Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

Thực trạng thực hiện chính sách cho hộ nghèo tại xã Nà Sác, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.92 KB, 102 trang )

LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đối với Hội
đồng khoa học chuyên ngành “Công tác xã hội” trường Đại học Lao động –
Xã hội, cùng Quý thầy, cô giáo đã tham gia quản lý, giảng dạy và giúp đỡ em
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu viết khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn Ths.Nguyễn Hồng Linh - Người đã
tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu để
hoàn thành bản khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn lãnh đạo huyện, chuyên viên phòng Lao
động - Thương binh và Xã hội huyện Hà Quảng, lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã
Nà Sác …cùng các anh, chị quản lý, hội viên nông dân xã Nà Sác đã tạo điều
kiện cung cấp những thông tin, những số liệu quý báu giúp em trong quá trình
nghiên cứu và trong quá trình hoàn thành bài khóa luận.
Em xin cám ơn gia đình, bạn bè đã động viên, khích lệ em trong suốt
thời gian qua.
Mặc dù có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện đề tài, song những
thiếu sót trong khóa luận là không tránh khỏi. Kính mong nhận được sự đóng
góp và sự chỉ dẫn góp ý và giúp đỡ thêm của quý thầy giáo, cô giáo và các
bạn
Em xin chân thành cảm ơn!
Tác giả khóa luận

Vi Thị Thảo

1

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi;


Các số liệu, kết quả nêu trong bài khóa luận là trung thực và xuất phát
từ tình hình thực tế của địa bàn nghiên cứu.
Tác giả khóa luận
(Ký, ghi rõ họ tên)

Vi Thị Thảo

2

2


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

3

Từ viết tắt
ĐVT
KTXH
LĐ – TB&XH

MTTQ
NXB
PTNT
SL
TL
UBND

Dịch nghĩa
Đơn vị tính
Kinh tế xã hội
Lao động – Thương binh và Xã hội
Mặt trận Tổ quốc
Nhà xuất bản
Phát triển nông thôn
Số lượng
Tỷ lệ
Ủy ban nhân dân

3


MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG BIỂU
ST

Tên bảng

Số trang


T
1
2

Số lượng thành viên trong gia đình các hộ nghèo
Nghề nghiệp và thu nhập của các hộ nghèo tại xã Nà

37

3

Sác
Nhu cầu hỗ trợ chính sách phát triển nông nghiệp từ địa

4

phương của người nghèo năm 2016
Đối tượng hộ nghèo được hỗ trợ sản xuất

5

Hộ nghèo biết đến các chương trình chính sách hỗ trợ
phát triển nông nghiệp đang được thực hiện tại địa

6

phương
Tổng hợp kết quả dự án hỗ trợ thiết bị vật tư cho người

7


nghèo xã Nà Sác năm 2016
Tỷ lệ hộ nghèo được hỗ trợ các loại giống cây trồng tại

8
9

xã Nà Sác năm 2016
Tỷ lệ hộ nghèo được hỗ trợ phân đạm tại xã Nà Sác
Mức vay hộ gia đình được vay từ Ngân hàng Chính sách

10

xã hội
Kinh phí thực hiện chương trình hỗ trợ sản xuất nông

11

nghiệp tại xã Nà Sác
Tầm quan trọng của các nguồn vốn hỗ trợ cho hộ nghèo
về sản xuất nông nghiệp xã Nà Sác

4

39
47
48
49

54

58
61
64
73
74
4


12

5

Hình thức tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp

75

5


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

10
11
12
13
14

6

Tên biểu đồ
Đặc điểm khu vực sinh sống của hộ gia đình nghèo
Tình hình việc làm của hộ gia đình nghèo xã Nà Sác
Cơ cấu cây trồng chủ yếu của hộ gia đình
Vật nuôi chính của gia đình
Mức độ hiểu biết của người nghèo về các chính sách,
chương trình đang thực hiện tại địa phương
Nguồn cung cấp thông tin chính về chính sách hỗ trợ
sản xuất nông nghiệp
Tỷ lệ các hộ được hỗ trợ máy, thiết bị sản xuất
Tỷ lệ vật nuôi được hỗ trợ cho hộ nghèo tại xã Nà
Sác
Nguồn vay vốn của các hộ nghèo
Đánh giá của hộ nghèo về vay vốn tại xã Nà Sác năm
2016
Hiệu quả sử dụng các công cụ sản xuất được hỗ trợ
của người nghèo tại Nà Sác
Đánh giá của hộ nghèo về hiệu quả các giống cây
trồng
Đánh giá của hộ nghèo sau khi được hỗ trợ vốn để hỗ
trợ sản xuất nông nghiệp tại xã Nà Sác
Tỷ lệ sử dụng nguồn vốn đúng mục đích


Số trang
36
41
42
45
51
53
57
60
63
66
69
70
71
77

6


A.

1.

PHẦN MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo, thu hẹp khoảng cách về trình
độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc.Trong nhiều năm qua,

thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta lãnh đạo, nền kinh tế nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự định hướng của Nhà nước đang
trên đà tăng trưởng, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Song bên
cạnh những kết quả đã đạt được còn có những vấn đề tồn tại và bức xúc, một
trong những vấn đề đó là vấn đề đói nghèo của một bộ phận dân cư - đặc biệt
là đối với những vùng nông thôn miền núi.
Đối với đồng bào dân tộc thiểu số, đây là một trong những đối tượng
luôn được Đảng và Nhà nước đưa ra các hình thức và chương trình hỗ trợ đặc
biệt cho họ. Do điều kiện đặc thù về tự nhiên ở vùng xa xôi, ít có cơ hội được
tiếp cận với nền văn minh và sự phát triển chung của xã hội. Bên cạnh đó còn
gặp nhiều hạn chế về kinh tế, xã hội và các yếu tố văn hóa khác. Những hạn
chế này vô hình trở thành rào cản, cản trở sự phát triển nói chung và phát triển
về kinh tế nói riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số, gây ra sự nghèo đói.
Xã Nà Sác, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng là một xã biên giới đặc
biệt khó khăn nên điều kiện cơ sở vật chất hạ tầng như đường giao thông,
trường học, trạm y tế, chợ…còn thiếu và yếu kém. Người dân ở đây 98% là
đồng bào dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp, tỷ lệ biết chữ, số người có
trình độ văn hóa ở các cấp học được cấp chứng chỉ có trình độ chuyên môn
cao ở các cấp bậc cao đẳng, đại học là rất thấp. Người dân trong xã chủ yếu
dựa vào sản xuất nông nghiệp nhưng trình độ sản xuất còn lạc hậu, công cụ
sản xuất còn thô sơ, chưa áp dụng khoa học – kỹ thuật vào sản xuất.Nông
nghiệp chiếm 90% cơ cấu kinh tế xã, nguồn thu nhập chính của hộ nghèo chủ
7


yếu là từ các sản phẩm nông nghiệp. Chính quyền xã đã áp dụng chính sách
hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp làm chính sách giảm nghèo chủ
đạo.Chính vì vậy, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất kinh tế - xã hội của
xã, tỷ lệ hộ nghèo ở xã không ngừng giảm trong những năm qua. Tuy nhiên
số hộ nghèo năm 2016 vẫn còn cao, số hộ nghèo còn 178 hộ chiếm tỷ lệ

50.14%.Bên cạnh những thành tựu đã đạt được công tác thực hiện chính sách
giảm nghèo tại xã Nà Sác, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng vẫn còn tồn tại
nhiều hạn chế khi áp dụng vào thực tế. Xã vẫn còn nhiều hộ nghèo, nhiều hộ
gia đình chưa phấn đấu thoát nghèo, ỷ lại để hưởng lợi từ chính sách, nhiều
hộ gia đình sử dụng nguồn vốn vay vào các mục đích không đẩy mạnh sự
phát triển kinh tế hộ gia đình để thoát nghèo. Chính vì vậy, để chính sách hỗ
trợ sản xuất nông nghiệp cho hộ nghèo có hiệu quả, hợp với lòng dân thì cần
tìm ra những vướng mắc trong quá trình thực hiện, từ đó đưa giải pháp phù
hợp để nâng cao năng suất và sản lượng nông nghiệp, giúp người dân thoát
nghèo một cách bền vững, giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo tại xã Nà Sác, huyện Hà
Quảng, tỉnh Cao Bằng.
Tuy nhiên, trong sự hỗ trợ đa dạng các loại hình, hình thức và nội dung
cho người nghèo như hỗ trợ về y tế, hỗ trợ về giáo dục, hỗ trợ về kinh tế, hỗ
trợ vốn và hỗ trợ sản xuất,… trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu này, tác giả
lựa chọn sự hỗ trợ về sản xuất nông nghiệp tại địa phương để nghiên cứu một
cách chi tiết và rõ ràng
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Thực trạng
thực hiện chính sách cho hộ nghèo tại xã Nà Sác, huyện Hà Quảng, tỉnh
Cao Bằng” nhằm đánh giá được kết quả của công tác thực hiện chế độ chính
sách để từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp và hiệu quả hơn.
2.

Tổng quan đề tài nghiên cứu
Nghèo là một trong năm vấn đề lớn có tính chất toàn cầu: ô nhiễm môi
trường sinh thái, khủng hoảng năng lượng, bênh tật, thất nghiệp, nghèo khổ.
Vì thế vấn đề xoá đói giảm nghèo không chỉ giành được sự quan tâm của các
8


nhà nghiên cứu, của tổ chức xã hội của nhiều nước trên thế giới. Ở nước ta có

các đề tài nghiên cứu về vấn đề tương tự như:
Năm 1997, tác giả Nguyễn Thanh Hằng có nghiên cứu về “Vấn đề xoá
đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay”. Nguyễn Thanh Hằng viết về
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về vấn đề đói nghèo và kinh nghiệm
xóa đói giảm nghèo của các nước trong khu vực, thực trạng và nguyên nhân
đói nghèo ở Việt Nam trong bước chuyển sang kinh tế thị trường, phương
hướng và biện pháp chủ yếu xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta từ nay
đến năm 2000.
Năm 2003, tác giả Vũ Thị Ngọc Phùng có nghiên cứu về “Vấn đề tăng
trưởng kinh tế, công bằng xã hội và vấn đề xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam” .
Ông cho rằng tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là một trong những mối
quan hệ cơ bản của quá trình phát triển. Thực chất của quan điểm là phát triển
kinh tế cho người nghèo đi liền với công bằng xã hội. Tăng trưởng là điều
kiện tiên quyết, quan trọng nhất của phát triển. Phát triển chỉ có được khi tăng
trưởng kinh tế tạo ra những biến chuyển trong cơ cấu kinh tế và cấu trúc xã
hội, ở đó mỗi người dân được hưởng những thành quả của tăng trưởng và nhờ
đó phát triển cá nhân mình từ đó có thể xóa đói giảm nghèo.
Trong cuốn sách “Vấn đề nghèo đói ở Việt Nam” do Nhà xuất bản
chính trị quốc gia ấn hành, các tác giả cuốn sách đó đã đề cập đến một khía
cạnh nhỏ trong các hoạt động của thị trường đối với người nghèo. Đồng thời
đưa ra giải pháp cho các hoạt động này. Tuy nhiên các giải pháp này vẫn còn
nhiều hạn chế, chỉ dừng lại ở mức độ chung chung chứ chưa đi vào cụ thể.
Trong cuốn sách “Việt Nam tiếng nói của người nghèo”, báo cáp tổng
hợp do ngân hàng thế giới World Banks và bộ phận phát triển quốc tế của sứ
quán Anh phối hợp với Action Aid Việt Nam và Oxfram, quỹ hỗ trợ nhi đồng
Anh và chương trình phát triển nông thôn miền núi Việt Nam – Thụy Điển
tiến hành nhằm tăng cường sự hiểu biết về các khía cạnh nghèo đói, giải thích
9



mối quan hệ nhân quả và quá trình làm cho người ta rơi vào cảnh nghèo đói
cũng như thoát khỏi nghèo đói
Bài viết của Cổng thông tin điện tử Ủy ban dân tộc năm 2016 về “Hỗ
trợ phát triển sản xuất để giảm nghèo bền vững, năm 2016” bàn về các chính
sách hỗ trợ phát triển sản xuất để giảm nghèo bền vững đã được Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn đề xuất tại dự thảo Nghị định về chính sách hỗ
trợ phát triển sản xuất để giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020.
Năm 2016, tác giả Đồng Thái có nghiên cứu về “Hiệu quả dự án hỗ trợ
phát triển sản xuất thuộc Chương trình 135”, sự đánh giá của Bộ Nông nghiệp
– Phát triển nông thôn về dự án hỗ trợ phát triển sản xuất thuộc Chương trình
135 đã và đang mang lại hiệu quả thiết thực.
Năm 2016, tác giả Hồng Hạnh nghiên cứu về “Chính sách hỗ trợ phát
triển sản xuất để giảm nghèo bền vững” đã rút ra được kết luận hỗ trợ phát
triển sản xuất là giải pháp quan trọng để giúp các hộ nghèo, cận nghèo nâng
cao thu nhập, từ đó thoát nghèo bền vững. Từ quan điểm đó, Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn đã xây dựng dự thảo Nghị định về chính sách hỗ trợ
phát triển sản xuất để giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020.
Trong Khóa luận năm 2015 của tác giả Nguyễn Thị Kim Dương có
nghiên cứu về: “Đánh giá tình hình thực thi chính sách hỗ trợ sản xuất nông
nghiệp cho người nghèo ở xã Mường Thải, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La”, với
mục tiêu: Tìm hiểu thực trạng, đánh giá hiệu quả thực thi chính sách hỗ trợ
sản xuất nông nghiệp cho người nghèo ở xã Mường Thải và tìm ra các yếu tố
ảnh hưởng đến thực thi chính sách này từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả thực thi chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp
của xã Mường Thải trong thời gian tới
Ngoài ra còn có một số luận văn thạc sĩ, tiến sĩ có đề cập đến vấn đề
này ở những địa phương khác nhau. Các công trình trên đă đi vào nghiên cứu
nội dung của vấn đề đói nghèo, vấn đề tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội
và một số vấn đề liên quan trong sự phát triển của đất nước ta. Các công trình
10



này hầu hết được nghiên cứu dưới góc độ xã hội, một số về thực trạng và giải
pháp ở những địa phương khác nhau.
3.

Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng công tác thực hiện chính sách hỗ trợ sản xuất nông
nghiệp cho hộ nghèo tại xã Nà Sác
Đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp để công tác thực hiện chính
sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp cho hộ nghèo được hiệu quả hơn

4.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về đói nghèo và chính sách
hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp cho hộ nghèo
Tìm hiểu thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất
nông nghiệp cho hộ nghèo tại xã Nà Sác năm 2016
Cơ sở đó đề xuất, khuyến nghị và giải pháp để thực hiện tốt chính
sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp cho hộ nghèo.

5.

Câu hỏi nghiên cứu:
Công tác thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp
cho các hộ nghèo được thực hiện như thế nào?
Những khó khăn và kết quả đạt được khi thực hiện chính sách tại địa
phương?

Cần có những giải pháp gì để nâng cao công tác thực hiện chính sách
hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp cho các hộ nghèo tại xã Nà Sác, huyện
Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng?

6.

Đối tượng nghiên cứu
Công tác thực hiện chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp cho hộ
nghèo tại xã Nà Sác, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng

7.

Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu: Xã Nà Sác, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng
Thời gian nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu từ tháng 3 đến tháng 6
năm 2017
Nội dung nghiên cứu:
11


Nghiên cứu về công tác thực hiện chính sách hỗ trợ sản xuất nông
nghiệp cho hộ nghèo.
Thực trạng việc thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông
nghiệp cho hộ nghèo
Những khó khăn và kết quả đạt được khi thực hiện chính sách
Giải pháp để thực hiện tốt chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông
nghiệp cho hộ nghèo.
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Sử dụng những nguồn tài liệu có sẵn từ các báo cáo tổng hợp về tình

hình kinh tế - xã hội của của UBND xã Nà Sác, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao
Bằng.
Thu thập thông tin từ cán bộ chính sách xã Nà Sác về các số lượng và
các chương trình đã được thực hiện tại xã trong năm 2016
8.2. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm SPSS để phân tích và xử lý số liệu
8.3. Phương pháp điều tra bảng hỏi:
Số lượng mẫu là 100 hộ trên địa bàn xã chia cho 9 xóm . Trong 100
mẫu điều tra, 20% mẫu do địa phương giới thiệu, 80% còn lại do sinh viên tự
chọn và các mẫu điều tra không trùng nhau.
Số hộ nghèo được điều tra bằng phiếu điều tra là 50 hộ. Số hộ này được
chọn ngẫu nhiên để phỏng vấn, trên cơ sở dựa vào danh sách hộ nghèo của
địa phương năm 2016.
8.4. Phương pháp phỏng vấn sâu:
Bao gồm 16 phiếu phỏng vấn sâu, trong đó:
8 phiếu phỏng vấn sâu bên chính quyền địa phương: Các đối tượng
phỏng vấn là: Phó chủ tịch UBND xã Nà Sác, cán bộ chính sách xã, Hội
trưởng hội phụ nữ, Bí thư Đoàn thanh niên và nhân viên Ngân hàng chính
sách xã hội huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.
9 phiếu phỏng vấn sâu hộ nghèo được hỗ trợ sản xuất nông nghiệp :
Nội dung của các cuộc phỏng vấn sâu chủ yếu xoay quanh các vấn đề về
12


nguồn thông tin tiếp cận, nguồn vốn hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, những khó
khăn, vướng mắc khi thực hiện hoạt động hỗ trợ sản xuất…
8.5. Phương pháp quan sát
Sử dụng phương pháp quan sát trong quá trình điều tra bảng hỏi và
phỏng vấn sâu nhằm xem xét tình hình thực tế và quá trình thực hiện các
chính sách hỗ trợ của chính quyền địa phương đối với hộ nghèo, cũng như

thái độ, sự quan tâm, sự thay đổi của những hộ nghèo khi được nhận chính
sách.
9. Nội dung khái quát của khóa luận
Kết cấu của khóa luận bao gồm những chương cơ bản sau:
Chương I: Cơ sở lý luận
Chương II: Thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất
nông nghiệp cho hộ nghèo tại xã Nà Sác, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng
Chương III: Kết luận, khuyến nghị và giải pháp

13


B.

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CHO HỘ NGHÈO
TẠI XÃ NÀ SÁC, HUYỆN HÀ QUẢNG, TỈNH CAO BẰNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản sử dụng trong nguyên cứu
1.1.1. Khái niệm nghèo
1.1.1.1. Quan niệm về nghèo đói trên thế giới
Tại Hội nghị về chống nghèo đói do Ủy ban kinh tế xã hội khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại Thái Lan năm 1993, các
quốc gia đã thống nhất cao cho rằng:
“Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa
mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu ấy phụ thuộc
vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội phong tục tập quán của từng vùng và
những phong tục ấy được xã hội thừa nhận”
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tại Copenhagen ở

Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra một số định nghĩa cụ thể hơn về nghèo đói
như sau:
“Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới 1 USD
mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua sản phẩm thiết yếu
để tồn tại”
Trong “Báo cáo về tình hình phát triển thế giới – Tấn công nghèo đói,
năm 2000”, WB thừa nhận quan điểm truyền thống hiện nay về đói
nghèo.Đói nghèo “Không chỉ bao hàm sự khốn cùng về vật chất mà còn là sự
hưởng thụ thiếu thốn về giáo dục và y tế”.Báo cáo đã mở rộng quan niệm về
đói nghèo khi tính đến cả nguy cơ dễ bị tổn thương, dễ gặp rủi ro của người
nghèo.Báo cáo nêu bật “Nghèo có nghĩa là không có nhà cửa, quần áo, ốm
đau không ai chăm sóc, mù chữ và không được đến trường”
14


Để đánh giá rõ hơn mức độ nghèo, người ta chia thành 2 loại: Nghèo
tuyệt đối và nghèo tương đối


Nghèo tuyệt đối
Theo Robert MCNamara, khi còn là giám đốc Ngân hàng Thế giới, đã
đưa ra khái niệm sau: “Nghèo tuyệt đối … là sống ở ranh giới ngoài cùng của
tồn tại.Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh
tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách
vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới tri
thức chúng ta”



Nghèo tương đối

Nghèo tương đối có thể được xem như là việc cung cấp không đầy đủ
các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng
lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó.
Theo Ngân hàng thế giới: Nghèo là đói, thiếu nhà, bệnh không được
đến bác sỹ, không được đến trường, không biết đọc, biết viết, không có việc
làm, lo sợ cho cuộc sống tương lai, mất con do bệnh hoạn, ít được bảo vệ
quyền lợi và tự do.
 Qua những khái niệm trên ta có thể thấy được: “Nghèo là sự thiếu
thốn cả về vật chất và phi vật chất, có cuộc sống thấp, nhà ở tạm bợ, thiếu
tiện nghi sinh hoạt trong gia đình, không có vốn để sản xuất, thiếu ăn vài
tháng trong năm, con em không được đến trường, trong số ít có học thì không
có điều kiện để học lên cao, bệnh không được đến bác sỹ, không tiếp cận tiếp
cận với thông tin, không có thời gian và điều kiện để vui chơi giải trí vì chủ
yếu là dành thời gian để đi làm thêm kiếm tiền, ít hoặc không được hưởng
quyền lợi, thiếu tham gia vào phong trào địa phương”
1.1.1.2. Quan niệm nghèo đói của Việt Nam
Đối với Việt Nam, trước năm 1990, vấn đề nghèo đói ít được quan tâm,
nó chỉ được đặc biệt chú ý từ sau năm 1990, tức là sau 3 năm chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch hóa, tấp trung bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, vấn đề
15


phân hóa giàu nghèo xuất hiện và diễn ra nhanh chóng.Bên cạnh đó, vấn đề
nghèo đói đang là vấn đề búc xúc trên phạm vi toàn cầu, nhất là các nước
chậm và đang phát triển như khu vực Châu Phi và Châu Á
Nhìn chung, Việt Nam vẫn là nước nghèo, thu nhập bình quân đầu
người thấp, đầu những năm 1990 thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt
khoảng 200 USD/ người/ năm, đến đầu năm 1997 mới đạt 320 USD/ người/
năm và năm 2007 cũng chỉ đạt 640 USD/ người/ năm.Vì vậy, qua nhiều cuộc
khảo sát, nghiên cứu, các nhà nghiên cứu ở các Bộ, ngành đã đi đến thống

nhất là cần có khái niệm, chuẩn mực riêng cho nghèo đói ở Việt Nam
Ở Việt Nam, đói và nghèo thường được chia làm hai khái niệm riêng
biệt:
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thỏa mãn một
phần những nhu cầu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức
sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện
Nghèo là khái niệm chỉ tình trạng mà thu nhập thực tế của người dân
chỉ dành hầu như toàn bộ cho nhu cầu ăn, thậm chí không đủ chi cho ăn, phần
tích lũy hầu như không có
Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu và vật chất để duy trì cuộc sống.
Sự nghèo khổ, sự bần cùng là đói, là tình trạng con người không có cái
ăn, ăn không đủ lượng dinh dưỡng tối thiểu cần thiết để duy trì cuộc sống
hàng ngày và không đủ sức để lao động, để tái sản xuất sức lao động.Về mặt
năng lượng, con người chỉ được thỏa mãn 1500 calo/ngày thì đó là thiếu đói,
dưới mức đó là đói gay gắt.
Cách phân chia nghèo và đói cũng tương tự như cách phân chia nghèo
tương đối và nghèo tuyệt đối mà một số nước đang sử dụng
Người nghèo của Việt Nam quan niệm về nghèo đói đơn giản và trực
diện. Tại một số cuộc tham vấn có sự tham gia của người dân, họ nói rằng:
“Nghèo đói là gì ư? Là hôm nay con tôi ăn khoai, ngày mai không biết con
tôi ăn gì.Bạn nhìn nhà ở của tôi thì biết, ngồi trong nhà cũng thấy mặt trời,
khi mưa thì trong nhà cũng như ngoài sân”
16


Một số người khác thì trả lời: “Nghèo đói đồng nghĩa với nhà ở bằng
tranh tre, nứa, lá tạm bợ, xiêu vẹo, dột nát, không đủ đất sản xuất, không có
trâu bò, không có ti vi, con cái thất học, ốm đau không có tiền đi khám chữa
bệnh …”

Nhìn chung, khái niệm nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư
không có những điều kiện về cuộc sống như ăn, mặc ở, vệ sinh, y tế, giáo dục,
đi lại, quyền được tham gia vào các quyết định của cộng đồng
Nghèo đói thường phản ánh ở ba khía cạnh:
+ Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản tối thiểu của con người
+ Có mức sống thấp dưới mức trung bình của cộng đồng dân cư nơi cư
trú
+ Không được hưởng cơ hội lựa chọn, quyết định và tham gia vào quá
trình phát triển cộng đồng
(Nguồn: Trợ giúp xã hội, NXB Lao động Xã hội, 2008, Trang 131, 132)
1.1.2. Khái niệm hộ nghèo


Khái niệm
Theo Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Các hộ gia đình có thu nhập bình
quân tính theo đầu người nằm dưới giới hạn nghèo được gọi là hộ
nghèo.Theo đánh giá chung của nhiều nước, hộ có thu nhập dưới 1/3 mức
trung bình của xã hội là hộ nghèo”
Hộ nghèo và cận nghèo cũng được Đảng và Nhà nước ta quy định một
cách rõ ràng và cụ thể hơn như sau:
Theo Quyết định 09/2011/QĐ-TTg về việc ban hành chuẩn hộ nghèo,
hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 – 2015:
- Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống
- Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đông/người/năm) trở xuống
- Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ
401.000 đồng – 520.000 đồng/người/tháng
- Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000
đồng – 650.000 đồng/người/tháng

17




Đặc điểm hộ nghèo
Theo định nghĩa của World Bank, nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở
nhiều phương diện: Thu nhập hạn chế, hoặc thiếu cơ hội tạo ra thu nhập, thiếu
tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn và dễ bị tổn thương
trước những đột biến bất lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và khó khăn
tới những người có khả năng giải quyết.
Thứ nhất, hộ nghèo “chủ yếu là các hộ nông dân”, chiếm trên 80% số
nguời nghèo.Hộ nông dân nghèo với trình độ học vấn thấp, trình độ tay nghề
thấp và khả năng tiếp cận đến các thông tin và kỹ năng chuyên môn, nguồn
vốn bị hạn chế, có ít đất canh tác hoặc không có đất nhưng có rất ít cơ hội có
thể tạo ra thu nhập ổn định từ các hoạt động phi nông nghiệp.Những người
sống dưới ngưỡng nghèo thường là thành viên của những hộ có chủ hộ là
nông dân tự do.
Thứ hai, hộ nghèo “là những hộ không có thu nhập ổn định từ công ăn
việc làm, từ các khoản chuyển nhượng của phúc lợi xã hội”.Tại nhiều quốc
gia, nhiều vùng “chi tiêu có một công việc tốt” hay có “lương hưu” là những
tiêu chuẩn để xếp các hộ vào các nhóm sung túc hơn mặc dù thu nhập từ
những nguồn này thường không cao, song ý nghĩa chủ yếu của chúng là sự ổn
định và đảm bảo.
Mức độ cải thiện thu nhập của người nghèo chậm hơn nhiều so với mức
sống chung và đặc biệt với nhóm có mức sống cao.Sự gia tăng chênh lệch thu
nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất (từ 7,3 lần năm 1993 lên
8,9 lần năm 1998) cho thấy, tình trạng tụt hậu của người nghèo (trong mối
tương quan với người giàu). Mặc dù, chỉ số nghèo đói có cải thiện, nhưng
mức cải thiện ở nhóm người nghèo chậm hơn so với mức chung và đặc biệt so

với những người có mức sống cao. Hệ số chênh lệch mức sống giữa thành thị
và nông thôn còn rất cao
Thứ ba, Hộ nghèo “là những hộ có trình độ thấp”.Do vậy, bản thân các
hộ nghèo đều hiểu được rằng trình độ học vấn là chìa khóa quan trọng để
thoát nghèo.Ở thành thị, các thành viên trong hộ cần phải có trình độ cao hơn
18


mức phổ thông cơ sở thì mới có cơ hội kiếm được một công việc ổn định. Ở
nông thôn, các hộ thường gắn tầm quan trọng của học hành với khả năng nhận
biết những cơ hội mới và nắm bắt được các kỹ thuật mới, khả năng biết đọc,
biết viết, khả năng tính toán, ngôn ngữ, kỹ thuật là chỉ tiêu được đánh giá
cao.Việc tiếp xúc với cán bộ khuyến nông, quan hệ với những người ở ngoài
cộng đồng, tiếp cận với thông tin và các phương tiện thông tin đại chúng đã
trở thành những lĩnh vực ưu tiên quan trọng đối với các hộ nghèo.
Thứ tư, “các hộ có nhiều trẻ em và phụ nữ sống độc thân thường là
các hộ nghèo”. Các hộ này thường chỉ không có ít lao động hơn so với miệng
ăn trong gia đình mà còn phải trả các chi phí giáo dục lớn hơn cũng như phải
chịu thêm các chi phí khám chữa bệnh, gây mất ổn định cho kinh tế gia đình.
Những hộ bị mất lao động, trưởng thành do bị chết, bỏ gia đình đi hoặc tách
ra khỏi hộ thường được cộng đồng xếp vào nhóm hộ nghèo nhất, đây thường
là hộ do phụ nữ làm chủ hộ. Theo thống kê, phụ nữ sống độc thân phần lớn là
nghèo hơn so với những hộ nam giới sống độc thân. Phụ nữ nông dân ở vùng
sâu, vùng xa, nhất là nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ cao tuổi là những người
nghèo dễ bị tổn thương nhất. Phụ nữ nghèo lao động nhiều thời gian hơn,
nhưng thu nhập ít hơn, họ ít có quyền quyết định trong gia đình và cộng đồng
do đó họ ít có cơ hội tiếp cận với các nguồn lực và lợi ích do chính sách mang
lại.
Thứ năm, các hộ nghèo “thường là nạn nhận của tình trạng nợ
nần”.Nguy cơ dễ bị tổn thương bởi những khó khăn theo thời vụ, bởi những

đột biến xảy ra với hộ gia đình và những cuộc khủng hoảng xảy ra với cộng
đồng là một khía cạnh quan trọng của nghèo đói. Những hộ nghèo ít vốn hoặc
ít đất đai và những hộ chỉ có khả năng trang trải được các chi tiêu của lương
thực và phi lương thực thiết yếu khác đều rất dễ bị tổn thương trước mọi biến
cố. Nhiều hộ gia đình tuy mức thu nhập trên ngưỡng nghèo, nhưng vẫn giáp
ranh với ngưỡng nghèo đói. Do vậy, khi có những lao động về thu nhập cũng

19


có thể khiến họ trượt xuống ngưỡng nghèo.Tính mùa vụ trong nông nghiệp
cũng tạo nên khó khăn cho người nghèo.
Cơ hội là một trong những kênh quan trọng nhất để giảm nghèo. Cơ hội
có thể được xem là sự kết hợp giữa hai yếu tố: Sở hữu tài sản (hoặc ít nhất
được tiếp cận với tài sản) và tạo ra lợi nhuận từ tài sản đó. Nhiều khi tài sản
chính của người nghèo chỉ là sức lao động, nhưng nếu không có những hoạt
động sử dụng sức lao động đó để tạo ra thu nhập tốt thì một mình tài sản này
không đủ để đảm bảo cho sự tồn tại của họ. Đó chính là các hoạt động sản
xuất kinh doanh ở bất kỳ quy mô nào, nhưng để tiến hành các hoạt động này
phải có vốn. Thiếu vốn kết hợp với thiếu cách làm ăn hiệu quả sẽ dẫn đến
nghèo đói.


Khái niệm chuẩn nghèo
“Chuẩn nghèo là số tiền đảm bảo mức tiêu dùng thiết yếu (bao gồm cả
lương thực thực phẩm và phi lương thực thực phẩm) cho 1 người trong 1
tháng.Những hộ dân cư có thu nhập bình quân đầu người dưới chuẩn nghèo
là hộ nghèo. Thu nhập thực tế là thu nhập hiện hành của hộ dân cư tại thời
gian điều tra sau khi đã loại trừ ảnh hưởng của giá cả theo thời gian (theo
tháng) và không gian (theo thành thị, nông thôn các vùng)”. (Bộ LĐ – TBXH,

sđd)
Tại Việt Nam ngưỡng nghèo được đánh giá thông qua chuẩn nghèo,
dựa trên các tính toán của các cơ quan chức năng như Tổng cục Thống kê hay
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
Chuẩn nghèo theo Tổng cục Thống kê được xác định dựa trên cách tiếp
cận của Ngân hàng Thế giới (WB) gồm hai mức:
+ Nghèo lương thực thực phẩm: Tổng chi dùng chỉ tính riêng cho phần
lương thực thực phẩm, làm sao để đảm bảo lượng dinh dưỡng tối thiểu cho
một người là 2100 kcal/ ngày/ đêm.
+ Nghèo chung: Tổng chi dùng cho cả giỏ tiêu dùng tối thiểu, được xác
định bằng cách ước lượng tỷ lệ; 70% chi dùng dành cho lương thực thực
phẩm; 30% cho các khoản còn lại.
20


Theo cách xác định trên, năm 1998 chuẩn nghèo lương thực thực phẩm
của Việt Nam bằng 107.234 VND/tháng, chuẩn nghèo chung bằng 149.156
VND/tháng. Năm 2006 các mức chuẩn này đã được xác định lại để đánh giá
chính xác ngưỡng nghèo cho các thời điểm, các mức chuẩn cần hiệu chỉnh lại
theo chỉ số giá tiêu dùng.
Chuẩn nghèo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội được xác định
một cách tương đối bằng cách làm tròn số và áp dụng cho từng khu vực và
vùng miền khác nhau (nông thôn miền núi, hải đảo, nông thôn đồng bằng,
thành thị).
1.1.2.3. Chuẩn nghèo của Việt Nam hiện nay
Xét theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội,
Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 09/2011/QĐ-TTg về việc ban hành
chuẩn hộ nghèo giai đoạn 2011 – 2015 như sau:
Hộ nghèo
Hộ cận nghèo


Thành thị
500.000đ/người/tháng
501.000 đến

Nông thôn
400.000đ/người/tháng
401.000 đến

650.000đ/người/tháng

520.000đ/người/tháng

(Nguồn: Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ)

21


1.1.3. Khái niệm nông nghiệp
Theo Từ điển Tiếng Việt: “ Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ
bản của xã hội, sử dụng đất đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây
trồng và vật nuôi là tư liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương
thực thực phẩm và một số nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp là một
ngành sản xuất lớn, bao gồm nhiều chuyên ngành: Trồng trọt, chăn nuôi, sơ
chế nông sản; theo nghĩa rộng, còn bao gồm cả lâm nghiệp, thủy sản”.
Khái niệm ngành nông nghiệp, cũng được Chương trình ESP (Chương
trình đi làm việc tại Hàn Quốc theo luật cấp phép việc làm cho lao động nước
ngoài của Hàn Quốc) định nghĩa lại một cách cụ thể và ngắn gon hơn như
sau: “Ngành nông nghiệp là hoạt động sử dụng đất đai để trồng trọt và chăn
nuôi các cây trồng và vật nuôi hữu ích cho con người”.

Xét theo tầm quan trọng của ngành nông nghiệp thì nông nghiệp được
định nghĩa như sau: “Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã
hội, cung cấp nhiều loại sản phẩm thiết yếu cho đời sống xã hội, là thị trường
rộng lớn của nền kinh tế, cung cấp nhiều nguồn nhân lực và tạo nên tích lũy
ban đầu cho sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước”.
1.1.4. Khái niệm chính sách
Theo từ điển bách khoa toàn thư định nghĩa “Chính sách là tập hợp
các chủ trương và hành động về phương diện nào đó của Chính phủ.Nó bao
gồm các mục tiêu kinh tế - văn hóa – xã hội – môi trường mà chính phủ muốn
đạt được và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó”.
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 1988 “Chính sách là những sách lược và
kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính
trị và tình hình thực tế mà đề ra” hay “Chính sách là các chủ trương và các
biện pháp của một đảng phái, một chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã
hội”.
Theo Franc Ellis cho rằng “trên tầm vĩ mô, chính sách được xem như
đường lối hành động mà Chính phủ lựa chọn đối với quản lý nhà nước về một
22


lĩnh vực nào đó, có thể là kinh tế, xã hội và môi trường” (Nguồn: Franc
Ellish “Chính sách nông nghiệp trong các nước đang phát triển”, NXB Nông
nghiệp 1995, trang 23)
Samuelson cho rằng: “Ngay cả khi Chính phủ không đưa ra một chính
sách trong bối cảnh bất đắc dĩ nào đó để thực hiện mục đích nào đó, thì đó
cũng là một kiểu chính sách” (Nguồn: Paul Samuelson, “Kinh tế học”, Viện
kinh tế học, Bộ Ngoại giao, tập I trang 117)
Theo Jones (1984) thì chính sách luôn gồm các yếu tố bao gồm:
+ Dự định: Là mong muốn của người làm (hoạch định) chính sách
+ Mục tiêu: Cụ thể hóa dự định thành tích cần đạt tới

+ Đề xuất giải pháp: Cách thức tác động để nhằm đạt được mục tiêu
+ Quyết định lực chọn giải pháp để triển khai thực hiện
Theo Ngô Đức Cát và Vũ Đình Thắng cho rằng, chưa có định nghĩa
thống nhất về “chính sách” và đưa ra cách hiểu về “chính sách” là “phương
pháp can thiệp” của Nhà nước nhằm mục tiêu nào đó và trong thời hạn nhất
định.
Từ những định nghĩa trên, Giáo trình Xây dựng và phân tích chính sách
nông nghiệp, nông thôn của TS.Chu Tiến Quang đã định nghĩa lại một cách
khái quát và cụ thể nhất.Tác giả của giáo trình này cho rằng: “Chính sách là
tập hợp các chủ trương, quan điểm, giải pháp, công cụ nhằm đạt những mục
tiêu nhất định. Quá trình hình thành chính sách có sự tác động của nhiều yếu
tố.Trước hết là sự nảy sinh một vấn đề kinh tế - xã hội nào đó cần giải
quyết.Trên cơ sở thực tế vấn đề và mong muốn, Chính phủ sẽ lựa chọn mục
tiêu cần đạt, đưa ra giải pháp và công cụ trên cơ sở cân nhắc các điều kiện
kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, tâm lý nhân dân … để hiện thực hóa được
chủ trương đã định” (Nguồn:Xây dựng và phân tích chính sách nông nghiệp,
nông thôn, NXB Giáo dục và đào tạo, năm 2010)
Theo cách tiếp cận này thì Chính sách được hiểu là:
23


- Chính sách chính là phương thức tác động của chủ thể vào khách thể
để đạt tới mục tiêu mà chủ thể mong muốn, tương tự như định nghĩa về
“Quản lý là một quá trình, trong đó chủ thể quản lý tác động lên khách thể
quản lý để đạt tới mục tiêu do chủ thể quản lý đưa ra”.
- Chính sách còn là công cụ của quá trình quản lý mà Người quản lý tác
động lên đối tượng bị quản lý.
- Chủ thể chính sách là các cơ quan ban hành và thực thi chính sách
gồm Đảng, Chính phủ, Quốc hội, các Bộ ngành, khách thể chính sách hay đối
tượng điều chỉnh của chính sách là những cá nhân, tổ chức, Doanh nghiệp, hộ

gia đình mà chính sách sẽ tác động vào.
Như vậy có thể thấy rằng: “Chính sách là một phạm trù của khoa học
quản lý, nó đề cập các giải pháp tác động của Chủ thể đến khách thể, có
phạm vi rộng từ cấp vĩ mô (quốc gia, chính phủ) tới các cấp địa phương như
tỉnh, huyện, xã và tới từng đơn vị kinh tế - xã hội trong một hệ thống kinh tế xã hội xác định”.
Điểm chung nhất trong khái niệm về chính sách, dù ở cấp độ nào cũng
là một trong các công cụ của quản lý.Phải có 3 nhóm yếu tố, đó là: Chủ thể,
khách thể và mục tiêu của chính sách.
Mỗi chính sách đều phục vụ cho một hoặc một vài mục tiêu nhất định,
do một chủ thể nào đó đưa ra và tác động (ảnh hưởng) đến một hoặc một số
khách thể (đối tượng hưởng lợi) nhằm đạt tới mục tiêu đã xác định.
Vì vậy, mỗi chính sách phải có: Chủ thể, khách thể và mục tiêu của
nó.Chính sách sẽ là vô nghĩa hay không khả thi khi nó không xác định được 3
nhóm nhân tố nói trên hay nói cách khác là chính sách bắt nguồn từ ý chí của
chủ thể, không định được khách thể (đối tượng hưởng lợi) và không đưa ra
được mục tiêu cần đạt tới.
1.1.5. Khái niệm chính sách xã hội
Chính sách xã hội là loại chính sách được thể chế hóa bằng pháp luật
của Nhà nước thành một hệ thống, quan điểm, chủ trương, phương hướng và
biện pháp để giải quyết những vấn đề xã hội nhất định, trước hết là những
24


vấn đề xã hội liên quan đến công bằng xã hội và phát triển an sinh xã hội,
nhằm góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội.
(Nguồn: PGS.PTS Trần Đình Hoan, Chính sách xã hội và đổi mới cơ
chế quản lý trong việc, NXB Chính trị quốc gia, 1996)
1.1.6. Khái niệm Chính sách Nông nghiệp nông thôn
1.1.6.1. Khái niệm
Chính sách Nông nghiệp là tổng thể các giải pháp và công cụ do Nhà

nước với tư cách là chủ thể quản lý xã hội xây dựng và tổ chức thực hiện để
giải quyết những vấn đề chính sách nhằm thực hiện mục tiêu phát triển nông
nghiệp nông thôn.
Chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn:
Là “tổng thể các giải pháp của Nhà nước tác động vào nông nghiệp,
nông thôn theo những mục tiêu nhất định và trong khoảng thời gian nhất
định”.
- Từ điển bách khoa toàn thư đưa định nghĩa: “Chính sách phát triển
nông thôn là tập hợp các chủ trương và hành động của Chính phủ về cung
cấp các yếu tố đầu vào (đất đai, lao động, vốn, cơ sở hạ tầng); đầu ra (sản
phẩm) của nông nghiệp, nông thôn; làm thay đổi tổ chức sản xuất; chuyển
giao công nghệ…”.
- Chính sách đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn rất rộng, bao
gồm cả pháp luật, cơ chế, chế độ do Nhà nước ban hành, được áp dụng phù
hợp đối với từng đối tượng của nông nghiệp, nông thôn và bao gồm các nhóm
chính sách: kinh tế, xã hội và môi trường diễn ra ở nông thôn.
- Mục tiêu của chính sách nông nghiệp, nông thôn bao gồm:
+ Tạo sự tăng trưởng không ngừng về kinh tế.
+ Gia tăng không ngừng các loại phúc lợi xã hội, dân trí và đời sống
tinh thần cho cộng đồng dân cư nông thôn.

25


×