Phần I: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Nhân loại đã bước vào thế kỷ XXI, một thế kỷ tiếp tục có những biến đổi to
lớn, khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò
ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển; toàn cầu hoá kinh tế là một xu hướng
khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Sự tranh chấp quốc tế trên
các lĩnh vực ngày càng gay gắt. Phân tích tình hình trong nước và thế giới khi bước
vào thế kỷ XXI, Đại hội IX của Đảng đã xác định “Con đường công nghiệp hoá,
hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có bước tuần tự vừa
có bước nhảy vọt. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh trí tuệ của người Việt
Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu
là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
Mặt khác, nội dung thay đổi đòi hỏi phương pháp dạy học cũng đổi mới.
“Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trên cơ sở khai thác triệt để
các đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học” là biện pháp đổi mới phương pháp
dạy và phương pháp học ở Tiểu học. Các em học sinh Tiểu học, đặc điểm nổi bật
là thích chơi hơn thích học, sự nhận thức còn mang tính cụ thể . Do đó nên tổ chức
cho các em “ Học mà chơi, chơi mà học.” Một trong những biện pháp chủ yếu để
đạt được mục đích trên là gây cho các em học sinh hứng thú học tập, tạo niềm tin,
niềm vui bằng cách lôi cuốn các em vào những trò chơi toán học hấp dẫn phù hợp
với trình độ nhận thức, đặc điểm lứa tuổi của các em đặc biệt là các em những lớp
đầu cấp.
Bản thân là một giáo viên Tiểu học (dạy lớp 3A3 ) tôi nhận thấy rằng muốn
dạy tốt chương trình toán 3, không những người giáo viên phải nắm vững nội dung
chương trình mà còn phải luôn tìm tòi, năng động, sáng tạo để vận dụng linh hoạt
những phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả dạy và
học.
Xuất phát từ những lý do bức xúc cấp bách như vậy nên tôi đã chọn và
nghiên cứu đề tài: “Thiết kế trò chơi trong dạy học Toán 3”, để giờ học toán phong
phú hấp dẫn hơn tạo hứng thú thực sự cho học sinh Tiểu học.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
1. Tìm hiểu hệ thống nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học toán
3
2. Thiết kế trò chơi góp phần đổi mới phương pháp dạy học trong giờ học
toán 3
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục đích trên cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
1. Tìm hiểu tầm quan trọng của đổi mới phương pháp dạy học.
2. Tìm hiểu các quan điểm chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học nói chung
và học toán nói riêng.
3. Tìm hiểu ý nghĩa, tác dụng của trò chơi toán học.
4. Nghiên cứu sách giáo khoa và sách giáo viên toán 3 và các tài liệu có liên
quan.
5. Thiết kế các trò chơi trong giờ học toán 3.
6. Tìm hiểu phân loại đối tượng học sinh trong lớp.
7. Dạy thực nghiệm.
8. Đề xuất ý kiến.
IV. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
- Chủ thể: Trò chơi trong giờ học toán 3.
- Khách thể: Học sinh lớp 3A3 trường Tiểu học Như Quỳnh B, huyện Văn
Lâm, tỉnh Hưng Yên.
V. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Do thời gian có hạn, năng lực nghiên cứu còn hạn chế tôi chỉ đi sâu về:
“Thiết kế trò chơi trong dạy học Toán 3”.
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận.
2. Phương pháp nghiên cứu bằng điều tra, quan sát.
3. Phương pháp thực nghiệm.
4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
Phần II: NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1. Quy luật nhận thức của học sinh Tiểu học.
Nhìn chung học sinh ở Tiểu học việc nhận thức một vấn đề nào đó thường bị
chi phối rất nhiều từ các yếu tố và hoạt động bên ngoài. ở các lớp dưới sự tri giác
của các em mang tính trực giác, chẳng hạn như tri giác về thời gian: thời gian như
bị kéo dài khi học sinh không bị hoạt động nào lôi cuốn, bị rút ngắn khi bị lôi cuốn
vào các hoạt động hấp dẫn và mãi về sau sự tri giác của học sinh mới dần dần được
hoàn thiện thông qua các hoạt động nhận thức.
Sự chú ý chủ định còn chiếm ưu thế ở học sinh Tiểu học, sự chú ý này chưa
bền vững nhất là đối với các đối tượng ít thay đổi.
Do thiếu khả năng tổng hợp, sự chú ý của học sinh còn phân tán vào các
hoạt động khác, sự phân tích còn kém nên dễ bị lôi cuốn vào cái trực quan nội cảm.
Trí nhớ trực quan - hình tượng và trí nhớ máy móc phát triển hơn trí nhớ logic, trí
nhớ máy móc cũng dễ dàng hơn đối với trí nhớ logic, hiện tượng hình ảnh cụ thể
dễ nhớ hơn là câu chữ trừu tượng, khô khan.
Trí nhớ tưởng tượng tuy có phát triển nhưng còn tản mạn, ít có tổ chức và
còn chịu tác động nhiều của hứng thú kinh nghiệm sống và mẫu hình đã biết.
Mặc dù ở lứa tuổi học sinh Tiểu học có nhiều sự thay đổi hơn ở bậc
Mầm non nhưng những ham muốn vui chơi vẫn còn chiếm ưu thế, tuy nhiên nó có
bị chi phối bởi những hoạt động học tập. Với những đặc điểm nêu trên thì trong
quá trình dạy học cần phải tổ chức một loại hình hoạt động sao cho nó phù hợp
với đặc điểm lứa tuổi của học sinh Tiểu học. Trong các loại hình hoạt động đã
được vận dụng trong dạy và học thì loại hình hoạt động “Học mà chơi, chơi mà
học” nó đã đáp ứng được những yêu cầu nêu trên. Ngoài ra với loại hình này là huy
động tư duy tổng hợp trên cơ sở kiến thức cơ bản và ngược lại thông qua trò chơi
các kiến thức cơ bản được củng cố một cách hoàn thiện hơn. Đó là một trong
những nguyên lý dạy học. Nguyên lý này đối với Tiểu học đã được các nhà Giáo
dục chứng minh.
Qua các thông tin đại chúng: Phát thanh - truyền hình, báo chí mà đặc biệt là
báo Thiếu niên - Nhi đồng và Toán học tuổi thơ đã đề cập đến loại hình nêu trên
khá sinh động và thu được nhiều kết quả cao trong dạy học.
2. Đổi mới phương pháp dạy học:
Đổi mới phương pháp dạy học là đưa phương pháp dạy học mới vào nhà
trường trên cơ sở phát huy mặt tích cực của phương pháp truyền thống để nâng cao
chất lượng dạy học, nâng cao hiệu quả giáo dục.
Với sự phát triển của xã hội ngày càng đi lên, đặc biệt là sự phát triển của
khoa học - kỹ thuật thì giáo dục, đặc biệt là giáo dục Tiểu học, cần phải thực hiện
đổi mới toàn diện và đồng bộ để chuẩn bị học vấn cơ sở và khả năng thích ứng chủ
động, sáng tạo cho những người lao động trong điều kiện công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nước Việt Nam đầu thế kỷ XXI (thế kỷ của Công nghệ thông tin).
Đứng trước sự phát triển đó của xã hội, tất cả các nước trên thế giới trong đó
có Việt Nam đã thực hiện cuộc cách mạng về phương pháp dạy học. Theo kinh
nghiệm nhiều nước trên thế giới chỉ ra rằng: “Cuộc cách mạng về phương pháp
(đổi mới phương pháp dạy học) sẽ đem lại bộ mặt mới, sức sống mới cho giáo dục
trong xã hội hiện đại”. Hơn nữa ở các bậc học càng thấp, vai trò của phương pháp
càng quan trọng, đặc biệt Tiểu học là bậc học nền tảng bao gồm nhiều học sinh.
Nhận thức được tầm quan trọng của phương pháp dạy học ở Tiểu học, từ
năm 1991 trung tâm nghiên cứu nội dung và phương pháp phổ thông thuộc viện
khoa học giáo dục đã phối hợp với nhiều cơ quan của Bộ Giáo dục và Đào tạo,
nhiều Sở Giáo dục và Đào tạo trong cả nước tổ chức nghiên cứu đề tài “Đổi mới
phương pháp dạy học”. Với kết quả nghiên cứu ban đầu được thử nghiệm ở một số
vùng và tất cả các giáo viên Tiểu học khi vận dụng phương pháp đổi mới trong dạy
học đều xác nhận tính hiệu quả của các giải pháp và có tính khả thi rất cao. Đến
nay việc vận dụng đổi mới phương pháp trong dạy học đã được ban hành rộng rãi
trong cả nước và chắc chắn nó sẽ đem lại nhiều hứa hẹn trong tương lai.
Vậy bản chất của đổi mới phương pháp dạy học là đổi mới các hình thức tổ
chức dạy học cộng với các hoạt động hợp lý của thầy và trò trong mỗi một nội
dung (mỗi một đơn vị kiến thức) trong quá trình dạy - học.
3. Giải pháp đổi mới:
3.1. Đổi mới nhận thức của cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên:
Coi việc đổi mới phương pháp dạy học như điều kiện tiên quyết đảm bảo
thắng lợi của đổi mới giáo dục hiện nay. Khẳng định quyết tâm và trách nhiệm của
các cấp thuộc ngành giáo dục - đào tạo trong đổi mới cách dạy, cách học ở Tiểu
học. Xác định đổi mới phương pháp dạy học là một quá trình lâu dài, phải rất kiên
trì, phải ủng hộ và khuyến khích sự chủ động sáng tạo của giáo viên và học sinh.
Tránh bảo thủ và áp đặt.
3.2. Đổi mới nội dung giáo dục:
Lựa chọn các nội dung cơ bản, thiết thực, tinh giản song mang tính tích hợp
trong từng bài, từng chủ đề, tăng các hoạt động thực hành, vận dụng theo điều kiện
của địa phương và của đối tượng học sinh.
3.3. Đổi mới hình thức tổ chức dạy học:
Phối hợp hợp lý các hình thức dạy học cá nhân, dạy học theo nhóm, dạy học
cả lớp, dạy học ở hiện trường (ở cơ sở sản xuất, bảo tàng địa phương, ở vườn
trường...), dạy học có sử dụng trò chơi học tập.
Ở bậc Tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói riêng việc sử dụng trò chơi học tập
rất phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của các em vì với các em “Học mà chơi, chơi mà
học”. Giáo viên không nên sử dụng một hình thức, một phương pháp dạy học duy
nhất trong các giờ lên lớp mà phải biết kết hợp đan xen nhiều phương pháp, hình
thức tổ chức dạy học khác nhau nhằm giúp học sinh chú ý cao, tạo hứng thú học
tập. Tuy nhiên việc kết hợp các hình thức dạy học trong giờ lên lớp còn phụ thuộc
vào nội dung từng tiết học, đối tượng học sinh … Để giờ học đạt kết quả cao người
giáo viên cần lựa chọn một cách linh hoạt, sáng tạo các phương pháp hình thức tổ
chức dạy học.
3.4. Đổi mới môi trường giáo dục:
Muốn đổi mới phương pháp dạy học thì cần có môi trường giáo dục phù
hợp. Trước hết là môi trường lớp học (phòng học) xây dựng mỗi một phòng học là
một môi trường giáo dục (sử dụng bức tường và không gian lớp học để tổ chức các
hoạt động giáo dục gắn với tư liệu, phương tiện…).
3.5. Đổi mới cơ sở vật chất và thiết bị giáo dục:
Khuyến khích sử dụng hợp lý các đồ dùng dạy học, đồ dùng học tập, sử
dụng các phiếu học tập (vở thực hành…).
Động viên và tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh tự làm lấy một số đồ
dùng dạy và đồ dùng để học.
Từng bước tổ chức các phòng chuyên dụng phục vụ cho các hoạt động giáo
dục và dạy học tự chọn ở Tiểu học.
3.6. Đổi mới về cách kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh:
Phối hợp nhiều hình thức kiểm tra như: Kiểm tra thường xuyên, kiểm tra
định kỳ, kiểm tra viết, kiểm tra miệng, phối hợp các hình thức tự luận và trắc
nghiệm trong các bài kiểm tra.
Tóm lại: Đổi mới phương pháp dạy học đã được thực thi và mang lại kết quả
rất đáng kể. Các phương pháp về đổi mới cũng đã có rất nhiều và cũng đề cập đến
nhiều khía cạnh song để một giờ dạy học của giáo viên Tiểu học thành công thì quả
cũng không phải là dễ, nó yêu cầu cả người giáo viên và cả học sinh phải hoạt
động rất linh hoạt và tích cực trong các môn học mà nhất là môn toán. Vậy để giờ
học giảm bớt căng thẳng mà vẫn mang lại kết quả thì tuỳ theo từng tiết toán chúng
ta đưa vào những nội dung “trò chơi” cho phù hợp, để đúng với yêu cầu của học
sinh Tiểu học đó là: “Học mà chơi, chơi mà học”.
4. Trò chơi trong giờ học toán:
4.1. Quan niệm về trò chơi toán học:
- Trò chơi toán học là trò chơi trong đó có chứa một yếu tố toán học nào đó.
- Trò chơi toán học có thể phân theo số lượng người tham gia chơi:
+ Trò chơi tập thể.
+ Trò chơi cá nhân.
- Trò chơi có thể là trò chơi vận động, có thể là trò chơi trí tuệ, cũng có thể
kết hợp cả trò chơi vận động và trò chơi trí tuệ.
Vì trò chơi toán học mang đầy đủ các đặc điểm của các trò chơi, nhưng
chúng ta cần phân biệt trò chơi toán học và trò chơi phi toán học. Trò chơi toán học
là trò chơi ít nhiều có tổ chức trong đó một yếu tố kiến thức toán học nào đó còn
trò chơi phi toán học thì không chứa một yếu tố toán học nào trong trò chơi. Mức
độ trò chơi sẽ được nâng dần theo từng lớp, theo mức độ kiến thức. Càng lên lớp
trên tính trí tuệ phải cao hơn. Trong nhà trường trò chơi toán học có thể tổ chức
như một hoạt động dạy học toán. Cơ sở tâm lý và sinh lý khẳng định hoạt động dạy
toán học dưới dạng trò chơi toán học rất phù hợp với lứa tuổi học sinh Tiểu học.
Thực tế cũng cho thấy hình thức tổ chức trò chơi toán học được học sinh hưởng
ứng tích cực và tham gia có hiệu quả cao.
- Xét về mục đích phục vụ dạy học nói chung trò chơi toán học có thể là:
+ Trò chơi nhằm dẫn dắt hình thành tri thức mới.
+ Trò chơi nhằm củng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng
+ Trò chơi nhằm ôn tập, rèn luyện tư duy trong giờ ngoại khoá.
- Nếu phân loại trò chơi theo các mạch kiến thức ở toán Tiểu học ta có:
+ Trò chơi có nội dung số học và yếu tố đại số.
+ Trò chơi có nội dung về đại lượng và đo đại lượng.
+ Trò chơi có nội dung hình học.
+ Trò chơi có nội dung yếu tố thống kê.
+ Trò chơi rèn luyện, ứng dụng kỹ năng giải toán.
4.2. Chuẩn bị tổ chức một trò chơi toán học:
Căn cứ vào nội dung, kiến thức, trình độ học sinh và điều kiện hiện có. Giáo
viên lựa chọn nội dung để tổ chức thành trò chơi đưa vào dạy học như một hoạt
động toán. Giáo viên phải đặc biệt chú ý xác định được rõ mục đích học tập của trò
chơi.
Các bước chuẩn bị và tiến hành trò chơi:
+ Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị những đồ dùng dụng cụ cần thiết có thể giao
cho học sinh những dụng cụ dễ kiếm.
+ Công bố luật chơi: Giáo viên phải giải thích cách chơi, trong đó nêu rõ
những ai trực tiếp chơi, ai cổ động, ai đánh giá (người đánh giá không nhất thiết
phải là giáo viên), chơi như thế nào, chơi trong thời gian bao lâu, phần thưởng là
gì? Chú ý chọn hình thức ngắn gọn, dễ dàng, dễ giải thích cách chơi, không nên
giải thích dài dòng học sinh mất hứng thú ngay từ đầu khi tham gia chơi.
+ Tiến hành: Dù trực tiếp hay gián tiếp tất cả học sinh của lớp đều phải tham
gia vào trò chơi, giáo viên theo dõi và giúp đỡ học sinh tháo gỡ những vướng mắc
nếu cần.
+ Nhận xét: Giáo viên nhận xét khuyến khích học sinh (có thể phát quà như
bút, thước, truyện tranh, giấy, vở…).
4.3. ý nghĩa tác dụng của trò chơi toán học:
Học sinh Tiểu học luôn hiếu động, ham chơi, thích cái mới lạ, nhưng lại
chóng chán. Đối với trẻ trò chơi là phát hiện mới, kích thích tính tò mò, muốn tìm
hiểu khám phá. Do vậy quan điểm “Thông qua hoạt động vui chơi để tiến hành
hoạt động học tập” (J.Piaget) phù hợp với nhà trường Tiểu học.
Trong quá trình dạy toán ở Tiểu học, sử dụng trò chơi học tập có nhiều tác
dụng như:
+ Giúp học sinh thay đổi loại hình hoạt động trong giờ học, làm cho giờ học
bớt căng thẳng, tạo cảm giác thoải mái, dễ chịu. Học sinh tiếp thu kiến thức nhẹ
nhàng, gây hứng thú học tập.
+ Kích thích sự tìm tòi, tạo cơ hội để học sinh tự thể hiện mình.
+ Thông qua hoạt động vui chơi, học sinh vận dụng kiến thức linh hoạt, kích
thích trí tưởng tượng, trí nhớ, từ đó phát triển tư duy mềm dẻo, học tập cách sử lý
thông minh trong những tình huống phức tạp, tăng cường khả năng vận dụng trong
cuộc sống để dễ dàng thích nghi với điều kiện mới của xã hội.
+ Thông qua hoạt động vui chơi còn giúp các em phát triển được nhiều
phẩm chất đạo đức như tinh thần đoàn kết, thân ái, giúp đỡ, lòng trung thực, tinh
thần cộng đồng, trách nhiệm.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN.
Qua nghiên cứu và áp dụng đề tài: ““Thiết kế trò chơi trong dạy học Toán
3”.
Qua những năm dạy ở Tiểu học và qua trực tiếp giảng dạy lớp 3A3.
Qua dự giờ thăm lớp, qua tìm hiểu tài liệu, sách báo tôi nhận thấy:
* Về giáo viên:
Các hình thức tổ chức trong giờ học toán còn đơn điệu nghèo nàn; việc sử
dụng hình thức trò chơi trong giờ học toán chưa thực sự chú trọng. Hơn nữa tài liệu
nói về hình thức tổ chức trò chơi học tập còn hạn chế, dụng cụ, đồ dùng phục vụ
cho trò chơi chưa được trang bị. Một số tài liệu, dự án có đưa ra các hình thức tổ
chức trò chơi phong phú nhưng chưa sát thực và không mang tính khả thi cao. Bên
cạnh đó thì giáo viên Tiểu học không được tập huấn về thiết kế trò chơi.
* Về học sinh:
Trò chơi được sử dụng trong giờ học toán tạo hứng thú cho các em giúp các
yêu thích, say mê môn học nhưng nếu không dùng thường xuyên thì thao tác của
các em sẽ lúng túng, bỡ ngỡ trước các tình huống của trò chơi. Các em học sinh
được chơi trong giờ học thì quả thật các em rất thích nên gây hứng thú cho các em
và giờ học trở nên nhẹ nhàng, kiến thức được ghi nhớ trong đầu các em rất sâu và
rất hợp với quy luật nhận thức.
Mặt khác về nội dung chương trình toán 3 thì phần kiến thức nặng nhưng rõ
ràng và rất khoa học. Phần kiến thức và hệ thống bài tập được sắp xếp từ dễ đến
khó theo logic chặt chẽ. Tuy nhiên chúng ta vẫn dạy theo cách thức cũ thì giờ học
toán cho dù ở chương trình rất khoa học nhưng vẫn rất khô cứng với học sinh. Vậy
thì càng rất cần có sự gia công sư phạm, có sự thiết kế và sắp xếp nội dung từng
bài dạy phù hợp với hình thức tổ chức và phương pháp dạy học đổi mới của người
giáo viên để giờ học toán trở nên sinh động , hứng thú học tập cho các em học
sinh, mang lại kết qua học tập cao.
Tóm lại: Từ cơ sở lý luận, từ cơ sở thực tế tôi nhận thấy việc thiết kế trò chơi
góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng hiệu quả dạy học
môn toán nói chung và toán 3 nói riêng là rất cần thiết.
THIẾT KẾ TRÒ CHƠI TOÁN HỌC LỚP 3
I. NGUYÊN TẮC THIẾT KẾ:
1. Nguyên tắc vừa sức dễ thực hiện:
- Mỗi trò chơi phải củng cố được một nội dung toán học cụ thể trong chương
trình (có thể là kiến thức cần kiểm tra bài cũ, bài mới, kiến thức luyện tập, thực
hành…).
- Toán 3 chương trình mới được xây dựng và chia làm 5 mạch kiến thức: Số
học và yếu tố đại số; Đại lượng và đo đại lượng; Yếu tố hình học; Yếu tố thống kê;
Các dạng toán giải. Các trò chơi được xây dựng từ các dạng bài tập có chọn lọc
của các tiết học trong 5 mạch kiến thức trên nhưng có thể mang những cái tên đầy
gợi cảm, gây hứng thú cho học sinh góp phần hình thành củng cố hệ thống kiến
thức.
- Các trò chơi phải giúp các em học sinh rèn luyện kỹ năng toán học, phát
huy trí tuệ, óc phân tích, tư duy sáng tạo, tư duy logic…
- Trò chơi phải phù hợp với quỹ thời gian của tiết học toán, thích hợp với
môi trường học tập.
- Trò chơi phải có sức hấp dẫn thu hút sự tham gia của tất cả học sinh trong
lớp, tạo không khí vui vẻ, thoải mái và thư giãn.
- Trò chơi phải gần gũi, sát thực phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của học
sinh lớp 3. Không quá khó và quá cầu kỳ nhưng cũng không nên đơn giản quá là
cho học sinh không phát huy được tính trí tụê trong trò chơi.
2. Nguyên tắc khai thác và thực hành.
- Sử dụng triệt để, nội dung kiến thức cơ bản cũng như đồ dùng, phương tiện
có sẵn của môn học (ở thư viện, đồ dùng của giáo viên, học sinh…).
- Các đồ vật, đồ dùng tự làm được giáo viên khai thác từ những vật liệu gần
gũi xung quanh (từ các phế liệu như võ hộp bánh kẹo, đầu gỗ, đầu nứa, nắp chai,
giấy bìa…) sao cho đồ dùng vừa đảm bảo tính khoa học, tính giáo dục, tính thẩm
mỹ nhưng rẻ tiền và ít tốn kém.
Vậy từ các nguyên tắc trên và dựa vào nội dung kiến thức trong sách giáo
khoa, căn cứ vào thời gian, mục tiêu đề ra ở mỗi tiết học cũng như đối tượng các
em học sinh, môi trường học tập ở trường Tiểu học Như Quỳnh B nơi tôi công tác
để tôi thiết kế các trò chơi sử dụng trong giờ học toán 3 .
II. CÁC TRÒ CHƠI TOÁN HỌC
A. Trò chơi có nội dung số học và yếu tố đại số.
1. Trò chơi thứ 1: Xếp hàng thứ tự
* Mục đích: Giúp học sinh củng cố cách so sánh và sắp xếp các số theo thứ
tự từ bé đến lớn và ngược lại.
* Chuẩn bị: Giáo viên - chuẩn bị 2 lá cờ hiệu (Cờ giấy nhỏ, 2 lá có màu khác
nhau)
Học sinh - mỗi đội 5 mảnh bìa (có kích thước 10 x 15cm) trong mỗi mảnh
bìa có ghi các số.
Ví dụ: Tiết 1: Đọc, viết và so sánh các số có 3 chữ số bài tập số 4, 5 trang 3
sách giáo khoa.
Khi tổ chức trò chơi giáo viên có thể chuẩn bị nội dung ghi trong bìa: 537;
162; 573; 621; 126.
* Chọn đội chơi: Mỗi đội 5 em; các em tự đặt tên cho đội mình (ví dụ: tên
gọi tương ứng với màu sắc của cờ hiệu như đội Xanh, đội Đỏ).
* Cách chơi: Hai đội trưởng lên nhận bìa của tổ và phát bìa cho mỗi bạn ở
đội mình. Giáo viên yêu cầu hai đội quan sát, tự so sánh các số vừa nhận trong
nhóm với nhau (trong 1, 2 phút).
* Quy ước: Khi giáo viên hô hiệu lệnh và giơ 2 lá cờ trên 2 tay về hai phía
(sang ngang) yêu cầu các em nghe, giơ biển lên cao và xếp mỗi đội một hàng
ngang, bắt đầu từ giáo viên. Khi cô đưa 2 lá cờ song song về phía trước các em tập
hợp hàng dọc.
* Giáo viên bắt đầu hô các cách khác nhau như: “Tập hợp theo thứ tự từ bé
đến lớn”; “Tập hợp theo thứ tự từ lớn đến bé” sau hai ba lần thi thay đổi các biển
giữa hai đội rồi tiếp tục chơi.
* Ban thư ký ghi kết quả và tổng hợp điểm. Mỗi lần xếp hàng đúng thứ tự,
nhanh, không ồn ào, xô lấn, làm lộn xộn, cho 10 điểm. Xếp chậm, không thẳng
hàng, mất trật tự trừ 2 điểm. Đội nào xếp sai không ghi điểm. Sau 5 phút kết thúc
trò chơi đội nào nhiều điểm sẽ thắng cuộc.
Trò chơi có thể sử dụng ở các tiết: So sánh các số trong phạm vi
10 000 bài tập số 2 trang 101. So sánh các số trong phạm vi 100 000 bài tập
số 4 trang 147.
2. Trò chơi thứ 2 : Những con số.
* Mục đích : Giúp học sinh nắm vững cấu tạo số tự nhiên 3, 4, 5,…, chữ số.
* Chuẩn bị : Giáo viên chuẩn bị 6 con xúc sắc lập phương trên các mặt có
ghi các số từ 0 đến 9, học sinh chuẩn bị giấy bút, hai đội (mỗi đội 4 em) thi đua
giữa hai đội với nhau. Thời gian chơi 4 phút.
* Cách chơi :
Hai đội ngồi ở hai bàn hai bên, giáo viên đứng ở giữa, học sinh cả lớp
đứng quan sát cổ vũ . Giáo viên gieo đồng thời 6 con xúc sắc, đọc lệnh hãy viết tất
cả các số có 3; 4; 5; … chữ số vào giấy và góp kết quả lại. Các em sẽ bàn và phân
công mỗi bạn viết một loại ( 3, 4… chữ số). Hết bốn phút tất cả dừng bút nộp kết
quả lại cho giáo viên. Trong đội nếu kết quả các số trùng nhau tính điểm một lần.
Giáo viên tổng hợp lại đội nào viết được nhiều số đội đó thắng cuộc, phần thưởng
là bút bi, giấy…. (trò chơi được sử dụng trong các tiết đọc viết các số tự nhiên).
3. Trò chơi thứ 3: Kết bạn
* Mục đích:
- Rèn luyện, củng cố kỹ năng tính nhẩm nhanh các phép tính cộng, trừ hoặc
nhân, chia (số tròn chục, tròn trăm).
- Luyện tác phong nhanh nhẹn, tinh mắt.
* Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị 10 đến 15 tấm bìa hình chữ nhật kích thước
10 x 15cm; có dây đeo. Mỗi tấm đều ghi một phép tính hoặc kết quả tương ứng.
Ví dụ: Tiết cộng trừ các số có 3 chữ số (không nhớ) bài tập số 1, trang 4
Nội dung ghi trong thẻ như sau:
300 + 400
500 + 40
300
504
700 + 400
700
540
124
100 + 20 + 4
500 + 4
700 - 200 - 20
480
* Cách chơi: Học sinh xung phong lên rút thẻ của mình, sau đó tất cả đội
tập hợp thành vòng tròn, các em đeo thẻtrước ngực, mỗi em tự quan sát số thẻ của
mình đứng trước và sau số thẻ của bạn nào trong nhóm mình. Tự tính nhẩm kết quả
hoặc phép tính tương ứng với kết quả hoặc phép tính ghi trên thẻ của mình.
* Yêu cầu cả đội lặc cò cò, vửa hát vừa vỗ tay cùng cả lớp: “Lặc cò cò cho
cái giò nó khỏe, đi xen kẽ cho nó khỏe cái giò”. Khi giáo viên hô “Tìm bạn! Tìm
bạn!” các em phải nhanh chóng tìm và chạy về với bạn đeo thẻ có kết quả hoặc
phép tính tương ứng với thẻ của mình. Những ai tìm đúng, tìm nhanh bạn mình
nhất thì ghi được điểm 10. bạn nào tìm sai thì phải tự nhẩm lại để tìm đúng bạn
mình. Sau một lượt giáo viên đổi thẻ lẫn lộn, sau đó cho các em tiếp tục chơi hoặc
nhóm khác chơi.
Trò chơi có thể áp dụng cho tiết luyện tập bài số 2 trang 103 sách giáo khoa,
phạm vi 100 000.
4.Trò chơi thứ 4: Đoàn kết.
* Mục đích: Rèn luyện kĩ năng tính nhẩm nhanh.
* Chuẩn bị: Trò chơi này không cần chuẩn bị gì.
* Cách chơi: Giáo viên hô: “Đoàn kết, đoàn kết”
Học sinh hỏi: “Kết mấy, kết mấy?”
Giáo viên hô: “Kết 3x2” hoặc “ 14-9”, “8+3’’
Học sinh phải nhẩm được kết quả và kết thành nhóm theo yêu cầu.
Ai nhanh được tuyên dương, ai chậm bị phạt theo yêu cầu của lớp.
5.Trò chơi thứ 5: Truyền điện.
* Mục đích:
+ Luyện tập, củng cố kĩ năng làm các phép tính cộng , trừ không nhớ trong phạm
vi 1000.
+ Giúp học sinh thuộc nhân, chia trong bảng.
* Chuẩn bị : Trò chơi này không cần chuẩn bị bất kỳ đồ dùng nào.
* Cách chơi: Các em ngồi tại chỗ. Giáo viên sẽ “ châm ngòi”đầu tiên, giáo viên
đọc một phép tính chẳng hạn 4x8 rồi chỉ vào một em, em đó phải bật ngay ra kết
quả. Nếu kết quả đúng thì em có quyền “truyền điện” một bạn khác.Em sẽ đọc bất
cứ phép tính nào, ví dụ 36:9 và chỉ vào một bạn. Bạn đó lập tức phải có kết quả là
4, rồi lại “ truyền điện” tiếp.Trò chơi cứ tiếp tục như vậy. Nếu em nào được quyền
trả lời mà lúng túng không bật ra ngay được kết quả thì bị “điện giật”. Giáo viên
sẽ lại chỉ định một em khác bắt đầu. Sau khi kết thúc trò chơi những bạn bị “điện
giật” thì bị phạt hát một bài.
+ Trò chơi này không càu kì nhưng vẫn gây được không khí vui, sôi nổi, hào hứng
trong giờ học cho các em.
6. Trò chơi thứ 6: Ai đúng? Ai nhanh?
* Mục đích: Giúp học sinh nắm vững cách đọc, cách viết, cấu tạo các số tự nhiên
đến 100.000.
* Chuẩn bị:Giáo viên chuẩn bị cho mỗi đội 10 tờ giấy khổ A4 để trắng, 5 bút dạ.Cô
phát cho mỗi em 2 tờ giấy và 1 bút dạ (chuẩn bị vào 1 tờ, ghi cách đọc của đội bạn
vào 1 tờ). Mỗi đội 5 học sinh lên bảng đứng thành 1 hàng. Hai đội bốc thăm dành
quyền đọc trước.
* Cách chơi: Cô cho 2 đội chuẩn bị 2 phút, 5 em bàn nhau và mỗi em viết sẵn một
số có từ 2 đến 4 chữ số vào một mặt của tờ giấy(viết to để ở dưới lớp có thể nhìn
rõ).Ghi cách đọc ở góc trên bằng chữ nhỏ khi cần giơ lên đối phương không nhìn
thấy. Mặt còn lại ghi cách đọc 1 số nào đó cũng ghi cách viết ở góc trên bằng chữ
nhỏ. Hết thời gian 2 phút, cô hô: “ Lần thứ nhất bắt đầu’’ thì đội đi trước sẽ nêu
cách đọc số mình chuẩn bị (mỗi số đọc to 2 lần), đội kia phải viết lại được.Sau khi
đọc đủ 5 số thì đổi vai trò ngược lại. Lần thứ hai thì đội đi trước phải nhìn các con
số của đội kia viết rồi đọc to cho cả lớp nghe và đổi vai trò ngược lại.Sau khi 2 đội
kết thúc đọc và viết, cô giáo cùng cả lớp ẽ làm trọng tài để kiểm tra kết quả. Cứ
mỗi ý đọc, viết đúng được 10 điểm, đọc chậm, vấp, sửa lỗi được 2 điểm. Nếu làm
đáp án sai thì bị trừ 5 điểm, đội nào nhiều điểm hơn sẽ thắng cuộc và được khen
trước lớp.
7. Trò chơi thứ 7: Con số xếp hàng .
* Mục đích: Giúp học sinh củng cố, so sánh và sắp xếp các số theo thứ tự từ
bé đến lớn và ngược lại .
* Chuẩn bị : Thời gian cho cuộc chơi là 5 phút. Mỗi đội chuẩn bị 4 mảnh bìa
kích thước (10 x 15cm ) có giây buộc để đeo vào cổ của các thành viên đội chơi. 8
mảnh bìa của 2 đội ví dụ được ghi như sau:
- 194 ; 178; 192 ; 194.
- 189 ; 195 ; 169 ; 194 .
Chọn 2 đội chơi, mỗi đội 4 em chơi. Giáo viên có thể đặt tên cho 2 đội: Hoạ
mi, Sơn ca… Chuẩn bị cử ban thư ký ghi kết quả và tổng kết điểm.
* Cách chơi :
Hai đội lên nhận biển về phát đeo vào cổ thành viên đội mình. Giáo viên yêu
cầu 2 đội quan sát, tự so sánh các số vừa nhận được trong nhóm mình (1 phút).
Quy ước: Hai đội phải xếp hàng ngang quay mặt xuống lớp để biển số trước
ngược cho thư ký và cổ động viên quan sát.
- Giáo viên bắt đầu hô các cách khác nhau như: “Tập hợp theo thứ tự từ bé
đến lớn” hoặc “ Tập hợp theo thứ tự từ lớn đến bé” (chú ý: quy ước cho cả hai đội
sắp xếp theo thứ tự từ phải qua trái hoặc ngược lại theo từng hiệu lệnh).
- Ban thư ký ghi kết quả và tổng kết điểm: Mỗi lần xếp hàng đúng thứ tự,
nhanh, không ồn ghi 10 điểm. Không thẳng hàng, ồn, trừ 2 điểm. Xếp hàng sai
không có điểm. Sau 5 phút đội nào nhiều điểm sẽ thắng cuộc được thưởng bút chì,
thước kẻ…v.v (trò chơi có thể được đổi biển của hai đội cho nhau để chơi tiếp và
được thực hiện ở các tiết học so sánh các số tự nhiên).
8 . Trò chơi thứ 8: Mặt nạ thông minh.
* Mục đích : Giúp học sinh củng cố lại kiến thức về thực hiện phép tính
trong biểu thức. Rèn kỹ năng nhận xét, quan sát và khả năng diễn đạt mạch lạc.
* Chuẩn bị : Giáo viên chuẩn bị 4 biển mặt nạ (2 mặt - một mặt cười mầu
đỏ, một mặt mếu mầu xanh) . Chọn 3 đội chơi (ứng với 3 mặt nạ, còn một mặt nạ
giáo viên giữ để làm đáp án). Cử thư ký ghi kết quả và điểm. Mỗi đội chơi 3 bạn .
Số học sinh còn lại trong lớp làm cổ động viên cho các đội chơi. Giáo viên chuẩn
bị bảng con để ghi các bài toán . Thời gian chơi 7-10 phút.
* Cách chơi : Thi đua giữa các đội với nhau. Giáo viên lần lượt xuất hiện
bảng con ghi cách thực hiện các bài toán. Ví dụ như sau:
321 + 500 x 2
8 x 8 + 576
= 321 + 1000
= 64 + 576
=
=
1321
843 - 123 x 5
= 720 x 5
= 3600
640
609 x 9 - 4845
= 5481 - 4845
=
646
Mỗi lần giáo viên xuất hiện bảng con 3 đội chơi quan sát nội dung và kiểm
nghiệm nhanh phép tính và kết quả để đưa ra đáp án mặt cười hay mặt mếu. Giáo
viên mời đại diện từng đội giải thích bài toán đúng hoặc sai ở chỗ nào mà đội mình
lại đưa ra kết quả như thế. Cuối cùng giáo viên đưa đáp án quay mặt nạ. Ban thư
ký tổng hợp điểm. Mỗi lần trả lời đúng thì được 10 điểm. Nếu quay mặt đúng
nhưng chưa trả lời được câu hỏi chất vấn của giáo viên thì bị trừ 2 điểm. Đội nào
nhiều điểm nhất sẽ thắng cuộc. Thưởng bút bi, mực, vở v.v…
(Trò chơi này có thể sử dụng ở rất nhiều bài tính giá trị biểu thức chỉ cần thay đổi
nội dung ghi ở bảng con )
- Chú ý: Những bài toán xuất hiện ở bảng con có thể là đúng, có thể là sai chứ
không cần nhất thiết bài nào cũng đúng, chỉ cần nếu sai học sinh chỉ ra lỗi sai .
9. Trò chơi thứ 9: Tìm bạn.
* Mục đích: Rèn luyện, củng cố kỹ năng tính nhẩm nhanh các phép tính
cộng, trừ, nhân chia tròn chục, tròn trăm. Luyện tác phong nhanh nhẹn, tinh mắt,
óc quan sát tinh tế.
* Chuẩn bị : Giáo viên chuẩn bị từ 12 đến16 tấm thẻ có kích thước 10 x 15,
có giây đeo được vào cổ. Mỗi tấm thẻ đều ghi một phép tính hay một kết quả
tương ứng. Thời gian chơi 7 phút .
Ví dụ: Giáo viên ghi vào thẻ như sau
6000 + 2000 - 4000
21000 x 3
90000 - (80000 - 20000)
9000 - 4000 x 2
90000 - 80000 + 20000
(9000 - 4000) x 2
12000 : 6
8000 - 6000 : 3
4000
63000
30000
1000
30000
10000
2000
6000
* Cách chơi: 12 đến 16 em chơi giáo viên cho các em lên tự nhận thẻ đeo
vào cổ quan sát số ghi hoặc phép tính của mình. Giáo viên cho tất cả các em chơi
đứng thành vòng tròn quan sát số ghi của bạn để tìm kết quả hay phép tính tương
ứng ghi ở thẻ của mình. Giáo viên yêu cầu cả nhóm chơi vừa vỗ tay vừa đi vòng
tròn hát: “Tính thì tính nhưng phải cho tinh mắt”; “Tính thì tính nhưng phải cho
tinh mắt”… Khi giáo viên bất ngờ hô: “Tìm bạn”, “Tìm bạn” các em phải nhanh
chóng tìm và chạy về phía bạn đeo thẻ có kết quả hoặc phép tính tương ứng với
phép tính, kết quả ghi trên thẻ mình đeo. Những ai tìm đúng, nhanh nhất được ghi
10 điểm. Tìm sai phải tự nhẩm và tìm đúng bạn của mình. Sau một lượt giáo viên
có thể đổi biển lẫn lộn hoặc cho các nhóm khác chơi tiếp.
(Trò chơi có thể chơi và sử dụng ở các bài tính nhẩm cộng, trừ, nhân, chia số tròn
chục, tròn trăm.).
10. Trò chơi thứ 10: Đối đáp nhanh.
* Mục đích:
- Luyện kỹ năng tính nhẩm các phép tính cộng, trừ, nhân, chia các số tròn
chục, tròn trăm, tròn nghìn. Nhân chia nhẩm với 10, 100, 1000 và nhân với 11.
- Rèn kỹ năng nói, diễn đạt, nhanh nhẹn, linh hoạt.
* Chuẩn bị:
Thời gian chơi từ 5 đến 7 phút . Chuẩn bị hai đội chơi, chuẩn bị một số đề
viết vào các phiếu.
7000 + 2000; 9000 -3000; 3000 x 2; 49000 : 7; 54 x 100 : 10; 81 x 1000 :
1000; 34 x 1; …v…v.
Giáo viên cử thư ký ghi kết quả điểm.
* Cách chơi: Thi đua giữa 2 đội chơi (Mỗi đội từ 10 đến 12 em) giáo viên
đưa đề cho cả hai đội (đề của mỗi đội khác nhau). Đại diện 2 đội lên oản tù tỳ xem
đội nào ra đề trước, đội thứ nhất đọc đề đội thứ hai đọc đáp án (kết quả) nếu trả lời
(đáp án) sai thì khán giả (các bạn ở dưới được phép trả lời) và nhận phần thưởng là
bút bi, thước, ..v…v. Sau khi trả lời xong đội thứ 2 nêu nhanh đề để đội thứ 1 trả
lời tiến hành tương tự khoảng 5 phút thì dừng lại. Mỗi kết quả đúng đạt 10 điểm.
Ban thư ký tổng hợp điểm nhóm nào nhiều điểm sẽ thắng cuộc. (Chú ý: nếu 2
nhóm bằng điểm nhau thì nhóm nào trả lời và đọc đề mạch lạc, rõ ràng, nhanh sẽ
thắng - trò chơi này được tổ chức ở các bài tính nhẩm và nhân chia cho
10,100,1000…).
11.Trò chơi thứ 11: Ai nhiều điểm nhất?
* Mục đích: Luyện tập , củng cố kĩ năng cộng 2 số trong phạm vi
1000.
* Chuẩn bị:
+ Hai chậu cây cảnh có đánh số 1,2.
+ Một số bông hoa bằng giấy màu cứng, mặt trướcmàu trắng ghi
các phép tính như:
367+125
93+58
367+120
487+130
168+503
487+302
+ Phấn màu.
+ Đồng hồ theo dõi thời gian.
+ Chọn 3 học sinh khá nhất lớp làm giám khảo và thư ký.
* Cách chơi: Giáo viên chia lớp thành hai đội,khi nghe hiệu lệnh
“bắt đầu”lần lượt từng đội cử người lên bốc hoa trên bàn giáo viên.
Người chơi có nhiệm vụ làm nhanh phép tính ghi trên bông hoa sau đó
cài bông hoa lên cây của đội mình. Người này làm xong cài hoa lên cây
thì lại đến lượt người khác.Cứ như vậy cho đến hết 2 phút. Sau khi giáo
viên hô : “hết giờ” thì 2 đội mỗi đội cử 1 đại diện lên đọc từng phép tính
trên cây của mình đồng thời giơ cho cả lớp xem bông hoa đó. Giám khảo
đánh giá và thư ký ghi lại kết quả.
* Cách tính điểm:
+ Mỗi phép tính đúng được 10 điểm.
+ Tổng hợp số điểm của từng đội. Đội nào nhiều điểm hơn là đội
đó thắng cuộc.
* Lưu ý: Sau giờ chơi, giáo viên nêu nhận xét, đánh giá các đội
chơi, khuyến khích tổ giám khảo, thư ký, nhắc nhở các em những sai sót,
vấp váp để lần sau các em chơi tốt hơn.
12. Trò chơi thứ 12: Rồng cuốn lên mây.
* Mục đích:
Kiểm tra kĩ năng tính nhẩm của học sinh. Ví dụ :củng cố các bảng nhân,
chia…
* Chuẩn bị:
Một tờ giấy viết sẵn các phép tính nhân,chia trong các bảng nhân chia đã
học.
* Cách chơi: Một em được chủ định làm đầu rồng lên bảng.
+ Em cất tiếng hát:
“Rồng cuốn lên mây
Rồng cuốn lên mây
Ai mà giỏi tính về đây với mình.”
+ Sau đó em hỏi:
“ Người tính giỏi có nhà hay không?”
- Một em học sinh bất kì trả lời:
“ Có tôi, có tôi.”
- Em làm đầu rồng ra phép tính đố, ví dụ : “ 42:7”
- Em tính giỏi trả lời (nếu trả lời đúng thì được đi tiếp theo em đầu
rồng). Hoặc em đầu rồng đọc:
“Vừa trống vừa mái
Đếm đi đếm lại
Tất cả sáu mươi
Mái một phần tư
Còn là gà trống
Đố bạn tính được
Trống mái mấy con?”
Cứ như thế em làm đầu rồng cứ ra câu hỏi và cuốn đàn lên mây.
- Lưu ý: Ở trò chơi này nên chọn em làm đầu rồng phải nhanh
nhẹn, hoạt bát.
13. Trò chơi thứ 13: Bác đưa thư.
(Áp dụng dạy các bảng nhân, bảng chia).
* Mục đích: Giúp học sinh học thuộc lòng bảng nhân 6. Kết hợp
với các thói quen nói “cảm ơn” khi người khác giúp một việc gì đó.
* Chuẩn bị:
+ Một số thẻ,mỗi thẻ có ghi 1 số 6,12,15,24,30,36,…60 là kết quả
của các phép nhân để làm số nhà.
+ Một số phong bì có ghi phép nhân trong bảng 6: 1x6, 6x1, 2x6,
6x2…..
+ Một tấm các đeo ở ngực ghi : “Nhân viên bưu điện”.
* Cách chơi.
+ Gọi một số em lên bảng chơi,giáo viên phát cho mỗi em một thẻ
để làm số nhà. Một em đóng vai “Bác đưa thư”ngực đeo “Nhân viên bưu
điện” tay cầm tập phong bì.
+ Một số em đứng trên bảng, lần lượt từng em một nói:
Bác đưa thư ơi
Cháu có thư không?
Đưa giúp cháu với
Số nhà……12
Khi đọc đến câu cuối cùng “số nhà…12” thì đồng thời em đó giơ
số nhà 12 của mình lên cho cả lớp xem. Lúc này nhiệm vụ của “ bác
đưa thư” phải tính nhẩm cho nhanh để chọn đúng lá thư có ghi phép tính
có kết quả là số tương ứng giao cho chủ nhà (ở trường hợp này phải
chọn phong bì “6x2” hoặc “2x6” giao cho chủ nhà.)Chủ nhà nhận thư
và nói lời “cảm ơn” .Cứ như vậy các bạn chơi lại nói và “bác đưa thư”
lại tiếp tục đưa thư cho các nhà khác.
Nếu “bác đưa thư nhẩm sai, đưa thư không đúng địa chỉ nhận thì
không được đóng vai đư thư nữa mà trở về chỗ để các bạn khác lên thay.
Nếu các lần đưa thư đều đúng thì sau 3 lần được cô giáo tuyên dương và
đổi chỗ cho bạn khác chơi.
B. Trò chơi có nội dung về đại lượng và đo đại lượng.
14. Trò chơi thứ 14: Trổ tài mua sắm
(Áp dụng trong các bài : Tiền Việt Nam- Tiết 125,126,127 ).
* Mục đích :
+ Củng cố cho học sinh nhận biết và sử dụng một số loại giấy bạc trong
phạm vi 100.000 đồng (1000 đồng, 2000 đồng, 5000 đồng,10.000 đồng, 20.000
đồng, 50.000 đồng, 100.000 đồng)
+ Rèn kĩ năng cộng, trừ các số với đơn vị “đồng”.
+ Thực hành trả tiền và nhận lại tiền thừa trong khi mua,bán.
* Chuẩn bị :
+ Một số tờ giấy bạc 500 đồng, 1000 đồng, 2000 đồng, 5000 đồng, 10 000
đồng.
+ Một số đồ vật : bóng , giấy kiểm tra, hồ dán, cặp tóc, tranh.
+ Một số tờ bìa ghi giá : 1000 đồng, 3000 đồng, 6000 đồng, 7000 đồng, 55
000 đồng, 15 000 đồng.
+ Tất cả bày lên bàn giáo viên.
* Cách chơi:
+ Gọi 2 em chơi:
- 1 em đóng vai người bán hàng.
- 1 em đóng vai người mua hàng.
+ Phát tiền cho cả 2 em.
+ Người mua hàng có thể mua bất kỳ mặt hàng nào trả tiền theo đúng giá ghi
trên sản phẩm người mua và người bán sẽ phải suy nghĩ .
Ví dụ: Mua bóng giá :1500 đồng.
Người mua đưa trả
:
2000 đồng.
Người bán phải suy nghĩ và trả lại : 500 đồng.
- Sau mỗi lần 2 em đóng vai trả lời xong cho các bạn nhận xét, nếu đúng thì
được chơi lần 2 và được thưởng một vài nhãn vở. Nếu sai thì về chỗ để bạn khác
lên chơi.
* Khen những em nghĩ ra cách trả tiền để người bán phải suy nghĩ lại khó và
em biết tính để trả lại cho đúng là những “ nhà kinh doanh giỏi”.
15.Trò chơi thứ 15: “ Tích tắc – tích tắc, Học – chơi – ăn –
ngủ, Có giờ, có giấc”.