Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Thực chất học thuyết về nhà nước chuyên chính vô sản của lênin trong tác phẩm “nhà nước và cách mạng”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.06 KB, 21 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
***
V.I.Lênin là một nhà tư tưởng, nhà hoạt động thực tiễn, lãnh đạo
kiệt xuất đã kế tục vẻ vang sự nghiệp của Mác - Ăngghen, vận dụng sáng
tạo và phát triển học thuyết Mác, để lại cho giai cấp công nhân và nhân
dân lao động bị áp bức một di sản tư tưởng lý luận vô giá, như: Học
thuyết về chủ nghĩa đế quốc và cách mạng vô sản; vấn đề xây dựng một
hình thái kinh tế - xã hội mới - xã hội chủ nghĩa chưa từng có trong lịch
sử loài người; tư tưởng về xây dựng Đảng kiểu mới và xây dựng một nhà
nước mới với bản chất là cơ quan quyền lực của nhân dân lao động;
những giá trị cơ bản về hệ thống phương pháp luận khoa học Mácxít…
V.I.Lênin đã hiến dâng trọn đời mình vì sự nghiệp đấu tranh giải
phóng người lao động khỏi ách áp bức giai cấp và dân tộc. Do tính chất
nhân đạo và cao cả của sự nghiệp đó, Lênin đã trở thành biểu tượng và
hiện thân của cuộc đấu tranh nhằm xóa bỏ chế độ bất công, áp bức, đói
nghèo, xây dựng một thế giới mới vì hạnh phúc và phẩm giá con người.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của chúng ta đã nói: “Trước con mắt
các dân tộc phương Đông, V.I.Lênin không chỉ là một lãnh tụ, một người
chỉ huy. Đó cũng là một người thầy có sức hấp dẫn: tính coi thường sự xa
hoa, lòng ham mê công việc, đời sống trong sạch, sự giản dị và tâm hồn
cao thượng của Người, làm cho quả tim chúng tôi hướng về Người không
có gì ngăn cản nổi”.
Mặc dù chủ nghĩa xã hội vừa qua ở một số nước mắc nhiều thiếu
sót, sai lầm, song không ai có thể bác bỏ sự thật hiện hữu về thành tựu
của chủ nghĩa xã hội và sự đóng góp to lớn vào tiến trình phát triển văn
minh của nhân loại so với các chế độ xã hội trước đó.
Hiện thực trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
ngày càng khởi sắc, là một biểu tượng minh chứng hùng hồn về sức sống


của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự khẳng định Đảng


ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng Lênin đề ra đường lối cách mạng đúng
đắn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nhất là trong sự
nghiệp đổi mới - công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tư tưởng của
V.I.Lênin về nhà nước chuyên chính vô sản lại tỏa sáng trên quê hương
Việt Nam.
Để hiểu rõ hơn về nhà nước chuyên chính vô sản ngoài phân mở
đẩu, kết luận chúng ta tìm hiểu tư tưởng của Người qua tác phẩm Nhà
nước và Cách mạng qua bài tiểu luận thông qua một số nội dung sau:
I. Sơ lược hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
II. Nguồn giốc và bản chất của nhà nước.
III. Quan điểm của Lênin về Nhà nước chuyên chính vô sản.
IV. Ý nghĩa của quan điểm của Lênin

2


PHẦN NỘI DUNG
***
I. SƠ LƯỢC HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
Tác phẩm “ Nhà nước và cách mạng” được V.I.Lênin viết vào
tháng 8-tháng 9, năm 1917 và xuất bản thành sách riêng năm 1918, đến
nay đã hơn 90 năm. Mặc dù thế giới từ đó đến nay đã trải qua nhiều biến
đổi phức tạp, song những luận điểm của V.I.Lênin trong tác phẩm này vẫn
tỏ rõ sức sống mạnh mẽ, tiếp tục soi sáng cho thực tiễn xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chuyên chính vô sản ở Việt Nam hiện
nay.
“Nhà nước và cách mạng” là tác phẩm đặc sắc của V.I.Lênin trên
nhiều phương diện triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học,
trong đó lần đầu tiên học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề nhà
nước được trình bày một cách có hệ thống và đầy đủ nhất. V.I.Lênin đã

khẳng định vấn đề nhà nước là một trong những vấn đề căn bản của chủ
nghĩa Mác, phân tích mối liên hệ giữa nhà nước với tính chất giai cấp của
xã hội, tính tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô
sản, xác định thực chất và nhiệm vụ của nhà nước vô sản và nền dân chủ
vô sản, đã phát triển sáng tạo những luận điểm của Mác và Ăngghen về
nhà nước trong điều kiện mới.
Vào đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn cuối
cùng của nó, giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn này đã được Lênin
coi là đêm trước của cách mạng vô sản, xã hội chủ nghĩa. Cuộc chiến
tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) làm cho mâu thuẫn của chủ nghĩa tư
bản gay gắt đến tột độ, đã thúc đẩy nhanh chóng quá trình chín muồi của
khủng hoảng cách mạng trong nhiều nước đế quốc. Thực tế này đã đặt ra
trước giai cấp vô sản và các đảng mácxít của nó nhiệm vụ lật đổ ách
3


thống trị của giai cấp tư sản và giành chính quyền về tay giai cấp công
nhân. V.I.Lênin đã nhấn mạnh: “Vấn đề thái độ của cách mạng xã hội chủ
nghĩa của giai cấp vô sản đối với nhà nước không những chỉ có ý nghĩa
chính trị - thực tiễn, mà còn có tính chất nóng hổi nhất nữa, vì đây là vấn
đề làm cho quần chúng thấy rõ những việc họ sẽ phải làm trong một
tương lai gần đây, để tự giải phóng khỏi ách tư bản”
Chính ở thời điểm này những người đứng đầu, thủ lĩnh cơ hội
trong Quốc tế II mà điển hình là E.Béc-tanh, Cau-sky đã chống lại các
nguyên lý của Chủ nghĩa Mác, chúng ra sức tuyên truyền làm giảm sức
chiến đấu của giai cấp công nhân như: cách mạng vô sản và chuyên chính
vô sản không phải là tất yếu lịch sử; họ chống lại việc dùng phương pháp
cách mạng và sức mạng của bạo lực cách mạng để lật đổ nhà nước tư sản,
thay thế nó bằng nhà nước vô sản; họ ra sức bảo vệ lý luận phát triển hòa
bình chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội. Các lý luận đó phản ánh

trực tiếp thái độ phủ nhận và từ bỏ con đường cách mạng vô sản, thay thế
nó bằng đường lối tư sản cải lương. Đó là sự phản bội chủ nghĩa Mác.
Những khuynh hướng tư tưởng lý luận đó thâm nhập vào phong trào công
nhân và truyền bá trong xã hội gây ra những hậu quả tiêu cực tai hại, có
nguy cơ làm mất phương hướng chính trị của phong trào công nhân, đầu
độc tư tưởng ý thức công nhân bằng những lý luận cơ hội dưới mọi màu
sắc.
Đứng trước tình hình cấp thiết đó, cần thiết giải phóng tư tưởng ý
thức công nhân và nhận thức xã hội nói chung ra khỏi những độc tố tư
tưởng đó, nhất là khi tình thế cách mạng đang tới gần, đang rất cần được
dẫn dắt bởi những quan điểm đúng đắn, khoa học và cách mạng. Thực
tiễn chính trị bức xúc đó đã thôi thúc Lênin nghiên cứu lý luận về nhà
nước. Người không chỉ làm sáng tỏ những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác về nhà nước mà còn vạch ra những định hướng tư tưởng và lý
luận cho cuộc cách mạng vô sản ở Nga, đảm bảo cho cuộc cách mạng đó
4


được dẫn dắt bởi hệ tư tưởng và đường lối chính trị của giai cấp công
nhân, đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa cơ hội cải lương tư
sản. Bằng cách đó, Lênin đã bảo vệ những giá trị của chủ nghĩa Mác, đã
vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác vào thực tiễn
cách mạng, đã nêu lên một mẫu mực kinh điển về sự thống nhất hữu cơ
giữa lý luận với thực tiễn, gắn liền hoạt động nghiên cứu lý luận với hoạt
động thực tiễn. Đó cũng là sự thống nhất chân chính giữa khoa học và
cách mạng, giữa khoa học và chính trị trên lập trường kiên định – nhất
quán và triệt để của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Vị trí trung tâm trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” là
những vấn đề về cách mạng xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản, học
thuyết về hai giai đoạn của xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Tổng kết thực tiễn lịch sử và phát triển quan điểm của Mác và
Ăngghen trong điều kiện lịch sử mới của cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, V.I Lênin chỉ rõ vấn đề cơ bản của
bất kỳ cuộc cách mạng nào là vấn đề chính quyền nhà nước. Sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa đã làm sâu sắc thêm
mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản và tạo ra những tiền đề kinh tế, chính trị
và xã hội cần thiết cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra.
Trong tác phẩm này, Lênin đã đấu tranh không khoan nhượng
chống các quan điểm xuyên tạc, phản động, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa
xét lại để bảo vệ học thuyết của Mác và Ăngghen về nhà nước và cách
mạng.

5


II. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA NHÀ
NƯỚC
1. Nguồn gốc của nhà nước
Nhà nước là một phạm trù lịch sử, chỉ ra đời và tồn tại trong một
giai đoạn phát triển nhất định của xã hội và sẽ mất đi khi những cơ sở tồn
tại của nó không còn nữa. Trong xã hội nguyên thủy, do kinh tế còn thấp
kém, chưa có điều kiện khách quan để dẫn đến sự phân hóa giai cấp nên
nhà nước chưa xuất hiện. Đứng đầu các thị tộc và bộ lạc là những tộc
trưởng do nhân dân bầu ra; việc điều chỉnh các quan hệ xã hội được thực
hiện bằng các quy tắc chung không cần đến các công cụ cưỡng bức đặc
biệt.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự ra đời của chế độ
tư hữu. Đó là cơ sở kinh tế khách quan dẫn đến sự phân chia xã hội thành
các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hòa
được xuất hiện. Để các giai cấp không tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn

cả xã hội thì một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước do
giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế lập ra. Nhà nước đầu tiên trong
lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ, sau đó là nhà nước phong kiến, nhà
nước tư sản.
Theo quan điểm của Lênin, nguyên nhân trực tiếp của sự xuất
hiện nhà nước là mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được; và ngược
lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ những mâu thuẫn giai cấp là không
thể điều hòa được.
2. Bản chất của nhà nước
Nhà nước là một hiện tượng cơ bản, phức tạp của mọi xã hội có
giai cấp, là tác nhân biến đổi của xã hội và phát triển kinh tế. Chính ví lẽ
đó ngay từ thời kì cổ đại, trung đại đã có nhiều nhà tư tưởng tiếp cận và
đưa ra những lí giải khác nhau về nguồn gốc phát sinh ra nhà nước.
6


Các nhà tư tưởng của thần học thuyết thần học cho rằng thượng
đế là người sắp đặt trật tự xã hội. Nhà nước cũng vậy, đều do thượng đế
sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung.
Thuyết gia trưởng cho rằng, nhà nước là kết quả của sự phát triển
lịch sử của gia đình là hình thức tổ chức của tự nhiên của cuộc sống con
người vì vậy nhà nước có trong mọi xã hội và quyện lực nhà nước về cơ
bản giống như quyền đứng đầu gia đình. Ngoài ra còn tồn tại một số quan
điểm khác về nguồn gốc nhà nước.
Những học thuyết và quan điểm trên do nhiều nguyên nhân chủ
quan, khách quan và hạn chế lịch sử nên chưa giải thích được đúng ngồn
gốc, bản chất của nhà nước. Theo họ nhà nước không thuộc giai cấp nào,
nhà nước là của tất cả mọi người và xã hội văn minh mãi mãi cần có nhà
nước.
Từ chỗ khẳng định tính chính xác, khoa học và lôgic, chặt chẽ về

nguồn gốc của nhà nước, tức nhà nước chỉ sinh ra và tồn tại trong xã hội
có giai cấp, Lênin đã chỉ ra bản chất của nhà nước là mang bản chất giai
cấp sâu sắc.
V.I.Lênin đã viện dẫn quan điểm của Mác: “Nhà nước là một cơ
quan thống trị giai cấp, là một cơ quan áp bức của một giai cấp này đối
với một giai cấp khác. Theo đó Lênin cho rằng: “Nhà nước là cơ quan
thống trị của một giai cấp nhất định, giai cấp này không điều hòa được
với đối phương (với giai cấp chống lại nó)”, và “Nhà nước là một bộ máy
đặc biệt phục vụ cho giai cấp này đàn áp giai cấp khác”.
Như vậy, không có nhà nước đứng trên các giai cấp hoặc nhà
nước chung cho mọi giai cấp. Nhà nước chính là một bộ máy do giai cấp
thống trị về kinh tế thiết lập ra nhằm hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức
của chúng đối với quần chúng lao động. Giai cấp thống trị sử dụng bộ
máy nhà nước để đàn áp, cưỡng bức và trấn áp các giai cấp khác trong
khuôn khổ lợi ích của giai cấp thống trị.
7


Theo bản chất đó, nhà nước không thể là lực lượng điều hòa sự
xung đột giai cấp, mà trái lại nó lại làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng
gay gắt. Nhà nước là bộ phận quan trọng nhất trong kiến trúc thượng tầng
của xã hội có giai cấp. Tất cả những hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội
do nhà nước tiến hành, xét đến cùng đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp
thống trị.
3. Đặc trưng cơ bản của nhà nước
Bản chất của nhà nước thể hiện ở đặc trưng cơ bản của nó. Bất kỳ
nhà nước nào cũng gồm có 3 đặc trưng cơ bản sau:
Một là, Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất
định, có quyền lực với mọi thành viên, không phân biệt huyết thống.
Hai là, Nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp bao

gồm bộ máy quản lý hành chính và các đội vũ trang đặc biệt (quân đội,
cảnh sát, nhà tù...), mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã
hội.
Ba là, Nhà nước hình thành hệ thống thuế khóa để duy trì và tăng
cường bộ máy cai trị.

III. QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC
CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN
Theo V.I.Lênin, một trong những tư tưởng đặc sắc nhất và trọng
yếu nhất của chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nước, chính là tư tưởng
“chuyên chính vô sản”.
8


Sự cần thiết xác lập chuyên chính vô sản để tiến tới chủ nghĩa
cộng sản là vì trong thời kỳ quá độ, xã hội còn tồn tại các giai cấp bóc lột
chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội khiến cho giai cấp công
nhân và nhân dân lao động phải trấn áp chúng bằng bạo lực. Đồng thời,
sự tồn tại các giai cấp và tầng lớp trung gian khác mà do địa vị kinh tế xã hội của mình, họ dễ dao động giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản,
họ không thể tự mình tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chuyên chính vô
sản đóng vai trò là thiết chế cần thiết để đảm bảo sự lãnh đạo của giai cấp
vô sản đối với nhân dân.
Thực tiễn cách mạng đặt ra yêu cầu cần tổng kết một cách sáng
tạo kinh nghiệm cách mạng mới của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
và trên cơ sở đó phát triển hơn nữa lý luận mácxít về cách mạng xã hội
chủ nghĩa, trong đó cốt lõi là học thuyết về nhà nước. Do vậy cần phải
trình bày có hệ thống các quan điểm của những người sáng lập chủ nghĩa
cộng sản khoa học về nhà nước, các quan điểm này đã bị bóp méo xuyên
tạc dưới nhiều hình thức của chủ nghĩa cơ hội quốc tế xét lại và phát triển
chúng cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới.

V.I.Lênin đã giải quyết một cách xuất sắc những nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu này trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng,” đặt cơ sở
cho lý luận về nhà nước xã hội chủ nghĩa, phần quan trọng nhất của học
thuyết mácxít về nhà nước, về sau lý luận này được Lênin phát triển dựa
trên kinh nghiệm Chính quyền Xô viết.
V.I Lênin khẳng định chỉ có chủ nghĩa Mác mới làm rõ nguồn
gốc, bản chất và các hình thức của nhà nước. Theo Lênin “chính trị là sự
tham gia vào những công việc của nhà nước, là việc vạch hướng đi cho
nhà nước, việc xác định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động
của nhà nước". Vấn đề cơ bản nhất của chính trị là chính quyền nhà nước,
là quyền lực nhà nước. Trong xã hội có giai cấp, các tập đoàn, các tầng
lớp xã hội có vị trí khác nhau trong công việc quản lý nhà nước. Do vậy
9


có thể khẳng định chính trị là sự phản ánh quan hệ giữa các giai cấp, các
tập đoàn, các tầng lớp xã hội khác nhau trong việc giành, giữ và sử dụng
chính quyền nhà nước.
Trên cơ sở này, V.I.Lênin xác định nguồn gốc nhà nước "Nhà
nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hay lúc nào và chừng nào, về mặt khách
quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được thì nhà nước
xuất hiện."
Nhà nước xuất hiện và tồn tại không phải do ý muốn chủ quan
của một ai hay một giai cấp nào đó. Bản chất giai cấp của nhà nước do cơ
sở kinh tế trên đó nhà nước tồn tại quy định. Giai cấp nắm chính quyền
nhà nước trong một thời đại phải là giai cấp thống trị về kinh tế, do đó
cũng là giai cấp "được coi là thừa nhận là đại biểu chung của xã hội"
Trong thời cổ đại đó là giai cấp chủ nô, ở trung cổ là giai cấp quý
tộc phong kiến, bước vào thời kỳ hiện đại là giai cấp tư sản và ngày nay

là giai cấp vô sản. Tương ứng với các giai cấp đó, trong lịch sử đã xuất
hiện các kiểu nhà nước khác nhau: nhà nước chủ nô, nhà nước phong
kiến, nhà nước tư sản và nhà nước vô sản.. Trong thời cổ đại đó là giai
cấp chủ nô, ở trung cổ là giai cấp quý tộc phong kiến, bước vào thời kỳ
hiện đại là giai cấp tư sản và ngày nay là giai cấp vô sản. Tương ứng với
các giai cấp đó, trong lịch sử đã xuất hiện các kiểu nhà nước khác nhau:
nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước vô
sản.
V.I.Lênin đã chỉ ra một định nghĩa tuyệt hay về nhà nước của Chủ
nghĩa Mác: “Nhà nước, tức là giai cấp vô sản được tổ chức thành giai cấp
thống trị”; nói rõ đỉnh cao của vai trò cách mạnh của giai cấp vô sản trong
lịch sử “là chuyên chính vô sản, là sự thống trị về chính trị của giai cấp
vô sản”.
10


V.I.Lênin viết: “Học thuyết đấu tranh giai cấp mà Mác vận dụng
vào vấn đề nhà nước và vấn đề cách mạng xã hội chủ nghĩa, tất nhiên
phải đưa đến chỗ thừa nhận sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản,
chuyên chính của giai cấp đó”. Nghĩa là, chuyên chính vô sản là phương
thức, phương tiện, là hình thức để bảo vệ sự thống trị về chính trị của giai
cấp công nhân.
Vấn đề này , V.I.Lênin đã phân tích rất sâu sắc quan điểm của
Mác trong bức thư gửi Vaiđờmaiơ năm 1852. Theo đó, Mác khẳng định
rằng: Mác không có công phát hiện ra giai cấp và đấu tranh giai cấp, điều
cống hiến mới của Mác là chứng minh rằng:
Một là, sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn
lịch sử nhất định trong sự phát triển của sản xuất.
Hai là, đấu tranh giai cấp tất nhiên đưa đến chuyên chính vô sản.
Ba là, chuyên chính này cũng chỉ là một bước quá độ tiến lên chủ

nghĩa xã hội, tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Thống nhất với quan điểm của chủ nghĩa Mác như vậy, đồng thời
bảo vệ chủ nghĩa Mác trong điều kiện xuất hiện những xuyên tạc của giai
cấp tư sản, của chủ nghĩa cơ hội, V.I.Lênin đã nhấn mạnh rằng: “Chỉ
người nào mở rộng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến mức thừa nhận
chuyên chính vô sản thì mới là người mácxít. Đó là điều khác nhau sâu
sắc nhất giữa người mácxít với người tiểu tư sản (và cả tư sản lớn) tầm
thường. Chính phải dùng viên đá thử vàng ấy mà thử thách sự hiểu biết
thực sự và thừa nhận thực sự chủ nghĩa Mác”.
đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chuyên chính vô sản, thời kỳ lật đổ và thủ tiêu hoàn toàn giai cấp tư sản.
Lênin kết luận: “Kẻ nào chỉ thừa nhận có đấu tranh giai cấp
không thôi, thì kẻ đó vẫn chưa phải là người mácxít, kẻ ấy có thể vẫn
chưa thoát khỏi khuôn khổ tư tưởng tư sản và chính trị tư sản. Đóng
11


khung chủ nghĩa Mác trong học thuyết đấu tranh giai cấp là cắt xén,
xuyên tạc chủ nghĩa Mác, thu nó lại thành cái mà giai cấp tư sản có thể
tiếp nhận được”
Lênin đã dẫn lời của Mác: ‘Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã
hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ
sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị,
và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cáci già khác hơn là nền chuyên
chính cách mạng của giai cấp vô sản”. Lênin viết: Kết luận đó của Mác
dựa vào sự phân tích vai trò của giai cấp vô sản trong xã hội tư bản chủ
nghĩa hiện nay, vào những căn cứ vào sự phát triển của xã hội ấy và vào
tính chất không thể điều hòa dược giữa quyền lợi đối lập của giai cấp vô
sản và giai cấp tư sản.
Trước kia, vấn đề đặt ra như thế này: giai cấp vô sản muốn tự giai

phóng, phải lật đổ giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền, lập nền chuyên
chính cách mạng của mình.
Bây giờ, vấn đề đặt ra có hơi khác: một xã hội tư bản chủ nghĩa
đang phát triển lên chủ nghĩa cộng sản, không thể nào chuyển lên xã hội
cộng sản chủ nghĩa được, nếu không có một thời kỳ “quá độ chính trị”, và
trong thời kỳ đó, nhà nước chỉ có thể chuyên chính cách mạng của giai
câp vô sản.
Trong lý luận về chuyên chính vô sản của Lênin có một điểm
nhấn quan trọng là Lênin thống nhất chuyên chính vô sản với tư cách là
nhà nước kiểu mới, nhà nước không nguyên nghĩa, nhà nước không còn
là tư cách của nhà nước, nhà nước một nửa nhà nước, nhà nước tự tiêu
vong.
Lênin khẳng định sự cần thiết của nhà nước trong thời ký quá độ
là nhằm để trấn áp sự bóc lột, những tiềm ẩn của xã hội cũ để lại. Người
viết: “Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản,
sự trấn áp vẫn còn tất yếu, nhưng nó đã là sự trấn áp của đa số bị bóc lột
12


đối với thiểu số bóc lột. Cơ quan đặc biệt bộ máy trấn áp đặc biệt là nhà
nước vẫn còn tất yếu, nhưng nó đã là nhà nước quá độ, mà không còn là
nhà nước đúng nghĩa của nó nữa”.
Như vậy, sau khi trở thành giai cấp cầm quyền thì giai cấp vô sản
phải nắm vững công cụ chuyên chính, kiên quyết trấn áp những thế lực đi
ngược lại lợi ích của nhân dân để bảo vệ thành quả cách mạng nhằm xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội; khi đó nhà nước tự tiêu vong,
V.I.Lênin viết “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới làm cho nhà nước trở nên
không cần thiết, vì lúc bấy giờ không còn ai để trấn áp, chữa “ai” hiểu
theo nghĩa là giai cấp…”, hay “Nhà nước sẽ tiêu vong, chừng nào không
còn có bọn tư bản, không còn có giai cấp và, do đó, không còn có giai cấp

nào để trấn áp nữa. Nhưng nhà nước vẫn chưa tiêu vong hẳn, vì vẫn còn
duy trì “pháp quyền tư sản”, là pháp quyền xác nhận bất bình đảng trong
thưc tế. Muốn cho nhà nước tiêu vong hẳn đi, thì phải có chủ nghĩa cộng
sản hoàn toàn”.
V.I.Lênin còn khẳng định: “Chúng ta chỉ có quyền nói rằng nhà
nước tất nhiên sẽ tiêu vong, đồng thời nhấn mạnh vào tính chất lâu dài
của quá trình ấy, sự phụ thuộc của quá trình ấy vào tốc độ phát triển của
giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản, đồng thời gác hẳn lại vấn đề thời
hạn và hình thức cụ thể của sự tiêu vong ấy, vì chúng ta không có tài liệu
để giải quyết những vế đề như vậy”
“Nhà nước sẽ có thể tiêu vong hoàn toàn khi xã hội đã thực hiện
được nguyên tắc: “làm hết năng lực, hưởng theo nhu cầu”, nghĩa là người
ta đã rất quen tôn trọng những quy tác cơ bản của đời sống chung trong
xã hội, và năng suất lao động của người ta đã lên cao đến mức người ta sẽ
tự nguyện làm hết năng lực…”
V.I.Lênin đã đặc biệt nhấn mạnh tính chất dân chủ của nhà nước
vô sản, sự khác biệt cơ bản của nó với nền dân chủ tư sản. Lênin dạy rằng
chuyên chính vô sản là một kiểu nhà nước mới, “nhà nước dân chủ kiểu
13


mới (dân chủ đối với những người vô sản và nói chung những người
không có của), và chuyên chính kiểu mới (chống giai cấp tư sản)”. Nhà
nước vô sản bảo vệ quyền lợi của những người lao động. Như Lênin đã
chỉ rõ, sự khác biệt cơ bản của chuyên chính vô sản với nhà nước tư sản
biểu hiện ở các hình thức tổ chức nhà nước và ở vai trò lịch sử mà nó
thực hiện.
Chuyên chính vô sản còn phải làm nghĩa vụ quốc tế của mình,
bằng việc giúp đỡ từ mọi phương diện có thể được cho cuộc đấu tranh
của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực, các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn xem mặt tổ chức, xây dựng là chức năng
cơ bản nhất của chuyên chính vô sản. Chuyên chính vô sản không phải
chỉ là bạo lực với bọn bóc lột mà mặt cơ bản của nó là tổ chức, xây dựng
toàn diện xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Theo Lênin thì hình thức tổ chức nhà nước chuyên chính vô sản
có nhiều hình thức phong phú và đa dạng. Lênin viết “Những hình thức
của nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một:
chung quy lại thì tất các các nhà nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất nhiên
phải là nền chuyên chính tư sản. Bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa cộng sản, cố nhiên không thể không đem lại rất nhiều hình thức
khác nhau, nhưng thực chất của những hình thức ấy tất nhiên sẽ chỉ là
một, tức là “chuyên chính vô sản”.
Chuyên chính vô sản, là một loại liên minh đặc biệt giữa giai cấp
công nhân với quần chúng lao động không vô sản. Nhà nước vô sản là
nhà nước của dân, do dân và vì dân nên chế độ dân chủ vô sản là chế độ
dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất của từ đó. Đó là nền dân chủ bao quát
toàn diện mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, lấy dân chủ trong lĩnh vực
kinh tế làm cơ sở.
14


Nhà nước vô sản là tổ chức thông qua đó, Đảng của giai cấp công
nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Việc đảm
bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là nguyên tắc sống còn
của chuyên chính vô sản.
V.I. Lênin đã cụ thể hóa và phát triển học thuyết của Mác về hai
giai đoạn của xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa
xã hội, vạch ra về mặt lý luận cơ sở kinh tế để nhà nước tiêu vong. Trong
giai đoạn chủ nghĩa xã hội, do trình độ phát triển kinh tế còn thấp, do vậy

phải thực hiện nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”, chỉ
đến giai đoạn sau chủ nghĩa cộng sản, khi trình độ phát triển kinh tế ở
mức cao mới thực hiện theo nguyên tắc: “làm theo năng lực, hưởng theo
nhu cầu”. Do vậy sự tiêu vong của nhà nước là một quá trình lâu dài tùy
thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và xã hội của chủ nghĩa cộng sản,
dần chuyển thành tổ chức tự quản xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Kết quả nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm cùng những bài học
của các cuộc cách mạng là kết luận của Mác và Ăngghen cho rằng giai
cấp công nhân chỉ có thể giành được chính quyền và thiết lập nền chuyên
chính vô sản bằng con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong cuộc
cách mạng đó giai cấp vô sản phá huỷ bộ máy nhà nước tư sản và dựng
lên bộ máy nhà nước mới. Lênin dạy: “Chỉ người nào mở rộng việc thừa
nhận đấu tranh giai cấp đến mức thừa nhận chuyên chính vô sản thì mới
là người mác-xít”.
Nhiệm vụ của chuyên chính vô sản là thủ tiêu chế độ người bóc
lột người và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chuyên chính vô sản có vai trò
tổ chức quan trọng trong việc xây dựng xã hội mới, đó là một nhà nước
kiểu mới, nhà nước dân chủ kiểu mới. Nguyên tắc tối cao của nó là liên
minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, với toàn thể nhân dân
lao động và các tầng lớp xã hội khác dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản.
15


IV.ÝNGHĨA CỦA TÁC PHẨM
Những quan điểm của Lênin trong tác phẩm “Nhà nước và cách
mạng” có ý nghĩa to lớn trong thời đại ngày nay, trong bối cảnh thế giới
đang vận động dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa kinh tế và phát
triển kinh tế thị trường. Mặc dù tận dụng được thành tựu của khoa học và
công nghệ, thực hiện sự điều chỉnh trên phạm vi quốc tế, song bản chất

của nhà nước tư sản vẫn không thay đổi, mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa
tư bản vẫn không thay đổi và có chiều hướng sâu sắc thêm. Điều này
khẳng định tính đúng đắn trong quan điểm của Lê nin, phản bác lại những
học thuyết tư sản về chủ nghĩa tư bản nhân dân, chủ nghĩa tư bản toàn cầu
hóa, về nhà nước phúc lợi chung ... Họ đưa ra rất nhiều lý luận về nhà
nước, trong đó họ biện hộ sự thống trị của các giai cấp bóc lột, xoá nhoà
16


tính chất giai cấp của nhà nước tư sản. Nhằm làm cho nhân dân lao động
sao nhãng những vấn đề cơ bản của đời sống xã hội, các nhà tư tưởng tư
sản tán dương nhà nước tư sản hiện đại, miêu tả nó như một nhà nước
siêu giai cấp “phồn vinh chung” trong đời sống xã hội.
Tuy nhiên cũng cần nhận thức đầy đủ hơn quan điểm của Lênin
trong điều kiện mới hiện nay. Trong xã hội có giai cấp, chính quyền nhà
nước thực hiện sự thống trị dưới các hình thức nhà nước khác nhau. Nói
đến hình thức nhà nước là nói đến hình thức tổ chức và phương thức thực
hiện quyền lực nhà nước. Một nhà nước tồn tại dưới hình thức nào, tuỳ
thuộc vào những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa trong và ngoài
nước, tuỳ thuộc vào tương quan so sánh lực lượng của giai cấp trong xã
hội. Ngoài ra, truyền thống và đặc điểm của mỗi dân tộc có ảnh hưởng
đến hình thức nhà nước.
Về bản chất, Nhà nước là quyền lực chính trị của một giai cấp.
Nhưng giai cấp nắm chính quyền nhà nước lại nhân danh xã hội để điều
hành và quản lý xã hội, nhà nước trong thực tế tồn tại như một công
quyền, như một quyền lực công cộng. Vì vậy, nhà nước không những có
tính giai cấp, mà còn có tính xã hội, không những thực hiện chức năng
giai cấp, mà còn phải hoàn thành các chức năng xã hội. Chức năng giai
cấp của nhà nước bắt nguồn từ lý do ra đời của nhà nước tạo thành bản
chất chủ yếu của nó. Chức năng xã hội bắt nguồn từ nhiệm vụ phải giải

quyết những công việc chung của xã hội. Nhà nước thực hiện chức năng
xã hội trong mối liên hệ mật thiết với các chức năng giai cấp. Hơn nữa,
chức năng xã hội còn là cơ sở cho sự thống trị chính trị giai cấp.
Vì vậy, sẽ là mơ hồ nếu không thấy được tính chính trị, tính giai
cấp của các chủ trương, chính sách và sự tác động can thiệp của nhà nước
vào các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục… Nhưng ngược lại, nếu quy
các chức năng đa dạng của nhà nước về chức năng giai cấp, hoặc tuyệt
đối hóa tính chất giai cấp, tính chất chính trị của nhà nước mà không thấy
17


được tính xã hội, vai trò chức năng xã hội trong phát triển xã hội thì sẽ là
phiến diện.
Khi nhà nước nằm trong tay "giai cấp đại biểu cho toàn thể xã hội
trong thời đại của mình", nghĩa là trong tay giai cấp đang đóng vai trò
tiến bộ và cách mạng, thì tính tích cực của chức năng xã hội biểu hiện
càng rõ rệt.
Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
chuyên chính vô sản là tất yếu lịch sử, giai cấp vô sản dùng chính quyền
nhà nước để đàn áp thiểu số dân cư là bọn bóc lột và xây dựng xã hội
mới. Chuyên chính vô sản là nhà nước quá độ và nó khác về cơ bản với
nhà nước tư sản: trong xã hội xã hội chủ nghĩa, nhà nước từ chỗ là công
cụ thống trị giai cấp chuyển thành cơ quan thể hiện ý chí của toàn dân.
Nhà nước vô sản là nhà nước cuối cùng trong lịch sử. Sau khi
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình: phát triển sản xuất, xóa bỏ sự phân
chia xã hội thành giai cấp, nhà nước vô sản sẽ tự tiêu vong, nhà nước mất
đi, chế độ nhà nước được thay thế bằng chế độ tự quản cộng sản chủ
nghĩa. Đúng như Lê-nin đã chỉ ra, với việc hoàn thành xây dựng xã hội
cộng sản chủ nghĩa, nhà nước sẽ hoàn toàn không cần thiết nữa.
Trong tác phẩm của mình, Lênin đã vạch ra thực chất và nhiệm vụ

của chuyên chính vô sản, vai trò tổ chức cực kỳ to lớn của nó trong việc
xây dựng xã hội mới sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

18


KẾT LUẬN
Đảng ta đã vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về nhà nước và cách mạng trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, trong cách mạng dân tộc dân chủ, giải phóng dân tộc, cũng như
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt trong quá trình đổi mới hiện
nay. Văn kiện Đại hội X của Đảng khẳng định, để thực hiện mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, cần tiếp tục
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát
huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết
nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo
của Đảng, cần phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Dựa trên tư tưởng của các nhà lý luận trên thế giới về nhà nước
pháp quyền nói chung; quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng về nhà
nuớc pháp quyền, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có 5
đặc trưng chủ yếu sau:
Một là, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước của
dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
Hai là, trong Nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
quyền lực nhà nuớc là thống nhất, nhưng có sự phân công rành mạnh,
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nuớc là trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Ba là, Nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đuợc tổ
chức và hoạt động trên cơ sở hiến pháp, pháp luật. Ở đó hiến pháp và các

đạo luật giữ vị trí tối thợng trong việc điều chỉnh các quan hệ trên tất cả
mọi lĩnh vực đời sống xã hội.

19


Bốn là, Nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn
trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách
nhiệm pháp lý giữa nhà nuớc và công dân, thực hành dân chủ đồng thời
tăng cường kỷ luật, kỷ cương.
Năm là, Nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Chính quyền nhà nước chịu sự giám
sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên thuộc Mặt trận.
Từ những vận dụng sáng tạo đó Đảng ta đã nâng cao vai trò và
hiệu lực quản lý của Nhà nuớc cần phát huy quyền làm chủ xã hội của
nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nuớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, và mục tiêu lâu đài hơn là xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội ở nước ta./.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lênin toàn tập , Nhà xuất bản tiến bộ, Mátxcơva, 1976, t33, tr 1 –
147.
2. Giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản chính trị
Quốc gia Hà nội – 2003.
3. Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia

Hà nội – 2006.
4. Một số vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà nội – 2009.
5. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, nhà xuất bản chính trị Quốc
gia, Hà nội – 2009.

21



×