Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

NIÊN LUẬN KHOA KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN: Nghiên cứu chất lượng nước tại ven biển Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.17 KB, 27 trang )

MỤC LỤC

1


I .ĐẶT VẤN ĐỀ
Thực trạng về ô nhiễm môi trường biển đang là vấn đề báo động "đỏ".
Trái đất được bao phủ bởi khoảng 71% diện tích là biển và đại dương. Biển là
một thành phần rất quan trọng đối với các quá trình tự nhiên và sự phát triển của
con người. Tuy nhiên, biển trên thế giới đang bị ô nhiễm rất nặng nề. Hiện nay,
ở Châu Á, gần 90% lượng nước thải đổ thẳng xuống biển mà không qua xử lí,
đe dọa sinh thía các vùng bờ biển. (Theo Báo cáo về các biện pháp ngăn chặn ô
nhiễm môi trường biển của chương trình môi trường LHQ (UNEP) được công
bố tại Hội nghị quốc tế ở Bắc Kinh (Trung Quốc) ngày 16/10). Hơn 60 quốc gia
trên thế giới đã nhận thức về nguy cơ ngày một gia tăng này và đã có các
chương trình hành động để ngăn chặn các nguồn ô nhiễm biển xuất phát từ đất
liền, song kết quả đạt được vẫn chưa bù đắp được những thiệt hại do ô nhiễm
môi trường biển gây ra.
Việt Nam cũng không nằm ngoài các quốc gia đó. Chất lượng môi trường
biển nước ta đang ngày càng đi xuống. Một số vùng ven bờ đang bị đục hóa,
lượng phù sa lơ lửng tăng gây ảnh hưởng lớn, làm giảm khả năng quang hợp của
một số sinh vật biển và làm suy giảm nguồn giống hải sản tự nhiên. Nước biển
của một số khu vực có biểu hiện bị axit hóa do độ pH trong nước biển tầng mặt
biến đổi trong khoảng 6.3 - 8.2. Nước biển ven bờ có biểu hiện bị ô nhiễm bởi
chất hữu cơ, kẽm, một số chủng thuốc bảo vệ thực vật. Hàm lượng hóa chất bảo
vệ thực vật chủng Andrin và Endrin của mẫu sinh vật đáy các vùng cửa sông
ven biển phía Bắc đều cao hơn giới hạn cho phép.
Thái Bình là tỉnh đồng bằng châu thổ sông Hồng với bờ biển dài 54 km,
có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế biển. Tuy nhiên cùng với các hoạt động
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh cũng đặt ra vấn đề cấp thiết cần giải
quyết trong việc kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm môi


trường biển ven bờ nói riêng. Do đó, cần phải có giải pháp khắc phục tình trạng
ô nhiễm nguồn nước biển.
II.Tổng quan đề tài nghiên cứu
Theo như thông kê ở trên, vùng biển Nam Á và Đông Á còn phải tiếp
nhận 2/3 khối lượng đất và phù sa, điều này không những gây ảnh hưởng trực
2


tiếp đến sức khỏe con người, nó còn phá hủy các hệ sinh thái ven biển có giá trị
lớn về kinh tế. Theo giám đốc điều hành UNEP Achim Steiner, khoảng 80% chất
gây ô nhiễm biển có nguồn gốc từ đất liền và chiều hướng này có thể tăng lên
đáng kể vào năm 2050 nếu như dân số sống tại vùng duyên hải tăng lên gấp đôi.
Liên hợp Quốc đã kêu gọi các nước nhanh chóng hành động nhằm giảm bớt tình
trạng ô nhiễm trên biển do chất thải từ đất liền gây nên, thông qua sự kết hợp
giữa chính phủ và chính quyền địa phương, giữa tổ chức tư nhân và tổ chức phi
chính phủ, coi việc ngăn chặn ô nhiễm là nhiệm vụ hàng đầu. Chương trình hành
động toàn cầu (GPA) do LHQ khởi xướng đã góp phần tích cực vào việc thúc
đẩy cam kết của các quốc gia trong việc ngăn chặn ô nhiễm biển, huy động đươc
nguồn ngân quỹ lớn vào việc bảo vệ môi trường, trong đó có việc tìm nguồn đầu
tư 400 triệu USD để bảo vệ các vùng biển Đông Á, 380 triệu USD cho vùng Đía
Trung Hải và 400 triệu USD để bảo vệ vùng Biển Đen và sông Đa-nuýp.
Biển Việt Nam cũng đang ở trong tình trạng ô nhiễm đáng báo động: Hàm
lượng dầu trong nước biển của Việt Nam nhìn chung đều vượt giới hạn tiêu
chuẩn Việt Nam và vượt rất xa tiêu chuẩn Hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN). Đặc biệt, có những thời điểm vùng nước khu vực cảng Cái Lân có
hàm lượng dầu đạt mức 1,75 mg/l (gấp 6 lần giới hạn cho phép); vịnh Hạ Long
có 1/3 diện tích biển hàm lượng dầu thường xuyên từ 1 đến 1,73 mg/l. Hàng
năm, trên 100 con sông ở nước ta thải ra biển 880km 3 nước, 270-300 triệu tấn
phù xa, kéo theo nhiều chất cso thể gây ô nhiễm biển, như các chất hữu cơ, dinh
dưỡng, kim loại nặng và nhiều chất độc hại từ các khu dân cư tập trung, từ các

khu công nghiệp và đô thị, từ các khu nuôi trồng thủy sản ven biển và các vùng
sản xuất nông nghiệp. Đến năm 2010, lượng chất thải đã tăng rất lớn ở các vùng
nước ven bờ, trong đó dầu khoảng 35.160 tấn/1 ngày, nito tổng số 26-52 tấn/
ngày và tổng amoni 15-30 tấn/ ngày.
Thái Bình là tỉnh đồng bằng châu thổ sông Hồng với bờ biển dài 54 km,
có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế biển. Tuy nhiên cùng với các hoạt động
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh cũng đặt ra vấn đề cấp thiết cần giải
quyết trong việc kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm môi
trường biển ven bờ nói riêng. Theo kết quả quan trắc của Chi cục Biển phối hợp
với Trung tâm Quan trắc phân tích tài nguyên và môi trường thuộc Sở TN&MT
3


tỉnh Thái Bình thực hiện năm 2014 cho thấy, môi trường nước vùng ven biển
tỉnh Thái Bình có dấu hiệu ô nhiễm do phát hiện nồng độ nhu cầu ô xy hóa học
(COD), nồng độ chất rắn lơ lửng (TSS), hàm lượng kim loại mangan (Mn), hàm
lượng kim loại đồng (Cu), hàm lượng kim loại kẽm (Zn) tăng cao so với quy
định cho phép đối với khu vực nuôi trồng thủy sản và bảo tồn biển (QCVN 10:
2008/BTNMT).
Do đó ô nhiễm biển cũng là vấn đề quan trọng , đáng chú ý của
quốc gia hiện nay!
III .MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
3.1Mục tiêu chung:
Nghiên cứu về tình trạng ô nhiễm nguồn nước biển nhằm tìm ra được giải
pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm nước tại Tiền Hải, Thái Bình.
3.2Mục tiêu cụ thể:
- Đánh giá chất lượng nước tại bờ biển Tiền Hải, Thái Bình.
- Xác đinh nguyên nhân gây ra ô nhiễm nguồn nước từ đó đề ra các giải pháp
khắc phục.
- Đánh giá được ảnh hưởng của việc ô nhiễm nguồn nước biển đến kinh tế, con

người và môi trường xung quanh.
- Tìm ra giải pháp tích cực góp phần đẩy lùi tình trạng ô nhiễm nguồn nước tại
Tiền Hải, Thái Bình.
IV. Địa điểm, thời gian và đối tượng nghiên cứu
IV.1. Địa điểm nghiên cứu
Thái Bình là tỉnh đồng bằng ven biển, nằm ở phía Nam châu thổ sông
0 ’
0 ’
Hồng, có ba mặt giáp sông và một mặt giáp biển, vị trí toạ độ 20 17 đến 20 44
0 ’
0 ’
vĩ độ Bắc và 106 06 đến 106 39 kinh độ Đông. Từ Tây sang Đông dài 54 km,
từ Bắc xuống Nam dài 49km.
Phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ Phía Tây giáp tỉnh Hà Nam Phía Nam giáp
tỉnh Nam Định
Phía Bắc giáp tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và thành phố Hải Phòng.
4


Bản đồ hành chính tỉnh Thái Bình
Nằm trong vùng ảnh hưởng của tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải
Phòng - Quảng Ninh; hành lang Hải Phòng - Hà Nội - Lạng Sơn - Nam Ninh và
vành đai kinh tế ven vịnh Bắc Bộ, có đường biển và hệ thống sông ngòi thuận lợi
+ Chế độ thủy văn
Có 4 con sông lớn chảy qua:
- Phía Bắc và Đông Bắc có sông Hoá chảy qua địa phận ranh giới tỉnh có chiều
dài 38km.
- PhíaBắcvàTâyBắccósôngLuộcchảyquađịaphậnranhgiớidài53km
- Phía Nam và Tây Nam có sông Hồng chảy qua dài 77km.
- Giữa tỉnh có sông Trà Lý, phân nhánh của sông Hồng dài 67km.

Ngoài ra tỉnh còn có hệ thống sông ngòi chằng chịt. Đặc điểm chung là các
sông đều chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam và đổ ra biển với độ dốc mặt
nước nhỏ, thoát nước chậm. Do đó về mùa mưa lũ mực nước các sông lớn gây úng
5


và xói lở cục bộ vào đất canh tác ngoài đê; hệ thống đê sông dài khoảng 285 km,
ngăn lụt trong mùa mưa lũ và trên 70 km đê biển ngăn mặn.
Là tỉnh ven biển nên các con sông trên địa bàn đều chịu ảnh hưởng của
thuỷ triều, mỗi chu kỳ thuỷ triều từ 13 - 14 ngày, trung bình của triều cao là 1m
về mùa mưa, thuỷ triều tác động tới xâm nhập mặn trên các sông lớn ảnh hưởng
đối với nước tưới cho nông nghiệp.
Nhìn chung hệ thống thuỷ văn thuận lợi về nguồn nước tưới cho sản xuất
nông nghiệp, kể cả vào mùa khô và bồi đắp phù sa cho vùng đất ngoài đê thuộc
các hệ thống sông. Với 5 cửa sông lớn đổ ra biển tạo sự lắng đọng phù sa và bồi
đắp phù sa ven biển là thế mạnh lấn biển. Mặt hạn chế là hàng năm phải đầu tư
sức người, sức của vào việc đắp đê, tu bổ đê sông, đê biển đồng thời phải đầu tư
cho việc thau chua, rửa mặn đất nông nghiệp ở ven biển do bị ảnh hưởng của
thuỷ triều.
+ Tài nguyên biển
2
Bờ biển dài 54 km với hàng chục nghìn km lãnh hải, tiềm năng hải sản
khá dồi dào với trữ lượng cá ước tính khoảng 26.000 tấn trong đó trữ
lượng cá
24.000 - 25.000 tấn, tôm 600 - 1.000 tấn, mực 700 - 800 tấn. Sản lượng
đánh bắt nuôi trồng hải sản khoảng 18.415 tấn/năm. Ngoài ra các khu vực cửa
sông và ven bờ có khả năng lớn về nuôi trồng thuỷ sản như tôm, cua, sò, vạng,
ngao, vọp...
Quai vùng đê bao khoảng 4.000 ha đầm mặn, lợ để nuôi trồng thuỷ sản
trong đó diện tích nuôi trồng hữu hiệu khoảng 3.287 ha nuôi tôm, cua, rau câu...

Bên cạnh đó, vùng ven biển có tiềm năng để khai thác phát triển nghề làm
muối.
4.2 Thời gian : Giai đoạn từ 2011-2015
4.3 Đối tượng nghiên cứu : chất lượng nước tại ven biển Thái Bình
V. Nội dung nghiên cứu
5.1 Thực trạng môi trường biển Thái Bình
6


Theo kết quả quan trắc của Chi cục Biển phối hợp với Trung tâm Quan
trắc phân tích tài nguyên và môi trường thuộc Sở TN&MT tỉnh Thái Bình thực
hiện năm 2014 cho thấy, môi trường nước vùng ven biển tỉnh Thái Bình có dấu
hiệu ô nhiễm do phát hiện nồng độ nhu cầu ô xy hóa học (COD), nồng độ chất
rắn lơ lửng (TSS), hàm lượng kim loại mangan (Mn), hàm lượng kim loại đồng
(Cu), hàm lượng kim loại kẽm (Zn) tăng cao so với quy định cho phép đối với
khu vực nuôi trồng thủy sản và bảo tồn biển (QCVN 10: 2008/BTNMT). Cụ thể
các chỉ tiêu quan trắc như sau:
Phân bố nồng độ nhu cầu ô xy hóa học (COD): Mùa mưa dao động
trong khoảng 1,6 - 4,52 mg/l, nồng độ COD trung bình 2,89 mg/l. Nồng độ COD
mùa khô dao động trong khoảng 1,8 - 4,7 mg/l, nồng độ COD trung bình đạt
2,96 mg/l. Tại một số điểm lấy mẫu nước biển phân tích cho thấy, nồng độ COD
có giá trị cao hơn ngưỡng cho phép đối với các khu vực nuôi trồng thủy sản và
bảo tồn biển (QCVN 10: 2008/BTNMT) từ 1,2 - 1,63 lần.
Nồng độ TSS: Có xu hướng giảm dần từ bờ ra khơi. Giá trị TSS quan
trắc được trong mùa mưa dao động trong khoảng 42 - 62 mg/l, trung bình 49,2
mg/l. Vào mùa khô giá trị TSS quan trắc được có giá trị dao động trong khoảng
25 - 82 mg/l, trung bình 48,25 mg/l. Giá trị TSS quan trắc vùng ven biển Thái
Bình tại một số khu vực có giá trị cao hơn tiêu chuẩn cho phép đối với khu vực
nuôi trồng thủy sản và bảo tồn biển (QCVN 10: 2008/BTNMT) từ 1,1 - 1,64 lần.
Hàm lượng kim loại mangan (Mn): Trong mẫu nước biển ven bờ dao

động trong khoảng 0,05 - 0,27 mg/l, trung bình 0,13 mg/l. Vào mùa khô dao
động trong khoảng 0,034 - 0,6 mg/l, trung bình 0,2 mg/l. Tại một số khu vực
quan trắc được cho thấy nồng độ Mn đã vượt ngưỡng cho phép theo tiêu chuẩn
Việt Nam (QCVN 10: 2008/BTNMT) từ 1,1 - 2,7 lần.
Hàm lượng kim loại đồng (Cu): Quan trắc vào mùa mưa dao động trong
khoảng từ 0,008 - 0,074 mg/l, trung bình 0,03 mg/l. Vào mùa khô nồng độ Cu
dao động trong khoảng 0,002 - 0,028 mg/l, trung bình 0,018 mg/l. Nồng độ Cu
quan trắc được tại một số khu vực nuôi trồng thủy hải sản ven biển có giá trị cao
hơn tiêu chuẩn Việt Nam (QCVN 10: 2008/BTNMT) từ 1,2 - 2,46 lần.
7


Hàm lượng kim loại kẽm (Zn): Quan trắc vào mùa mưa dao động trong
khoảng 0,03 - 0,08 mg/l, trung bình 0,045 mg/l; mùa khô dao động trong khoảng
0,025 - 0,06 mg/l, trung bình 0,048 mg/l. Kết quả quan trắc tại một số điểm
trong mùa mưa có giá trị cao hơn tiêu chuẩn cho phép đối với các khu vực nuôi
trồng thủy sản (QCVN 10: 2008/BTNMT) từ 1,1 - 1,6 lần.
Theo báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011 - 2015
xác định các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển Thái Bình chủ yếu bắt nguồn
từ đất liền và các hoạt động trên biển, bao gồm:
Nguồn thải sinh hoạt: Với dân số của tỉnh gần 2 triệu người tập trung
trên diện tích nhỏ, mật độ dân số cao đã tạo ra nguồn thải sinh hoạt rất lớn.
Cùng với đó, nhiều bãi rác ven sông, ven biển chưa được thiết kế phù
hợp, chưa có hệ thống thu gom xử lý nước rỉ rác cũng là nguồn bổ sung đáng kể
các chất ô nhiễm cho vùng biển ven bờ Thái Bình.
Nguồn thải nông nghiệp: Là địa phương có cơ cấu nông nghiệp cao với
giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản trên địa bàn khu vực ven biển tăng trưởng
bình quân hàng năm đạt trên 5%. Do vậy, nguồn thải nông nghiệp ra vùng biển
ven bờ của Thái Bình gồm các loại phân bón, hóa chất bảo vệ thực vật, lượng
chất thải từ hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm. Đặc biệt, hiện nay Thái Bình

có diện tích nuôi trồng thủy hải sản mặn lợ đạt 6.992 ha (trong đó nuôi ngao
3.000 ha) nên có một lượng lớn chất hữu cơ và dinh dưỡng phát thải từ hoạt
động nuôi thủy sản ven biển.
Nguồn thải công nghiệp: Những năm gần đây, Thái Bình đẩy mạnh phát
triển công nghiệp với các khu công nghiệp tập trung Sông Trà, Cầu Nghìn, Tiền
Hải, Gia Lễ, Nguyễn Đức Cảnh, Phúc Khánh, trong đó giá trị sản xuất công
nghiệp trên địa bàn khu vực ven biển tăng trưởng bình quân 13,9 %/năm. Bên
cạnh đó, Thái Bình cũng là nơi tập trung nhiều làng nghề truyền thống (chạm
bạc, thêu, dệt, chiếu cói, thảm len, mây tre đan, gỗ mỹ nghệ…). Do đó phát sinh
nguồn thải công nghiệp, các chất thải nguy hại, trong đó có các kim loại nặng.

8


Nguồn thải do sông: Thái Bình có 4 con sông lớn chảy qua (sông Hóa,
sông Luộc, sông Hồng, sông Trà Lý) cùng với hệ thống sông ngòi chằng chịt đổ
ra biển qua 5 cửa sông lớn (cửa Thái Bình, Diêm Điền, Trà Lý, Lân và Ba Lạt).
Do đó, nguồn ô nhiễm do sông mang ra vùng biển ven bờ Thái Bình rất lớn, đặc
biệt là các chất COD và TSS.
Các hoạt động trên biển: Thái Bình có hai huyện ven biển là Thái Thụy
và Tiền Hải, lực lượng ngư dân khai thác hải sản tương đối đông với trên 1.200
tàu thuyền. Ngoài ra Thái Bình cũng có các cảng, bến Diêm Điền, Cửa Lân nên
có hàng trăm tàu vận tải biển. Những hoạt động đánh bắt hải sản và vận tải biển
cũng ít nhiều gây ô nhiễm cho vùng biển Thái Bình.
5.2 Các nguồn gây ô nhiễm
1 Yếu tố tự nhiên:
Do các loại vi sinh vật biển, vi tảo biển gây hại ngày một gia tăng về số
lượng, tham gia vào hiện tượng thuỷ triều đỏ, làm suy giảm số lượng các sinh
vật biển có lợi. Các hoạt động địa chất như núi lửa, bão… làm chết hàng loạt
sinh vật biển, xác của chúng không được xử lý đã gây ô nhiễm vùng biển đới bờ.

Ngoài ra, sự đứt gãy của vỏ trái đất làm rò rỉ những mỏ dàu ở đáy đại dương
cũng đã góp phần gây ra tình trạng ô nhiễm biển.
2.Yếu tố con người:
Sức ép dân số:
2.1Dân số gia tăng và nghèo đói Biển và vùng bờ là nơi giàu có và đa dạng
các loại hình tài nguyên, cũng như chứa đựng tiềm năng phát triển kinh tế đa
dạng. Bởi vậy, đây cũng là nơi tập trung sôi động các hoạt động phất triển của
con người: trên 50% số đo thị lớn, gần 60% dân số tính theo đơn vị cấp tỉnh,
phần lớn các khu công nghiệp và khu chế xuất, các vùng nuôi thuỷ sản, các hoạt
động cảng biển – hàng hải và du lịch sẽ được xây dựng ở đây đến năm 2010. Tỷ
lệ tăng dân số ở vùng này cũng thường cao hơn trung bình cả nước. Đi kèm các
hoạt động trên là sụ gia tăng di dân tự do, tăng nhu cầu sử dụng tài nguyên thiên
nhiên và hình thành thói quen tiêu thụ tài nguyên lãng phí. Kết quả đã gây sức
ép rất lớn đến môi trường đô thị, khu dân cư ven biển, làm suy giảm và suy thoái
9


tài nguyên biển và vùng ven bờ. Trong khi vùng biển gần bờ nước ta còn rất ít
tôm cá, thì cuộc sống của khoảng 600.000 ngư dân và gia đình họ vẫn cần có cá
hằng ngày và bản năng tồn tại vẫn buộc họ phải khai thác nhiều tôm cá hơn nên
nguồn lợi từ biển ngày càng cạn kiệt.
2.2 Lối sống giản đơn và dân trí thấp Khác với trong đất liền, cơ cấu dân cư ven
biển từ nhiều nguồn, họ đến từ tứ xứ, thậm trí có một bộ phận dân cư ngoài đất
Việt. Họ vốn là những người nghèo, xa quê đến vùng ven biển hoặc các đảo
nước ta để sinh sống. Họ tụ tập thành các “vạn chài”, đối mặt hàng ngày với tính
khốc liệt của biển cả, sống với sông nước và gắn liền cuộc sống với con thuyền,
nên tư duy người vạn chài hết sức giản đơn, khái niệm bảo vệ nguồn lợi và môi
trường biển dường như vẫn còn xa vời với họ. Tập quán và phong tục sống còn
lạc hậu, học vấn thấp do không có điều kiện học tập. Cũng vì thế mà nhận thức
về môi trường và tài nguyên biển của đại bộ phận dân cư ở đây vẫn còn thấp

kém. Hành vi và cách ứng xử của họ với các hoạt động bảo vệ môi trường và tài
nguyên rất hạn chế, chưa thành thói quen tự giác.
2.3Sức ép về kinh tế
2.3.1 Du lịch tràn lan, nuôi trồng thuỷ sản bất hợp lý Theo điều tra của Viện Hải
Dương học, một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng ô nhiễm
môt trường ven biển là hiện tượng nuôi thuỷ sản tràn lan, không có quy hoạch.
Tại các tỉnh từ Quảng Ninh đến Quảng Bình, trên 37000ha đã được khai thác
đưa vào nuôi trồng thuỷ sản (chiếm 30-35% diện tích nước mặn lợ). Gần đây
phần lớn cơ sở đã đi vào nuôi trên quy mô công nghiệp dẫn tới các nơi cư trú
sinh vật, bãi đẻ, bãi giống bị huỷ diệt, dịch bệnh xuất hiện tràn lan…Hơn nữa,
tình trạng ô nhiễm môi trường còn do các địa phương khai thác, sử dụng không
hợp lý các vùng đất cát ven biển dẫn tới việc thiếu nước ngọt, xói lở, sa bồi bờ
biển với mức độ ngày càng nghiêm trọng. Việc khai thác bằng đánh mìn, sử
dụng hoá chất độc hại làm cạn kiệt nhanh chóng nguồn lợi thuỷ sản và gây hậu
quả nặng nề cho các vùng sinh thái biển. Các hoạt động du lịch có ảnh hưởng
không nhỏ đến môi trường sinh thái, cảnh quan tự nhiên của biển.
2.3.2 Ô nhiễm biển do dầu gia tăng.
Ô nhiễm biển do tràn dầu Một nguyên nhân gây ô nhiễm biển nữa là tràn
dầu. Tốc độ tăng trưởng kinh tế lớn trong những năm gần đây đã làm gia tăng rất
mạnh lượng tiêu thụ xăng dầu. Lợi ích kinh tế dẫn đến tình trạng khai thác dầu
10


quá mức. Hậu quả là một lượng dầu rất lớn bị rò rỉ ra môi trường biển do hoạt
động của các tàu và do các sự cố hư hỏng hay đắm tàu trở dầu, do sự cố tại lỗ
khoan thăm dò và dàn khoan khai thác dầu. Đáng chú ý là các vụ tràn dầu
nghiêm trọng những năm gần đây có xu hướng tăng, gây thiệt hại nghiêm trọng
cho môi trường biển, đặc biệt là vùng nuôi trồng thuỷ sản.
2.3.3 Thể chế và chính sách còn bất cập.
Biển và vùng bờ biển nước ta là nơi tập trung các hoạt động kinh tế khác

nhau và vẫn chủ yếu được quản lý theo ngành. Các ngành thường chú trọng
nhiều hơn đến mục tiêu phát triển kinh tế, các mục tiêu xã hội và môi trường ít
được ưu tiên, chỉ chú ý đến lợi ích ngành mình. Kết quả là tính toàn vẹn và tính
lien kết của các hệ thống tự nhiên vùng bờ bị chia cắt, mâu thuẫn sử dụng lợi ích
tài nguyên ngày càng tăng, ảnh hưởng đến tính bền vững của hoạt động phát
triển. Các cơ quan quản lý biển còn chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ trong
khi có những mảng trống bị bỏ ngỏ. Thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan quản
lý, cơ quan khoa học và các tổ chức phi chính phủ trong việc sử dụng và quản lý
tài nguyên biển, đặc biệt vùng ven bờ. Bên cạnh đó, các chính sách và pháp luật
về bảo vệ môi trường biển của Việt Nam còn chung chung, thiếu thực tế, gây
khó khăn cho việc tổ chức thực hiện. Cho đến nay quản lý môt trường biển, ven
biển và hải đảo vẫn được rập khuôn theo cách tiếp cân của ngăn ngừa và kiểm
soát ô nhiễm, chưa tính đến đặc điểm về tính chất xuyên biên giới, đa ngành, đa
mục đích sử dụng cho nên hiệu qủa quản lý yếu kém và bộc lộ nhiều thiếu sót,
bất cập. Một nguyên nhân cũng cần phải kẻ đến là việc hợp tác quốc tế trong
lĩnh vưc bảo vệ môi trường cũng như việc tham gia ký kết và thực thi các điều
ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển của chúng ta còn bộc lộ nhiều hạn chế,
chưa thực sự được quan tâm, chú trọng.
5.3Diễn biến ô nhiễm
5.3.1 pH
Độ pH trong nước biển dao động trong khoảng từ 7.07 - 8.27, giá trị trung
bình toàn vùng 7.89 với hệ số biến phân 2.07 % đặc trưng cho môi trường kiềm
yếu của vùng biển Thái Bình.
Sự phân bố không gian của pH phản ánh sự tương quan với độ muối (R =
11


0.55) và tăng dần từ bờ ra khơi. Tại các khu vực ven bờ, nơi có độ muối thấp, độ
pH giảm (8,20 - 8,28), đặc biệt tại khu vực cửa sông Ba Lạt, cửa Lân, cửa Trà
Lý, cửa Diêm Điền, cửa Thái Bình do ảnh hưởng của dòng nước lục địa độ pH

đạt giá trị cực tiểu là 7,25. Giá trị cực đại của pH trong nước tầng mặt đạt 8,45.
Theo số liệu quan trắc hằng năm và kết quả nghiên cứu thì giá trị pH có sự biến
thiên khá rõ (Hình 1)

12


Biểu đồ 1. Sơ đồ biến thiên của pH theo thời gian
5.3.2 Ô nhiễmdầu
Vùng biển Thái Bình là khu vực có nhiều tàu thuyền qua lại, vì vậy mà
hoạt động cung cấp xăng dầu cho tàu thuyền ở đây cũng diễn ra tấp nập, đặc biệt
Khu vực cửa Ba Lạt, Diêm Điền, Trà Lý, Thái Bình. Trong quá trình bốc dỡ,
không tránh khỏi để xăng dầu dò rỉ ra ngoài gây ảnh hưởng tới môitrường.
Theo kết quả khảo sát và lấy mẫu tại vùng cửa Ba Lạt, nồng độ dầu dao
động trong khoảng 0,09-0,16mg/l, trung bình 0,13mg/l. Như vậy, nồng độ dầu
trong nước vùng biển Ba Lạt vượt giới hạn cho phép đối với bãi tắm và nuôi
trồng thủy sản. Dầu trong nước chủ yếu có nguồn gốc từ lượng dầu vương vãi
của tầu thuyền, dầu xả thải của động cơ, dò rỉ từ các máy móc cũ, từ các trạm
cung cấp xăng dầu bến cảng và ven biển.
5.3.3 Diễn biến phân bố của các nguyên tố tập trung
Các kim loại nặng được điều tra, khảo sát bao gồm Cu, Pb, Zn, Mn, Cd, Hg
và As. Hàm lượng tối đa của các nguyên tố này chưa vượt quá giới hạn cho phép
theo quy chuẩn môi trường (QCVN 10:2008/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia về chất lượng nước biển ven bờ), nhưng một số nguyên tố đạt hàm lượng
cao(dị thường) tại một vài nơi trong vùng tạo ra nguy cơ ô nhiễm. Đó là các
nguyên tố Pb vàCu.
- Hàm lượng đồng(Cu);
Hàm lượng đồng (Cu) trong nước biển tỉnh Thái Bình so sánh với giới
hạn cho phép của quy chuẩn nước biển ven bờ của Việt Nam dùng cho các mục
13



đích khác thì vẫn còn nằm trong giới hạn cho phép (hình2).

14


- Hàm lượng chì(Pb);
Chì tồn tại chủ yếu dưới dạng ion hòa tan. Trong các mẫu nước biển phân
tích Pb dao động trong khoảng 0,002 - 0,0036 mg/l, hàm lượng trung bình
0,0029 mg/l, cao hơn tiêu chuẩn chung của thế giới 1,7 lần. So sánh với Quy
chuẩn Việt Nam (QCVN 10:2008/BTNMT) nằm trong giới hạn cho phép. Hàm
lượng Pb trung bình cũng có sự biến thiên không nhiều theo thời gian. Hàm
lượng Pb cao tập trung chủ yếu các khu vực có độ sâu 2 - 5 m gần các cửa sông
lớn, cửa Ba Lạt, Diêm Điền, cửa Lân, cửa Thái Bình và cửa Trà Lý. Vùng ngoài
khơi có độ sâu 5 - 10 m cũng có hàm lượng Pb tương đối cao.
Biến thiên hàm lượng Cu, Pb trung bình theo thời gian được biểu diễn
trên đồ thị.
0,035000
0,030000
0,025000
0,020000
0,015000
0,010000
0,005000
0,000000
Cu Pb
T7.2012 T11.2012 QCVN10NTTS
Biều đồ 2. Sơ đồ biến thiên Cu, Pb(mg/l) trung bình theo thời gian
15



(Nguồn: Báo cáo chuyên đề đánh giá chất lượng nước vùng biển tỉnh
Thái Bình của Sở Tài nguyên và Môitrường)
- Hàm lượng kẽm (Zn);
Kẽm tồn tại chủ yếu là các ion hòa tan. Hàm lượng Zn trong vùng biển
Thái Bình dao động trong khoảng 0.006 – 0.018mg/l, trung bình 0.0142mg/l,
nếu so sánh với Quy chuẩn Việt Nam (QCVN 10:2008/BTNMT) thì các đợt
quan trắc năm 2012 hàm lượng Zn trung bình đều thấp hơn nhiều so với tiêu
chuẩn Việt Nam (Hình 3). Hàm lượng Zn trung bình trong các đợt quan trắc
năm 2012 chưa vượt ngưỡng theo QCVN. Dựa vào hàm lượng dị thường và các
yếu tố thủy thạch động lực, đã khoanh vùng được các khu vực Zn có hàm lượng
cao đó là khu vực nuôi trồng thủy sản xã Nam Thịnh, Nam Phú, cửa Ba Lạt, cửa
Trà Lý, cửa Lân, cửa Diêm Điền, cồn Đen xã Thái Đô, cửa TháiBình.
Tóm lại, môi trường nước biển Thái Bình đã biểu hiện rõ rệt ô nhiễm dầu
và nguy cơ ô nhiễm Pb, Zn. Ô nhiễm dầu xảy ra trên diện rộng từ những khu
vực gần bờ như ở Nam Phú, Nam Thịnh, Thái Đô, cửa Diêm Điền trong khoảng
độ sâu 0-2m nước đến những khu vực xa bờ với độ sâu từ 14 - 20m nước.
Nguyên nhân ô nhiễm dầu, chủ yếu là do hoạt động tàu thuyền và bến bãi gây
ra. Nguy cơ nhiễm kim loại nặng có thể liên quan đến các chất thải công nghiệp
từ trên bờ hoặc từ các nguồn xa hơn được sông Hồng chuyển tới. Mặt khác,
hàng ngày các tàu thuyền đánh bắt thủy sản vận chuyển vào trong cảng cũng
góp phần làm ô nhiễm dầu. Nước thải của các tàu thuyền, nhà máy, phân xưởng
có thể chứa nhiều chất hữu cơ và kim loại nặng gây ô nhiễm môitrường.
- Hàm lượng cadimi (Cd);
Trong nước biển vùng nghiên cứu, Cd đạt hàm lượng trung bình 0,0002
mg/l, thấp hơn rất nhiều so với (QCVN 10:2008/BTNMT). Sự tập trung hàm
lượng Cd trong nước ven bờ không cao. Khu vực xa bờ, hàm lượng Cd cao có lẽ
là do nguyên tố này bị giữ lại bởi hệ thống bẫy thuỷ văn khu vực. Đây là sự tập
trung hàm lượng của Cd trong tầng nước tầng giữa giảm dần theo hình quạt ra

-3
xa bờ với gradient khoảng 0,09 - 1.10 mg/l/km. Theo số liệu quan trắc và kết
quả nghiên cứu hàm lượng Cd có mức độ biến thiên khá ổn định, theo số liệu
quan trắc thì hàm lượng Cd có xu hướng tăng lên trong năm 2012 (Hình 3)
16


- Hàm lượng Asen(As);
Trong môi trường nước biển khu vực ven bờ Thái Bình, arsen có hàm
lượng trung bình là 0.00388mg/l thấp hơn Quy chuẩn Việt Nam (QCVN
10:2008/BTNMT). Tuy nhiên, trong năm 2012 các mẫu phân tích cho thấy hàm
lượng As trung bình quan trắc dao động từ 0.0037 đến 0.029 mg/l với hệ số biến
phân V=28,99%. Mặc dù vậy hàm lượng As tại khu vực ven bờ cao hơn so với
khu vực ngoài khơi, có thể là do ảnh hưởng trực tiếp của dòng vật chất được
chuyển tải từ bờ thông qua hệ thống sông. Hàm lượng trung bình của As trong
nước tầng mặt và tầng đáy thể hiện khá rõ sự tập trung cao của nó trong các
vùng biển nghiên cứu. Qua đó, có thể thấy điều kiện địa hoá ảnh hưởng khá rõ
nét đến sự tích luỹ của nguyên tố này và có nguy cơ ô nhiễm (hình3).
- Hàm lượng thuỷ ngân(Hg).
Thuỷ ngân tích luỹ yếu trong môi trường nước biển với Ta = 1,26 1,60.
Hàm lượng Hg trong nước biển Thái Bình dao động trong khoảng 0,01 - 0,07.
-3
-3
10 mg/l với giá trị trung bình là 0,02.10 mg/l.
-3
-3
Hàm lượng thuỷ ngân giảm từ 0,05.10 mg/l xuống còn 0,04.10 mg/l
giữa nước vùng ven bờ cao hơn hàm lượng của nó trong nước biển vùng ngoài
khơi
Xu hướng này được biểu hiện khá rõ trên toàn vùng ven bờ của khu vực

-3
với gradient hàm lượng khoảng 0,008 - 0,013.10 mg/l/km. Tuy nhiên, nhìn
chung sự phân bố hàm lượng của nguyên tố này trong nước biển ven bờ không
biến động mạnh giữa các khu vực có địa hình, thuỷ văn và tác động nhân sinh
-3
khác nhau. Trong khu vực, hàm lượng Hg tầng giữa (0,052.10 mg/l và 0,06.10
3

-3
mg/l) có cao hơn chút ít so với các khu vực khác 0,046 - 0,049. 10 mg/l, có
thể do các khu vực này có đặc tính như là bẫy thuỷ văn, nơi lưỡi nước ngọt và
các nguyên tố mang theo bị dồn vào bởi thuỷ triều và dòng biển, không lan
truyền được ra khơi xa. Các đợt quan trắc và phân tích mẫu năm 2012 đều cho
kết quả, hàm lượng Hg trung bình thấp hơn nhiều Quy chuẩn Việt Nam (QCVN
17


10:2008/BTNMT)

18


0,100000
0,080000
0,060000
0,040000
0,020000
0,000000
Zn


Mn

T7.2012 T11.2012

Cd

Hg

As

QCVN 10NTTS

Biều đồ 3. Sơ đồ biến thiên Zn, Mn, Cd, Hg, As (mg/l) trung bình theo
thời gian
(Nguồn: Báo cáo chuyên đề đánh giá chất lượng nước vùng biển tỉnh
Thái Bình của Sở Tài nguyên và Môitrường)
Tóm lại, hiện trạng môi trường nước biển ven bờ Thái Bình có đặc trưng
chủ yếu bởi môi trường kiềm yếu và oxy hoá yếu. Các nguyên tố Cu, Pb tập
trung chủ yếu ở khu vực Cửa Thái Bình và khu vực Cồn Vành, đối với As, Cd
và Zn phân bố chủ yếu Cửa Thái Bình, Trà Lý, cửa DiêmĐiền.

19


- Hàm lượng Fe:
Bảng 1: Nồng độ trung bình Fe trong nước biển ven bờ năm 2011 – 2013.
(Đơn vị tính: mg/l)
Thời gian
Vị trí


Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Cửa Ba Lạt

1,25

1,0435

0,591

Cửa Lân

0,835

1,046

0,568

Cửa Trà Lý

0,698

0,85

0,63


Cửa Diêm Điền

0,65

1,199

0,61

Cảng cá Tân Sơn xã Thụy Hải

0,609

1,0655

0,5765

Cửa Thái Bình

0,368

1,1195

0,537

0,3

0,3

0,3


QCVN 10:2008/BTNMT
5.4 Hậu quả
5.4.1Làm suy giảm chất lượng nước biển

Ô nhiễm nước biển gây ra sự mất cân bằng nước. Các chất hữu cơ , chất
rắn lơ lửng…không được phân hủy, vẫn còn lưu lại trong nước với hàm lượng
lớn dẫn đến sự mất dần sự tinh khiết ban đầu làm chất lượng nguồn nước bị suy
giảm nghiêm trọng
5.4.2 Ảnh hưởng tới sinh vật biển
-Hiện tượng cá chết hàng loạt trôi dạt vào bờ biển sau mỗi đợt sóng xảy ra
ở các bãi biển bị ô nhiễm nặng gia tăng
20


-Cạn kiệt nguồn tôm giống và các đàn cá gần bờ
-Làm suy giảm đa dạng sinh học biển và phá hủy môi trường sống của các
sinh vật biển
-Các hệ sinh thái ven biển bị suy giảm nghiêm trọng như các rạn san hô,
rừng ngập mặn,…
5.4.3 Ảnh hưởng đến sức khỏe và đời sống con người
- Năng suốt cũng như sản lượng đánh bắt cá,nuôi trồng hải sản giảm do đó
dẫn tới giảm thu nhập của ngư dân. Như vậy tác động trực tiếp đến đời sống và
nhu cầu sống của họ
- Các vi khuẩn trong chất thải làm ảnh hưởng tới sức khỏe con người gây
ra các bệnh tả, thương hàn, bại liệt ,… Biển ô nhiễm kéo dài đó là chất lượng
không khí ở đó bị ô nhiễm , có mùi khó chịu và mang theo nhiều chất độc hại
làm tổn hại tới sức khỏe người dân nhất là các bệnh về hô hấp, về da,…
VI. Phương pháp nghiên cứu
VI.1 Phương pháp định lượng
- Phương pháp sưu tầm và thống kê số liệu

- Phương pháp phân tích và xử lí số liệu
- Phương pháp biểu đồ bản đồ
VI.2 Phương pháp định tính
- Phương pháp chuyên gia ( dựa trên những quan điểm, bài báo , công trình
nghiên cứu )
- Phương pháp dự báo ( sau khi đã có nhận định , số liệu thống kê đưa ra những
dự báo và giải pháp cho thời gian sắp tới )
VII. Kết quả nghiên cứu
7.1 Nghiên cứu, phân tích hiện trạng và dự báo môi trường biển
Xây dựng nền móng khoa học về môi trường biển, thực hiện phân tích và
đánh giá hiện trạng môi trường biển, ô nhiễm biển phục vụ cho phát triển bền
vững
Các chương trình NC KHCN biển đã có nhiều đề tài nghiên cứu về ô
nhiễm biển, bao gồm đánh giá ô nhiễm biển do sông tải ra, quá trình phân tán,
tích luỹ chất gây ô nhiễm trong môi trường biển (KC.09.21/06-10), quá trình tự
làm sạch và sức tải môi trường của các thuỷ vực ven biển (KC.09.17/11-15),
ngăn ngừa, phòngchống và xử lý ô nhiễm biển bằng các giải pháp quản lý và
công nghệ v.v. Gần đây, đã có nhiều kết quả nghiên cứu mới về các lĩnh vực tích
luỹ các chất ô nhiễm có độc tính (kim loại nặng, các chất hữu cơ bền) trong môi
21


trường trầm tích (KC.09.21/06-10), ô nhiễm dầu tại Thái Bình (KC.09.22/0610), trầm tích và sinh vật liên quan đến an toàn thực phẩm biển và sức khoẻ
cộng đồng. Đã quan tâm đến các quá trình sinh địa hoá liên quan đến ô nhiễm và
năng xuất sơ cấp, tảo độc hại và thuỷ triều đỏ (KC.09.19; KC.09.03/06-10); sức
khoẻ các hệ sinh thái; các chỉ tiêu đánh giá mức độ bền vững của các hệ sinh
thái và các nguyên nhân gây suy giảm đa dạng sinh học do tác động từ con
người và biến đổi khí hậu, v.v.
Đóng góp tích cực trong việc giám sát và dự báo môi trường biển
Nhiều đề tài trong các Chương trình Nhà nước về KHCN biển đã nghiên

cứu dự báo và và cảnh báo môi trường biển và tai biến, sự cố trên biển: dự báo
sóng, nhiệt độ tầng mặt và sương mù trên biển; sa bồi và xói lở bờ biển; nước
dâng do bão; dự báo thuỷ triều đỏ ở vùng nước ngoài khơi và các vùng nuôi tập
trung ven bờ. Để phục vụ dự báo, đã ứng dụng và phát triển một số công nghệ
cao như viễn thám và hệ thông tin địa lý, các mô hình sinh thái biển, lan truyền
ô nhiễm biển, các mô hình tương tác biển – khí; lục địa biển; sức tải môi trường
biển v.v.
7.2 Nghiên cứu quản lí môi trường biển
Xây dựng chỉ tiêu, quy chuẩn môi trường, quy hoạch và chiến lược bảo vệ
môi trường biển
Các đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu đã cung cấp cơ sở khoa học, tham gia
đánh giá tác động của các hoạt động kinh tế - xã hội, các sự cố môi trường và
thiên tai đến TN&MT biển và giải pháp, quy trình giảm thiểu; Xây dựng quy
chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế - kỹ thuật phục vụ quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường biển - đảo thích ứng với biến đổi khí hậu và dâng
cao mực biển.
Tham gia xây dựng các quy hoạch, chiến lược bảo vệ môi trường biển,
xây dựng cơ sở khoa học và các quy trình phục vụ xây dựng các chính sách, các
quy định pháp luật, chiến lược biển, qui hoạch và sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo
vệ môi trường,

22


Nghiên cứu và phát triển mô hình quản lý tổng hợp vùng bờ biển và quy
hoạch không gian biển đảo
Trong lĩnh vực quản lý tổng hợp biển và vùng bờ biển và các đảo, Các đề
tài nghiên cứu của các chương trình KHCN biển đi tiên phong trong lĩnh vực
nghiên cứu và áp dụng các mô hình quản lý tổng hợp vùng bờ biển phù hợp với
hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam trong đó có tỉnh Thái Bình; Đến nay quản lý

tổng hợp ở Thái Bình đã có mô hình định hướng ngày càng rõ, đó là quản lý nhà
nước tập trung và thống nhất, có sự tham gia của cộng đồng, được thực hiện
theo quy mô ba cấp cơ bản trung ương, vùng và địa phương (cấp tỉnh).
7.3 Xây dựng tiềm lực về giám sát và nghiên cứu môi trường biển
Xây dựng đội ngũ cán bộ về môi trường biển
Cùng với các thành tựu khoa học, sự trưởng thành từng bước của lực
lượng khoa học biển, cơ sở vật chất kỹ thuật điều tra nghiên cứu môi trường
biển ở các cơ quan khoa học biển cũng đã được tăng cường và đổi mới rõ rệt.
Với sự đầu tư của nhà nước và viện trợ của nước ngoài, chúng ta đã có được một
số tàu khảo sát và những thiết bị khảo sát khá tốt và các máy phân tích hiện đại
trong công tác nội nghiệp. Cùng với sự tăng cường, đổi mới trang bị kỹ thuật,
trình độ nghiên cứu của đội ngũ cán bộ khoa học cũng được nâng cao một bước
rõ rệt. Với mở rộng quan hệ HTQT, cán bộ ta đã nhanh chóng tiếp cận được
những thành tựu phương pháp kỹ thuật hiện đại. Nhờ vậy, các kết quả nghiên
cứu hiện nay đã khác nhiều so với trước về chất lượng và tính hiện đại. Trong
HTQT, vai trò và vị thế của cán bộ khoa học biển Việt Nam đã được nâng cao,
là thành phần không thể thiếu trong các hội thảo, hội nghị khoa học biển, các đề
án hoặc chương trình hợp tác nghiên cứu và các tổ chức khoa học biển khu vực.
Cùng với sự phát triển nghiên cứu trong lĩnh vực môi trường biển, đã hình thành
một số tổ chức nghiên cứu chuyên về môi trường biển, ví dụ Viện Tài nguyên và
Môi trường biển thuộc Viện Hàn lâm KHCNVN.
Góp phần xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn về môi trường biển
Thông qua các đề tài, các chương trình nghiên cứu biển đã đóng góp xây
dựng hệ phương pháp nghiên cứu và đánh giá môi trường biển và các quy trình,
quy chuẩn quản lý môi trường biển: xây dựng các thông số kỹ thuật, các quy
23


trình giám sát và quan trắc; xây dựng tiêu chuẩn quốc gia cho ô nhiễm biển, quy
trình ứng phó các sự cố tràn dầu trên biển; cung cấp cơ sở khoa học cho soạn

thảo và ban hành các kế hoạch chiến lược, các quy chuẩn quốc gia bảo vệ môi
trường biển, ven bờ và hải đảo. Những kết quả trong lĩnh vực này đã cung cấp
cơ sở khoa học cho Bộ KHCN&MT trước đây, Bộ TN&MT hiện nay soạn thảo
và ban hành các kế hoạch chiến lược, các quy chuẩn quốc gia bảo vệ tài nguyên,
môi trường biển và ven bờ. Đúc kết từ các kết quả nghiên cứu, mà phần quan
trọng là từ các đề tài thuộc các chương trình KHCN biển, Viện Tài nguyên và
Môi trường biển năm 2014 đã xuất bản và công bố công trình: “Quy trình điều
tra khảo sát tài nguyên và môi trường biển” – Nxb Khoa học tự nhiên và công
nghệ, 291 trang.
Phát triển ứng dụng các công nghệ cao vào giám sát và quan trắc môi
trường biển
Thông qua tham gia các chương trình KHCN biển, một số đơn vị nghiên
cứu đã đạt được một số thành công trong việc phát triển và ứng dụng các công
nghệ cao, các kỹ thuật hiện đại và các quy trình tiên tiến phục vụ giám sát và
đánh giá tài nguyên và môi trường biển: công nghệ thông tin, viễn thám, hệ
thông tin địa lý, kỹ thuật khảo sát ngầm, các mô hình, lập trình v.v. Các công
nghệ và kỹ thuật này đã hỗ trợ dự báo xói lở, sa bồi, thuỷ triều đỏ, tràn dầu và
hoá chất, biến đổi khí hậu và dâng cao mực biển v.v.
Để hỗ trợ cho các hoạt động quan trắc và giám sát môi trường biển, nhiều
đơn vị nghiên cứu đã chú trọng phát triển và ứng dụng công nghệ và kỹ thuật
khảo sát, nghiên cứu môi trường biển. Để phục vụ dự báo, đã nghiên cứu ứng
dụng và phát triển một số công nghệ cao trong nghiên cứu biển như viễn thám
và hệ thông tin địa lý, các mô hình sinh thái biển, lan truyền ô nhiễm biển, các
mô hình tương tác biển – khí; lục địa biển; sức tải môi trường biển v.v.
VIII. Kết luận và một số kiến nghị
8.1 Kết luận
Biển là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá nhưng thực trạng ô nhiễm biển
Việt Nam đã và đang trở thành vấn đề báo động đỏ đối với toàn xã hội , nguyên
nhân chính là do những hoạt động của con người.
24



Qua bài tiểu luận này,đã giúp chúng ta hiểu được những hành động của
con người dù là vô tình hay cố ý cũng một gây ra tình trạng ô nhiễm biển, gây
suy thoái đa dạng sinh học biển và ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Từ đó ý
thức được việc bảo vệ môi trường biển nói riêng và môi trường nói chung, tìm ra
những giải pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng ô nhiễm.
8.2 Một số kiến nghị
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế BVMT biển
Ngày 25/6/2015, Quốc hội đã thông qua Luật Tài nguyên, môi trường
biển và hải đảo. Vì vậy, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền sớm ban hành các
văn bản hướng dẫn thi hành Luật, trong đó có các quy định về kiểm soát ô
nhiễm môi trường biển và hải đảo, ứng phó sự cố tràn dầu, hóa chất độc trên
biển, nhận chìm ở biển.
Thứ hai, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong công
tác BVMT biển
Xét trên tính chất liên thông của biển và tính chất lan truyền ô nhiễm
trên biển cần tăng cường cơ chế phối hợp trong BVMT biển trên cơ sở mối
tương quan với khai thác bền vững tài nguyên biển và BVMT trên đất liền. Đặc
biệt, nhất quán thực hiện Quyết định số 23/2013/QĐ-TTg ngày 26/4/2013 của
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phối hợp quản lý tổng hợp tài nguyên
và BVMT biển, hải đảo, Quyết định số 23/2014/QĐ-UBND ngày 17/11/2014
của UBND tỉnh Thái Bình ban hành Quy chế phối hợp quản lý tổng hợp tài
nguyên và BVMT biển trên địa bàn tỉnh Thái Bình. Do đó, cần có sự phối hợp
chặt chẽ giữa các sở, ban, ngành trong tỉnh có liên quan đến biển như: TN&MT,
NN&PTNT, Công Thương, Văn hóa, Thể thao và Du lịch…
Thứ ba, tăng cường nguồn lực cho công tác BVMT biển Thái Bình
Tăng cường huy động nguồn lực (từ trung ương, địa phương và vốn
ngoài ngân sách nhà nước) đầu tư cơ sở vật chất hỗ trợ công tác quản lý, triển
khai các nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và nâng cao năng lực cho đội ngũ công

chức làm công tác quản lý BVMT nói chung và BVMT biển nói riêng trên địa
bàn tỉnh để chủ động nắm bắt kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật của
Trung ương, địa phương, tham mưu giúp chính quyền địa phương cụ thể hóa các
văn bản của Trung ương.
Thứ tư, tập trung triển khai công tác điều tra
Cần tập trung triển khai thực hiện công tác điều tra, thống kê, phân loại,
đánh giá các nguồn thải từ đất liền, từ các hoạt động trên biển. Đánh giá tình
25


×