Hành trình từ “chuyên chính vô sản” đến “làm chủ tập
thể” và “Nhà nước pháp quyền Việt Nam” - 1
Trên đất nước ta, đó là một hành trình gian truân với cái giá phải trá khá đắt.
Nhưng là những bước thuận theo quy luật vận động của cuộc sống, và là sự trở lại
với tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó cũng là hành trình của nhận thức nhằm chứng minh
thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, quy luật của cuộc sống mạnh hơn những giáo
điều xơ cứng, tuy có sức trì kéo, kìm hãm nặng nề sự phát triển, nhưng không thể
ngăn chặn được sự phát triển đó. Và rồi, cái gì cần đến, cũng đã đến.
Trên đất nước ta, đó là một hành trình gian truân với cái giá phải trả khá đắt.
Nhưng là những bước thuận theo quy luật vận động của cuộc sống, và là sự trở lại
với tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó cũng là hành trình của nhận thức nhằm chứng minh
thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, quy luật của cuộc sống mạnh hơn những giáo
điều xơ cứng, tuy có sức trì kéo, kìm hãm nặng nề sự phát triển, nhưng không thể
ngăn chặn được sự phát triển đó. Và rồi, cái gì cẩn đến, cũng đã đến.
I. Về chuyên chính vô sản
Quả thật chuyên chính vô sản là khái niệm đã chi phối hoạt động của các Đảng
Cộng sản trong một thời gian rất dài nhất là khi Đảng đã nắm chính quyền. Một
khái niệm có ảnh hưởng tác động đến sinh mệnh của triệu triệu con người. Khái
niệm ấy gắn liền với giai cấp và đấu tranh giải cấp, được xem là động lực của phát
triển. Người ta từng cho rằng đây là một khái niệm then chốt trong tư duy lý luận
của học thuyết C.Mác. Tuy vậy, đã đến lúc phạt thật sự tường minh trong cách
nhận định và phân tích về khái niệm quan trọng vốn có một diễn biền khá phức
tạp. Làm sáng tỏ điều này là một nhu cẩu trực tiếp của việc đẩy tới sự nghiệp đổi
mới một cách toàn diện và triệt để.
Vì đổi mới là nhằm vứt bỏ những công thức, những giáo điều của một thời cứ ngỡ
như là "thiên kinh địa nghĩa" song đã bị cuộc sống bác bỏ hoặc vượt qua, những gì
mà qua khảo nghiệm khách quan và nghiêm khắc của thực tiễn, lý luận ấy đã tỏ rõ
sự bất cập, sai lầm hoặc thiếu hoàn chỉnh. Do vậy phái bổ sung sức sống mới,
nhằm hình thành những luận điểm mới, phạm trù mới giúp hoàn chinh một lý luận
phản ánh được thực tiễn đang vận động. Nhờ đó, làm cho lý luận gần kết được với
thực tiễn, gắn với chân lý hơn, có tác động thúc đẩy sự phát triển. Quả thật là,"vấn
đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thé đạt tới chân lý khách quan không,
hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà một vấn đề thực tiễn. Chính trong
thực tiễn mà con người phái chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện
thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình", điều mà C.Mác đã căn dặn.
Hãy vận dụng quan điểm ấy vào việc xem xét luận điểm về "chuyên chính vô sản"
của chính ông.
1. Lần đầu tiên C.Mác dùng từ "chuyên chính vô sản" là năm 1848. Thật ra thì
"chuyên chính vô sản” xuất hiện vào quãng 1837, là cụm từ của Ba Blanqui, một
nhà cách mạng nổi tiếng của Pháp. Chuyên chính vô sản với C.Mác là một chiến
lược cách mạng. cụm từ này được nhắc lại nhiều lần hơn cả trong "Đấu tranh giai
cấp ớ Pháp", xuất bán năm l950. Bối cảnh ra đời của khái niệm này là giữa cuộc
cách mạng Tháng 2/1848 đến tháng 6/1848 thì bị phản cách mạng bóp chết. Hoạt
động cách mạng ở vào tình thế ẩn náu đợi chờ cao trào, mãi cho đến bốn năm sau
mới kết luận được rằng tình thề cách mạng đã hết, chế độ tư bản đã bước qua giai
đoạn khủng hoảng chu kỳ và lại bắt đầu giai đoạn phồn thịnh của nó. Từ đó,
C.Mác và Ph.Ăngghen suốt 20 năm tiếp theo không dùng thuật ngữ chuyên chính
vô sản nữa. Nếu xem xét thật kỹ thì, dưới ngòi bút của C.Mác kể cả trong bản
nháp, bản thảo viết tay và trong các tài liệu nội bộ không nhằm công bố ra, trong
các bức thư viết cho anh em, bè bạn hoặc thư góp ý cho đồng chí của mình hiện
còn lưu giữ được, thi tần số xuất hiện của thuật ngữ "chuyên chính vô sản” không
đến 10 lần.
Theo C.Mác, đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản và nền
chuyên chính đó chỉ là sự quá độ tiến đến một xã hội không giai cấp. Chuyên
chính vô sản là một chiến lược gồm hai bước. Bước một là chuyển từ chuyên
chính của kẻ thù sang chuyên chính của đồng minh bao gồm giai cấp nông dân và
giai cấp trung đẳng, thuật ngữ của C.Mác trong "Nội chiến ở Pháp", làm thành
chuyên chính của đồng minh chiến lược. Khi đã làm được cuộc chuyển đổi liên
minh ấy trở thành đa số rồi, thì bước thứ hai là dùng con đường dân chủ, tự do đầu
phiếu, lập ra Chính phủ cách mạng và chế độ cách mạng. Quan điểm trên chịu ảnh
hướng khá rõ của phái tả trong cách mạng tư sản Pháp 1789. Và chiến lược đó đã
không thực hìện đuợc!
2. Lần thứ hai thuật ngữ chuyên chính vô sản được dùng là sau thất bại của Công
xã Paris. Từ tổng kết sự thất bại đó, C.Mác nêu lên nhưng bài học về vẫn để hình
thành Nhà nước kiểu mới của giai cấp vô sản, không giống với bất kỳ một hình
thức Nhà nước nào đã có trước đó, một hình thái Nhà nước báo hiệu sự tiêu vong
của Nhà nước. Nếu xem xét thật kỹ thì trong những nội dung này có mang màu
sắc ảo tưởng, vì kinh nghiệm của Công xã Paris còn quá nghèo nàn. Cần nhớ rằng,
Công xã paris chỉ tồn tại có 72 ngày (từ 18/3/1871 đến 28/5/1871). Tuy nhiên, nếu
đọc kỹ "Nội chiến ở Pháp" thì sẽ hiểu rõ chuyên chính vô sản theo quan niệm của
C.Mác, là một hình thức Nhà nước cách mạng đã không còn thuần túy là Nhà
nước nữa, mà đã nằm trong cái logic của Nhà nước dần dần tự tiêu vong.
Thật ra, đây chỉ là một tiên đoán. Mà là một tiên đoán chưa có bao nhiêu căn cứ lý
luận cũng như thực tiễn. Trong thực tiễn, thời C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ có duy
nhất 53 ngày công xã trong một thành phố là Paris, ngoài ra không có thực tiễn
nào khác về cách mạng vô sản thắng lợi và thiết lập chuyên chính vô sản cả. Nói
nôm na thì "chưa có bột để gột nên hồ", hoặc là quá ít bột, chưa thể đủ "gột" nên
bất cứ thứ "hồ" gì! Thực tế lịch sử đã chứng minh sự phân tích của C.Mác về tình
thế khủng hoảng và cách mạng vào giữa thế kỷ XIX là không đúng. Và C.Mác đã
sớm nhận ra điều đó.
3. Khái niệm "chuyên chính vô sản" trong phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế đã chuyển đổi và mở rộng nội dung của nó ra. Cùng với thời gian và diễn biến
rất phức tạp, việc nhận cho ra đâu là tư tưởng lý luận của chính C.Mác là điều hết
sức cần thiết vì nó tránh được những ngộ nhận sai lầm.
Với Lênin, ông từng xác định: "Lịch sử thế giới nhất định sẽ đi tới chuyên chính
vô sán, nhưng tuyệt nhiên sẽ không phải đi theo những con đường bằng phẳng,
giản đơn, thắng tắp”. Cho nên, với ông, chuyên chính vô sản là nội dung chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí, dân quyền, dân sinh, dân
chủ cửa cả thời đại quá độ, mở rộng ra trên căn bản tư tưởng C.Mác, là đấu tranh
vừa bạo lực vừa hòa bình, vừa hành chính, vừa giáo dục, tuyên truyền
Có nghĩa là, với V.I Lênin, nội dung của chuyên chính vô sản bao quát toàn bộ các
vấn đề của thời đại chứ không phái chỉ có đóng khung trong vấn đề Nhà nước. V.I
Lênin cho rằng Nhà nước Chuyên chính vô sản ngay từ khi mới thành lập đã là
vừa là Nhà nước, vừa không còn là Nhà nước nguyên nghĩa, đã bước ngay vào quá
trình tự tiêu vong của Nhà nước. Điều này không diễn ra trong thực tế.
Vào cuối đời, những năm 1923 và 1924, V.I Lênin nhiều lần vạch rõ những lệch
lạc, suy thoái của chính quyền Xô Viết, nhất là tệ quan liêu và tham nhũng. V.I
Lênin đã chỉ rõ: "Trên lời nói thì bộ máy Chính quyền Xô viết là bộ máy chính
quyền của tất cả quần chúng lao động, nhưng trên thực tế thì mọi người chúng ta
không còn ai xa lạ rằng còn xa lạ mới được như thế". Có một sự thật hết sức có ý
nghĩa là, chính vào những năm đó, Lênin đã nhận thức ra và tuyên bố rõ: quan
niệm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội phải thay đổi về cơ bản! Đáng tiếc là con
người với bản lĩnh sáng tạo và dám thẳng thắn chỉ ra những sai lầm và tìm cách
khắc phục ấy đã chưa kịp thực hiện ý chính của mình.
4. Đến J.Stalin thì chuyên chính vô sản chỉ còn là Đảng trị, Đảng trở thành "siêu
Nhà nước", Đảng mới chính là Nhà nước. Với J.Stalin, hệ thống chính trị chuyên
chính vô sản gồm: Đảng là hạt nhân trưng tâm lãnh đạo toàn bộ hệ thống còn Nhà
nước, Công đoàn và các đoàn thể quần chúng là những dây chuyền chuyền tải giữa
Đảng và nhân dân. Và như thế là nhân dân ở ngoài hệ thống chính trị. Nhà nước
chuyên chính vô sản trong nhận thức và trong hành động của J.Stalin đã mất hẳn
triển vọng tự tiêu vong. Ngược lại, ngày càng tăng cường trong chế độ Đảng - Nhà
nước. Mô hình chính trị, kinh tế, xã hội cua "chuyên chính vô sản” thời J.Stalin
dần dần thể hiện bốn đặc điểm bản chất sau đây:
Một là Đảng lãnh đạo, mà thật ra là nhân danh Đảng mà cai trị, thực chất là sự cai
trị của những người có chức có đặc quyền, đặc lợi trong Đảng và trong xã hội. Hai
là, nhanh chóng thực hiện chế độ công hữu dưới hai hình thức Nhà nước và tập
thể, xóa bỏ tư nhân và thị trường. Ba là, quản lý kinh tế, xã hội theo thể chế tập
trung quan liêu bao cấp. Bốn là, đóng cửa với bên ngoài. Sau này khi có phe
XHCN thì cỉh chủ yếu quan hệ trong phe, chiến tranh lạnh với chủ nghĩa tư bản
hiện đại.
Sai lầm và nguy hiểm nhất là chủ rương của J.Stalin khẳng định rằng, sau khi Liên
Xô đã kết thúc thời kỳ quá độ, xây dựng thành công CHXH năm 1936, thì từ đó về
sau, đấu tranh giai cấp trong xã hội Xô Viết ngày càng gay gắt. Những cuộc trấn
áp và khủng bố rất tàn khốc đã diễn ra sau năm 1936.
Liên bang Xô Viết dưới thời J.Stalin đã có những thành tựu vĩ đại, những chiến
công hiển hách trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, những bước dẫn đầu rất
ngoạn mục về xây dựng kinh tế, phát triển khoa học và công nghệ, sáng tạo văn
hoá, văn học nghệ thuật, nâng cao phúc lợi xã hội cho nhân dân, giúp đỡ rất nhiều
và có hiệu quả cho nhiều nước, nhiều dân tộc, có cống hiến lớn lao cho cả loài
người.
Tuy nhiên, chuyên chính vô sản thời J.Stalin đã phạm những sai lầm và cả những
tội ác. Đã từng có đến 70% ủy viên và ủy viên dụ khuyết BCHTW của Đảng được
bầu tại Đại hội năm 1934 bị bắt, bị bỏ tù và bắn chết, tức là 98 trên tổng số 139 ủy
viên! Đã từng có những sự cưỡng bức nặng nề và cá những sự chuyên chính tàn
bạo với công dân, nông dân, đặc biệt là đối với trí thức. Nhiều nhà khoa học lỗi lạc
bị vô hiệu hoá, thậm chí bị tù đày, bị thủ tiêu, nhiều ngành khoa học có ý nghĩa
lớn đối với sự phát triển của đất nước và con người như xã hội học, tâm lý học,
điều khiển học, di truyền học bị xem là những "khoa học tư sản", đồng nghĩa với
việc cấm hoạt động, xây dựng, phát triển. Đây sẽ là lý do cơ bản khiến cho nền
khoa học vốn một thời ở trình độ cao của thế giới dần dần trở thành lạc hậu, không
bắt kịp với sự phát triển chung của loài người. Hệ lụy nặng nề nhất là sự bóp nghẹt
tự do và dân chủ khiến cho đời sống tinh thần của xã hội lâm vào khủng hoăng
nặng nề.
Sinh thời Stalin, rồi sau J.Stalin cho đến ngày Liên Xô sụp đổ, nguyên nhân suy
thoái dần từ bên trong, tạo thuận lợi cho lực lượng thủ địch bên ngoài, dẫn đến tan
rã không phải là do không nắm vững “chuyên chính vô sản", mà là đã thực hiện
chuyên chính vô sản một cách cực kỳ sai lầm. Ngay cả thời kỳ hàng chục năm khi
Liên Xô bỏ hẳn không dùng cụm từ "chuyên chính vô sản" và tuyên bố không thi
hành "chuyên chính vô sản " nữa, thì những hệ lụy của mô hình J.Stalin tiếp diễn
với những biến thái mới đặc biệt là sự thiếu dân chủ và không dân chủ, đã dần dần
làm mất lòng tin của nhân dân Xô Viết và của cả 20 triệu Đảng viên Đảng cộng
sản Liên Xô. Và đó chính là nguyên nhân cơ bản đẩy tới sự sụp đổ của hệ thống
XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu.
Ở Trung Quốc, tuy chủ trương thực hiện nhân dân dân chủ chuyên chính của bốn
giai cấp chứ không dùng "chuyên chính vô sản"nhưng sai lầm của mô hình Mao-ít
với lý thuyết cũng tương tự như lý thuyết của J.Stalin đã dẫn ra ở trên, là càng đi
sâu vào xây dựng CHXH thì đấu tranh giai cấp càng gay gắt, mở đường cho những
cuộc trấn áp phản dân chủ rồi những cuộc đấu tố trong cái gọi là "đại cách mạng
văn hóa" mà thực chất là các cuộc thanh trừng lẫn nhau trong nội bộ thế lực cầm
quyền mà hậu quả là mấy chục triệu người chết, trong đó có cả những “khai quốc
công thần"! Trong một Hội thảo khoa học tại Hà Nội năm 2005, một học giả
Trung Quốc chỉ ra rằng: trong lịch sử Đảng cộng sản Trung Quốc đã có 14 Đại hội
có những cuộc đấu như vậy. Mao từng nói: “đấu tranh với người là niềm vui lớn ".
Chính lời nói này đã đem tai họa đến cho người dân Trung Quốc.
Trong phong trào cộng sản quốc tế, trong những người cộng sản, trong các nước
XHCN một thời, đã có không ít ý kiến cho rằng quan niệm và thực tiễn chuyên
chính vô sản chứa đựng nhiều bất ổn cần phải được nhìn nhận lại. Những ý kiến
ấy đã bị lên án nặng nề, bị gạt bỏ, bị trấn áp để suốt gần nửa thế kỷ, từ năm 19/9,
khi thành lập "Quốc tế cộng sản", đến cuối những năm 60 của thế kỷ XX, các
Đảng cộng sản trên thế giới đểu coi chuyên chính vô sản là lý luận kinh điển và
chủ trương cơ bản. Cho đến cuối thập kỷ 1960, nhiều Đảng cộng sản lớn như
Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Ý rồi đến những Đảng cộng sản trung
bình và nhỏ đã có chính quyền hoặc chưa nắm được chính quyền, đều lần lượt từ
bỏ chuyên chính vô sản. Có Đảng lẳng lặng từ bỏ, có Đảng giải thích rằng cụm từ
"chuyên chính vô sản" dễ gây phản cảm, không được tán thành bởi nhiều người
tiến bộ và yêu nước.
Và rồi, cho dù bị quyết liệt ngăn chặn, cản trở bới những thế lực bảo thủ, giáo điều
tìm thấy sự duy trì "chuyên chính vô sản" phù hợp với việc bảo vệ lợi ích và quyển
lực đang có của họ, mô hình sai lầm ấy đã bị vứt bỏ. Cuộc sống không chấp nhận
cả lý thuyết và thực tiễn "chuyên chính vô sản" kiểu "Stalinnit".
5. Thật oái oăm, khái niệm "chuyên chính vô sản" mà một thời được tiếp thu và
vận dụng ở một số nước XHCN, trong đó có nước ta, lại rơi vào đúng cái nội dung
kiểu "Stalinnit" ấy!
Ở ta, vấn đề "chuyên chính vô sản" quả thật đã từng giữ vị tri "then chốt” trong tư
duy của Đảng cầm quyền. Những ngộ nhận về nội dung của "chuyên chính vô
sản” theo quan điềm Stalin đã đầy tới những tai họa quá nặng nề có lẽ cũng không
cần phái nói nhiều ở đây. Cho đến nay, tuy khái niệm đã chính thức bị đưa ra khỏi
những đoạn nói về đường lối chung trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt
Nam, những hệ lụy của nô thì vẫn len lỏi, gây ảnh hưởng trong cách hành xử của
bộ máy chuyên chính như đã nói ở trên. Cũng không ít trường hợp, “dẫu lìa ngỏ ý
còn vuông tơ lòng trong những người đã có sự gắn kết qủa sâu với vấn đề vốn bị
ngộ nhận là then chốt nhất của học thuyết Mác.
Khắc phục cho được hệ lụy này xem ra còn phải có một cố gắng lâu dài và hết sức
nhẫn nại. Vì rằng, như Lênin đã từng cảnh báo: "Đối với một người cách mạng
chân chính thì mối nguy hiểm lớn nhất, thậm chí có thể là mối nguy hiểm duy
nhất, là phóng đại tinh thần cách mạng, là h am những giới hạn và những điều kiện
của một sự vận dụng có kết quá và thóa đáng nhữngphươngpháp cách mạng ". Cái
lối "phóng đại" này, mà lại là "phóng đại tinh thần cách mạng” xem ra không chỉ
có ở nước Nga thời Lênin! Nó được vận dụng rất phổ biến trong nhiều quốc gia
mà nước ta cũng không thoát khỏi cái vòng “kim cô" oan nghiệt đó. Đặc biệt nguy
hại là ở những nơi mà người ta cố dung tục hóa, thô thiển hóa học thuyết của
C.Mác. Rõ ràng là "phóng đại tinh thần cách mạng” không phải để cách mạng, mà
thực chất là để thoái lui, hoặc để lao vào những phiêu lưu cách mạng không có
chút nội dung cách mạng nào. Những ví dụ dễ thấy trên đất nước ta là những lúc
chịu ảnh hưởng nặng nề hoặc bị áp đặt bởi sự “phóng đại tinh thần cách mạng” có
chủ ý để cố tìm cho ra “kẻ thù giai cấp” theo đúng "chuẩn" đã được đề ra một cách
võ đoán, cực kỳ chủ quan cho đủ "tỷ lệ" mà các đội cải cách ruộng đất và chỉnh
đốn tổ chức phải thực hiện, dẫn đến chuyện "tố điêu”, "tố sai" mà hậu quả của nó
thì chúng ta đã biết.
Hiểu rõ cánh báo của V.I Lênin, Hồ Chí Minh cũng đã từng nhắc nhở Đảng: "phải
biết khéo lợi dụng kinh nghiệm. Nếu thấy người ta làm thế nào mình cũng một
mực bắt chước làm theo thế ấy. Thí dụ: nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình
cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cánh nước mình như thế
nào để làm cho đúng. Ngay từ Hội nghị thành lập Đảng năm 1930, Người đã
khẳng định nếu không giải quyết được vấn để giải phóng dân tộc, không đòi hỏi
được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc
còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng
không đòi lại được.
Đến năm 1 937, Người lại nhắc nhở "Các đồng chí trong Đảng cần phải hiểu rằng:
Đảng ta chẳng những là kẻ bênh vực và lãnh đạo cho giai cấp vô sản mà thôi, mà
cũng là kẻ bênh vực và lãnh đạo cho toàn thể dân chúng nữa. Đảng phải làm tròn
vai trò ấy". Nhớ lại, từ 1924, Nguyễn Ái Quốc đã sớm chỉ rõ "Chủ nghĩa dân tộc là
động lực lớn của đất nước Người ta sẽ không thể làm gì được cho người An
Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội của
họ. Chỉ ra điều ấy vì Hồ Chí Minh hiểu rằng ở Việt Nam, "cuộc đấu tranh giai
cấp” không diễn ra giống như ở phương Tây".
Bằng tầm nhìn ấy, Hồ Chí Minh đã hạn chế đến mức thấp nhất những sai lầm
trong cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức theo sự dẫn dắt của quan điểm phóng
đại tinh thần cách mạng nằm trong nội dung của "chuyên chính vô sản" được tác
động của đường lối kiểu "Stalinnít" hoặc "Mao ít" cố sức cường điệu và "phóng
đại tinh thần cách mạng", đưa tới những hệ lụy đau đớn. Cần phải có sự nghiêm
túc và sòng phẳng đối với những sai lầm và hệ lụy ấy.
6. Tóm lại, C.Mác và Ph.Ăngghen có một số ý tưởng về "chuyên chính vô sản",
nhưng không có và không thể có lý luận về "chuyên chính vô sản”. Những ý tưởng
của C.Mác và Ph.Ăngghen có điều đúng nhưng cũng có nhiều điều không đúng do
đánh giá sai tình hình chủ nghĩa tư bán, và do khái quát hóa quá vội vàng từ một
kinh nghiệm quá ngắn ngủi và không thành công của Công xã Paris (mà về điểm
này, về sau C. Mác và nhất là Ph.Ăngghen đã có tự phê bình).
Vì thế, khẳng định rằng chuyên chính vô sản là vấn đề chú yếu, cũng như khắng
định giá tri thặng dư là hòn đá tảng của học thuyết Mác là những ý kiến của những
người học trò của C. Mác chứ C.Mác không hề khẳng định như vậy. Ở đây có
những lý do, những động cơ rất khác nhau của sự khẳng định ấy mà trong một bài
viết ngắn chưa thể nói kỹ.
Chính vì thế, ý tưởng về "làm chủ tập thể” là một cố gắng tìm tòi, bứt phá nhằm
vượt ra khỏi mô hình "chuyên chính vô sản” trên hành trình trở lại với tư tưởng Hồ
Chí Minh về “Nhà nước pháp quyền”.