Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Sáng kiến dạy học Mot so phuong phap hinh thanh tu duy lap trinh giup hoc sinh giai bai tap trong tin hoc 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.95 KB, 39 trang )

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU.........................................................................................................................3
1. Lý do viết sáng kiến:...................................................................................................................3
2. Mục tiêu của sáng kiến:.............................................................................................................6
3. Giới hạn của sáng kiến:..............................................................................................................6
3.1. Đối tượng nghiên cứu:......................................................................................................................... 6
3.2. Không gian thực hiện:.......................................................................................................................... 6
3.3. Thời gian thực hiện:............................................................................................................................. 6

B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN.....................................................................................................7
1. Cơ sở viết sáng kiến:..................................................................................................................7
1.1. Cơ sở khoa học:................................................................................................................................... 7
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý:...................................................................................................................... 10

2. Thực trạng của vấn đề:.............................................................................................................12
3.2. Phương thức thực hiện cụ thể:.......................................................................................................... 19
3.2.1. Cách truyền đạt:......................................................................................................................... 19
3.2.2. Phương pháp dạy học:................................................................................................................ 23

1


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Cụm từ viết tắt

Cụm từ đầy đủ

HS

Học sinh



GV

Giáo viên

THPT

Trung học phổ thông

MS

Microsoft

GD & ĐT

Giáo dục và đào tạo

SGK

Sách giáo khoa

PPDH

Phương pháp dạy học

2


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do viết sáng kiến:

Sao môn Pascal lại khó? Theo thói quen của nhiều em học sinh, học môn
tin là học những thao tác sử dụng như cách sử dụng internet, sử dụng hệ điều
hành Windows, chương trình soạn thảo văn bản MS Word, chương trình soạn
thảo trình diễn MS PowerPoint… Đây là những phần học không cần đòi hỏi tư
duy, mà chỉ cần học kĩ và nhớ thao tác, thực hành nhiều lần thì sẽ thành thạo.
Nhưng khi học bộ môn lập trình Passal lớp 11 THPT thì hầu như các em
bị bất ngờ vì bộ môn rất mới, và cách học cũng mới. Học những thao tác và thực
hành nhiều không còn tác dụng, học thuộc bài cũng không còn ổn nữa. Lúc này
các em cần phải học cách tư duy logic, tìm thuật toán, và viết những dòng lệnh
máy tính chính xác đến từng dấu chấm, dấu phẩy.
Tại sao lại học Pascal? Pascal là một ngôn ngữ lập trình cấp cao do
Niklaus Wirth, giáo sư điện toán trường đại học Kỹ thuật Zurich (Thụy Sĩ) thiết
kế và công bố vào năm 1971 và đặt tên là Pascal để tưởng niệm nhà Toán học và
Triết học nổi tiếng Blaise Pascal. Đây là một ngôn ngữ lập trình có cấu trúc đơn
giản, rõ ràng, cấu trúc chặt chẽ, dễ viết, dễ hiểu cũng như dễ sửa chữa, cải tiến.
Do đó Pascal được nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam đưa vào chương trình
giảng dạy tin học ở các trường phổ thông và đại học như một môn học cơ sở, đại
cương.
Ở trường phổ thông chúng ta không chú trọng học chuyên sâu về ngôn ngữ
lập trình để tạo ra các phần mềm máy tính mà tập trung rèn luyện kĩ năng tư duy
logic, tư duy hệ thống và sáng tạo không chỉ để giải quyết những vấn đề trong
tin học mà đây còn là những kĩ năng vô cùng quan trọng để giải quyết nhiều vấn
đề trong cuộc sống.
Học Pascal giúp cho ta hiểu được cách làm việc của máy tính, cách giao tiếp
để ra lệnh cho máy tính làm việc theo sự điều khiển của con người thông qua
ngôn ngữ lập trình. Các em có thể tạo ra các chương trình thú vị bằng cách sử
3


dụng các câu lệnh Pascal. Cũng giống như những môn học khác như toán học,

vật lý, hóa học… khi các em đã thực sự hiểu và yêu thích bộ môn tin học các em
sẽ tìm thấy nhiều niềm vui, sự đam mê khi tìm hiểu và khám phá những điều
mới mẻ nhưng đầy hấp dẫn trong bộ môn tưởng chừng như khô khan này.
Tuy nhiên, lập trình là môn học hướng dẫn học sinh cách giải các bài toán
bằng cách viết chương trình trên máy tính. Vì là môn học mới đối với đa số học
sinh nên phần đông các em không nắm bắt được kiến thức để vận dụng vào giải
bài tập. Có thể nói chương trình dạy lập trình Pascal trong Tin học lớp 11, ngôn
ngữ lập trình ít nhiều đang gây khó khăn cho các em học sinh mới bắt đầu tìm
hiểu học lập trình.
Pascal được chọn sử dụng để dạy ngôn ngữ lập trình cho học sinh phổ thông
vì 30 năm trước nó không có đối thủ về mặt diễn tả thuật toán một cách trong
sáng. Nhưng trong những năm gần đây, Pascal mất ưu thế về mọi mặt và có một
số nhược điểm so với một số ngôn ngữ khác như: Giao diện chương trình không
thân thiện, dễ gây sự nhàm chán cho học sinh; về mặt cú pháp nó chỉ dễ đọc đối
với những học sinh các nước nói tiếng Anh; không có tính thực tiễn, nên không
gây hứng thú cho học sinh, tạo sự yêu thích và kỹ năng lập trình cho học sinh.
Về chương trình Pascal hiện tại của học sinh lớp 11:
Thứ nhất, áp dụng công thức Toán học quá nhiều. Học sinh phải có kiến thức
tốt về toán học thì mới giải được các bài tập trong sách giáo khoa. Điều này thực
sự khó đối với các em học sinh ở vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn như huyện
Sốp Cộp, thực tế các em vốn không có nhiều kiến thức về Toán học (các bài toán
cơ bản nhất các em còn chưa giải quyết được). Vì vậy để áp dụng tư duy theo lối
lập trình lại càng khó hơn.
Thứ hai, đa phần các bài tập liên quan đến tính toán hoặc thuần về toán học,
không gắn liền với thực tiễn. Ngôn ngữ lập trình Pascal đòi hỏi sự tư duy rất
cao, tuy nhiên mức độ tư duy của các em còn hạn chế và không đồng đều trong
một lớp học. Không kích thích tư duy sáng tạo của học sinh. Học sinh chỉ cố
gắng hoàn thành một cách bị động các bài tập giáo viên cho, nhiều em chỉ trông
4



chờ bài giảng của giáo viên để chép vào vở. Từ đó học sinh sẽ dễ chán và chỉ
học để đối phó với môn học này.
Thứ ba, học sinh chưa hiểu được lập trình để làm gì ngoài việc tính toán với
các con số. Học sinh sẽ tự hỏi lập trình Pascal có ứng dụng như thế nào trong
thực tế. Học sinh sẽ rất khó hình dung được các ứng dụng mà lập trình có thể
làm được trong thực tế nếu chỉ căn cứ vào lý thuyết thuần túy do giáo viên
truyền đạt.
Thứ tư, học sinh khó kiểm tra bài làm của mình sau khi lập trình là đúng hay
là sai. Có thể trên lý thuyết là đúng nhưng thực tế có thể sẽ có những trường hợp
thiếu chính xác, thường sẽ có một khoảng sai số nhất định nào đó.
Thứ năm, khả năng làm việc theo nhóm của học sinh còn nhiều hạn chế, một
người không thể thiết kế được thuật toán hoàn chỉnh nhất, bởi vì sẽ có nhiều ý
tưởng hay hơn để thảo luận, do vậy đòi hỏi các em phải làm việc theo nhóm.
Làm việc theo nhóm giúp các em rèn luyện tư duy lập trình, trau dồi kỹ năng
giao tiếp, kỹ năng phối hợp với người khác. Khi đã thành công ở một vài thuật
toán cơ bản, các em có thể tiếp tục tìm đến những thuật toán phức tạp hơn với
nhiều người tham gia hơn. Đó có thể là những thuật đòi hỏi kết hợp nhiều kiểu
dữ liệu, nhiều kết quả ra, chẳng hạn như: kết hợp kiểu mảng với kiểu tệp, kiểu
xâu với kiểu tệp hoặc viết chương trình con… Để thực hiện khả năng làm việc
theo nhóm không những các em thảo luận trên lớp, mà còn có thể tự hoạt động ở
nhà, chủ động liên kết với nhau thành từng nhóm học (có thể là hai người, ba
người hoặc nhiều hơn nữa). Điều quan trọng nhất là các em phải học được cách
hợp tác với người khác để thực hiện những mục tiêu chung.
Qua một thời gian giảng dạy ở trường, tôi nhận thấy khi học Pascal học sinh
thường không thích thú với môn học này vì nhiều lý do như khó hiểu, tiếp thu
chậm, đòi hỏi tư duy nhiều, … nên việc viết được một chương trình chạy được
trên máy tính đối với các em rất khó khăn. Do đó để học tốt đòi hỏi học sinh
phải có hứng thú. Cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học là giúp học
sinh yêu thích, hứng thú với môn học, hướng tới việc học tập chủ động, chống

5


lại thói quen học tập thụ động. Vì vậy tôi đã mạnh dạn nghiên cứu Sáng kiến
“Một số phương pháp hình thành tư duy lập trình giúp học sinh giải bài tập
trong tin học 11” để áp dụng dạy học tại trường THPT Sốp Cộp.

2. Mục tiêu của sáng kiến:
- Hệ thống bài tập Pascal tạo sự hứng thú cho học sinh trong quá trình học.
- Do Pascal khó hiểu, khô khan, khó tư duy,… nên các phương pháp giảng dạy
môn Pascal phù hợp là rất cần thiết.
- Giúp học sinh dễ hiểu, dễ tiếp cận nội dung chương trình học một cách hứng
thú, tích cực và chủ động hơn.
- Nghiên cứu thực nghiệm, nghiên cứu khảo sát, và thông qua đồng nghiệp.

3. Giới hạn của sáng kiến:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Chương trình Tin học 11; chỉ áp dụng đối với học sinh lớp 11 THPT.
3.2. Không gian thực hiện:
- Thực hiện tại trường THPT Sốp Cộp.
3.3. Thời gian thực hiện:
- Áp dụng giảng dạy từ năm học 2015 – 2016.

6


B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Cơ sở viết sáng kiến:
1.1. Cơ sở khoa học:
Thế nào là tư duy? Tư duy là phạm trù triết học dùng để chỉ những hoạt

động của tinh thần, đem những cảm giác của người ta sửa đổi và cải tạo thế giới
thông qua hoạt động vật chất, làm cho người ta có nhận thức đúng đắn về sự vật
và ứng xử tích cực với nó.Vậy khi học chúng ta có phải tư duy không? Tất nhiên
là có và đó là điều kiện bắt buộc đối với các môn học nói chung, tập trung nhiều
hơn ở các môn tự nhiên trong đó có Tin học.
Tư duy được hình thành như thế nào? Đây là một câu hỏi tương đối phức
tạp và có phạm trù trả lời rất rộng, chúng ta có thể tóm tắt một số ý chính như
sau:
Khi đưa ra nhận xét về vai trò của những hoạt động sống trong đời sống
của con người cũng như con vật, C.Mác đã phân biệt rõ: "Con vật đồng nhất trực
tiếp với hoạt động sinh sống của nó. Nó không tự phân biệt nó với hoạt động
sinh sống của nó. Nó là hoạt động sinh sống ấy. Còn con người thì làm cho bản
thân hoạt động sinh sống của mình trở thành đối tượng của ý chí và của ý thức
của mình. Hoạt động sinh sống của con người là hoạt động sinh sống có ý thức.
Đó không phải là cái tính quy định mà con người trực tiếp hòa làm một với nó.
Hoạt động sinh sống có ý thức phân biệt trực tiếp con người với hoạt động sinh
sống của con vật. Con người phân biệt với con vật bởi hoạt động sinh sống có ý
thức của họ. Nhưng ý thức là gì mà với nó, trong hoạt động của mình, con người
tự phân biệt với con vật? Trả lời vấn đề này, C.Mác cho rằng, ý thức "chẳng qua
chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi
ở trong đó", còn V.I.Lênin thì cho rằng, ý thức là phản ánh chủ quan của thế giới
khách quan".
Lao động là phương thức hoạt động sinh sống của con người. Trong lao
động diễn ra một quá trình gồm hai chiều liên quan mật thiết với nhau. Chiều
7


thứ nhất, hoạt động được vật hoá vào trong sản phẩm, tác lao động chuyển từ
hình thái "động" sang hình thái "tĩnh”. Chiều thứ hai, "di chuyển" các khách thể
vào bộ não người, cải biến đi và tạo ra trong đó những hình ảnh chủ quan hay ý

thức. Chiều thứ hai chính là hoạt động phản ánh của con người, hoạt động sản
sinh ra ý thức.
Thoạt đầu, ý thức thường chỉ là những hình ảnh của con người về thế giới
các sự vật, hiện tượng bên ngoài. Sự phát triển xã hội ngày càng làm cho lao
động trở thành phương thức sinh sống duy nhất của tồn tại người và do đó, cũng
làm cho ý thức trở thành hình thức phản ánh phổ biến mang đặc trưng người.
Khi đó, ý thức được mở rộng ra và bao quát toàn bộ đời sống con người, cả thế
giới các sự vật, hiện tượng bên ngoài lẫn hoạt động của con người và do vậy,
bản thân hoạt động với đối tượng cũng được con người ý thức, tức là con người
ý thức về các hành động của chính mình. Đây chính là điều mà theo C.Mác, nhờ
nó, con người biến bản thân hoạt động sinh sống của mình thành đối tượng của ý
thức. Và, chỉ khi con người ý thức được hoạt động của mình thì khi đó, mới có
sự "di chuyển" (có cải biến) hoạt động vật chất bên ngoài vào trong đầu óc họ và
cũng chỉ khi đó, không chỉ đối tượng và kết quả hoạt động, mà cả những hành
động và thao tác thực tiễn của con người mới được phản ánh vào trong đầu óc
họ. Lúc này, những hành động và thao tác thực tiễn bên ngoài của con người trở
nên có ý nghĩa điệu bộ, thông báo và lời nói, chúng được ghi lại, giữ lại và cải
biến đi trong bộ não của họ thành những hành động và thao tác trí óc, làm cho
"ý thức - hình ảnh” trở thành "ý thức - hoạt động".
Ý thức - hoạt động, về đại thể, cũng có mặt xúc cảm và mặt nhận thức.
Mặt xúc cảm vẫn tạo ra những tình cảm xác định mục đích và gán giá trị cho các
mục tiêu hành động của con người. Nhưng lúc này, xúc cảm có trình độ cao hơn,
nó trở thành một hoạt động bên trong ý thức và những đánh giá do nó thực hiện
được nâng lên dưới sự chỉ dẫn của tri thức, làm cho các tình cảm hàm chứa yếu
tố trí tuệ nhiều hơn. Mặt nhận thức vẫn là hoạt động nắm bắt khách thể cùng các
phương thức và phương tiện hoạt động, sản sinh ra những tri thức cung cấp kỹ
8


thuật cho các hành động của con người. Song lúc này, nhận thức đã được nâng

lên trình độ cao hơn, trở thành một hoạt động trí óc diễn ra ngay bên trong các
hiện tượng ý thức.
Với những tri thức có nội dung hoạt động thì một dạng nhận thức cao hơn
của con người xuất hiện, đó là tư duy. Nếu nhận thức nói chung được hiểu là sự
phản ánh có cải biến thế giới khách quan trong đầu óc con người và sản sinh ra ở
trong đó những tri thức, thì tư duy là kệ tri thức hoạt động sản sinh ra tri
thức. Tư duy là mặt nhận thức của. ý thức - hoạt động và do vậy, nếu không có
nhận thức, không có ý thức thì con người cũng không có tư duy. Dĩ nhiên, không
phải cứ có nhận thức và ý thức là con người đã có tư duy. Con người có tư duy
khi nhận thức của họ phản ánh được hoạt động vào trong ý thức. Điều đó cho
thấy, tư duy không hoàn toàn đồng nhất với ý thức, nó là mặt nhận thức của ý
thức - hoạt động. Tư duy cũng không đồng nhất với nhận thức nói chung, mà là
nhận thức ở trình độ cao, trình độ con người phản ánh được hoạt động của họ
vào trong ý thức. Sự xuất hiện của tư duy đánh dấu bước phát triển căn bản của
nhận thức con người, khi nhận thức đạt tới trình độ có thể nắm bắt được bản
chất, quy luật của hiện thực khách quan. Cùng với tư duy của mình, con người
chính thức trở thành chủ thể của các quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội của
mình.
Như vậy, có thể thấy để có thể hình thành tư duy chúng ta phải trải qua
quá trình lâu dài, làm quen với những sự vật, hiện tượng từ đó có những phát
hiện, cách giải quyết vấn đề sao cho hợp lý, ổn thỏa hoặc tìm ra kết quả như ý
muốn. Tóm lại là ta cần phải có tư duy để áp dụng trong các vấn đề, các bài toán
cụ thể. Vậy chúng ta có áp dụng lập trình được không, trong khi rất nhiều thế hệ
học sinh luôn cho rằng lập trình rất khó hiểu, khó nắm bắt, thậm chí là không
giải quyết được. Tất nhiên là có, tư duy là điều không thể thiếu được khi chúng
ta giải toán nói chung và lập trình nói riêng. Nó là tiền đề, là cốt lõi, việc hình
thành tư duy và thói quen tư duy của mỗi em học sinh là rất quan trọng, và cũng
là cơ sở tất yếu để học lập trình.
9



1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý:
*) Cơ sở chính trị:
Hiện nay, việc nâng cao chất lượng dạy và học đang là vấn đề được Đảng,
Nhà nước, các cơ sở giáo dục và toàn xã hội quan tâm. Trong điều kiện phát
triển nền kinh tế hội nhập như ngày nay thì việc nâng cao chất lượng giáo dục để
đảm bảo mỗi con người sau khi rời môi trường học tập sẽ được trang bị không
chỉ là kiến thức mà còn cả những kĩ năng để dễ bắt nhịp vào cuộc sống, tham gia
lao động sản xuất và đạt kết quả cao là việc làm vô cùng cần thiết.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung Ương 8 khóa
XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Nghị quyết đặt ra mục tiêu
cụ thể: “Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình
thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định
hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú
trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học,
năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn”. Đổi mới
chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí,
thể, mỹ.
Trong Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Thủ
tướng Chính phủ về phê duyệt chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020 có
khẳng định: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa,
hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế, thích ứng với nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển giáo dục gắn với phát
triển khoa học và công nghệ, tập trung vào nâng cao chất lượng, đặc biệt chất
lượng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành để một
mặt đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, đảm bảo an ninh quốc phòng; mặt khác phải chú trọng
thỏa mãn nhu cầu phát triển của mỗi người học, những người có năng khiếu
được phát triển tài năng”.
Trong Văn kiện đại hội XII của Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định:

10


“Đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp,
hình thức giáo dục đào tạo theo hướng coi trọng phát triển năng lực và phẩm
chất của người học”. Kế thừa quan điểm chỉ đạo của nhiệm kì trước, Đảng ta
đưa ra đường lối đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực Việt Nam trong thế kỷ XXI, khẳng định triết lý nhân sinh mới của nền
giáo dục nước nhà “dạy người, dạy chữ, dạy nghề”.
*) Cơ sở pháp lý:
Quan điểm về nội dung và phương pháp giáo dục của Nhà nước ta là giáo
dục toàn diện. Điều 5 Luật Giáo dục ghi rõ: “Nội dung giáo dục phải bảo đảm
tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại và có hệ thống; coi trọng giáo dục tư
tưởng và ý thức công dân; kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn
hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phù hợp với sự phát triển về
tâm sinh lý lứa tuổi của người học”. “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học”.
Như vậy, yêu cầu của thời đại mới đã đặt ra cho giáo dục và đào tạo vấn
đề: Làm thế nào, làm gì để nâng cao chất lượng, hiệu quả của giáo dục, đào tạo?
Một trong những yếu tố góp phần nâng cao chất lượng dạy và học là đa
dạng hóa các nguồn thông tin cho học sinh bằng nhiều phương tiện, tài liệu tham
khảo trong đó việc phát huy các nguồn tài liệu sẵn có trong các môn khoa học cơ
bản mà học sinh đã, đang và sẽ được học vừa là những minh chứng hiệu quả
nhất vừa là biện pháp để liên kết kiến thức tạo nên tính khoa học và thiết thực
của tri thức.
Mặt khác, chương trình môn học thuộc phạm vi Tin học 11 rất đặc trưng
vì từ đầu đến cuối khai thác ngôn ngữ lập trình Pascal là chủ yếu. Vì vậy, để học
sinh không nhàm chán trong việc học lập trình cần liên hệ thực tế gần gũi, hoặc
kết hợp với các môn học khác cùng nhóm tự nhiên như: Toán học, Vật lý, Hóa
học,… cho các em thấy rằng lập trình không hề khô khan hay đáng sợ. Từ đó,

giúp các em hình thành sơ đồ tư duy giữa các môn học với nhau.
11


Qua đây, ta có thể khẳng định việc hình thành tư duy trong lập trình là
rất cần thiết và không thể thiếu khi học về ngôn ngữ lập trình cũng như trong
giải quyết các bài toán nói chung, là phương pháp có hiệu quả trong giảng dạy,
đáp ứng yêu cầu giáo dục và thời kỳ hội nhập. Đặc biệt với học sinh miền núi
huyện Sốp Cộp, thuộc vùng sâu, vùng xa nhận thức còn hạn chế thì phương
pháp dạy học này sẽ giúp rèn luyện thói quen tư duy, nhận thức vấn đề một cách
có hệ thống và logic. Đồng thời thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các kiến
thức được học trong chương trình; phát huy được tính tích cực chủ động và sáng
tạo của học sinh; buộc học sinh chủ động tự đọc, tự làm việc độc lập theo SGK
và theo hướng dẫn của giáo viên.

2. Thực trạng của vấn đề:
2.1. Thuận lợi
Bộ GD & ĐT, Sở GD & ĐT Sơn La có nhiều chỉ đạo sát sao trong việc
triển khai và thực hiện đổi mới phương pháp dạy học. Cụ thể Bộ GD & ĐT đã
triển khai nhiều hoạt động thiết thực như kết nối trường học, dạy học theo
chuyên đề, cuộc thi tích hợp liên môn trong giảng dạy… Sở GD & ĐT Sơn La
triển khai rất nhiều đợt tập huấn về đổi mới PPDH tạo điều kiện tốt nhất cho
công tác giảng dạy của giáo viên và học sinh để bắt nhịp với xu thế giáo dục của
thế giới.
Đảng ủy trường THPT Sốp Cộp, Ban giám hiệu nhà trường, Tổ chuyên môn
quan tâm chỉ đạo thường xuyên, cụ thể đối với PPDH mới như: Soạn Kế hoạch
dạy học theo hướng mới có tích hợp năng lực học sinh và nhiệm vụ, kết quả và
sản phẩm của học sinh trong từng hoạt động trên lớp, sinh hoạt chuyên môn,
tham gia trường học trực tuyến, dự giờ, rút kinh nghiệm, sinh hoạt chuyên môn
theo nghiên cứu bài học. Tất cả những hoạt động này đều có yêu cầu cụ thể

hướng tới hình thành năng lực, để học sinh có năng lực đều phải có sự tư duy
đúng đắn trong từng vấn đề cần giải quyết.
12


Các giáo viên Tin học đều nhận thức đúng đắn và sâu sắc về vai trò của việc
hình thành tư duy cho học sinh trong giảng dạy lập trình. Từ đòi hỏi của thực
tiễn và môn học, giáo viên đã thường xuyên học tập nâng cao trình độ, cập nhật
thông tin lấy tư liệu để bổ sung, làm phong phú hơn cho bài giảng của mình. Do
đó, tạo nên sức thu hút lớn đối với học sinh. Đặc biệt, Tổ chuyên môn cũng đã
đưa các chuyên đề dạy học vào phân phối chương trình môn Tin học thực hiện
từ năm học 2015 – 2016; và có Kế hoạch hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong
năm học 2016 – 2017 đây là hoạt động thực tế, mới mẻ giúp học sinh hiểu rõ
hơn những vấn đề chưa được học trong SGK. Được trải nghiệm các em cảm
thấy mình được làm chủ kiến thức, kĩ năng thực hiện, làm được sản phẩm như
mong muốn mà đôi khi trên lớp các em chưa có được.
Nội dung chương trình dạy học đã có nhiều thay đổi, cải biên phù hợp với
yêu cầu thực tế của thời đại theo hướng tích hợp và giảm tải. Quan hệ giữa các
phần trong SGK đã được chắt lọc, dễ hiểu và lược bỏ những phần không quá
quan trọng đối với học sinh.
Đa số học sinh trường THPT Sốp Cộp ngoan và trong những năm qua cùng
với sự phát triển của đời sống xã hội các em đã xác định được vai trò quan trọng
của việc học đối với chính bản thân mình, chấp hành tốt nội quy trường lớp cũng
tạo điều kiện giúp giáo viên an tâm, tìm tòi những PPDH mới.
Hệ thống cơ sở vật chất của nhà trường tương đối đảm bảo cho việc thực
hiện giảng dạy, đổi mới phương pháp: có phòng tin học riêng, phòng thư viện,
phòng trình chiếu,…

2.2. Khó khăn
Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy chương trình Tin học 11 ở trường THPT

Sốp Cộp gặp phải một số khó khăn sau:
- Về mặt chương trình:

13


Có thể thấy, học sinh vừa đọc xong đề bài là kêu khó, không chịu tìm hiểu
xem đề bài yêu cầu gì. Những vấn đề này các em quên rằng đã được học việc
xác định bài toán ở lớp 10 rồi. Như vậy nền tảng kiến thức ở lớp dưới các em
không nắm được. Giáo viên phải hướng dẫn lại thao tác xác định rõ bài toán
(xác định thành phần Input và Output của bài toán). Đây là kiến thức cơ bản
nhất mà các em cần phải nắm được, giáo viên sẽ mất tương đối nhiều thời gian
cho việc truyền lại kiến thức cũ cho HS.
Lập trình là công việc sử dụng đến các cấu trúc câu lệnh bằng tiếng Anh, cần
phải tính toán nhiều, trong khi đây là một điểm yếu vì các môn học như: Tiếng
Anh, Toán học, Vật lý, Hóa học… rất nhiều em đều học không tốt.
Với tâm lí thông thường các em học sinh coi tin học là môn phụ, không quan
trọng nên nhiều em chủ quan không dành đủ thời gian để học nên không hiểu
bài và dần bị mất căn bản. Đây cũng là lí do mà nhiều em bị điểm kém, thậm chí
là thi lại bộ môn tin học mặc dù có thể có em học rất giỏi các môn học khác.
Khả năng tư duy, tìm hiểu bài của học sinh còn nhiều hạn chế, chưa xác định
được mục tiêu trong từng bài học cụ thể dễ dẫn đến nhàm chán không muốn học
lập trình. Nhiều em thường lầm tưởng học lập trình chỉ cần biết cơ bản là có thể
thành công, vì vậy các em ít quan tâm đến các kiến thức phức tạp hơn sau này.
Khi truyền đạt, giảng dạy Pascal trên lớp do đặc thù môn học này đòi hỏi
mức độ tư duy nhất định ở học sinh, các em khó tư duy nên giáo viên khi truyền
đạt kiến thức mới cũng như khi tìm thuật toán, cần đưa ra các vấn đề liên quan
đến cuộc sống giúp các em dễ hình dung được vấn đề cũng như công việc các
em phải giải quyết.
Vấn đề quan trọng và quyết định đến việc tạo hứng thú cho học sinh là hệ

thống bài tập. Tuy rằng có rất nhiều bài toán tương đương trong chương trình
học hoặc dễ hơn mà giáo viên giao học sinh cũng không hoàn thiện được, thậm
chí nhiều em còn không biết bắt đầu từ đâu.

14


Học sinh thường rất lười không chịu học bài. Đây không chỉ là vấn đề của
riêng môn Tin, thực tế do có nhiều vấn đề để các em xao nhãng trong việc học
tập như: trò chơi điện tử, mạng xã hội, đánh bi a … và một số yếu tố khách quan
khác.
Ngoài các nguyên nhân khách quan, quan trọng nhất vẫn là nguyên nhân chủ
quan từ phía học sinh đó là khó tạo sự yêu thích, đam mê từ môn học này mà
không đam mê thì rất khó học Pascal một cách tốt nhất, dễ dẫn đến tình trạng
học cho qua ngày, học đối phó.
Cũng có học sinh tiếp thu kiến thức chậm, không nắm được cú pháp và ý
nghĩa của các câu lệnh. Do đó, không vận dụng được kiến thức đó vào thực
hành, làm bài tập.
- Về mặt nhà trường:
Do điều kiện cơ sở vật chất chưa hoàn thiện, mặc dù được trang bị 3 phòng
máy tính với 24 máy mỗi phòng, nhưng máy móc cấu hình thấp, hư hỏng nhiều
do đã sử dụng lâu năm (cấp từ năm 2006). Vì vậy, việc thực hành trên máy ít
nhiều gây khó chịu cho các em với những lý do như hỏng hóc, trục trặc, chậm
chạp dẫn đến phải ngồi nhóm 4 - 5 người/máy, một số em ít khi được thao tác
thực tế chỉ nghe qua bài giảng của giáo viên trên lớp. Cho nên để có kết quả tốt
trong những giờ thực hành là không cao.
Số lượng máy chiếu ít, không đáp ứng được trong các giờ thực hành. Vì đây
là môn học đặc thù riêng cần có máy chiều kết hợp trong giảng dạy.
- Về mặt phụ huynh và gia đình:
Không giống như ở các thành phố lớn hay các trường học trung tâm, học

sinh trường THPT Sốp Cộp đa số là con em dân tộc, gia đình nông thôn, hoàn
cảnh khó khăn ít có điều kiện được tiếp xúc với máy tính nên không thành thạo
khi sử dụng máy tính.
Mặt khác, phụ huynh HS cũng như gia đình chưa thực sự quan tâm đến con
em mình trong việc quản lí thời gian cũng như tình hình học tập.
15


- Về mặt học sinh:
Năm học 2014 - 2015 (370 học sinh) tôi chưa áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm thì học lực môn Tin của học sinh có kết quả như sau:
Học lực

Số học sinh

Tỉ lệ (%)

Giỏi

10

2.7

Khá

100

27

Trung bình


120

32.4

Yếu

110

29.7

Kém

30

8.1

Từ bảng thống kê, chúng ta thấy số học sinh học yếu, kém môn Tin chiếm tỉ
lệ khá lớn. Làm thế nào để giảm thiểu tỉ lệ này còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố
như:
Hầu như các em học sinh khi thực hành lập trình đều đùn đẩy cho nhau vì sợ
mình sẽ không biết gõ gì vào máy tính. Với kỹ năng cơ bản về máy tính yếu,
việc áp dụng cho đối tượng làm bài tập thực hành trên máy là rất chậm và không
ít khó khăn, những em này đôi khi ít chạm vào máy tính và nhường cho các bạn
khác.
Các em học sinh thường ngại học hỏi, khi lập trình chương trình bị lỗi
thường không hỏi giáo viên hoặc bạn bè đã biết, gây nên hiện tượng bỏ dở
chương trình không thực hiện đến nơi, đến chốn.
Khi thực hành các em chỉ gõ cho xong nội dung của bài thực hành chứ
không thực sự tìm hiểu xem tại sao lại có câu lệnh đó, tại sao phải dùng cấu trúc

điều khiển này mà không dùng cấu trúc điều khiển kia, tới câu lệnh này thì kết
quả sẽ như thế nào, ... Chính vì vậy mà các em không hiểu bài và không thể tự
sửa lỗi nếu gõ sai.
Nhiều học sinh thì thiếu tính tự giác và động cơ học tập, có em khá các môn
tự nhiên nhưng vẫn ngại học Tin học. Hầu hết các em này trong giờ học thường
16


thiếu tập trung, có thái độ rất thụ động và thờ ơ trong việc học. Trên lớp không
chú ý, về nhà lại không học bài cũ nên kiến thức nắm rất hời hợt, càng khó vận
dụng lí thuyết để viết chương trình. Áp dụng biện pháp cứng nhắc như kiểm tra
nhiều lần và cho điểm kém cũng ít hiệu quả.
Hơn nữa, việc lạm dụng các kết quả tìm kiếm trên trang Web khiến cho các
em lười tư duy, động não chỉ mong muốn có kết quả nhanh chóng mà không thể
hiểu rõ vấn đề trong từng bài lập trình.
Theo đánh giá của bản thân, tôi nhận thấy kiến thức Tin học 11 là về lập
trình và các bài toán tin học thường liên quan đến Toán học. Nếu học sinh không
nắm vững kiến thức Toán sẽ rất khó để tư duy thuật toán trong Tin học, dẫn đến
khả năng viết chương trình gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, cơ bản nhất các em cần
rèn luyện kiến thức Toán học cho tốt rồi cùng kết hợp với kiến thức lập trình.
Trong quá trình học hai môn cũng bổ trợ đắc lực cho nhau.

3. Các giải pháp thực hiện:
3.1. Cách giải quyết:
Chúng ta đã xác định được thực trạng học tập lập trình của học sinh với rất
nhiều bất cập, làm thế nào để nâng cao chất lượng giảng dạy và khơi dậy niềm
đam mê lập trình nơi các em là vấn đề lâu dài, phức tạp. Dưới đây sẽ là một số
giải pháp hình thành tư duy lập trình giúp các em dễ hiểu, dễ hình dung hơn
trong giải quyết các bài tập.
Người xưa có câu “dục tốc bất đạt”: Có một số học sinh ban đầu học rất tốt,

nắm bắt kiến thức rất nhanh nhưng sau đó khi mà nội dung kiến thức càng
nhiều, càng phức tạp và thì lại không thể tiếp thu nhanh và học tốt như trước
nữa. Đó chính là do những học sinh đó học quá nhanh, không nắm vững được
tất cả những kiến thức cơ bản để làm nền tảng vững chắc kiến thức chuyên sâu
về sau.

17


Ban đầu chúng ta phải trả lời được các câu hỏi sơ khai, trước hết những điều
tối thiểu như: Thế nào là ngôn ngữ lập trình? Trong ngôn ngữ lập trình có các
thành phần cơ bản nào? Một chương trình có cấu trúc chung như thế nào? Có
những kiểu dữ liệu nào được sử dụng và phạm vi của từng loại ra sao? … Sau
đó sẽ là các câu hỏi tương đối phức tạp hơn như: Cấu trúc rẽ nhánh hoạt động
như thế nào? Cấu trúc lặp có những loại nào, khác nhau ra sao? … Đến đây
một phần nào chúng ta dễ thấy để bắt đầu lập trình một chương trình không hề
khó mà đơn giản phải có kiến thức nền tảng, kiến thức sau gối kiến thức trước,
có sự móc nối với nhau. Không đơn thuần chỉ là tập trung trong một chương,
càng không thể trong một bài.
Mặt khác, học sinh cần tạo cho mình một nền tảng cơ bản vững chắc bằng
cách thường xuyên rèn luyện các bài tập lập trình. Chính quá trình làm các bài
tập sẽ phát hiện ra được các vấn để cơ bản mà khi lập trình thường mắc phải và
cũng là cách để rèn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề. Quá trình rèn luyện này
phải được tiến hành liên tục với tốc độ vừa phải không quá nhanh cũng không
quá chậm. Không được bỏ qua bất kỳ một chủ đề nào.
Có một điều là không nên copy và paste khi học lập trình. Với đa số các học
sinh với tâm lý muốn nhanh chóng kết thúc sớm và nhận được kết quả ngay. Với
các em đã thông thạo trong lập trình thì việc copy và paste code là vấn đề không
thể thiếu. Nhưng ở đây các em đang là những người mới bắt đầu làm quen với
lập trình, chỉ bằng cách gõ code em mới có thể rèn luyện được tốt nhất “Trăm

thấy không bằng một làm”. Chỉ có bắt tay vào gõ từng dòng lệnh em mới biết
mình gõ sai và có cơ hội để chỉnh sửa lại.
Nên chạy thử tất cả các ví dụ trong chương trình đã học. Công việc này rất
hiệu quả đối với người mới tiếp xúc với lập trình. Sau khi em xem video, đọc
sách xong, tập làm theo và đã hiểu được vấn đề. Hãy tắt video, gấp sách lại và tự
làm lại từ đầu theo cách hiểu của mình. Sau đó tự sửa lỗi, tìm lỗi sai, khắc
phục ... nếu bế tắc thì mới xem lại video. Nếu em đã đào sâu suy nghĩ mà vẫn
chưa ra cách, đến khi xem lại em sẽ nhớ lâu hơn rất nhiều.
18


Hãy viết chương trình theo cách riêng của mình. Khi bắt đầu viết một
chương trình em không biết phải bắt đầu từ đâu, sử dụng cấu trúc dữ liệu gì?
Việc phân bổ viết code như thế nào? Xử lý các phương thức ra sao?… Điều đầu
tiên là em sử dụng các công cụ tìm kiếm ở google hoặc các công cụ tìm kiếm
khác để tìm kiếm đoạn mã mình cần. Đây là một điều có thể làm cho tư duy lập
trình của em ngày càng giảm đi và ngày càng bị lệ thuộc vào các công cụ tìm
kiếm.
Giải pháp được đưa ra trong trường hợp này là em hãy tự nghĩ cho mình một
thuật toán riêng. Đầu tiên em viết nó bằng mã giả, sau đó dùng ngôn ngữ lập
trình để viết lại. Tuy việc này rất khó và tốn nhiều thời gian, nhưng nó sẽ giúp
em có được những kinh nghiệm thực sự hữu ích, khả năng tư duy lập trình ngày
càng phát triển.
Trường hợp ý tưởng chương trình của em lớn, phải viết một lượng lớn code.
Khi đó em hãy phân nhỏ từng tính năng chương trình của mình ra, tự tập thiết kế
cấu trúc của chương trình nhỏ đó, rồi ghép chúng lại với nhau sẽ được một
chương trình lớn hoàn chỉnh hơn. Có thể chương trình đó không hoạt động tốt,
nhưng cái mà em được ở đây chính là kinh nghiệm và một tư duy tự lập trong
lập trình.


3.2. Phương thức thực hiện cụ thể:
3.2.1. Cách truyền đạt:
Khi truyền đạt, giảng dạy Pascal trên lớp do đặc thù môn học này đòi
hỏi mức độ tư duy nhất định ở học sinh, các em khó tư duy nên giáo viên khi
truyền đạt kiến thức mới cũng như tìm thuật toán cần đưa ra các vấn đề liên
quan đến cuộc sống hằng ngày của các em với các con số phép tính cơ bản giúp
các em dễ hình dung được vấn đề cũng như công việc các em phải giải quyết.

19


Để có thể hiểu rõ bản chất của kiến thức trong Tin học 11 ta đi xây dựng sơ đồ các nội dung của chương trình học. Qua đó,
giúp HS dễ hệ thống lý thuyết cũng như làm bài tập hoặc ôn tập theo từng khối một từ dễ đến khó, từ cơ bản đến phức tạp hơn.

20


Hình 1

21


Từ sơ đồ kiến thức ta dễ thấy, kiến thức được phân nhóm theo từng
chương, mỗi chương chia ra nhiều bài, mỗi bài sẽ chia thành các mục, mỗi mục
sẽ chia thành các mục nhỏ hơn nữa… Nếu chúng ta chỉ cần hệ thống bài tập và
tư duy lập trình khi đã nắm rõ lý thuyết thì có thể rút gọn thành sơ đồ như sau:

Hình 2

Chung quy lại, các dạng bài toán trong lập trình chỉ thuộc vào 3 dạng

chính. Đó là, cấu trúc tuần tự, cấu trúc rẽ nhánh và cấu trúc lặp. Nhiều HS lầm
tưởng khi học sang các cấu trúc khác như kiểu mảng, kiểu xâu, kiểu tệp hoặc
chương trình con quên mất không liên hệ phần kiến thức trước đó. Bởi vì, các
kiểu dữ liệu sau này cũng đều tuân thủ theo 3 cấu trúc như trên. Từ đây, ta có thể
bắt gặp các dạng câu hỏi và bài tập đại loại như:
Ví dụ 1:
Nhập từ bàn phím 4 số bất kỳ. Tính tổng của chúng rồi đưa kết quả ra
màn hình?
Đây là bài tập ở dạng thực hiện theo cấu trúc tuần tự, các bước được sắp
xếp từ trên xuống dưới. Về cơ bản các em cần nắm được kiến thức trong chương
I và II.
Ví dụ 2:
22


Khi giảng bài toán tìm số lớn nhất trong một dãy số,chúng ta nên đưa ví
dụ cho các em dễ liên tưởng như: “Em làm thế nào để tìm được bạn cao nhất
trong lớp”. Hay, đối với bài tóan sắp xếp dãy số tăng dần, ta đưa ví dụ gần thực
tế như: “Giả sử em đóng vai trò là lớp trưởng, em làm thế nào để có thể xếp
hàng từ thấp đến cao cho các bạn trong lớp”.
Ví dụ 3:
Hay, đối với bài toán tìm trong một dãy số có số dương nào không, để học
sinh có thể tư duy, ta nêu như sau: “Nếu có ai đó hỏi lớp mình có bạn nào cao
trên 1m7 không? thì em sẽ làm thế nào để trả lời câu hỏi đó”. Từ đó, với bài toán
hỏi trong dãy có toàn số dương không, giáo viên có thể đưa ví dụ: “Có phải lớp
mình bạn nào cũng cao trên 1m7 không” Thời gian đầu giáo viên đưa ra các ví
dụ gắn liền với thực tế của các em, để các em tìm cách giải quyết tốt nhất vấn đề
đó trong cuộc sống vừa là giúp các em biết giải quyết xử lý các tình huống có
thể gặp trong cuộc sống vừa là để từ đó các em tìm ra được thuật toán giải bài
toán tốt nhất. Sau này khi đã quen, sau khi đưa đề bài tóan, giáo viên có thể cho

các em tự liên tưởng đến các vấn đề, hoạt động trong cuộc sống các em.

3.2.2. Phương pháp dạy học:
Không gì thú vị bằng trong giờ học tự mình ra đề bài sau đó tự mình giải
được bài tập đó. Do đó, ngoài những bài tập do giáo viên đưa ra, nên lồng vào
các tiết thực hành, làm bài tập cho tự các em ra đề rồi giải, một khi các em có
thể tự ra đề là các em đã hiểu rất rõ về câu lệnh đã học và cũng đã nắm được
hướng giải quyết bài toán đó nên khi giải sẽ rất nhanh và được giáo viên khích
lệ kịp thời sẽ khiến các em rất phấn chấn, mong muốn ra được nhiều bài tập hơn
nữa..
Ngoài ra, trong tiết học nên tổ chức cho các nhóm tự ra đề bài tập và yêu
cầu các nhóm khác giải, nhóm này sẽ giải bài của nhóm kia đưa ra. Chắn chắn
không khí học lúc đó sẽ rất vui, có không khí thi đua trong học tập rất tích cực.
23


Hoặc có những tiết những nhóm chuyên ra đề bài tập, nhóm chuyên giải bài, và
sẽ hoán đổi nhiệm vụ những tiết học sau.
Mục đích của chúng ta là làm sao cho HS thấy hay và hứng thú trong từng
bài học, bài tập cụ thể. Định hình cho HS phát triển năng lực, tư duy để lập trình
thành thói quen và kĩ năng độc lập hoặc theo nhóm.
Dưới tư duy và ngôn ngữ của học sinh lúc đó giáo viên chúng ta có
thể lưu lại được nhiều bài tập hay và gần gũi với học sinh để từ đó làm ngân
hàng bài tập phục vụ cho việc giảng dạy.

3.2.3. Thiết kế công cụ dạy học:
Do đặc thù của môn học nên công cụ cũng là một yếu tố mang lại sự hứng
thú rất cao với những hình ảnh minh họa các bài toán gần gủi với cuộc sống từ
đó giúp các em có được một cái nhìn tổng quan về một bài toán cụ thể.Bên cạnh
đó sử dụng công cụ thiết kế bài giảng chúng ta tạo ra những trò chời hào hứng

bổ ích trong không khí chơi mà học giúp các em củng cố lại nội dung và kiến
thưc đã học một cách thật thoải mái điều đó chắc chắn mang lại kết quả cho việc
tiếp thu và nhớ.
Bài tập 1: Cần đổ đầy một bể chứa 50 lít nước bằng một cái ca có dung
tích là 1 lít thì ta phải thực hiện 50 lần đổ nước vào đó là biết trước số lần lặp.
Còn nếu đổ với cái ca không biết dung tích thì không biết sẽ đổ bao nhiêu
lần,chỉ biết cho tới khi nào đầy thì ngưng đó là lặp với số lần không biết
trước.Từ đó yêu cầu học sinh đưa ra những ví dụ trong cuộc sống liên quan với
việc lặp đi lặp lại công việc nào đó và các em sẽ phân tích xem việc nào thi biết
trước số lần thực hiện việc nào thì không biết trước số lần thực hiện.
Phương pháp 1:
Lấy ví dụ thực tế: Để cụ thể hóa các biện pháp trên trong một tiết học
dưới đây tôi sẽ chọn một trong các dạng bài tập trong chương trình tin học lớp

24


11 đó là dạng bài tập về câu lệnh lặp với số lần biết trước và không biết trước
trình chiếu cho các em xem một ví dụ minh họa như sau:

1 lít
Ca
Bình này chứa tối đa là 50 lít

Hình 3

Giáo viên sẽ đặt câu hỏi như sau:
Các em quan sát hình 1 và cho biết phải đổ bao nhiêu lần thì bình sẽ được đổ
đầy nước và công việc gì được làm đi làm lại nhiều lần.
+ Học sinh sẽ trả lời được ngay là số lần thực hiện là 50 lần và công việc được

làm đi làm là công việc đổ nước vào bình.
- Tiếp theo cho các em xem hình thứ 2 như sau:

? lít
Ca
Bình này chứa tối đa là 50 lít

Hình 4

Giáo viên đặt câu hỏi như sau:
+ Các em có biết được số lần thực hiện công việc đổ nước không ?
+ Đổ khi nào thì dừng việc đổ nước?
25


×