Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Hành trình từ “chuyên chính vô sản” đến “làm chủ tập thể” và “Nhà nước pháp quyền Việt Nam” – 2 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.4 KB, 6 trang )

Hành trình từ “chuyên chính vô sản” đến “làm chủ tập
thể” và “Nhà nước pháp quyền Việt Nam” – 2


II. Về “làm chủ tập thể”
1. Phạm trù làm chủ tập thể hình thành trong suy tư về vai trò lãnh đạo của Đảng
và chức năng quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo cho nhân dân thực hiện được
quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội của mình. Phải biết tước bỏ những cách
hiểu dung tục, thô thiển để nhìn vào chiều sâu triết lý và sự vận động của lịch sử
hướng tới một hình thái xã hội mới ra đời ngay trong lòng xã hội hiện tồn. Đó là
khi bằng cách mạng giành lại độc lập cho dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân
dân trong một Nhà nước dânchủ, thì không thể áp dụng hình thái "Nhà nước
chuyên chính vô sản" được nữa. Hạt nhân của triết lý làm chủ tập thể chính là sự
khẳng định "'quyền hành và lực lượng đều nơi dân” và đấy cũng là cốt lõi của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Chính Hồ Chí Minh là người đầu tiên nói đến quyền làm chủ
của nhân dân. Trong bài "Đạo đức công dân" đăng trên báo "Nhân dân" ngày
15/01/1955, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước
nhà do nhân dân làm chủ”.
2. Tuy vậy, do chịu ảnh hưởng của sự áp đặt mô hình Xô Viết, nên tại Đại hội II
năm 1951, trong "Bàn về cách mạng Việt Nam” của Trường Chinh, khái niệm
"chuyên chính vô sản" được xác định là một hình thức Nhà nước xuyên suốt tiến
trình cách mạng, thể hiện dưới dạng của "chuyên chính nhân dân" theo kiều nói
của Trung Quốc đã dẫn ra ở trên. Kể từ đó, phạm trù "Nhà nước dân chủ nhân dân
làm nhiệm vụ “chuyên chính vô sản" được nói đến thường xuyên trong các văn
kiện của Đảng và Nhà nước.
Vì vậy, có thề nói, thực chất của sự hình thành luận điểm “làm chủ tập thể" của Lê
Duẩn là nhằm thay thế cho lý luận về "chuyên chính vô sản " mà với cương vị là
người có trách nhiệm lớn nhất với đất nước, với dân tộc, ông không đồng tình. Tư
tưởng chính trị cơ bản của Lê Duẩn là nhân dân làm chủ tập thể, Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý là cốt để nhân dân làm chủ tập thể.
Mặc dù nhận thức như vậy, song vì ý thức tổ chức và kỷ luật, phục tùng một ý


kiến đa số trong lãnh đạo của Đảng còn dai dẳng những năm 70 của thế kỷ XX,
chứ trong tư duy, Lê Duẩn đang tìm mọi cách đề thoát ra khỏi cái mô hình áp đặt
mà ông đã nhìn thấy là không ổn, là bất cập. Quả đúng như tác giả của bài viết về
Lê Duẩn nhân ký niệm 50 năm "Đề cương cách mạng Miền Nam" nhận xét: “Vói
vị trí Tổng Bí thư của mình, ông cũng không đột phá nổi độ dày của bảo thủ, giáo
điều, đường mòn xơ cứng”. Độ dày ấy đã hằn quá sâu trong đời sống tinh thần của
xã hội, trước hết là trong não trạng của những người chịu trách nhiệm về hoạt
động lý luận của Đảng. Vì thế trong báo cáo chính trị đọc tại Đại hội IV có đoạn:
“Muốn đưa sự nghiệp cách mạng ấy đến toàn thắng, điều kiện quyết định trước
tiên là phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện
và không ngừng phát huy quyền làm chú tập thể của nhân dân lao động". Tuy
nhiên, tiếp ngay câu trên, Lê Duẩn trình bày đường lối chung của Đảng, trong 16
dờng, làm nổi rõ lên tư tưởng nắm vững chuyên chính vô sản chính là thực hiện và
phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Tiếp đó, trong 183 dòng
thuyết trình về xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN trên các mặt chính trị, kinh
tế, văn hoá, đầy đủ hơn nhiều, độ dài cũng gấp 10 lần so với mấy dòng trình bày
về chuyên chính nói trên.
Lý do chính là, trong tìm tòi suy ngẫm, tư duy của Lê Duẩn không tán thành áp đặt
mô hình Xô Viết với thể chế Nhà nước chuyên chính vô sản khi mà nhân dân đã
bằng cuộc chiến đấu ròng rã với biết bao hy sinh của nhiều thế hệ kế tiếp nhau để
giành được quyển làm chú đất nước, làm chủ xã hội. Lẽ nào lại có thể "chuyên
chính" theo kiểu trấn áp tàn khốc cán bộ, đáng viên, công nhân nông dân, trí thức
diễn ra ở Liên Xô dưới thời J.Stalin hay ở Trung Quốc thời Mao như đã dẫn ra ở
trên. Phạm trù làm chủ tập thể hình thành vả hoàn chỉnh dần, tuy vẫn còn dang dở
và còn nhiều vấn đề gây tranh cãi nhưng đã thể hiện sự bứt phá ra khỏi những giáo
điều gây ra quá nhiều tai hại mà hầu hết các Đảng Cộng sần trên thế giới, các
Đảng đã nắm chính quyền hoặc đang đấu tranh đều đã từ bỏ.
3. Cũng chính vì thế, tại Đại hội VI, Báo cáo chính trị chỉ có một lần dùng cụm từ
"chuyên chính vô sản” trong hai câu: "Nhà nước ta là công cụ của chế độ làm chủ
tập thể xã hội chủ nghĩa, do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tổ chức

thành cơ quan quyền lực chính trị. Trong thời kỳ quá độ, đó là Nhà nước chuyên
chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa” để " khẳng định tiếp tục
thực hiện đường lối chung của cách mạng XHCN và đường lối xây dựng nền kinh
tế XHCN do các Đại hội lần thứ IV và lần thứ V của Đảng". Tuy một lần nhắc lại
cụm từ "chuyên chính vô sản", nhưng thực tế là trong Văn kiện đại hội VI, lại
quyết định nhiều chủ chương để phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân.
Cụm từ "làm chủ tập thể” được nêu cao và nhắc đến hàng chục lần và cũng lần
đầu, chủ trương "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra"được Đại hội VI đưa ra.
Tại Đại hội VII, lần đầu tiên khái niệm "chuyên chính vô sản" với tư cách là bản
chất của Nhà nước XHCN đã không được nói đến nữa. Thay vào đó là khái niệm
"xây dựng Nhà nước XHCN, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân". Đặc biệt, đã xác định: "là tổ chức thể hiên và thực hiên ý chí, quyền lực của
nhân dân thay mặt nhân dân, Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng
định ra luật pháp và tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội trong luật pháp". Ở
đây đã thấp thoáng bóng dáng của tư duy về "Nhà nước pháp quyền".
Đến Đại hội VIII thì khái niệm Nhà nước pháp quyền được chính thức đi vào đời
sống xã hội bằng sự khẳng định: "Tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà
nước pháp quyền. Quản lý xã hội bằng pháp luật…". Quả thật, đây là một sự điều
chỉnh muộn màng so với hầu hết các Đảng cộng sản trên thế giới. Đáng tiếc là sự
muộn màng ấy lại đã thường xảy ra. Mà xảy ra trước hết lại là ở lĩnh vực hoạt
động lý luận ở những nhà lý luận vốn chiếm giữ những vị trí có tác động lớn đến
đời sống tinh thần của xã hội. Ở đây, cái bóng dáng của "chuyên chính vô sán" thể
hiện khá rõ trong tệ độc quyền chân lý, áp đặt tư duy và tùy tiện quy kết, của cái
thói chỉ quen độc thoại đề "ban phát chân lý" đã bị độc quyền chiếm dụng, mà
không chịu nổi sự đối thoại bình đẳng và công khai để làm sáng tỏ chân lý khách
quan, nhân danh sự đề phòng "chệch hướng" ra khỏi quỹ đạo "xã hội chú nghĩa”.
Ấy thế mà, như Phạm Văn Đồng đã từng khẳng định, các nhà sáng lập ra học
thuyết Mác “chưa bao giờ đề ra một định nghĩa có tính chất hình mẫu về chủ nghĩa
xã hội khoa học, chính khoa học là ở chỗ đó". Ông thường hay dẫn ra câu nói nổi
tiếng của Gớt để cảnh báo các nhà lý luận: "Lý thuyết thì màu xám. Còn cây đời

thì mãi mãi xanh tươi”.Và chính ông đã từng tự phê bình về việc "sao mà mình có
thể quay lưng lại với biết bao sự thật hằng ngày diễn ra trước mắt mình để lao vào
những sai lầm với những cái giá đắt phải trả. Rõ ràng đây là một sự thiếu sáng
suốt trong nhận thức và hành động, trong lý luận và thực tiễn"
Nhận thức là có một quá trình không kém gian nan, nhất là khi tự mình phải vượt
lên chính mình để tiếp cận được với sự vận động không ngừng của cuộc sống.
Thậm chí, cho đến nay, vẫn có ý kiến cho rằng "các vấn đề lớn trong Văn kiện Đại
hội X đều ẩn chứa nội dung và chức năng của chuyên chính vô sản… mặc dầu
không nhắc đến cụm từ chuyên chính vô sản”.
"Màu xám" của lý luận đang thách thức "cây đời xanh tươi”. Và chúng ta đủ kiên
nhẫn để tin rằng, cuộc sống mạnh hơn mọi giáo điều đã học thuộc lòng.

×