Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng ở Việt Nam hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (675.29 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN MINH LỢI

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC ĐIỀU DƯỠNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ CÔNG
MÃ SỐ: 62 34 04 03

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Hà Nội - 2017


Công trình được hoàn thành tại Học viện Hành chính Quốc gia.

Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS. Đinh Văn Mậu
2. GS.TS. Nguyễn Viết Tiến

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:


Luận án được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá cấp Học viện.
Địa điểm: Phòng bảo vệ luận án tiến sĩ tầng nhà Học viện Hành chính Quốc gia
Số 77 – Đường Nguyễn Chí Thanh- Quận Đống Đa- Hà Nội
Thời gian: vào hồi:

giờ, ngày

tháng

năm 2017

Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện quốc gia Việt Nam hoặc Thư viện của Học viện Hành
chính Quốc gia.


CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

STT

Tên công trình

Nơi công bố

Năm công bố

1

Nâng cao quản lý chương trình, nội dung đào
tạo tại Trường Đại học Y Hà Nội


Luận văn Thạc sĩ
Quản lý Hành
chính công, Học
viện Hành chính
Quốc gia

2003

2

Một số giải pháp về chính sách đào tạo nhân
lực y tế trong giai đoạn hiện nay.

Tạp chí Quản lý
nhà nước

8/2012

3

Hoàn thiện thể chế đào tạo nguồn nhân lực
điều dưỡng ở Việt Nam theo hướng hội nhập
quốc tế.

Tạp chí Quản lý
nhà nước

7/2016

4


Thực trạng đào tạo nhân lực điều dưỡng ở
Việt Nam.

Tạp chí Y học
thực hành

7/2016

5

Đào tạo và cấp chứng chỉ hành nghề điều
dưỡng của một số nước trên thế giới và đề
xuất áp dụng đối với Việt Nam

Tạp chí Y học
thực hành

3/2017


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơ cấu nhân lực y tế (NLYT), vị trí, vai trò của người điều dưỡng (ĐD) đã được khẳng định.
Người ĐD đã trở thành một bộ phận độc lập và không thể tách rời trong ngành y tế, vừa chiếm đa số về số
lượng, vừa đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ (CSSK) nhân dân.
Trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội và hướng hội nhập quốc tế, đào tạo nguồn nhân lực
(NNLĐD) đã có những bước phát triển nhất định cả về số lượng và chất lượng, góp phần quan trọng tăng

cường chất lượng bảo vệ, CSSK nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác đào tạo
cũng như quản lý nhà nước (QLNN) về đào tạo NNLĐD vẫn còn nhiều bất cập và có những khó khăn, thách
thức. Về lý luận, đường lối chiến lược phát triển kinh tế-xã hội xác định phát triển giáo dục và đào tạo
(GD&ĐT) là một trong những động lực quan trọng, đầu tư cho việc phát triển NNL có chất lượng được coi
là khâu quan trọng nhất so với các loại đầu tư khác cho việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vấn đề
đào tạo NNLĐD đã được nhiều tác giả nghiên cứu nhưng chưa có một nghiên cứu nào được tiếp cận dưới
góc độ khoa học về QLNN, đặc biệt là cấp độ tiến sĩ. Về thực tiễn, công tác điều dưỡng có vai trò quan trọng
trong hoạt động CSSK nhân dân, đội ngũ điều dưỡng viên (ĐDV) chiếm tỷ lệ đa số trong cơ cấu NLYT.
Hoạt động đào tạo NNLĐD của nước ta đã đạt được một số thành tựu nhưng cũng bộc lộ những vấn đề bất
cập như chưa xác định rõ cơ cấu nhân lực cần thiết trong hệ thống y tế, số lượng các CSĐT và quy mô đào
tạo tăng nhanh chưa gắn với yêu cầu hoạt động chuyên môn nghề nghiệp và nhu cầu nhân lực của ngành y
tế. Hoạt động QLNN về đào tạo NNLĐD cũng bộc lộ những vấn đề cần phải giải quyết như hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật chưa đồng bộ, bộ máy quản lý còn chồng chéo chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ
quan QLNN về giáo dục và đào tạo với cơ quan quản lý ngành. Về hội nhập quốc tế, ngày 31/12/2015 thành
lập Cộng đồng Kinh tế các nước khu vực Đông Nam Á (ASEAN) hình thành thị trường lao động tự do đối
với một số ngành trong đó có điều dưỡng.
Từ những lý do nêu trên cho thấy, việc thực hiện đề tài “Quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân
lực điều dưỡng ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu, rà soát, đánh giá thực trạng và đưa ra những giải
pháp phù hợp trong công tác QLNN về đào tạo NNLĐD ở nước ta hiện nay là rất cần thiết và cấp bách.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài luận án là góp phần hoàn thiện QLNN về đào tạo NNLĐD ở Việt
Nam để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng CSSK nhân dân và hội nhập quốc tế.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án để làm rõ những nội dung luận án có
thể kế thừa, những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu.
- Nghiên cứu, tổng hợp và bổ sung làm rõ cơ sở khoa học QLNN về đào tạo NNLĐD.
- Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng QLNN về đào tạo NNLĐD ở nước ta hiện nay, phân tích
những kết quả đã đạt được, hạn chế và xác định các nguyên nhân chủ yếu.
- Tổng hợp các quan điểm, định hướng và đề xuất giải pháp hoàn thiện QLNN về đào tạo NNLĐD

của Việt Nam, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng CSSK nhân dân và hội nhập quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là QLNN về đào tạo NNLĐD ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án là QLNN về đào tạo NNLĐD để được cấp văn bằng theo các trình
độ đào tạo, luận án không nghiên cứu QLNN về đào tạo ngắn hạn để cấp chứng chỉ. Giới hạn nghiên cứu của
luận án là hoạt động QLNN về đào tạo NNLĐD ở cơ quan quản lý cấp Trung ương.


2
- Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu trong giai đoạn từ khi có Luật Giáo dục sửa đổi (2009)
và Luật Khám bệnh, chữa bệnh (2009) đến nay, trong phân tích, đánh giá có sử dụng dữ liệu trước 2009.
- Về không gian: Nghiên cứu QLNN về đào tạo NNLĐD trong cả nước.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và những quan điểm của Đảng, Nhà nước về GD&ĐT và về y tế đối với QLNN về đào tạo NNLĐD.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Luận án sử dụng phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp (desk-study). Phương pháp này chủ yếu tập
trung nghiên cứu, tham khảo, phân tích các văn bản, tài liệu, công trình khoa học, các số liệu khoa học đã
được công bố ở trong và ngoài nước có liên quan đến Luận án để hình thành cơ sở lý luận, đánh giá thực
trạng cũng như xu hướng đổi mới đào tạo và QLNN về đào tạo NNLĐD trên thế giới và Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Nghiên cứu sinh đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu xã hội học: Điều tra, khảo sát; Phỏng vấn
sâu và thảo luận nhóm; Thống kê, tổng hợp.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn:
Nghiên cứu kinh nghiệm QLNN về đào tạo NNLĐD trên thế giới, qua đó lựa chọn, xác định những
nội dung, vấn đề có thể áp dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.

5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
Luận án giải quyết một số câu hỏi nghiên cứu chính như sau:
- Đào tạo NNLĐD và QLNN về đào tạo NNLĐD là gì? Có đặc điểm, nội dung như thế nào?
- Những nhân tố nào có ảnh hưởng đến QLNN về đào tạo NNLĐD?
- Thực trạng NNLĐD và đào tạo NNLĐD hiện nay ở Việt Nam như thế nào?
- Thực trạng QLNN về đào tạo NNLĐD như thế nào? Kết quả, hạn chế và nguyên nhân? Cần được
hoàn thiện theo hướng nào?.
5.2. Giả thuyết khoa học
- Hoạt động điều dưỡng và ĐDV có vai trò không thể thiếu trong hệ thống y tế, có ý nghĩa quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng KB, CB, bảo vệ và CSSK nhân dân. Để hoạt động chuyên môn của
ĐDV đáp ứng được yêu cầu, đào tạo NNLĐD có vai trò đặc biệt quan trọng và ý nghĩa quyết định.
- Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đào tạo NNLĐD chưa đầy đủ, chưa đồng
bộ và còn nhiều bất cập.
- Tổ chức bộ máy QLNN chưa được kiện toàn, đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ giảng viên chưa
đáp ứng được yêu cầu.
- Việc hỗ trợ và huy động các nguồn lực cho đào tạo NNLĐD còn hạn chế; hoạt động thanh tra,
kiểm tra và đánh giá, tổng kết về đào tạo NNLĐD còn nhiều bất cập.
- Cần phải tăng cường QLNN về đào tạo NNLĐD để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng CSSK
nhân dân và hội nhập quốc tế.
6. Những đóng góp mới của luận án
- Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, rút ra được các nội dung luận án
cần tiếp tục giải quyết.


3
- Phân tích nội hàm, làm rõ các khái niệm liên quan và đề xuất khái niệm hoàn thiện QLNN về đào
tạo NNLĐD. Xác định được các nội dung QLNN và phân tích các yếu tố tác động đến hoạt động QLNN
trong lĩnh vực này.
- Phân tích, đánh giá được thực trạng, xác định được nguyên nhân kết quả đạt được và nguyên nhân hạn

chế của thực trạng QLNN về đào tạo NNLĐD tại Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện QLNN về đào tạo NNLĐD tại Việt Nam, phù hợp với các định
hướng của Đảng, Nhà nước, ngành GD&ĐT, ngành Y tế và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
7.1. Về lý luận
Luận án góp phần bổ sung và làm phong phú thêm lý luận về QLNN, góp phần làm sáng tỏ một số vấn
đề lý luận của QLNN về đào tạo NNLĐD, chỉ rõ thực trạng và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện
QLNN về đào tạo NNLĐD ở Việt Nam.
7.2. Về thực tiễn
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo hữu ích trong việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập tại các
cơ sở đào tạo khoa học hành chính. Đồng thời cũng có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu đối với các cơ
quan chức năng trong lĩnh vực GD&ĐT, lĩnh vực y tế để vận dụng thực hiện trong thực tế QLNN về đào tạo
NNLĐD nói riêng và đào tạo NNLYT nói chung.
8. Cấu trúc của luận án
Cấu trúc của Luận án, ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục, Luận án gồm 4 chương:
- Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
- Chương 2. Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng.
- Chương 3. Thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng ở Việt Nam
- Chương 4. Định hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều
dưỡng ở Việt Nam


4

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước
1.1.1. Nghiên cứu về nguồn nhân lực điều dưỡng
Các tác giả Lyn N. Henderson và Jim Tulloch (Australia) đã có bài tổng hợp: Incentives for
retaining and motivating health workers in Pacific and Asian countries (Khuyến khích duy trì và thúc đẩy

cán bộ y tế tại khu vực Châu Á và Thái Bình dương). Nghiên cứu này nói lên rằng, để cho chương trình ưu
đãi nhân viên y tế được thành công thì cần phải có sự cam kết chính trị lâu dài và phải được duy trì ở tất cả
các cấp, cần phải có sự hiểu biết một cách sâu sắc và toàn diện về văn hóa, xã hội, chính trị và kinh tế.
Tác giả Churnrurtai Kanchanachitra với chủ đề Human resources for health in Southeast Asia:
shortages, distributional challenges, and international trade in health services (Nguồn nhân lực y tế ở Đông
Nam Á: sự thiếu hụt, những thách thức về phân phối và thương mại quốc tế trong dịch vụ y tế) đã có những
đánh giá về NNLĐD Việt Nam: đã có nhiều ĐDV có trình độ thạc sỹ và bắt đầu có tiến sỹ điều dưỡng được
đào tạo, làm việc ở nước ngoài. Số lượng điều dưỡng trên 10.000 người cũng tăng lên (8,82 năm 2009 so với
9,35 năm 2010).
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) với các tài liệu Nursing Midwifery services-Strategic Directions 20112015 (Định hướng chiến lược dịch vụ điều dưỡng-hộ sinh giai đoạn 2011-2015), Strengthening nursing and
midwifery, the sixty-fourth World Health Assembly (Nghị quyết số 64 của Hội đồng Y tế thế giới về tăng
cường điều dưỡng và hộ sinh) đã xác định vai trò của ĐDV trong cơ cấu NLYT và trong hệ thống y tế, giúp
cho người dân được tiếp cận với các dịch vụ y tế, đảm bảo tính phổ cập, công bằng và hiệu quả.
Chuẩn năng lực cơ bản của điều dưỡng Việt Nam được xây dựng từ năm 2008 và được phê duyệt
vào ngày 24/4/2012 theo Quyết định số 1352/QĐ-BYT của Bộ Y tế gồm 3 lĩnh vực năng lực và 25 tiêu
chuẩn, 110 tiêu chí cần đạt được của người ĐD để đủ năng lực hành nghề.
Bộ Y tế trong báo cáo tại Hội nghị đào tạo nhân lực Điều dưỡng Việt Nam 2010, Chương trình hành
động quốc gia về tăng cường công tác điều dưỡng-hộ sinh, giai đoạn từ nay đến năm 2020, Báo cáo tổng
quan ngành y tế 2015, đã có những đánh giá về thực trạng NNLĐD, quản lý và sử dụng NNLĐD của Việt
Nam: đã được cải thiện đáng kể cả về số lượng và chất lượng trong những năm gần đây thông qua nhiều hình
thức như đào tạo ở nước ngoài, đào tạo liên kết, liên thông, theo địa chỉ sử dụng, cử tuyển và đào tạo liên tục.
Các báo cáo của Bộ Y tế đã chỉ ra rằng, số lượng ĐDV được đào tạo tăng nhanh qua các năm nhưng có sự
mất cân đối về trình độ đào tạo, mất cân đối NNLĐD giữa các vùng miền, lĩnh vực chuyên môn, chưa rõ
ràng về phạm vi hoạt động chuyên môn.
1.1.2. Nghiên cứu về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
Báo cáo của Barzansky, B. và Abraham Flexner The Future of Nursing Education: Ten Trends to
Watch (Tương lai của giáo dục điều dưỡng: Mười xu hướng để hướng tới) đã đề cập tới những yếu tố cần
phải đổi mới trong đào tạo ĐDV.
Theo tài liệu Nursing Midwifery services-Strategic Directions 2011-2015 (Định hướng chiến lược
dịch vụ điều dưỡng-hộ sinh giai đoạn 2011-2015) của WHO, mục tiêu đào tạo ĐD ở khu vực Đông Nam Á

và thế giới là đào tạo ra những ĐDV chuyên nghiệp có khả năng thực hành nghề nghiệp dựa trên bằng chứng
đáp ứng nhu cầu CSSK người dân, có khả năng làm việc nhóm và có khả năng học tập suốt đời.
Bài báo Đào tạo điều dưỡng ở các nước Đông Nam Á của tác giả Nguyễn Văn Thanh, báo cáo Đào
tạo điều dưỡng ở một số nước trên thế giới của tác giả Đỗ Đình Xuân cho thấy, mạng lưới CSĐT ở các nước
trên thế giới đều gắn với quy mô dân số và năng lực đào tạo của từng trường.


5
Bộ Y tế trong Báo cáo phát triển nhân lực y tế: thành tựu, khó khăn và giải pháp đã cho thấy, nhiều
CSĐT đang tích cực thực hiện đổi mới chương trình đào tạo (CTĐT) ĐD, xây dựng CTĐT dựa trên năng
lực, tổ chức đào tạo theo tín chỉ, nội dung bám sát chuẩn năng lực ĐD.
Báo cáo Hội nghị Hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng năm 2014 của Bộ GD&ĐT đã có
những đánh giá thực trạng và những kết quả đã đạt được về đào tạo trình độ đại học, cao đẳng trong cả nước.
Về những điểm còn tồn tại, báo cáo đã nhấn mạnh CTĐT của các trường đại học, cao đẳng là: Hầu hết các
trường hiện nay thiết kế chương trình khá tỉ mỉ về những vấn đề cụ thể nhưng thiếu trang bị những kiến thức
tổng quát mang tính quy luật tạo nền tảng phát triển tư duy sáng tạo của sinh viên.
Nguyễn Minh Lợi trong bài báo Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng ở Việt Nam đã cho
thấy những thành công trong đào tạo NNLĐD của Việt Nam như sự phát triển mạnh mẽ về đào tạo NNLĐD
trong những năm gần đây cả về số lượng các CSĐT và quy mô đào tạo, các chế độ, chính sách.
1.1.3. Nghiên cứu quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
Giáo trình Quản lý nhà nước về xã hội, Học viện Hành chính quốc gia đã giới thiệu hệ thống lý
thuyết về quản lý công của nhiều học viện hành chính trên thế giới mà tiêu biểu là hệ thống lý thuyết của
Max Weber (1864-1920) - nhà xã hội học người Đức, cha đẻ của mô hình hành chính thư lại.
Hệ thống các giáo trình, hệ thống sách giáo khoa và tài liệu tham khảo, chuyên khảo của Học viện
Hành chính Quốc gia đã giới thiệu các nguyên lý cơ bản về QLNN nói chung và QLNN về đào tạo NNL nói
riêng. Hệ thống các tài liệu đó đã đưa ra những thành tố, nội dung, công cụ, hình thức QLNN. Đồng thời,
giáo trình cũng nêu ra những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước để thực hiện các chức năng và
nhiệm vụ của mình; các nội dung và phương thức QLNN.
Lê Thị Kim Dung trong luận án tiến sĩ Luật học Hoàn thiện pháp luật về giáo dục đại học ở Việt
Nam hiện nay đã nêu lên quan điểm về đánh giá chất lượng giáo dục qua kết quả thực hiện mục tiêu.

Nguyễn Minh Lợi trong bài báo Hoàn thiện thể chế đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng ở Việt Nam
theo hướng hội nhập quốc tế đã giới thiệu về thực trạng hệ thống thể chế đào tạo NNLĐD Việt Nam hiện
nay chưa đảm bảo tính đồng bộ, chưa thể hiện được tính đặc thù trong đào tạo NNLĐD.
Năm 2013, cơ sở dữ liệu về điều dưỡng và hộ sinh của các nước khu vực Tây Thái bình dương
(Western Pacific Region Nursing/Midwifery Databank) của WHO đưa ra một số thông tin về việc đăng ký và
vai trò của các cơ quan QLNN, các tổ chức trong quản lý và cấp giấy phép hành nghề ĐD.
Tác giả Sun-Joo Kang và In-Sook Kim trong bài báo Development of the Korean Nursing Profession
with Changes in its Legal Basis (Sự phát triển điều dưỡng chuyên nghiệp ở Hàn Quốc với thay đổi về chính
sách pháp luật) đã giới thiệu về sử dụng và đào tạo NNLĐD của Hàn Quốc, những vấn đề cần phải điều
chỉnh trong việc phát triển nghề nghiệp khi có sự thay đổi về Luật Dịch vụ y tế của Hàn Quốc năm 2015.
Trong các tài liệu Cơ chế kỳ thi quốc gia về điều dưỡng và cấp bằng tại Nhật Bản của tác giả
Iwasawa Kazuko, Japan’s Nursing Administration (Quản lý điều dưỡng tại Nhật Bản) của Bộ Y tế, Lao
động và Phúc lợi Nhật Bản đã tập trung giới thiệu về quá trình phát triển ngành điều dưỡng của Nhật Bản.
Hệ thống thể chế và vai trò của nhà nước đối với kỳ thi quốc gia để cấp giấy phép hành nghề.
Bộ GD&ĐT trong Báo cáo tổng kết 03 năm thực hiện Chỉ thị số 296/CT-TTg ngày 27/02/2010 của
Thủ tướng Chính phủ về đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012 đã nêu lên những thành tựu
đã đạt được về đổi mới và thể chế đối với giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị BCH Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản,
toàn diện GD&ĐT đã xác định những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân và định hướng về GD&ĐT, trong đó
khẳng định: Đầu tư cho GD&ĐT chưa hiệu quả; chính sách, cơ chế tài chính cho GD&ĐT chưa phù hợp.


6
Báo cáo thường niên của Bộ Y tế và nhóm các nhà tài trợ về y tế năm 2015: hạn chế trong việc đảm
bảo chất lượng được xác định là vấn đề chính trong hệ thống đào tạo NLYT.
Báo cáo đề dẫn Hội nghị đào tạo nhân lực điều dưỡng và Báo cáo phát triển nhân lực y tế: thành
tựu, khó khăn và giải pháp của Bộ Y tế cho thấy mạng lưới các CSĐT và quy mô đào tạo NNLĐD đã có sự
phát triển mạnh mẽ trong 10 năm trở lại đây, mất cân đối cung - cầu.
1.2. Kết quả nghiên cứu tổng quan và những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu
1.2.1. Kết quả nghiên cứu tổng quan từ các công trình liên quan

Các công trình, tài liệu trên đã đưa ra tương đối hoàn chỉnh những thành tố, nội dung, công cụ, hình
thức QLNN như hệ thống thể chế, hệ thống tổ chức bộ máy và hệ thống tài chính công. Có những tài liệu đã
đề cập đến QLNN về GD&ĐT và y tế nhưng mới chỉ dừng ở quản lý về thể chế chung, chưa có tài liệu nào
nghiên cứu chuyên sâu QLNN về đào tạo NNLĐD. Điều đó đã đặt ra nội dung lý luận mà nghiên cứu sinh
cần nghiên cứu trong luận án này.
1.2.2. Những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Một là, cơ sở khoa học cả về lý luận và thực tiễn về QLNN đào tạo NNLĐD, trên cơ sở đó vận dụng
vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam hiện nay. Cần nghiên cứu nhằm làm rõ các khái niệm có liên quan, nội
dung của QLNN đối với đào tạo NNLĐD Việt Nam và các yếu tố tác động đến các hoạt động quản lý này.
Hai là, nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động QLNN về đào tạo NNLĐD ở Việt Nam và sự
khác biệt với đào tạo NNLĐD của các nước trên thế giới để phân tích, so sánh tìm ra các hạn chế cần khắc
phục để hội nhập quốc tế.
Ba là, nghiên cứu, đề xuất các giải pháp phù hợp đối với QLNN về đào tạo NNLĐD ở Việt Nam
trong điều kiện nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Đây là những vấn đề thời sự, cần được quan tâm nghiên cứu – đặc biệt là trong giai đoạn cả nước
đang thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị lần thứ tám (khóa XI) về đổi
mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, nhất là khi Cộng đồng kinh tế ASEAN đã chính
thức được thành lập từ 31/12/2015, thị trường lao động tự do của khu vực đối với lao động đã qua đào tạo
được hình thành trong đó có lĩnh vực điều dưỡng.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Qua tìm hiểu và phân tích tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước cho thấy, đề tài về đào tạo
và phát triển NNLĐD, đặc biệt là QLNN về đào tạo NNLĐD đã được xem xét, nghiên cứu ở các góc độ,
khía cạnh và phạm vi khác nhau. Đã có nhiều công trình nghiên cứu ngoài nước và ở Việt Nam liên quan đến
đề tài, trong đó có công trình đã làm rõ phần nào về cơ sở lý luận, thực trạng QLNN về đào tạo NNLĐD;
một số đề tài đã tiếp cận và xác định những yếu tố bất cập và đã có những giải pháp ở một mức độ và phạm
vi nhất định nhằm tăng cường QLNN về đào tạo NNLĐD nhằm đảm bảo chất lượng NNLĐD.
Tuy nhiên, còn những vấn đề liên quan đến đề tài mà các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước
chưa đề cập một cách cụ thể, chuyên sâu, toàn diện như: khái niệm NNLĐD, khái niệm QLNN về đào tạo
NNLĐD, nội dung QLNN về đào tạo NNLĐD, các yếu tố tác động đến QLNN về đào tạo NNLĐD. Các

công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài ở Việt Nam mới tiếp cận đến vấn đề NNLĐD, đào tạo NNLĐD
mà chưa có nghiên cứu nào tiếp cận ở góc độ QLNN về đào tạo NNLĐD. Mặt khác, nhiều công trình đã nêu
được thực trạng đào tạo và sử dụng NNLĐD ở Việt Nam, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng NNLĐD nhưng chưa nêu ra được các khuyến nghị về mô hình đào tạo, chính sách thu hút và đặc biệt
là mô hình QLNN về đào tạo NNLĐD theo các nội dung quy định của Luật Giáo dục và mô hình của các
nước để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.


7

Chương 2
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC ĐIỀU DƯỠNG
2.1. Điều dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm nguồn nhân lực điều dưỡng
- Khái niệm nguồn nhân lực điều dưỡng
Điều dưỡng là sự chủ động và hợp tác trong hoạt động chăm sóc, tăng cường sức khỏe, phục hồi
chức năng, quản lý, tư vấn sức khỏe cho người khỏe, người ốm và người hấp hối ở cơ sở y tế, gia đình và
cộng đồng.
Nguồn nhân lực điều dưỡng là lực lượng lao động xã hội có đủ năng lực chuyên môn nghề nghiệp
điều dưỡng, chủ động thực hiện được đầy đủ chức năng, vai trò và nhiệm vụ của người điều dưỡng trong
hoạt động chuyên môn y tế.
- Đặc điểm nguồn nhân lực điều dưỡng
Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị đã khẳng định: Nghề y là một nghề đặc
biệt, cần được đào tạo, tuyển chọn, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt. Như vậy, NNLĐD có những đặc điểm
riêng: (i) người điều dưỡng phải giỏi chuyên môn và luôn đề cao đạo đức nghề nghiệp vì quá trình hành nghề
liên quan trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng con người; (ii) hoạt động chăm sóc y tế đòi hỏi nhiều đối tượng
tham gia, làm việc theo nhóm, đồng bộ và cần kiến thức, kỹ năng cao; (iii) NNLĐD đòi hỏi tính ổn định về
cơ cấu với nhiều trình độ đào tạo, với những vị trí việc làm, điều kiện và môi trường làm việc khác nhau và
có tính tổ chức cao, đào tạo NNLĐD cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường và cơ sở y tế.

Đặc điểm phức tạp của NNLĐD trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường đi đôi với bảo đảm
công bằng và an sinh xã hội nên quá trình đào tạo NNLĐD luôn cần có sự can thiệp của nhà nước.
2.1.2. Khái niệm đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
Đào tạo NNLĐD là quá trình trang bị một cách có hệ thống những kiến thức, kỹ năng, thái độ theo
một chương trình có mục tiêu nhất định để mỗi cá nhân sau khi được đào tạo hình thành và phát triển năng
lực theo những chuẩn năng lực chuyên môn nghề nghiệp điều dưỡng, có thể chủ động thực hiện được đầy đủ
chức năng, vai trò và nhiệm vụ của người điều dưỡng trong hoạt động chuyên môn y tế.
2.2. Quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
2.2.1. Khái niệm, tính chất, đặc điểm quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
- Khái niệm: Quản lý nhà nước về đào tạo NNLĐD là việc Nhà nước thông qua hệ thống chính sách,
pháp luật và bộ máy tổ chức các cơ quan quản lý của mình để tác động vào hệ thống đào tạo NNLĐD và các
chủ thể liên quan nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo là cung cấp đội ngũ điều dưỡng viên có đủ năng lực
chuyên môn đáp ứng nhu cầu của hệ thống y tế và yêu cầu chăm sóc sức khỏe người dân.
Từ khái niệm QLNN về đào tạo NNLĐD cho thấy: chủ thể QLNN về đào tạo NNLĐD là các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền; khách thể của QLNN về đào tạo NNLĐD là hệ thống các cơ sở đào tạo
NNLĐD và các hoạt động liên quan đến đào tạo NNLĐD trong phạm vi toàn xã hội; Mục tiêu đào tạo
NNLĐD về tổng thể là đào tạo ra đội ngũ ĐDV có đủ năng lực chuyên môn để đáp ứng nhu cầu của hệ
thống y tế và yêu cầu CSSK người dân. Chính vì vậy, QLNN về đào tạo NNLĐD cần phải được nhìn nhận,
đánh giá và phân tích ở cả ba góc độ tác động đến đào tạo NNLĐD đó là hoạt động đào tạo, hoạt động nghề
nghiệp và chính sách sử dụng NNLĐD.
- Một số tính chất chủ yếu của QLNN về đào tạo NNLĐD: (i) Tính lệ thuộc vào chính trị: QLNN về
đào tạo NNLĐD phục tùng và phục vụ nhiệm vụ chính trị, tuân thủ chủ trương đường lối của Đảng và Nhà
nước nói chung, về GD&ĐT và về y tế nói riêng; (ii) Tính xã hội: đào tạo NNLĐD nằm trong sự nghiệp


8
chung về GD&ĐT và sự nghiệp y tế của NN và của toàn xã hội; (iii) Tính pháp quyền: QLNN là quản lý
bằng pháp luật; QLNN về đào tạo NNLĐD cũng phải tuân thủ hành lang pháp lý mà Nhà nước đã quy định
cho mọi hoạt động quản lý về các hoạt động đào tạo NNLĐD; (iv) Tính chuyên môn nghiệp vụ: Nhà nước
quy định về tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ đối với công chức hoạt động trong lĩnh vực QLNN về đào tạo

NNLĐD và giảng viên trong hệ thống đào tạo NNLĐD là rất cần thiết; (v) Tính hiệu lực, hiệu quả: Lấy hiệu
quả của hoạt động chuyên môn-nghiệp vụ để đánh giá cán bộ công chức, viên chức liên quan đến QLNN và
hoạt động đào tạo NNLĐD.
- Một số đặc điểm của QLNN về đào tạo NNLĐD: (i) QLNN về đào tạo NNLĐD là một hoạt động
của QLNN, vì thế nó cũng mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức rất cao và tính mệnh lệnh đơn phương
của cơ quan có thẩm quyền QLNN, phải tuôn thủ thứ bậc chặt chẽ, cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương
phục tùng trung ương; (ii) QLNN về đào tạo NNLĐD vừa QLNN về hành chính, chuyên môn nghiệp vụ đào
tạo của cơ quan QLNN về GD&ĐT ở Trung ương vừa quản lý hành chính ở địa phương; (iii) QLNN về đào
tạo NNLĐD mang tính xã hội, bản chất của ngành y tế là nhân đạo, nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa
nên QLNN về đào tạo NNLĐD không có sự cách biệt giữa người quản lý và người bị quản lý, nhân đạo và
không vì lợi nhuận; (iv) QLNN về đào tạo NNLĐD cần hướng tới tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và giải
trình xã hội của các cơ sở đào tạo và sử dụng NNLĐD; (v) QLNN về đào tạo NNLĐD phải đảm bảo sự
thống nhất, phù hợp với yêu cầu của hệ thống y tế cả về quy mô, cơ cấu, chất lượng.
2.2.2. Sự cần thiết và vai trò quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
- Định hướng mục tiêu đào tạo NNLĐD đáp ứng yêu cầu của hệ thống y tế và nhu cầu xã hội:
Cơ quan QLNN ban hành các tiêu chuẩn, tiêu chí đối với NNLĐD là những nội dung để đảm bảo tính minh
bạch và công khai trong quá trình sử dụng NNLĐD, công bố cho toàn thể xã hội biết về yêu cầu sử dụng
nhân lực, có ý nghĩa định hướng để xác định mục tiêu đào tạo NNLĐD cho các cơ sở đào tạo và sử dụng
NNLĐD thực hiện, là cơ sở để kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo và sử dụng NNLĐD.
- Hỗ trợ và tạo điều kiện cho hoạt động đào tạo NNLĐD: QLNN về đào tạo NNLĐD có tính xã hội,
Nhà nước cần có các chủ trương, chính sách để hỗ trợ và tạo điều kiện cho hoạt động đào tạo NNLĐD như
cơ chế phối hợp giữa cơ sở đào tạo với cơ sở thực hành, hỗ trợ nguồn lực đầu tư, chính sách xã hội hóa để
tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân có điều kiện đầu tư cho đào tạo NNLĐD.
- Nâng cao chất lượng và phát huy vai trò của NNLĐD: Thông qua hoạt động QLNN, Nhà nước cần
có những chính sách cần thiết để việc đào tạo NNLĐD có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của hệ thống y tế và
tạo cơ hội cho người điều dưỡng sau khi được đào tạo được thể hiện đầy đủ năng lực và vai trò của mình
trong hoạt động CSSK nhân dân.
2.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
- Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch và kế hoạch đào tạo NNLĐD, bao gồm: (i)
Xây dựng khung cơ cấu NNLĐD trong cơ cấu nhân lực của hệ thống y tế; (ii) Xác định, đánh giá đúng thực

trạng đào tạo và phát triển NNLĐD; (iii) Xác định các mục tiêu và xu hướng đào tạo và phát triển NNLĐD
trước những yêu cầu nâng cao chất lượng NNL và hội nhập quốc tế; (iv) Xác định các giải pháp về đào tạo
và phát triển NNLĐD đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao về CSSK nhân dân.
- Xây dựng, ban hành và triển khai thể chế và chính sách đào tạo NNLĐD
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đó là cơ sở pháp lý để triển khai đào tạo NNLĐD, góp phần
phát triển NNLYT để hướng tới mục tiêu phát triển của ngành Y tế, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng
bảo vệ, CSSK nhân dân và hội nhập quốc tế. Hệ thống thể chế và chính sách liên quan đến điều dưỡng và
đào tạo NNLĐD phải mang tính tổng thể và đặc thù nghề nghiệp liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hoạt
động đào tạo bao gồm: hoạt động chuyên môn đối với NNLĐD, hoạt động đào tạo NNLĐD và chính sách


9
đãi ngộ, sử dụng NNLĐD. Việc xây dựng và ban hành các thể chế và chính sách về đào tạo NNLĐD cần
được thực hiện trên các nguyên tắc cơ bản sau đây: (i) Xác định đúng các vấn đề cấp thiết cần phải đặt ra
trong đào tạo NNLĐD; (ii) Mục tiêu phải rõ ràng, cụ thể, có tính khả thi; (iii) Đảm bảo độ tin cậy, tính khách
quan, bình đẳng và công bằng đối với các chủ thể liên quan đến hoạt động đào tạo NNLĐD; (iv) Các giải
pháp phù hợp, khả thi; (v) Kế hoạch triển khai cụ thể, kịp thời, đồng bộ, đảm bảo tính thống nhất.
- Tổ chức bộ máy, phát triển đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ giảng viên đào tạo NNLĐD
+ Tổ chức bộ máy quản lý đào tạo NNLĐD được thiết kế từ trung ương đến địa phương, bao gồm
hai nhóm quản lý là nhóm quản lý là các cơ quan QLNN từ trung ương đến tuyến tỉnh và nhóm quản lý là hệ
thống các CSĐT nhân lực để triển khai các nội dung của QLNN trong hoạt động đào tạo của CSĐT, đảm bảo
nguyên tắc: (i) cơ cấu tổ chức hợp lý trong một tổng thể thống nhất; (ii) có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng
tránh chồng chéo; (iii) đảm bảo kết hợp quản lý theo ngành, lĩnh vực và theo lãnh thổ.
+ Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo NNLĐD phải đảm bảo nguyên tắc: (i) xác định rõ cơ cấu
vị trí việc làm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của tổ chức; (ii) xác định rõ tiêu chuẩn, tiêu chí đối với từng
vị trí hoặc nhóm vị trí việc làm; (iii) khách quan, công khai, công bằng trong tuyển dụng, đề bạt, bổ nhiệm;
(iv) có các tiêu chí đánh giá và xếp loại cán bộ.
+ Phát triển đội ngũ giảng viên chuyên ngành đào tạo NNLĐD phải đảm bảo các yêu cầu: (i) có kỹ
năng sư phạm trong dạy - học lâm sàng; (ii) có chứng chỉ hành nghề và trực tiếp hoạt động nghề nghiệp tại
cơ sở thực hành; (iii) có cả những người đến từ các cơ sở thực hành, cơ sở y tế đến tham gia giảng dạy.

- Hỗ trợ và huy động các nguồn lực cho đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
Các nguồn lực đầu tư cho đào tạo NNLĐD phải phù hợp và đáp ứng được các yêu cầu để đảm bảo
chất lượng đào tạo. Việc huy động các nguồn lực thông qua nhiều phương thức khác nhau như: ngân sách
nhà nước, chế độ học phí phù hợp, các chương trình, dự án và huy động các nguồn lực thông qua xã hội hóa.
- Thanh tra, kiểm tra, giám sát và tổng kết, đánh giá về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý, nhằm mục đích đảm bảo bộ máy
quản lý vận hành theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của hoạt động QLNN. Thanh
tra, kiểm tra hoạt động đào tạo NNLĐD được tiến hành thường xuyên ở các cấp độ khác nhau, với nhiều
hình thức khác nhau. Tổng kết, đánh giá phải đảm bảo tính khách quan, trung thực, đồng bộ của toàn bộ hệ
thống đào tạo NNLĐD để rà soát việc thực hiện và điều chỉnh chính sách.
2.3. Những yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
2.3.1. Môi trường chính trị-hành chính và các chính sách của nhà nước
Hoạt động QLNN về đào tạo NNLĐD của Việt Nam phải phù hợp với các chủ trương, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam, phù hợp với hệ thống thể chế, chính sách của Nhà nước. Các chính sách liên quan
bao gồm các quy định về các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, hoạt động đào tạo và các chế độ đãi ngộ cho
ĐDV, các chính sách về khung trình độ, nội dung CTĐT. Nhà nước cần có chính sách phù hợp để đào tạo
phù hợp quy luật cung-cầu, thúc đẩy các CSĐT phải thường xuyên đổi mới để đảm bảo chất lượng đào tạo,
chính sách sử dụng đãi ngộ hợp lý để khuyến khích, thu hút ĐDV khi tham gia thị trường lao động.
2.3.2. Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế
Quá trình toàn cầu hóa về kinh tế và xã hội đã mang lại sự giao thoa và thậm chí không còn ranh giới
giữa các quốc gia ở nhiều góc độ, đặc biệt là vấn đề phát triển kinh tế, tiến bộ của khoa học kỹ thuật, công
nghệ thông tin và truyền thông, du lịch quốc tế và thương mại, sự tăng trưởng của các tập đoàn đa quốc gia
và dịch chuyển dân số, hình thành thị trường lao động tự do ở từng khu vực, mất đi ranh giới và khoảng cách
khi lây lan dịch bệnh và việc cung cấp các dịch vụ CSSK. Nhà nước có vị trí đặc biệt với vai trò vừa tạo ra
thách thức khi thay mặt nhân dân ký kết thỏa thuận với một nước khác hoặc một nhóm các nước, vừa xác


10
định được những yếu tố thuận lợi và khó khăn của xu hướng toàn cầu hóa, trên cơ sở đó tạo ra các chính
sách, thể chế phù hợp để NNL của nước mình có thể sẵn sàng và thậm chí là chủ động tham gia vào quá trình

hội nhập.
2.3.3. Sự phát triển của khoa học công nghệ và kỹ thuật
Trong xu thế phát triển và bùng nổ về ứng dụng những kỹ thuật cao và công nghệ trong lĩnh vực y tế
cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin đã tác động và làm thay đổi mạnh mẽ đến hoạt
động CSSK cũng như GD&ĐT NNLĐD. Nhà nước có vai trò định hướng thông qua việc thể chế hóa công
bố xác định những năng lực cần có của người ĐD về ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ. Đồng thời nhà
nước cần phải có cơ chế khuyến khích việc tham gia nghiên cứu và ứng dụng về khoa học ĐD để hoạt động
đào tạo và hoạt động chuyên môn về ĐD phải dựa trên các bằng chứng khoa học.
2.3.4. Sự biến động về dân số, thay đổi mô hình bệnh tật và yêu cầu chăm sóc sức khỏe
Với xu hướng già hóa dân số, sự thay đổi mô hình bệnh tật và yêu cầu nâng cao chất lượng CSSK,
Nhà nước cần xác định rõ hệ thống tổ chức, mô hình CSSK và cơ cấu nhân lực ĐD để có định hướng về đào
tạo NNLĐD đáp ứng được yêu cầu CSSK cho nhân dân.
2.3.5. Sự thiếu hụt và mất cân đối về cơ cấu nguồn nhân lực điều dưỡng
Trong mỗi quốc gia, tình trạng mất cân đối về cơ cấu NNLĐD cả về trình độ đào tạo cũng như mất
cân đối do việc phân bố giữa các vùng miền đang là một thách thức rất lớn. Nhà nước cần phải xác định
được mô hình đào tạo, quy mô, loại hình đào tạo phù hợp với từng trình độ và có chính sách điều tiết hợp lý
để cơ cấu nhân lực ĐD trong cơ sở y tế được đảm bảo, có như vậy mới có thể duy trì và nâng cao chất lượng
dịch vụ y tế, tạo cơ hội việc làm cho người mới tốt nghiệp, tránh gây những lãng phí xã hội.
2.3.6. Tính phức tạp và khó khăn trong thực hiện các quy trình chuyên môn, tiếp cận thực tiễn
nghề nghiệp và giáo dục đa ngành
Sự phát triển của khoa học công nghệ cùng với sự thay đổi về mô hình bệnh tật trong điều kiện
NNLĐD thiếu cả về số lượng, nhu cầu chăm sóc tăng cao, kiến thức, kỹ thuật chuyên môn được bổ sung
nhiều hơn, phức tạp hơn, số lượng bệnh nhân phải chăm sóc nhiều hơn, các bệnh mới nổi, diễn biến bệnh lý
phức tạp hơn, yêu cầu về CCHN, vấn đề nhân quyền và cơ chế làm việc đa ngành, theo ekip, ... làm gia tăng
tính phức tạp và khó khăn trong các quy trình chuyên môn và khó khăn trong việc tiếp cận thực tiễn chuyên
ngành. Cơ quan QLNN, ngoài việc công bố các chuẩn năng lực cần đạt được sau khi tốt nghiệp của người
ĐD thì cần có những quy định về kiểm định chương trình giáo dục, quy định và điều tiết về cơ sở thực hành
lâm sàng, tạo cơ hội cho sinh viên được tiếp cận sớm nhất với thực tế nghề nghiệp.
2.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng của một số nước và
giá trị tham khảo đối với Việt Nam

2.4.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng của một số nước
trên thế giới
- Nhật Bản
Nghề điều dưỡng và đào tạo điều dưỡng tại Nhật Bản hình thành ngay từ những năm cuối của thế kỷ
XIX. Ngay từ năm 1948, Nhật Bản đã ban hành Đạo luật về ĐD, ĐD cộng đồng và ĐD sản phụ khoa (Act on
Public Health Nurses, Midwives and Nurses). Năm 1951, Nhật Bản đã ban hành quy định về CSĐT ĐD.
Quy định này được ban hành bởi Bộ Giáo dục, Khoa học và Văn hoá và Bộ Y tế và Phúc lợi và đã qua nhiều
lần chỉnh sửa, cập nhật, bổ sung. Năm 1992, Nhật Bản đã ban hành Đạo luật về Đảm bảo NNL về ĐD và các
cán bộ y tế khác (Act on Assurance of Work Forces of Nurses and other Medical Personnel).
Luật về ĐD, ĐD cộng đồng và hộ sinh đã có những quy định để tạo điều kiện tối đa các cơ hội cho
người có nhu cầu để học và có thể hành nghề ngành ĐD. Nhật Bản đề ra chương trình và mô hình đào tạo ở


11
nhiều cấp độ khác nhau, kể cả qua hành nghề trợ lý ĐD/nhân viên chăm sóc với nhiều chương trình và
CSĐT khác nhau: cử nhân 3 hoặc 4 năm, thạc sĩ hoặc tiến sĩ.

2.1. Sơ đồ đào tạo và hành nghề ĐD Nhật Bản (nguồn: Bộ Y tế Nhật Bản)

Nguồn: Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi xã hội Nhật Bản
Ngoài các chương trình đào tạo chính quy, Hội ĐD Nhật Bản có vai trò quan trọng trong việc quy
định các chương trình đào tạo ngắn hạn, người học phải có giấy chứng nhận để phục vụ cho các lĩnh vực
khác nhau như: ĐD phẫu thuật, ĐD trẻ em, ĐD ung thư, ĐD tâm thần, chăm sóc giảm đau,...
- Hàn Quốc
Từ năm 1951 Hàn Quốc đã ban hành Đạo luật về dịch vụ y tế nhân dân (People’s Medical Service
Act) và Nghị định thi hành Đạo luật này (Enforcement decree of People’s Medical Service Act). Ngoài các
quy định về tiêu chuẩn, tiêu chí của các cơ sở y tế, hệ thống y tế. Đạo luật này đã được cập nhật và chỉnh sửa
nhiều lần với gọi mới là Medical Service Act (1962) và mới được cập nhật vào năm 2015. Theo quy định của
Luật năm 2015, kiểm định chất lượng giáo dục và hành nghề ĐD thuộc thẩm quyền của Hội đồng kiểm định
giáo dục ĐD thuộc Bộ Y tế và Phúc lợi Hàn Quốc. Chỉ những người tốt nghiệp và được cấp bằng cử nhân

mới được thi và cấp GPHN. Để được tham gia khóa học đại học, người học phải tốt nghiệp chương trình đào
tạo ĐD 3 năm và đã được cấp GPHN ĐD (ADN+RN).

Sơ đồ 2.1. Quy định về đào tạo và hành nghề điều dưỡng Hàn Quốc

Nguồn: Medical Service Act of Korea (MSA)-2015
- Philippines
Năm 1915, Đạo luật số 2493 (Act No. 2493) đã được ban hành sửa đổi Luật Y tế (Medical Law) để
quản lý hành nghề ĐD tại Philippines. Luật này quy định việc đăng ký của các ĐD tốt nghiệp. Giai đoạn này


12
chưa quy định việc phải thi mới được hành nghề. Vào tháng 4/1919, Đạo luật 2808 (Act 2008) để điều chỉnh
thực hành điều dưỡng ở Philippines đã được ban hành - được xác định là Luật chuyên ngành ĐD đầu tiên
của Philippines. Luật này quy định việc thành lập Hội đồng thi cho ĐD và lần đầu áp dụng vào năm 1920.
Đạo luật về hành nghề ĐD (An Act Regulating The Practice Of Nursing in the Philippines) tiếp tục được sửa
đổi vào các năm 1953, 1991 và mới đây nhất là năm 2002. Theo quy định, cơ quan quản lý nhân lực ĐD là
Hội đồng ĐD Philippines (the Nursing Board of Philippines). Ngoài các quy định về điều kiện hành nghề
ĐD tại Philippines còn quy định về các điều kiện chuyên môn trong giáo dục nhân lực ĐD như chương trình,
tiêu chuẩn giảng viên, tiêu chuẩn của Khoa ĐD trong cơ sở giáo dục, kiểm định chất lượng,... Đào tạo ĐD ở
Philippines có 3 trình độ là cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ.
- Thái Lan
Lịch sử ngành ĐD và đào tạo ĐD Thái Lan có từ rất sớm, trường đào tạo ĐD đầu tiên được thành lập
từ năm 1896. Tuy nhiên, phải đến năm 1975 lần đầu tiên Luật hành nghề ĐD của Thái Lan mới được ban
hành. Đồng thời, cũng trong năm 1975 Hội đồng ĐD Thái Lan được thành lập. Luật hành nghề ĐD Thái Lan
được chỉnh sửa năm 1997 và bổ sung về việc thi để cấp GPHN. Năm 1998, lần đầu tiên kỳ thi quốc gia để
cấp GPHN do Hội đồng ĐD Thái Lan tổ chức. Bên cạnh việc tổ chức thi để cấp GPHN, Hội đồng ĐD Thái
Lan còn có chức năng kiểm định chất lượng giáo dục ĐD ở các CSĐT nhân lực ĐD của Thái Lan. Chỉ
những người tốt nghiệp trình độ đại học trở lên mới được dự thi kỳ thi quốc gia để được cấp GPHN ĐD.
Hàng năm có 3 kỳ thi được tổ chức ở 6 địa điểm trên toàn quốc. GPHN chỉ trong phạm vi ĐD, hộ sinh hoặc

cả hai, có giá trị và được tái cấp trong 5 năm nếu trải qua khóa đào tạo chuyên môn liên tục tối thiểu 50 giờ.

Sơ đồ 2.2. Quy định về đào tạo và hành nghề điều dưỡng Thái Lan

Nguồn: Nujjaree Chaimongkol và Hội đồng Điều dưỡng Thái Lan
Hiện nay, ĐD của Thái Lan có trình độ tối thiểu là đại học với các loại văn bằng cử nhân, thạc sĩ và
tiến sĩ. Chỉ những người tốt nghiệp và được cấp bằng cử nhân mới đủ điều kiện để thi và cấp GPHN.
Chương trình đào tạo cử nhân gồm 4 năm. Sau tốt nghiệp được cấp bằng với chức danh cử nhân khoa học
ĐD (Bacherlor of Nursing Science). Chương trình đào tạo thạc sĩ ĐD gồm 2 năm. Sau tốt nghiệp được cấp
bằng thạc sĩ khoa học ĐD (Master of Nursing Science). Chương trình đào tạo thạc sĩ được đào tạo có các chủ
đề khác nhau. Chương trình đào tạo tiến sĩ được thực hiện trong 3 năm. Có 2 loại chương trình đào tạo để
được cấp 2 loại bằng khác nhau (tạm dịch): tiến sĩ nghiên cứu (Doctor of Philosophy) hoặc tiến sĩ thực hành
(Doctor of Nursing Practice - DNP). Ngoài ra, Thái Lan còn có các chương trình đào tạo chuyên khoa và
được cấp chứng chỉ với thời gian từ vài tháng đến một năm về các lĩnh vực: ĐD cộng đồng (Community
Nursing), ĐD người già (Elderly Nursing), ĐD nhi khoa (Pediatric Nursing), ĐD người lớn (Adult Nursing).
2.4.2. Những giá trị tham khảo đối với Việt Nam
Một là, nghề ĐD là một nghề độc lập có những đặc thù rất riêng biệt, quá trình hoạt động chuyên
môn thường xuyên tiếp xúc với con người mà trong đó đại đa số là những người có vấn đề về sức khỏe, cần


13
được quan tâm chăm sóc. Chính vì vậy, với tính đặc thù cao của đào tạo NNLĐD cần phải có những quy
định, tiêu chuẩn, tiêu chí rất khắt khe, chặt chẽ, quá trình đào tạo phải gắn liền với quá trình thực hành nghề
nghiệp và là một quá trình liên tục, bao gồm từ đào tạo cơ bản đến đào tạo chuyên sâu.
Hai là, cần phải có hệ thống thể chế riêng cho nghề ĐD nói chung và đào tạo NNLĐD nói riêng. Hệ
thống thể chế xác định rõ các yêu cầu về NNLĐD bao gồm: cơ cấu nhân lực và các trình độ đào tạo, tiêu
chuẩn năng lực chuyên môn nghề nghiệp của người ĐD; các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo, tiêu
chuẩn, tiêu chí kiểm định chất lượng đào tạo dựa trên nguyên tắc hướng tới đánh giá kết quả đầu ra; quy định
về kỳ thi quốc gia và cấp CCHN, các điều kiện về hành nghề và các chế độ, chính sách sử dụng NNLĐD.
Ba là, hệ thống bộ máy quản lý được thiết kế đồng bộ, xác định rõ vai trò của từng cơ quan QLNN

đối với đào tạo NNLĐD, trong đó việc ban hành các quy định và tổ chức đánh giá, kiểm định chất lượng, tổ
chức kỳ thi quốc gia để cấp CCHN do một tổ chức độc lập thực hiện.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Đội ngũ ĐDV chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu NNLYT. Chính vì vậy, QLNN về đào tạo NNLĐD là
một nội dung rất quan trọng góp phần nâng cao chất lượng NNLYT. Chất lượng NNLYT đảm bảo sẽ góp
phần đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng dịch vụ y tế. Chương 2 của luận án đã nghiên cứu những
vấn đề cơ bản cả về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn QLNN về đào tạo NNLĐD để đưa ra khung lý thuyết
QLNN về đào tạo NNLĐD ở Việt Nam, làm cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo của luận án, cụ thể:
- Đưa ra những khái niệm liên quan đến đào tạo NNLĐD trong đó có các khái niệm điều dưỡng, đào
tạo NNLĐD và QLNN về đào tạo NNLLĐD để thống nhất cách tiếp cận giữa Việt Nam và các nước trong
xu hướng hội nhập quốc tế;
- Nghiên cứu và xác định về nội dung QLNN đào tạo NNLĐD bao gồm các hoạt động: xây dựng và
thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; xây dựng và thực hiện thể chế, chính sách; tổ chức bộ máy, đội
ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ giảng viên; thanh tra, kiểm tra và tổng kết, đánh giá về đào tạo NNLĐD;
- Nghiên cứu và xác định các yếu tố tác động đến QLNN về đào tạo NNLĐD trong xu hướng hội
nhập quốc tế và trong những điều kiện cụ thể của Việt Nam và xác định vai trò của cơ quan QLNN để có
những chính sách phù hợp đối với những yếu tố tác động đó;
- Nghiên cứu kinh nghiệm QLNN đào tạo điều dưỡng ở một số nước trên thế giới bao gồm Nhật
Bản, Hàn Quốc, Philippines và Thái Lan là những nước có những đặc điểm gần với điều kiện của Việt Nam
hoặc có nhiều quan hệ hợp tác về đào tạo NNLĐD với Việt Nam, thông qua đó rút ra những nội dung có thể
tham khảo và áp dụng ở Việt Nam.


14

Chương 3
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC ĐIỀU DƯỠNG Ở VIỆT NAM
3.1. Khái quát quá trình phát triển ngành điều dưỡng ở Việt Nam
Ngành điều dưỡng Việt Nam hình thành và phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của đất nước.

Sau Cách mạng tháng Tám, lớp y tá đầu tiên được đào tạo 6 tháng do Giáo sư Đỗ Xuân Hợp làm Hiệu
trưởng được tổ chức tại Quân khu Việt Bắc. Tại miền Bắc, năm 1954 Bộ Y tế đã xây dựng CTĐT y tá sơ cấp
hoàn chỉnh để bổ túc cho số y tá đào tạo cấp tốc trong chiến tranh. Ở miền Nam, năm 1970 Hội Điều dưỡng
Việt Nam được thành lập. Về đào tạo, năm 1985 Bộ Y tế được Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp
đồng ý cho mở khoá đào tạo đại học ĐD đầu tiên tại Trường Đại học Y Hà Nội và Đại học Y Dược thành
phố Hồ Chí Minh nhưng mới chỉ là hệ tại chức. Đây là mốc lịch sử quan trọng trong lĩnh vực đào tạo ĐD ở
nước ta. Năm 1995, khóa đào tạo trình độ đại học ĐD hệ chính quy được chính thức tuyển sinh tại Trường
Đại học Y Hà Nội và Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 26/10/1990 Hội Y tá-Điều dưỡng Việt
Nam (nay là Hội Điều dưỡng Việt Nam) được thành lập với người Chủ tịch Hội đầu tiên là bà Vi Thị Nguyệt
Hồ. Trải qua hơn 25 năm xây dựng và phát triển, Hội Điều dưỡng Việt Nam luôn gắn bó và đồng hành với
sự phát triển của ngành ĐD, đã trở thành một tổ chức đại diện cho tiếng nói của hội viên là đông đảo ĐDV
trên cả nước.
3.2. Khái quát thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡn ở Việt Nam
3.2.1. Thực trạng xây dựng và triển khai chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đào tạo nguồn nhân
lực điều dưỡng
- Thực trạng xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đào tạo NNLĐD
Trong thời gian qua, nhiều chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đã được xây dựng, ban hành để hướng
dẫn và triển khai thực hiện về GD&ĐT và y tế nói chung, về đào tạo NNLĐD nói riêng.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 đã được Đại hội Toàn quốc lần thứ XI của
Đảng thông qua trong đó xác định một trong ba khâu đột phá là phát triển nhanh NNL, nhất là NNL chất lượng
cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển NNL với
phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
Chiến lược phát triển nhân lực giai đoạn 2011-2020 đã xác định mục tiêu: mục tiêu tổng quát phát
triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 là đưa nhân lực Việt Nam trở thành nền tảng và lợi thế quan
trọng nhất để phát triển bền vững đất nước, hội nhập quốc tế và ổn định xã hội.
Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 đã xác định mục tiêu: đổi mới căn bản và toàn diện theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; chất lượng giáo dục được nâng
cao một cách toàn diện. Hoàn thiện cơ cấu hệ thống giáo dục nghề nghiệp và đại học; điều chỉnh cơ cấu
ngành nghề và trình độ đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu nhân lực, nâng cao chất lượng
đào tạo, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội.

Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011-2020, tầm
nhìn đến năm 2030 cũng đã nêu rõ: phát triển nguồn nhân lực y tế cả về số lượng và chất lượng; mở rộng đào
tạo điều dưỡng trình độ đại học, cao đẳng, tiến tới đạt cơ cấu hợp lý giữa bác sỹ và điều dưỡng.
Khung cơ cấu giáo dục quốc dân đã được Thủ tướng Chính phủ theo Quyết định số 1981/QĐ-TTg
ngày 18/10/2016, trong đó giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ GD&ĐT và Bộ Lao động, Thương binh và
Xã hội triển khai Khung cơ cấu giáo dục quốc dân trong lĩnh vực y tế.


15
Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006-2020 đã nêu rõ: phát triển mạng
lưới các trường đại học, cao đẳng phải phù hợp với chiến lược phát triển và điều kiện kinh tế - xã hội, gắn
với từng vùng, từng địa phương; xây dựng cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo, bố trí theo vùng miền hợp lý.
Quy hoạch phát triển NNL Việt Nam đã xác định: chỉ ra được nhu cầu về số lượng, cơ cấu và trình
độ nhân lực. Quy hoạch phát triển nhân lực y tế giai đoạn 2012-2020 đã nêu: phát triển nhân lực y tế đảm
bảo đủ về số lượng, chất lượng, cơ cấu, phân bố hợp lý theo tuyến, ngành/lĩnh vực, vùng miền.
Quyết định số 1215/QĐ-BYT ngày 12/5/2013 về việc phê duyệt Chương trình hành động quốc gia
về tăng cường công tác Điều dưỡng-Hộ sinh, giai đoạn từ nay đến năm 2020 đã xác định rõ chức năng, vai
trò của người ĐD trong cơ cấu NLYT: ĐDV là lực lượng trực tiếp CSSK cho người dân ở cộng đồng và
trong các cơ sở y tế. Người ĐD cần phải được đào tạo với một chương trình phù hợp theo chuẩn năng lực
nghề nghiệp do Bộ Y tế ban hành.
Như vậy có thể thấy, xuyên suốt trong tất cả các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch đã ban hành, vai
trò của đào tạo và phát triển NNL đối với phát triển kinh tế - xã hội là rất quan trọng. Mục tiêu của đào tạo
NNLĐD nói riêng là sản phẩm sau đào tạo phải có đủ năng lực đáp ứng được yêu cầu của xã hội là nâng cao
chất lượng bảo vệ, CSSK nhân dân và hội nhập quốc tế, qua đó góp phần nâng cao chất lượng NNL xã hội.
- Thực trạng triển khai chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đào tạo NNLĐD
Thứ nhất, về cơ cấu nhân lực và mô hình đào tạo điều dưỡng ở Việt Nam hiện nay
Đào tạo ĐD Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó có một thời gian dài chỉ đào tạo
trình độ sơ cấp và trung cấp. Trong quá trình hội nhập quốc tế, nhiều ĐDV đã được tham gia các khóa đào
tạo sau đại học tại nước ngoài. Chính vì vậy, trong cơ cấu NLĐD của Việt Nam hiện nay có 6 trình độ: sơ
cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học, thạc sĩ hoặc chuyên khoa 1 và tiến sĩ. Tuy nhiên, về các chương trình và

trình độ đào tạo hiện nay có 4 trình độ: trung cấp, cao đẳng, đại học, thạc sĩ hoặc chuyên khoa 1. Với mô
hình đào tạo hiện nay của Việt Nam, chưa phân biệt được sự cần thiết và khác biệt giữa các trình độ, loại
hình đào tạo khi chỉ có một tên gọi chung là “điều dưỡng” cho tất cả các chương trình và trình độ đào tạo.
Để có cơ sở cho các CSĐT xác định chuẩn đầu ra, Bộ Y tế đã ban hành chuẩn năng lực cơ bản người
ĐD Việt Nam theo Quyết định số 1352/QĐ-BYT ngày 21/4/2012 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Tuy nhiên, hiện
nay chưa có bộ tiêu chí đánh giá chuẩn năng lực ĐD.
Thứ hai, về quy hoạch mạng lưới cơ sở đào tạo điều dưỡng ở Việt Nam
Như trên đã nêu, quy hoạch đào tạo và phát triển NNLĐD đã được xác định trong nhiều văn bản của
Chính phủ, Bộ GD&ĐT, Bộ Y tế và các cơ quan liên quan. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chưa có sự
thống nhất về quan điểm và cách tiếp cận giữa cơ quan QLNN về GD&ĐT với cơ quan QLNN chuyên
ngành dẫn đến thực trạng mất cân đối rất lớn cả về phát triển mạng lưới các CSĐT và quy mô đào tạo điều
dưỡng theo trình độ, vùng miền, không phù hợp với nhu cầu sử dụng NNLĐD của ngành.
Hiện nay cả nước có 119 cơ sở tham gia đào tạo ĐD trình độ trung cấp, sự gia tăng chỉ tập trung vào
các CSĐT ngoài công lập với 57 CSĐT; có 62 cơ sở tham gia đào tạo trình độ cao đẳng với 22 CSĐT ngoài
công lập; có 24 cơ sở tham gia đào tạo trình độ đại học với 10 CSĐT ngoài công lập. Sự phát triển nhanh của
các CSĐT ngoài công lập là kết quả của việc thực hiện chủ trương xã hội hóa trong GD&ĐT. Chính vì vậy,
các trường ngoài công lập đào tạo ĐD tập trung chủ yếu ở các khu vực có các đô thị lớn là Đồng bằng sông
Hồng (có thành phố Hà Nội) với 21 CSĐT, miền Trung (có thành phố Đà Nẵng) với 19 CSĐT và Đông Nam
Bộ (có thành phố Hồ Chí Minh) với 32 CSĐT. Về đào tạo sau đại học, đến nay mới chỉ có 3 CSĐT là
Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định, Trường Đại học Y Dược Huế và Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
Thứ ba, về quy mô đào tạo điều dưỡng ở Việt Nam
Quy mô đào tạo NNLĐD có sự gia tăng nhanh chóng với khoảng 210000 chỉ tiêu giai đoạn 20102015. Quy mô đào tạo NNLĐD có sự mất cân đối giữa các trình độ, trong đó trình độ trung cấp vẫn chiếm tỷ


16
lệ cao (khoảng 50%). Theo Thông tư liên tịch số 26/2015/TTLT-BYT-BNV ngày 07/10/2015 giữa Bộ Y tế
và Bộ Nội vụ từ 01/01/2021 sẽ không tuyển mới ĐDV trình độ trung cấp, từ 01/01/2025 sẽ không còn chức
danh ĐDV trình độ trung cấp. Theo Quy hoạch hệ thống khám bệnh, chữa bệnh, đến năm 2020 Việt Nam dự
kiến cần khoảng 225.000 ĐDV, cần tuyển mới khoảng 100.000 ĐDV. Nếu thực hiện theo Thông tư liên tịch
nói trên, trường hợp số ĐD tốt nghiệp trình độ đại học và cao đẳng được tuyển hết (khoảng 84.000), thì số

ĐD tốt nghiệp trình độ trung cấp có cơ hội việc làm là khoảng 16.000. Trong khi đó, tổng chỉ tiêu tuyển sinh
ĐD trình độ trung cấp giai đoạn 2010-2015 là trên 133.000. Như vậy, nếu tạm dừng tuyển sinh từ năm 2016
sẽ vẫn thừa khoảng 117.000 chỉ tiêu ĐD trình độ trung cấp.
Thứ ba, thực trạng nguồn nhân lực điều dưỡng ở Việt Nam hiện nay
- Quy mô và phân bố nguồn nhân lực điều dưỡng theo vùng miền
Kết quả điều tra năm 2015 của tác giả và nhóm nghiên cứu cho thấy có sự khác nhau về quy mô điều
dưỡng và tỷ lệ điều dưỡng/đầu dân giữa các vùng kinh tế trên cả nước. Trong đó tỷ lệ điều dưỡng/đầu dân
của cả nước là 1/728; vùng kinh tế có tỷ lệ điều dưỡng/dân số cao nhất là Đồng bằng Sông Hồng (1/610) và
Đông Nam Bộ (11/642), thấp nhất là Tây Nguyên (1/963) và Đồng bằng sông Cửu Long (1/976). Số liệu trên
cho thấy quy mô và phân bố NNLĐD ở các vùng kinh tế-xã hội khó khăn thấp hơn các vùng kinh tế-xã hội
phát triển
Cũng theo kết quả điều tra năm 2015, tỷ lệ điều dưỡng/bác sỹ trên cả nước theo là 2. Tỷ lệ này lần
lượt tại các vùng là: Trung du và miền núi Bắc Bộ: 1,6; Tây Nguyên: 1,7; Đông Nam bộ: 2,2; Đồng bằng
sông Hồng và Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung đều là 2,3. Tuy nhiên, khu vực Bắc Trung bộ và
Duyên hải miền Trung cũng là khu vực tương đối khó khăn nhưng vẫn có tỷ lệ điều dưỡng/bác sỹ cao nhất.
Điều này cho thấy, việc tuyển dụng không hoàn toàn phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội
Về tỷ lệ điều dưỡng/bác sĩ của các bệnh viện, viện tuyến Trung ương là 2,1. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ
điều dưỡng/bác sĩ tại các bệnh viện, viện tuyến Trung ương ở khu vực Trung du và miền núi phía Bắc còn
thấp khi chỉ đạt 1,6 do điều kiện kinh tế-xã hội còn khó khăn, thì tỷ lệ điều dưỡng/bác sĩ tại vùng Đông Nam
bộ là nơi có điều kiện kinh tế-xã hội phát triển cao nhất cả nước vẫn chỉ đạt 1,8 là một vấn đề cần quan tâm.
Với chức năng là bệnh viện, viện tuyến cuối, tỷ lệ này cho thấy các bệnh viện, viện Trung ương chưa thực sự
chú trọng nâng cao trình độ cho người điều dưỡng
- Cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực điều dưỡng
Kết quả khảo sát năm 2015 cho thấy, ĐDV tại các địa phương có trình độ trung cấp chiếm tỷ lệ cao
nhất 76,3% trong đó 8,8% làm việc ở khu vực ngoài công lập, đứng sau là tỷ lệ cao đẳng 10,2% và đại học
9,2%. Ở các bệnh viện tuyến trung ương tỷ lệ trình độ trung cấp là 71,58%, cao đẳng là 10,96% và đại học là
15,71%. Tính chung cả nước, tỷ lệ ĐD trình độ trung cấp vẫn chiếm đa số với 75,91%. Đây là thực trạng mà
chính sách tuyển dụng và yêu cầu cơ cấu NNLĐD cần được xem xét, điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu
chuyên môn và phù hợp với lộ trình hội nhập ASEAN.
3.2.2. Thực trạng xây dựng, ban hành và thực hiện thể chế, chính sách đào tạo nguồn nhân lực

điều dưỡng ở Việt Nam
3.2.2.1. Thể chế về hoạt động nghề nghiệp, sử dụng và đãi ngộ
Luật KB, CB thông qua năm 2009 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2011. Một trong những điểm đặc
biệt quan trọng trong quy định của Luật là vấn đề quy định về cấp chứng chỉ hành nghề đối với nhân lực hệ
KB, CB trong đó có ĐD (Điều 17), văn bằng để cấp chứng chỉ hành nghề (Điều 18). Sau khi tốt nghiệp và
được cấp bằng, người ĐDV muốn được cấp chứng chỉ hành nghề phải trải qua thời gian 9 tháng thực hành
tại cơ sở y tế và được xác nhận của thủ trưởng cơ sở y tế (Điều 24).


17
Thông tư số 07/2011/TT- BYT ngày 26/01/2011 đã quy định rõ 12 nhiệm vụ của ĐD trong công tác
chăm sóc người bệnh tại bệnh viện (Chương II). Đây là những nội dung cốt lõi của hoạt động ĐD trong cơ
sở y tế, làm cơ sở xác định những năng lực cần có của người ĐD, là cơ sở để các CSĐT xác định xem sản
phẩm đào tạo đã đáp ứng được yêu cầu của hệ thống y tế hay chưa. Thông tư cũng quy định rõ cơ sở KB, CB
phải xác định rõ nhu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ đối với người ĐD theo quy định tại Thông tư liên
tịch số 08/2007/TTLT-BYT-BNV ngày 05/6/2007 của Bộ trưởng Bộ Y tế và Bộ trưởng Bộ Nội vụ và đáp
ứng yêu cầu Thỏa thuận công nhận dịch vụ chăm sóc đã được Chính phủ ký kết với các nước ASEAN ngày
08/12/2006 (Điều 17 và Điều 18).
Ngày 15/11/2010 Luật Viên chức ra đời. Một trong những quy định của Luật Viên chức là các tổ
chức sử dụng viên chức phải mô tả và xác định vị trí việc làm (Điều 7) và quy định về hạng viên chức và tiêu
chuẩn chức danh nghề nghiệp của hạng viên chức (Điều 9). Ngày 07/10/2015, Bộ Y tế và Bộ Nội vụ đã ban
hành Thông tư liên tịch số 26/2015/TTLT-BYT-BNV quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp
điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật y. Thông tư đã quy định từ ngày 01/01/2021 sẽ không tuyển mới ĐDV có trình
độ trung cấp và từ ngày 01/01/2025 sẽ chuẩn hóa tối thiểu là trình độ cao đẳng đối với ĐDV.
3.2.2.2. Thể chế về hoạt động và tổ chức đào tạo
Luật Giáo dục 1998 đã được chỉnh sửa, bổ sung vào các năm 2005 và 2009, Luật Giáo dục đại học
ban hành năm 2012 và Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014 và các văn bản hướng dẫn đã có những quy
định về về hoạt động đào tạo. Tuy nhiên, các quy định về đào tạo NNLĐD vẫn còn nhiều bất cập.
Thể chế về mở ngành đào tạo
Thông tư số 08/2011/TT-BGDĐT ngày 17/02/2011 của Bộ GD&ĐT quy định về điều kiện, hồ sơ,

quy trình mở ngành đào tạo trình độ đại học, trình độ cao đẳng và Thông tư số 52/2011/TT-BGDT ngày
11/11/2011 quy định về điều kiện, hồ sơ, quy trình mở ngành đào tạo, đình chỉ tuyển sinh, thu hồi quyết định
mở ngành đào tạo trình độ trung cấp chuyên nghiệp chỉ quy định chung cho tất cả các ngành đào tạo, chưa
phù hợp với đặc thù đào tạo NNLĐD: (i) Quy định chung về điều kiện giảng viên là “ít nhất 1 tiến sỹ và 3
thạc sỹ đúng ngành đăng ký” đối với đào tạo trình độ đại học hoặc “ít nhất 4 thạc sỹ đúng ngành đăng ký”
đối với đào tạo trình độ cao đẳng. Quy định này là không phù hợp khi thực tế Việt Nam chưa có cơ sở nào
đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ ĐD; (ii) Về quản lý giảng viên, do việc xác định năng lực của các trường chỉ dựa trên
hồ sơ đăng ký mà chưa có phần mềm quản lý chung trong cả hệ thống đã dẫn đến thực trạng là một giảng
viên có thể đăng ký tên ở nhiều cơ sở giáo dục; (iii) Chưa có quy định giảng viên chuyên ngành phải có
chứng chỉ hành nghề và làm việc thường xuyên tại cơ sở thực hành, điều kiện của cơ sở thực.
Thể chế về xác định chỉ tiêu đào tạo
Thông tư số 57/2011/TT-BGDĐT ngày 02/12/2011 của Bộ GD&ĐT quy định về xác định chỉ tiêu
tuyển sinh dựa trên tỷ lệ giảng viên/sinh viên. Tuy nhiên, việc xác định chỉ tiêu không quy định xác định
theo từng ngành đào tạo. Ngày 16/12/2015, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ban hành Thông tư số 32/2015/TTBGDĐT quy định về xác định chỉ tiêu tuyển sinh dựa vào năng lực theo khối ngành đào tạo. Tổng chỉ tiêu
đào tạo không dựa trên nhu cầu theo Quyết định số 816/QĐ-BYT ngày 16/3/2012 phê duyệt quy hoạch phát
triển NNLYT đến năm 2020 của Bộ Y tế.
Thể chế về đảm bảo chất lượng đào tạo
Luật Giáo dục về kiểm định chất lượng giáo dục, Bộ GD&ĐT đã có những quy định khung về đảm
bảo và kiểm định chất lượng giáo dục nhưng chưa có các bộ tiêu chí đánh giá cụ thể cho từng ngành trong đó
có ngành điều dưỡng. Việc giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục chưa đi liền với cơ chế thanh tra, kiểm
tra sẽ khó kiểm soát chất lượng. Thông tư số 33/2014/TT-BGDĐT ngày 02/10/2014 quy định tiêu chuẩn
đánh giá chất lượng CTĐT ĐD trình độ đại học, cao đẳng nhưng không có những hướng dẫn cụ thể.


18
Luật Giáo dục nghề nghiệp ra đời năm 2014, QLNN về giáo dục nghề nghiệp do Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội quản lý. Thực trạng này tạo ra sự chồng chéo và chưa có sự thống nhất trong việc
triển khai thực hiện, việc kiểm soát cả về chất lượng và số lượng đào tạo NNLĐD là một thách thức rất lớn.
3.2.3. Thực trạng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên đào tạo nguồn nhân lực
điều dưỡng ở Việt Nam

- Về tổ chức bộ máy và cán bộ quản lý
Tổ chức bộ máy quản lý đào tạo NNLĐD đã được thiết kế đồng bộ từ các cơ quan QLNN đến các
CSĐT, từ trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, vẫn còn một số những vấn đề bất cập: (i) Có những vấn đề
còn đan xen, chồng chéo do chịu sự tác động về chỉ đạo điều hành trong hoạt động đào tạo của cả Bộ
GD&ĐT và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội; (ii) Thẩm quyền quản lý về đào tạo NNLĐD của Bộ Y tế
và ủy ban nhân dân cấp tỉnh còn hạn chế, chưa có sự đồng thuận giữa cơ quan QLNN chuyên ngành với cơ
quan QLNN về GD&ĐT; (iii) Đội ngũ cán bộ quản lý tại các cơ quan QLNN ở trung ương chưa được quan
tâm, phát triển; (iv) Tổ chức bộ máy quản lý tại các CSĐT vẫn chưa hoàn thiện, hầu hết các CSĐT công lập
chưa thành lập hội đồng trường, các cán bộ quản lý tại các CSĐT chưa được đào tạo và tập huấn về quản lý.
- Về đội ngũ giảng viên giảng dạy điều dưỡng
Giảng viên điều dưỡng là bác sĩ vẫn chiếm tỷ lệ cao tới 52,15%. Giảng viên chuyên ngành khác của
các trường ngoài công lập là 44,54% là quá cao khi tỷ lệ khối kiến thức chung của CTĐT chỉ chiếm khoảng
22-25%. Tỷ lệ giảng viên có độ tuổi ≤ 30 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất, trong đó các trường công lập (45,93%)
cao hơn các trường ngoài công lập (34,76%); tỷ lệ độ tuổi >51 ở các trường công lập (6,89%) thấp hơn các
trường ngoài công lập (16,87%). Các số liệu trên cho thấy, các CSĐT đã chú trọng tuyển mới để đảm bảo
tính kế thừa.
3.2.4. Thực trạng hỗ trợ và huy động các nguồn lực cho đào tạo NNLĐD ở Việt Nam
Trong điều kiện kinh tế-xã hội còn nhiều khó khăn, các nguồn lực đầu tư từ nguồn ngân sách nhà
nước còn nhiều hạn chế, Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ và huy động nguồn lực trong và ngoài
nước đầu tư cho đào tạo NNLĐD. Đối với các CSĐT công lập, Chính phủ đã có sự phân cấp quản lý và đầu
tư để huy động cả kinh phí trung ương và địa phương. Ở cấp trung ương, Chính phủ đã ký kết các chương
trình, dự án cho đào tạo NNLĐD như: Dự án Nâng cao năng lực giảng dạy đại học ĐD giai đoạn 2006-2010
từ nguồn kinh phí của tổ chức Nuffic; Dự án hỗ trợ đào tạo ĐD dạy-học theo năng lực do AP và QUT tài
trợ; Chương trình nâng cao năng lực nguồn nhân lực y tế giai đoạn 2006-2010 do Chính phủ Hà Lan tài trợ...
Các địa phương cũng đã huy động đầu tư để nâng cấp 35 trường trung cấp thành trường cao đẳng y
tế. Thành phố Hồ Chí Minh đầu tư 100 tỷ đồng cho Bệnh viện mô phỏng và Trung tâm huấn luyện kỹ năng.
Bên cạnh đó, Nhà nước đã có nhiều chính sách để thu hút đầu tư từ các nguồn lực của xã hội theo
chủ trương xã hội hóa, từ năm 2005 đến nay nhiều CSĐT ngoài công lập đã tham gia đào tạo NNLĐD.
Về chế độ đãi ngộ cho ĐDV vẫn còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với đặc điểm nghề nghiệp và khó
thu hút ĐDV về làm việc ở y tế cơ sở, vùng sâu, vùng xa.

3.2.5. Thực trạng thanh tra, kiểm tra và tổng kết, đánh giá về đào tạo NNLĐD ở VN
Theo quy định hiện hành, việc thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động đào tạo thuộc chức năng của Bộ
GD&ĐT, đối với hoạt động nghề nghiệp thuộc Bộ Y tế và đối với chính sách sử dụng, đãi ngộ thuộc Bộ Nội
vụ. Đối với Bộ GD&ĐT, do số lượng các CSĐT quá nhiều nên việc thanh tra, kiểm tra chỉ thực hiện lồng
ghép theo kế hoạch hoặc chuyên đề tại các CSĐT mà không có chuyên đề về đào tạo NNLĐD. Đối với Bộ Y
tế, do không có chức năng thanh tra chuyên ngành nên việc tổ chức thanh tra, kiểm tra liên quan đến đào tạo
NNLĐD cũng còn hạn chế. Bộ Nội vụ cũng chỉ triển khai các kế hoạch thanh tra, kiểm tra tổng thể chung về
tổ chức biên chế, công vụ, công chức mà không có chuyên đề đối với chế độ, chính sách đối với NNLĐD.


19
Trong giai đoạn từ năm 2010 đến nay mới tổ chức được một Hội nghị chuyên đề ở quy mô toàn
quốc, một đợt giám sát chéo giữa các cơ sở đào tạo trình độ cao đẳng, trung cấp cả nước do Bộ Y tế tổ chức.
3.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng ở Việt Nam
3.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
- Kết quả đạt được trong quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng ở Việt Nam
Thứ nhất, hệ thống chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về đào tạo NNLĐD đã được xây dựng thống
nhất và đồng bộ từ các văn kiện của Đảng, Chính phủ đến các chương trình, kế hoạch của Bộ Y tế và Bộ
GD&ĐT. Mô hình đào tạo đã thể hiện được các ưu điểm: (i) Xác định đào tạo điều dưỡng có 4 bậc, có tính
liên thông giữa các trình độ, tạo cơ hội học tập suốt đời và phát triển nghề nghiệp; (ii) Nếu chỉ học trình độ
trung cấp, người học được tiếp cận thị trường lao động sớm, đáp ứng nhanh nhu cầu cung cấp nhân lực cho
hệ thống y tế.
Thứ hai, hệ thống thể chế về GD&ĐT đã được ban hành với số lượng rất lớn, luôn được chỉnh sửa,
bổ sung, cập nhật để phù hợp với sự phát triển của đất nước. Hệ thống thể chế đào tạo NNLĐD đã được đề
cập đầy đủ ở các phạm vi liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động đào tạo, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của
thực tiễn khách quan. Hệ thống thể chế này được xây dựng dựa trên nguyên tắc, định hướng cơ bản về tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Thứ ba, cùng với hệ thống các văn bản tác động trực tiếp đến hoạt động đào tạo điều dưỡng, Luật
KB, CB và Luật Viên chức có vai trò tác động gián tiếp nhưng lại là mục tiêu, định hướng của hoạt động đào
tạo. Sản phẩm của đào tạo nhân lực điều dưỡng nếu đáp ứng được yêu cầu của hệ thống y tế, phù hợp với

từng vị trí việc làm trong hệ thống sẽ góp phần củng cố và gia tăng sức mạnh của hệ thống y tế.
Thứ tư, để đảm bảo cơ cấu NNL, việc đầu tư phát triển cho các CSĐT để có đủ năng lực và mở rộng
quy mô đào tạo điều dưỡng trình độ cao đẳng, đại học đã góp phần nâng cao chất lượng NNLĐD, từ đó đã
góp phần nâng cao chất lượng CSSK nhân dân.
Thứ năm, nhân lực điều dưỡng đã được xác định rõ chức năng, vai trò và nhiệm vụ trong hoạt động
CSSK, vị trí việc làm ở tất cả các tuyến chuyên môn y tế. Tiêu chuẩn chức danh viên chức nghề nghiệp điều
dưỡng đã được xác định, tạo động lực cho người điều dưỡng có động cơ làm việc và phấn đấu vươn lên.
- Nguyên nhân đạt được các kết quả
+ Những quan điểm đúng đắn và sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Bộ Y tế, Bộ GD&ĐT,
các bộ, ngành liên quan cũng như sự đồng thuận của các CSĐT.
+ Các nguồn ngân sách đầu tư cho đào tạo và phát triển NNLĐD từng bước được tăng lên, đa dạng
hoá các nguồn đầu tư, từ đó tạo điều kiện cho các CSĐT được tăng cường về cơ sở vật chất và trang thiết bị.
+ Với những chính sách, chương trình, dự án để định hướng về đào tạo NNLĐD của Việt Nam tiếp
cận được với những xu hướng, mô hình đào tạo mới của thế giới.
3.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
- Những hạn chế của quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
Thứ nhất, việc xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch vẫn còn thiếu tính kịp thời và có sự
chưa đồng bộ. Khung cơ cấu nhân lực điều dưỡng chưa được xây dựng và ban hành, chưa xác định rõ nhu
cầu nhân lực điều dưỡng theo từng trình độ và chuyên ngành đào tạo. Mô hình đào tạo chưa đảm bảo tính hội
nhập và có một số bất cập. Việc triển khai thực hiện quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo và quy mô đào
tạo chưa có sự kiểm soát dẫn đến mất cân đối về cơ cấu, chưa phù hợp nhu cầu sử dụng và chất lượng NNL.
Thứ hai, hệ thống thể chế đào tạo NNLĐD chưa thể hiện được đầy đủ và triệt để quan điểm, đường
lối phát triển và hội nhập của Đảng và Nhà nước, chưa đảm bảo đầy đủ tính toàn diện, thống nhất, kịp thời
trong hệ thống pháp luật và chưa thực sự hội nhập quốc tế: (i) Giao cho quyền tự chủ cho các CSĐT nhưng


20
chưa hoàn thiện hệ thống thanh tra, kiểm tra và đặc biệt là kiểm định chất lượng đào tạo NNLĐD; (ii) Không
tổ chức kỳ thi quốc gia để cấp chứng chỉ hành nghề dẫn đến khó kiểm soát chất lượng, không tạo động lực
để các CSĐT phải đảm bảo chất lượng đào tạo; (iii) Quy định về xây dựng đề án vị trí việc làm chưa tính đến

đặc thù đào tạo NNLYT, người giảng viên chuyên ngành chưa được xác định vị trí việc làm và tham gia làm
việc chuyên môn tại cơ sở thực hành và ngược lại; (iv) Giao quyền tự chủ cho các cơ sở y tế nên hều hết các
bệnh viện đều không tuyển đủ số lượng điều dưỡng theo yêu cầu.
Thứ ba, chức năng, vai trò của các chủ thể QLNN chưa rõ ràng, chưa có sự thống nhất trong chỉ đạo,
điều hành giữa cơ quan QLNN về GD&ĐT với cơ quan QLNN ngành, lĩnh vực, địa phương. Việc xác định
tiêu chuẩn và phát triển đội ngũ giảng viên chuyên ngành vẫn còn chậm.
Thứ tư, đầu tư của Nhà nước cho đào tạo NNLĐD chưa phù hợp với yêu cầu đào tạo NNLĐD, chế
độ học phí và chế độ đãi ngộ đối với ĐDV chưa phù hợp đặc thù của ngành ĐD.
Thứ năm, hoạt động thanh tra, kiểm tra, tổng kết đánh giá vẫn còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ và
thường xuyên, chưa có sự phối hợp giữa cơ quan QLNN về GD&ĐT với cơ quan QLNN chuyên ngành.
- Nguyên nhân của những hạn chế
Về vấn đề nhận thức: (i) do hoạt động QLNN về đào tạo NNLĐD của nước ta mới được hình thành,
nhiều nội dung vẫn còn rất mới mà chúng ta chưa có kinh nghiệm thực tiễn để thực hiện như vấn đề cơ cấu
nhân lực, vị trí việc làm, tiêu chuẩn, tiêu chí kiểm định chất lượng giáo dục, vấn đề tổ chức kỳ thi quốc gia;
(ii) do cơ chế xây dựng pháp luật hiện nay dẫn đến sự thiếu đồng bộ, thống nhất, bình đẳng trong hệ thống
các văn bản pháp luật; (iii) do sự trì trệ của nền hành chính và cách tiếp cận của những người xây dựng và
thực thi pháp luật; (iv) do thiếu nguồn lực - tài chính công hạn hẹp; (v) do yếu tố lịch sử, nhiều mô hình và
quan điểm đào tạo chưa được điều chỉnh cho phù hợp với xu hướng phát triển và hội nhập quốc tế.
Về cơ chế quản lý: (i) cơ chế phối hợp liên ngành chưa rõ ràng do tư tưởng "cát cứ" của cơ quan
quản lý; (ii) việc nở rộ các CSĐT do thực hiện quy hoạch chưa có sự thống nhất giữa các cơ quan quản lý
trong quy hoạch về lĩnh vực giáo dục với quy hoạch ngành Y tế; (iii) kinh phí dành cho giáo dục và y tế thấp,
xu hướng giao quyền tự chủ, việc xác định quy mô đào tạo do CSĐT tự xác định nên CSĐT luôn có xu
hướng tăng chỉ tiêu đào tạo để tăng nguồn thu, cơ sở y tế hạn chế tuyển dụng về số lượng và trình độ cao để
hạn chế số chi; (iv) chưa thường xuyên kiểm tra, giám sát và việc xử lý vi phạm chưa nghiêm.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Qua nghiên cứu thực trạng QLNN về đào tạo NNLĐD thông qua việc phân tích tài liệu thứ cấp, điều
tra khảo sát, thực trạng NNLĐD cho thấy QLNN về đào tạo NNLĐD thời gian qua đã đạt được nhiều kết
quả rất tích cực: hệ thống thể chế, chính sách được hệ thống hóa và đề cập đồng bộ ở cả 3 nội dung là hoạt
động đào tạo, hoạt động nghề nghiệp và chế độ sử dụng nhân lực điều dưỡng từng bước đáp ứng yêu cầu của
QLNN về đào tạo NNLĐD. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được cũng bộc lộ một số điểm hạn chế

cần phải giải quyết đó là: (i) việc xây dựng và thực hiện các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch vẫn còn thiếu
tính kịp thời và có sự chưa đồng bộ; (ii) hệ thống thể chế đào tạo NNLĐD chưa thể hiện được đầy đủ và triệt
để quan điểm, đường lối phát triển và hội nhập của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo và về y tế; (iii)
chức năng, vai trò của các chủ thể QLNN chưa rõ ràng, chưa có sự thống nhất trong tiếp cận và chỉ đạo điều
hành; (iv) đầu tư của Nhà nước, các nguồn lực và học phí cho đào tạo NNLĐD chưa phù hợp với yêu cầu
đào tạo NNLĐD; (v) hoạt động thanh tra, kiểm tra, tổng kết, đánh giá còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ và
thường xuyên, thống nhất. Chương 3 của luận án đã phân tích những kết quả đạt được và nguyên nhân,
những hạn chế và chỉ rõ những nguyên nhân của những hạn chế trong QLNN về đào tạo NNLĐD. Các phân
tích nói trên là những căn cứ thực tiễn quan trọng để tác giả luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện QLNN
về đào tạo NNLĐD ở Việt Nam trong thời gian tới.


21

Chương 4
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC ĐIỀU DƯỠNG VIỆT NAM
4.1. Dự báo nhu cầu và xu hướng đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng của Việt Nam
4.1.1. Dự báo nhu cầu nhân lực điều dưỡng của Việt Nam
Quyết định số 2992/QĐ-BYT ngày 17/7/2015 của Bộ trưởng Bộ Y tế phê duyệt kế hoạch phát triển
nhân lực trong hệ thống KB, CB giai đoạn 2015-2020, theo đó Bộ Y tế dự báo nhu cầu NNLĐD đạt chỉ tiêu
20 ĐD cho 10.000 dân; đạt 30% tổng số ĐD có trình độ cao đẳng và đại học. Qua tính toán dựa trên kết quả
khảo sát năm 2015, số lượng ĐD cần bổ sung đến năm 2020 là khoảng 100.752 người cao hơn dự báo của
Bộ Y tế theo Quyết định 2992/QĐ-BYT. Tuy nhiên, qua kết quả khảo sát năm 2015, có sự khác biệt giữa các
cách xác định nhu cầu nhân lực khác như: quy hoạch phát triển nhân lực y tế là 151.383 người; ước tính theo
tỷ lệ nghỉ hưu là 27.080 người; theo ước tính của lãnh đạo địa phương/đơn vị 18.519 người và theo chuẩn
khu vực ASEAN là 25.407 người. Cơ quan quản lý cần thận trọng khi công bố chính sách phát triển và đào
tạo NNLĐD để tránh việc tăng quy mô đào tạo dẫn đến dư thừa nhân lực và gây lãng phí xã hội.
4.1.2. Xu hướng đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng của Việt Nam
- Xu hướng hội nhập và công nhận lẫn nhau

Với xu hướng này, với vai trò của mình, nhà nước cần phải có những chính sách và khung thể chế
phù hợp như: (i) Xác định mô hình đào tạo phù hợp với xu hướng quốc tế; (ii) Xây dựng và ban hành các
quy định về việc tổ chức kỳ thi quốc gia để cấp giấy phép hành nghề.
- Xu hướng tiếp cận theo hệ thống, đào tạo dựa trên năng lực
Nhà nước cần có một số biện pháp cũng như chính sách phù hợp đó là: (i) Xây dựng và ban hành
tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp cơ bản, xác định chuẩn đầu ra cho từng trình độ đào tạo theo đúng yêu cầu
sử dụng NNLĐD trong hệ thống y tế, làm cơ sở để các cơ sở đào tạo xác định chuẩn đầu ra của từng chương
trình đào tạo; (ii) Xây dựng bộ công cụ phù hợp để đánh giá người ĐD đã đạt chuẩn hay chưa; (iii) Có chính
sách đầu tư để các cơ sở giáo dục có đủ các điều kiện cần thiết để xây dựng, phát triển và thực hiện CTĐT;
(iv) Nhà nước phải có chính sách để đào tạo phải phù hợp quy luật cung-cầu, mở trưởng, mở ngành có tiêu
chuẩn, tiêu chí và phải gắn với nhu cầu và yêu cầu sử dụng của hệ thống y tế về quy mô, cơ cấu, chất lượng
NNLĐD.
- Xu hướng tiếp cận dựa trên bằng chứng thực tiễn chuyên ngành
Vai trò của nhà nước là cần có những chính sách phù hợp đối với đào tạo NNLĐD để quá trình đào
tạo phải gắn liền với các cơ sở y tế. Nhà nước cần có những chính sách để đảm bảo người ĐD có được cơ
hội tiếp cận và thực hành chuyên môn sớm nhất trên nguyên tắc phải đảm bảo tuôn thủ các quy chế chuyên
môn, đảm bảo an toàn người bệnh và chất lượng dịch vụ y tế.
4.2. Định hướng đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng ở Việt Nam
Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng
cao sức khỏe nhân dân đã xác định nhiệm vụ: Kiện toàn đội ngũ cán bộ y tế cả về số lượng, chất lượng và cơ
cấu. Sắp xếp lại mạng lưới, mở rộng và nâng cấp các cơ sở đào tạo, đáp ứng nhu cầu về cán bộ y tế phù hợp
với quy hoạch phát triển ngành; xây dựng một số trung tâm đào tạo cán bộ y tế ngang tầm các nước tiên tiến
trong khu vực. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của BCH Trung ương khóa XI về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo cũng chỉ rõ: Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến
thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với
nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật


22
khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và

hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.
Từ những quan điểm đó, công tác QLNN về đào tạo NNLĐD cần được định hướng cụ thể như sau:
(i) Cần xác định rõ yêu cầu về cơ cấu NNLĐD trong hệ thống y tế; (ii) Hệ thống chính sách về đào tạo
NNLĐD phải đảm bảo thống nhất, đồng bộ từ đào tạo, tuyển dụng, sử dụng và các chế độ đãi ngộ; (iii) Tiếp
tục kiện toàn, củng cố và phát triển hệ thống y tế ở tất cả các tuyến từ trung ương đến địa phương; (iv) Thực
hiện công tác tuyển dụng, sử dụng một cách thỏa đáng, phù hợp theo vùng, miền, lĩnh vực; (v) Hoàn thiện
các chế độ đãi ngộ đối với người ĐD phù hợp với tính chất công việc và hoạt động nghề nghiệp. Có chính
sách đảm bảo an toàn và tạo môi trường làm việc thuận lợi cho người ĐD.
4.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng ở Việt Nam
4.3.1. Giải pháp thống nhất quy hoạch, kế hoạch, cơ cấu nhân lực, mô hình đào tạo và sử dụng
nguồn nhân lực điều dưỡng
- Đổi mới mô hình đào tạo nhân lực điều dưỡng:

Một số điểm mới trong mô hình: (i) Xác định có chức danh “Trợ lý điều dưỡng” trong cơ cấu
NLYT; (ii) Thời gian đào tạo điều dưỡng tối thiểu: 3 năm; (iii) Đào tạo chuyên khoa là đào tạo ngắn hạn để
cấp chứng chỉ, không phải là một trình độ đào tạo. Cử nhân, Thạc sỹ hay Tiến sỹ điều dưỡng muốn hành
nghề chuyên khoa phải trải qua chương trình đào tạo chuyên khoa.
- Quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo nhân lực điều dưỡng: Cần xác định số lượng CSĐT phù
hợp theo từng trình độ, trên cơ sở đó có kế hoạch rà soát để sắp xếp lại mạng lưới, phát triển các CSĐT ĐD
ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
- Quy hoạch cơ cấu và phát triển nguồn nhân lực điều dưỡng: (i) Xác định cơ cấu NNLĐD chủ yếu
cần có trong hệ thống y tế, số lượng cần tuyển dụng hàng năm và công bố công khai để có quy mô đào tạo
phù hợp; (ii) Xác định lộ trình giảm dần quy mô đào tạo NNLĐD trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học hợp
lý; (iii) Có kế hoạch đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ ĐDV có trình độ trung cấp đang làm việc trong
hệ thống y tế để đáp ứng yêu cầu theo lộ trình đã đặt ra trong Thông tư liên tịch số 26/2015/TTLT-BYTBNV ngày 07/10/2015 của liên tịch Bộ Y tế - Bộ Nội vụ.
4.3.2. Giải pháp hoàn thiện thể chế, chính sách về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
- Chỉnh sửa Nghị định số 115/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ quy định trách nhiệm QLNN
về GD&ĐT. Trong đó xác định rõ vai trò của Bộ Y tế đối với việc xác định các tiêu chuẩn, tiêu chí, điều
kiện chuyên môn trong hoạt động đào tạo NNLYT nói chung trên cả nước.
- Chỉnh sửa, bổ sung các nội dung đặc thù đào tạo ngành điều dưỡng trong các quy định về tiêu chí

mở ngành, mở trường, tuyển sinh, đào tạo và kiểm định chất lượng giáo dục.
- Ban hành và triển khai thực hiện Nghị định của Chính phủ về tổ chức đào tạo thực hành trong đào
tạo khối ngành sức khỏe.


×