếu, máy tính trang bị trong phòng học chưa có, mỗi lần dạy phải di
chuyển, kết nối mất nhiều thời gian.
* Học sinh:
- Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển, học
tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn so với các bạn
bình thường kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến.
Một số em chưa cố gắng, còn lười.
- Do đặc trưng vùng miền nên các em chủ yếu phát âm sai v / d; n/ng; ch/tr, . ..
- Đa số phụ huynh trong lớp là công nhân, đi làm thuê, chưa quan tâm đúng mức
đến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để kèm cặp con em mình

2


học bài, đọc bài ở nhà.
- Một số trường hợp học sinh cha mẹ các em khoán trắng việc học hành cho giáo
viên và nhà trường nên phần nào cũng ảnh hưởng đến việc học tập của các em.
5. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Trong phạm vi Trường Tiểu học Long Phước. Học sinh lớp 1B năm học 20162017

B. NỘI DUNG
I. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Để giúp học sinh rèn luyện và phát triển kỹ năng đọc tôi đã áp dụng những biện
pháp sau:
1. Nắm bắt thực trạng, tình hình học sinh qua khảo sát điều tra kiến thức đầu
năm.
- Kiểm tra sự nắm bắt, nhận diện chữ cái các em đã học ở mẫu giáo hay ở nhà và
kết quả điều tra năm thu được như sau:
Tình hình học sinh: lớp Một B sĩ số: 37 học sinh
Kết quả khảo sát nhận diện chữ cái:
+ Học sinh không biết chữ cái nào: 7 em
+ Biết 6 – 10 chữ cái
: 14 em
+ Nhận biết hết bảng chữ cái
: 7 em
+ Nhận biết âm hai chữ cái
: 6 em
+ Nhận biết được một số vần
: 3 em
Như vậy tỉ lệ học sinh nhận diện một cách chắc chắn chính xác bảng chữ cái còn
thấp dẫn đến kết quả học tập còn chưa cao.

Một trong những lý do dễ thấy là vì các em còn quá nhỏ, chưa có ý thức tự giác,
cố gắng trong học tập. Vì vậy giáo viên phải biết được đặc điểm tình hình của từng
đối tượng, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học cho học
sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn cảm thấy nhẹ nhàng, vui tươi và các em
sẽ thích học.
2. Biện pháp
a. Biệp pháp tác động giáo dục
- Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đầu năm học: Đề
nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho
môn học.
- Yêu cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc học bài, đọc bài ở nhà của con
em mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách đọc, cách phát âm chữ
cái, cách đánh vần vần, đánh vần tiếng, …để phụ huynh nắm rõ cách dạy học hỗ trợ
giáo viên kèm cặp con em mình ở nhà.
- Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy
học, tự làm thêm tranh ảnh mô hình, sưu tầm thêm những mô hình vật thật để tiết
dạy vui, sinh động. Đồng thời tăng cường vận dụng ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy học, qua những hình ảnh động cũng góp phần gây hứng thú giúp các em
3


hưng phấn trong luyện đọc .
- Xây dựng đôi bạn học giỏi – chậm kèm cặp nhau.
- Giáo viên có thể cho học sinh học chậm, đọc chậm ngồi gần với một học sinh
đọc nhanh, đọc tốt. Bạn đọc tốt sẽ giúp bạn đọc chậm khi chỉ chữ đọc bài, giúp bạn
đánh vần, đọc tiếng.
- Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay từ đầu năm
giáo viên nên nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình theo từng mức độ. Đối với
các học sinh chậm, sau khi giáo viên dạy xong 24 chữ cái đơn giản mà các em chưa
nhìn được mặt chữ cái hoặc chưa biết đủ 24 chữ cái đơn giản này, giáo viên nên

dành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho các em, ôn và dạy lại 24 chữ cái cơ bản cho
các em bắt đầu học lại những nét cơ bản.
b. Biện pháp trong từng phần học
* Phần học các nét cơ bản:
Giáo viên nên dạy thật kỹ, thật tỉ mỉ tên gọi và cách viết các nét cơ bản. Để cho
học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ này tôi phân theo cấu tạo các nét có tên gọi
và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh.
Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được chữ cái, kể cả những chữ
cái có hình dáng cấu tạo giống nhau.
VD: Các nét chữ cơ bản và tên gọi:
Nét sổ thẳng
Nét ngang
Nhóm 1: Nét xiên
Nét xiên phải
Nét xiên trái
Nhóm 2: Nét móc
Nét móc trên
Nét móc dưới
Nét móc hai đầu
Nhóm 3: Nét cong
Nét cong hở phải
Nét cong hở trái
Nét cong kín
Nhóm 4: Nét khuyết
Nét khuyết trên
Nét khuyết dưới
Nhóm 5: Nét thắt
Nét thắt trên
Nét thắt bụng
* Phần học âm:

Sau khi cho học sinh học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản một
cách vững vàng thì tiếp theo là phần học chữ cái.
Giai đoạn này vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc từng chữ cái thì mới có thể
ghép các được các chữ cái với nhau để tạo thành vần, thành tiếng, ghép các tiếng
đơn lại với nhau tạo thành từ, thành câu.
Lúc này tôi dạy cho các em nhận diện, phân tích từng nét trong từng con chữ cái
và nếu chữ cái đó có cùng tên mà lại có nhiều kiểu viết – kiểu in khác nhau hay gặp
trong sách báo như chữ a, chữ g thi tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận biết đó
4


cũng là chữ a hay chữ g để khi gặp kiểu chữ đó được in trong sách báo trẻ dễ hiểu,
dễ đọc không bị lúng túng.
Từ việc học kỹ cấu tạo âm bởi những nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ như trên sẽ
giúp trẻ phân biệt được sự khác nhau cả về cấu tạo và tên gọi của các âm
VD: + Âm d: gồm 2 nét: Nét cong kín nằm ở bên trái và nét sổ thẳng ở bên phải.
Đọc là : “ dờ”
+ Âm b: gồm 2 nét: Nét cong kín nằm ở bên phải và nét sổ thẳng nằm ở bên
trái.
Đọc là : “bờ”.
Sang phần âm ghép (chữ có hai âm ghép lại với nhau). Tôi cho học sinh sắp xếp
các âm có âm h đứng sau thành một nhóm để thấy được sự giống nhau và khác nhau
của các âm đó.
VD: + Các âm ghép: c ch
n nh
t - th
k - kh
g - gh
p - ph
ng - ngh

+ Còn lại các âm :
gi, tr, qu tôi cho học kỹ về cấu tạo.
+ Phân từng cặp :
ch - tr, ng - ngh, c - k, g - gh, d - gi để học sinh phát âm chính xác và viết
chính tả tốt.
Sang phần âm ghép đa số học sinh chậm trong lớp rất nhanh quên cách đọc của
những âm này nên trong các bài ôn tập tôi luôn cho học sinh đọc, ghép, viết nhiều
giúp các em ghi nhớ tên âm và mặt chữ.
Trong từng tiết học, từng bài ôn tôi luôn tìm đủ cách để kiểm tra phát hiện sự
tiến bộ của trẻ thông qua các bài đọc, các giờ chơi, giờ nghỉ, . . . từ đó củng cố thêm
kiến thức cho học sinh.
* Phần học vần
Sang giai đoạn học vần học sinh đã nắm vững các âm, các em còn được làm
quen với các kiểu chữ hoa: chữ viết hoa, chữ in hoa nên tôi tập cho học sinh nhận
biết các kiểu chữ hoa một cách chính xác để các em đọc đúng.
Để giúp trẻ học tốt phần vần, tôi tập cho học sinh thói quen: nhận diện, phân
tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần để các em học vững.
VD: Học vần oi
+ Cho học sinh nhận diện về cấu tạo vần oi : vần oi gồm 2 âm: âm o và âm i
Vị trí âm trong vần: âm o đứng trước, âm i đứng sau.
+ Đánh vần vần oi
Hướng dẫn học sinh: âm o đứng trước ta đọc o trước, âm i đứng sau ta đọc i
sau: o - i - oi.
5


Đọc trơn vần: oi
Với cách dạy phân tích, nhận diện nếu được áp dụng thường xuyên cho mỗi tiết
học vần chúng ta sẽ tạo cho các em kỹ năng phân tích, nhận diện dẫn đến đánh vần,
đọc trơn vần một cách dễ dàng và thành thạo giúp các em học phần vần đạt hiệu quả

tốt. Trong các bài dạy vần, sách giáo khoa Tiếng Việt 1 có kèm theo các từ khóa, từ
ứng dụng và các câu thơ, câu văn ngắn để học sinh luyện đọc. Muốn cho học sinh
đọc được các từ và câu ứng dụng trong bài giáo viên cho học sinh nắm chắc các vần
sau đó cho các em ghép chữ cái đầu với vần vừa học để đọc tiếng, đọc từ của bài.
* Phần tập đọc:
Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh nhất là đối tượng học sinh tiếp thu
chậm, hay quên. Học sinh tiếp thu nhanh đã vững phần chữ cái, nắm vững phần vần
chỉ nhìn vào bài là các em đọc được ngay tiếng, từ hoặc câu khá nhanh vì khả năng
nhận biết tốt. Còn học sinh hay quên các em nhận biết còn chậm, chưa nhìn chính
xác vần nên ghép tiếng rất chậm, ghép tiếng chậm dẫn đến đọc từ chậm và đọc câu
rất khó khăn. Vì thế đối với các học sinh này, sang phần tập đọc giáo viên cần hết
sức kiên nhẫn, giành nhiều cơ hội tập đọc cho các em giúp các em đọc bài từ dễ đến
khó, từ ít đến nhiều. Giáo viên tránh nóng vội để đọc trước cho các em đọc lại dẫn
đến tình trạng đọc vẹt và tính ỷ lại thụ động của học sinh. Giáo viên nên cho học
sinh nhẩm đánh vần lại từng tiếng trong câu, đánh vần xong đọc trơn lại tiếng đó
nhiều lần để nhớ sau đó nhẩm đánh vần tiếng kế tiếp lại đọc trơn tiếng vừa đánh vần
rồi đọc lại từng cụm từ.
VD: Dạy bài tập đọc Chiếc nhãn vở (sách giáo khoa Tiếng Việt 1)
+ Học sinh chưa đọc trơn được tiếng Giang, giáo viên nên cho các em đánh vần
tiếng Giang bằng cách phân tích như sau:
GV: Tiếng Giang gồm có âm gì và ghép với vần gì?
HS: Tiếng Giang gồm có âm gi ghép với vần ang.
GV: Vậy đánh vần tiếng Giang thế nào?
HS: di - ang – giang.
GV: Đọc trơn tiếng này thế nào?
Hs: Giang.
+ Học sinh đọc chậm không đọc được tiếng Giang
GV nên cho học sinh ôn lại cấu tạo vần ang trong tiếng Giang.
GV: Vần ang gồm có mấy âm?
HS: Vần ang gồm có 2 âm, âm a và âm ng.

GV: Vị trí các âm trong vần thế nào?
HS: Âm a đứng trước, âm ng đứng sau.
GV: Đánh vần và đọc trơn vần ang.
HS: a- ngờ- ang. ang
GV: Thêm âm Gi vào trước vần ang. Ta đánh vần, đọc trơn tiếng thế nào?
HS: di - ang - giang. Giang
Sau mỗi lần đánh vần, cho học sinh đọc trơn lại tiếng vừa đành vần nhiều lần
để khắc sâu vào trí nhớ học sinh.
6


c. Biện pháp rèn luyện kĩ năng đọc
Muốn rèn luyện kĩ năng cho học sinh được tốt trước hết phải chú ý đến việc đọc mẫu của
giáo viên. Qua việc đọc mẫu của giáo viên các em có thể bắt chước đọc đúng, phát âm đúng và
giọng đọc phù hợp cho từng nhân vật, hoàn cảnh. Đồng thời người giáo viên phải biết kết hợp
nhiều biện pháp và sử dụng hợp lý các phương pháp mới có chất lượng cao. Việc luyện đọc cho
học sinh ở nhiều cách mà trước hết là rèn cho học sinh phát âm đúng: một từ, một cụm từ, cách
ngắt nghỉ hơi, luyện đọc một câu văn, một bài văn.
*** Việc đầu tiên mà tôi thực hiện là rèn cho học sinh đọc đúng. Tôi tiến hành từng bước để
chỉnh sửa, uốn nắn.
- Bước 1: Rèn cho học sinh phát âm đúng (đúng phụ âm đầu, đúng vần, đúng phụ âm cuối,
đúng dấu thanh).
- Bước 2: Luyện cho học sinh đọc đúng một số từ khó. Bước này tôi dựa vào trình độ của lớp
tôi, tôi đã chọn một số từ ngữ cần luyện đọc hoặc cho các em tự phát hiện từ ngữ khó.
- Bước 3: Luyện cho học sinh đọc đúng cụm từ khó. Để tiến hành tốt bước này giáo viên phải
phát âm đọc mẫu chuẩn xác với cường độ, tốc độ vừa đủ để học sinh nghe kịp, nghe rõ ràng và
hiểu được.
*** Luyện cho học sinh đọc bằng mắt.
Việc này tôi hướng dẫn học sinh không đánh vần từng chữ, cũng không phải đọc lẩm nhẩm
trong miệng mà có thể nhìn bằng mắt lướt qua các chữ, các từ đó học sinh đọc trọn được một câu.

Thực hiện điều này tôi hướng dẫn học sinh dùng que tính hay thước kẻ chỉ lướt theo các chữ đang
đọc và đồng thời tôi cũng kiểm tra, theo dõi xem học sinh có đang đọc không.
*** Luyện cho học sinh đọc diễn cảm.
Trong khi hướng dẫn học sinh luyện đọc tôi kết hợp hướng dẫn các em biết sắc thái tình cảm
khác nhau của một bài văn khi phân vai. Mỗi nhân vật sắm vai phải thể hiện được giọng đọc của
từng vai theo nội dung bài để đọc to giọng hay đọc nhẹ nhàng vừa phải, đọc chậm theo đúng nhịp
điệu thích hợp, tạo được âm hưởng của đoạn văn, bài thơ, bài văn.....
VD: Khi dạy bài "Vì bây giờ mẹ mới về" tôi hướng dẫn học sinh thể hiện cách phân vai như
sau: Giọng người mẹ hoảng hốt khi thấy con khóc òa lên, giọng ngạc nhiên khi hỏi: “ Sao đến bây
giờ con mới khóc ?”. Giọng cậu bé nũng nịu.
*** Luyện cho học sinh có ý thức về ngữ điệu khi đọc.
Tôi hướng dẫn học sinh đọc kĩ bài ứng dụng trong phần học vần hay bài tập đọc trong phần
luyện tập tổng hợp. Hướng dẫn luyện đọc nhiều lần các câu dài có nhiều dấu phẩy hoặc những
câu có những chỗ cần ngắt giọng theo yêu cầu nội dung bài, cũng cần rèn cho học sinh đọc các
câu hỏi, câu cầu khiến, câu cảm.
VD: Khi cho học sinh luyện đọc các câu trong bài “Trường em” tôi tập trung rèn luyện cho
học sinh đọc các câu sau và chỉ rõ những chỗ cần ngắt hơi
Ở trường / có cô giáo / hiền như mẹ, /có nhiều bè bạn / thân thiết như anh em. // Trường học /
dạy em thành người tốt.// Trường học / dạy em những điều hay.//
Từ việc hướng dẫn cụ thể như vậy, học sinh biết ngắt nghỉ hơi đúng chỗ, nên giọng đọc chuẩn
xác, có ý thức phát âm tốt. Trong khi tiến hành luyện đọc cho các em. Tôi thường tổ chức cho các
đọc nối tiếp các câu trong bài. Khi tổ chức hình thức này tôi thường quy định các em ngồi cùng
dãy (ngang, dọc) tự động đọc, tôi có thể linh hoạt khi thì gọi em đầu tiên theo dãy dọc, lúc thì gọi
em ngồi phía bên trái theo dãy hàng ngang. Bằng cách này tôi yêu cầu tất cả học sinh trong lớp
phải chú ý bạn khác đọc. Cuối mỗi giờ học tôi thường tổ chức cho các em thi đọc diễn cảm hay
học thuộc lòng một đoạn thơ, đoạn văn theo nhiều hình thức như cá nhân, tổ, nhóm.

II. NHỮNG PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
Trong từng tiết dạy môn Tiếng Việt, để giúp học sinh tích cực và ham học giáo
viên cần sử dụng linh hoạt và phù hợp các phương tiện hỗ trợ tiết dạy như:

7


- Sử dụng tranh ảnh trong sách giáo khoa là chủ yếu.
- Tận dụng những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế để các em quan sát, tìm
hiểu.
- Sưu tầm thêm một số tranh ảnh, mẫu vật có liên quan đến bài dạy.
- Ứng dụng các hình ảnh, vi deo, bài giảng điện tử giảng dạy trong tiết học.
III. PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY
Có rất nhiều phương pháp và hình thức để áp dụng cho một tiết dạy nhằm đạt
được một kết quả tốt cho giờ học. Tuy nhiên không một phương pháp nào được coi
là vạn năng, giáo viên nên sử dụng linh hoạt và đồng loạt nhiều phương pháp để
giúp học sinh của mình đọc ngày càng tốt hơn. Sau đây là một số phương pháp
thường được áp dụng trong giờ học.
1. Phương pháp trực quan
Phương pháp này đòi hỏi học sinh được quan sát vật thật, tranh ảnh tự nhiên hay
việc làm mẫu của giáo viên như cho các em nghe cô phát âm mẫu, đánh vần mẫu,
đọc mẫu.
Ví dụ: Khi dạy học sinh học âm m, giáo viên phải phát âm mẫu và cho học sinh
quan sát khuôn miệng để các em bắt chước phát âm mới đúng được.
2. Phương pháp đàm thoại, vấn đáp.
Giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh trả lời nhằm phát hiện sự hiểu biết
của các em hoặc để gợi mở giúp các em phát hiện cách đọc.
Ví dụ: - Âm này là âm gì?
- Khi ghép âm x đứng trước, vần uân đứng sau ta được tiếng mới là tiếng gì?
Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên nên dùng ngôn ngữ dễ nghe, nhẹ
nhàng, tránh cáu gắt khi các em chậm nhớ, chậm hiểu. Hãy ôn tồn dẫn dắt học sinh
từng bước một để dạy các em đọc từng chữ, từng tiếng, từng câu trong mỗi bài.
3. Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng học sinh.
Trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh đọc chậm

để gọi các em thường xuyên đọc bài. Đối với học sinh đọc tốt tôi thường khích lệ,
khen ngợi để các em phấn khởi hơn. Còn đối với học sinh đọc còn chậm, hay quên
tôi nhẹ nhàng động viên các em hãy luôn cố gắng chắc chắn các em sẽ làm được.
Khi các em này có tiến bộ dù một chút tôi luôn khen ngợi, tuyên dương để các em
có động lực và cố gắng hơn. Trong tiết dạy tập đọc, sau khi cho cả lớp đọc xong, tôi
mời các em đọc chậm lên bàn giáo viên để cùng đọc bài với cô. Tôi giành nhiều
thời gian cho đối tượng này hơn. Cùng đọc bài với các em trong giờ ra chơi, giờ học
phụ đạo (nhưng vẫn để cho các em có thời gian thư giãn, nghỉ ngơi). Khi các em có
biểu hiện tiến bộ tôi thường khen thưởng các em bằng những phần quà nhỏ như
cuốn vở, cây thước kẻ, cục gôm, cây bút đẹp,… để các em thích thú và cố gắng
hơn.
4. Phương pháp học nhóm
Ngay từ đầu năm học qua khảo sát, phân loại học sinh trong lớp tôi bố trí cho
học sinh học tốt kèm học sinh còn chậm để giúp bạn học tập, ưu tiên những học
sinh tiếp thu chậm, hay quên được ngồi ở dãy bàn thứ nhất và thứ hai trong lớp.
8


Trong từng giờ học lúc nào tôi cũng gọi các em đọc bài nhiều hơn những học sinh
khác, gọi đọc theo nhóm đôi (trong cùng bàn) để học sinh chậm đọc theo học sinh
đọc tốt và học sinh đọc chậm cũng được luyện tập nhiều hơn.
Trong lớp tôi tổ chức thành sáu nhóm. Mỗi nhóm đều có nhóm trưởng, thư ký
nhóm. Các nhóm tôi chia đồng đều, nhóm nào cũng có học sinh đọc nhanh, tiếp thu
tốt và học sinh đọc chậm, hay quên. Khi tổ chức làm việc nhóm, nhóm trưởng có
nhiệm vụ phân công cho các bạn các công việc phù hợp với khả năng của bạn đó.
5. Phương pháp tổ chức các trò chơi
Trong giờ học vần, tôi hay lồng ghép các trò chơi nhỏ để cả lớp cùng tham gia.
Ví dụ: + Trò chơi Đọc nhanh – Đọc đúng (Ong trí tuệ)
Giáo viên ghi một số tiếng, từ vào các thẻ từ và lật úp các tấm thẻ này lại, học
sinh chọn bất cứ tấm thẻ nào và đọc. Bạn nào đọc nhanh, đọc đúng sẽ được cả lớp

khen và có phần thưởng nhỏ. Tôi thường hay chọn các học sinh đọc chậm, hay quên
đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng đọc để thi đua và tạo cho các em khả
năng đọc nhanh, đọc đúng.
+Trò chơi Đọc chữ - Đọc số
Tôi nhờ lớp phó học tập lên bảng điều khiển trò chơi, em này gọi một bạn bất
kì. Bạn lớp phó đọc chữ thì bạn được gọi đọc số tương ứng với chữ đó và ngược lại
(mỗi em đọc 4 từ hoặc số). Trò chơi này học sinh rất thích và lớp học cũng sôi nổi .
6. Phương pháp nhận xét nêu gương.
Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinh đồng
đều vào cuối năm học, tôi thường trò chuyện với học sinh chậm để giúp các em cố
gắng hơn cho kịp bằng các bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn học tốt trong lớp.
Ví dụ: Bạn Thanh Thảo, bạn Ngọc Trúc đọc giỏi, học tốt vì các bạn ấy rất chăm chỉ
đọc bài và đọc rất nhiều ở nhà. Ở lớp các bạn cũng luôn cố gắng đọc bài và luyện
tập thêm để ngày càng đọc tốt, đọc hay hơn. Bạn Gia Hân trước đây cũng hay quên
âm, đọc chậm nhưng nay bạn đọc rất tốt vì bạn luôn cố gắng lắng nghe và đọc nhiều
lúc ở lớp cũng như ở nhà. Cô tin chắc rằng các em cũng sẽ như bạn nếu các em luôn
cố gắng.
Và tôi cũng đọc cùng với các em ấy, nhằm giúp đỡ khả năng đọc bài, cũng như
giúp các em phân tích tiếng, cách đọc một tiếng, cách đọc sao cho nhanh như: nhẩm
âm đầu → nhẩm vần → ghép âm đầu với vần → ghép dấu thanh thành tiếng…
IV. KẾT QUẢ
Trong quá trình áp dụng các biện pháp, phương pháp trên để rèn kỹ năng đọc cho
học sinh lớp Một. Tôi thấy kỹ năng đọc của các em học sinh tiến bộ hẳn lên .
Số học sinh đọc yếu giảm dần trong năm học:
Năm học
2016 - 2017

Sĩ số học
sinh
37


Đầu
năm
18

Số học sinh đọc chậm
Giữa
Cuối kỳ I
kỳ I
9
5

Giữa kỳ
II
1
9


Đây là một kết quả rất đáng mừng, bù đắp cho công sức và sự kiên nhẫn của cả
cô và trò trong quá trình rèn luyện .
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Rèn kỹ năng đọc cho học sinh là đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn, bài.
Đọc còn yêu cầu học sinh biết ngắt nghỉ đúng ở dấu phẩy, dấu chấm, phát âm
chuẩn, chính xác các con chữ… để khi viết các em không nhầm lẫn dẫn đến sai lỗi
chính tả.
Vì thế để phân môn tập đọc của học sinh lớp Một có kết quả cao. Giáo viên chủ
nhiệm lớp phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, phải yêu học sinh như
chính con mình, biết rõ mặt mạnh, mặt yếu của học sinh để bồi dưỡng, luyện tập.
Trong từng tiết dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần truyền thụ
cho học sinh thông qua mục đích, yêu cầu của bài dạy. Khi giảng dạy cần lựa chọn

nhiều phương pháp phù hợp, vận dụng việc đổi mới phương pháp trong giảng dạy
đó là lấy học sinh làm trung tâm, phải khơi gợi cho học sinh tính chủ động, ham
thích học, đọc bài. Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cũng được coi trọng hàng đầu và
nên thường xuyên sử dụng thiết bị dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin, tranh
ảnh, trò chơi trong quá trình dạy học để học sinh hào hứng học tập .
Giáo viên cần dẫn dắt học sinh đọc một cách nhẹ nhàng, dí dỏm, tạo cho các em
sự tin cậy, yêu mến cô giáo, tinh thần vui vẻ, hồn nhiên để học tập. Khi đọc mẫu
giáo viên nên phát âm chuẩn xác để học sinh bắt chước và vững vàng trong cách
đọc tránh đọc sai để ảnh hưởng đến học sinh.
Tuy nhiên đều quan trọng hơn cả vẫn là lòng yêu trẻ, sự kiên trì, nhẫn nại và ý
thức trách nhiệm của một người thầy giáo, cô giáo trực tiếp giảng dạy các em hàng
ngày. Chúng ta luôn ý thức trách nhiệm của mình dạy học sinh phải tiến bộ, sau một
năm học các em phải đọc được và đạt được mức chuẩn đến trên chuẩn. Muốn đạt
được mục đích này người giáo viên lập kế hoạch cho mình ngay từ đầu, quyết tâm
giữ vững tinh thần tránh nhiệm của mình với học sinh. Hãy cùng học, cùng đọc với
các em ở mọi lúc mọi nơi, mọi môn học, không nên hời hợt, cho qua khi các em đọc
sai lỗi, với học sinh lớp Một cần tập cho các em thói quen tốt: đọc đúng, nhìn kỹ, cố
gắng, nhẫn nại, chịu khó, kiên trì,… để tập cho các em nề nếp tốt trong học tập ở
hôm nay và mai sau.

C.

KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ

I. KẾT LUẬN
Trong khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm với đề tài “ Rèn kỹ năng đọc cho học
sinh lớp Một” lớp tôi đã có những thành quả, tiến bộ vượt bậc.
Sau khi áp dụng những biện pháp trên vào trong thực tiễn lớp, tôi thấy học sinh
lớp tôi đã nhớ rõ được các âm, vần đã học. Các em ghép tiếng và đọc tiếng rất
nhanh. Bây giờ các em đã có thể đọc lưu loát một đoạn văn hay một khổ thơ.

Nhiều em còn đọc rất diễn cảm, ngắt nghỉ hơi tốt. Đây là một thành quả không
những riêng tôi mà bất kỳ giáo viên lớp một nào cũng mong muốn ở học sinh của
10


mình.
II. KIẾN NGHỊ
- Đối với nhà trường: cần bổ sung thêm nhiều tranh ảnh minh họa cho môn Tiếng
Việt để giúp giáo viên có phương tiện dạy học tốt hơn.
- Đối với giáo viên: chúng ta cần phải thực sự quan tâm yêu thương, gần gũi và
tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong các buổi học để giúp các em ham học và
yêu thích môn học.
- Về phía học sinh: Có đầy đủ đồ dùng học tập, có ý thức tự giác trong học tập.
Do kinh nghiệm bản thân còn chưa nhiều, đây là năm đầu tiên tôi giảng dạy ở
khối lớp Một cho nên còn nhiều khó khăn khi thực hiện đề tài. Tôi rất mong được
sự góp ý của Ban giám hiệu cũng như các anh chị đồng nghiệp. Tôi xin chân thành
cảm ơn.
Quận 9, ngày 10 tháng 3 năm 2017
Người viết

Hà Thị Phương

11



×