Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

vai tro quan diem lich su logic

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.48 KB, 39 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
I.

LÍ DO CHỌN CHỦ ĐỀ
Nghiên cứu khoa học giáo dục là một hoạt động sáng tạo của các nhà khoa

học, thường bắt đầu từ việc xuất hiện những ý tưởng về chủ đề, tiếp đến là tư duy
và cuối cùng là phát minh. Vì vậy, nghiên cứu khoa hoạc là một động cực kì quan
trọng và cần thiết trong cuộc sống.
Nền khoa học giáo dục đang trên đà ngày càng phát triển tốt hơn, nên để đáp
ứng và theo kịp sự phát triển đó thì con người ngày càng phải nghiên cứu khoa học
giáo dục nhiều hơn. Muốn thực hiện được một đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục
có chất lượng, đạt được yêu cầu thì chúng ta phải biết kết hợp những quan điểm
nghiên cứu một cách hợp lí và chắc chẽ. Chính vì lẽ đó mà mỗi một quan điểm sẽ
có những tính chất và vai trò riêng biệt, trong đó có thể nói đến chức năng và vai
trò quan trọng của các quan điểm lịch sử - logic và quan điểm thực tiễn. Có thể nói
rằng 2 quan điểm này đóng vai trò gần như quan trọng nhất của một đề tài nghiên
cứu khoa học giáo dục. Vì vậy, với chủ đề tiểu luận “Vai trò chỉ đạo của quan điểm
lịch sử - logic và quan điểm thực tiễn trong tiến trình thực hiện đề tài nghiên cứu
khoa học giáo dục”, bản thân em hy vọng có thể giúp được người đọc thấy được
vai trò quan trọng của quan điểm lịch sử - logic và quan điểm thực tiễn đối với một
bài nghiên cứu khoa học giáo dục.
II.

MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Bên cạnh sự tư duy nhạy bén, sáng tạo, để hoàn thành được một sản phẩm

nghiên cứu khoa học giáo dục thì đòi hỏi người nghiên cứu phải nắm bắt và hiểu
được những quan điểm cấu thành một sản phẩm nghiên cứu và vai trò của chúng.



1


Vận dụng những kiến thức đã học trên lớp kết hợp với những tài liệu sưu tầm được
từ nhiều nguồn thông tin, qua đó em xin đưa ra được những chức năng và vai trò
của quan điểm lịch sử - logic và quan điểm thực tiễn. Nhằm nêu lên được vai trò
chủ đạo của 2 quan điểm trên trong tiến trình thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học
giáo dục.

III.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài tiểu luận được kết hợp từ một số phương pháp nghiên cứu:

- Phương
- Phương
- Phương
- Phương

pháp nghiên cứu lý thuyết
pháp phân tích và tổng hợp
pháp chuyên gia.
pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết

Các phương pháp này được kết hợp chặt chẽ với nhau và cùng nhau phối hợp
để tạo được một bài tiểu luận về phương pháp nghiên cứu khoa học.

2



CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
KHOA HỌC

I.

Khoa học là một hình thái ý thức xã hội bao gồm hệ thống tri thức về tự nhiên, xã
hội, tư duy, về những qui luật phát triển khách quan của chúng được hình thành
trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội.
1.

Khoa học là một hệ thống tri thức về thế giới khách quan.
Nếu xét theo kết quả của quá trình tích luỹ trí thức thì: Khoa học là một hệ thống
tri thức về thế giới khách quan.
Từ khi xuất hiện, con người phải lao động để tồn tại, cùng với s ự lao động
con người cần ph ải nhận thức về thế giới xung quanh. Nhận thức tr ư ớ c h ế t
để thích ứng, tồn tại cùng với môi trường, sau đó để vận dụng những điều đã
biết vào cuộc sống làm cho cuộc sống ngày càng tốt hơn. Hoạt động nhận thức
phát triển theo dòng lịch sử và kết quả nhận thức ngày một phong phú, trở thành
một hệ thống tri thức về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Quá trình nhận thức của con người được thực hiện bằng các phương thức khác
nhau và tạo ra hai hệ thống tri thức, đó là:
1.1.

Tri thức thông thường:
Trong cuộc sống, con người tiếp xúc với thiên nhiên với xã hội, phải giải

quyết những công việc thực tế hàng ngày, bằng các giác quan, cảm nhận về bản
thân, về thế giới xã hội xung quanh, từ đó mà có những kinh nghiệm sống, những
hiểu biết về mọi mặt. Đó chính là tri thức thông thường.

Tri thức thông thường được tạo ra từ phép quy nạp đơn giản và nó không
có mô hình lý thuyết, do vậy nó chưa chỉ ra được bản chất bên trong, chưa
phát hiện được các quy luật của những sự vật, hiện tượng và chưa thành một hệ
thống vững chắc.
Tri thức thông thường được con người sử dụng, trao đổi với nhau, truyền
đạt cho nhau, mỗi ngày chúng được bổ sung, được hoàn thiện và trở thành tri thức
dân gian. Tri thức thông thường có ý nghĩa thực tiễn to lớn, giúp nhiều ích lợi cho
cuộc sống hàng ngày của con người.

3


1.2.

Tri thức khoa học:
Cuộc sống của con người luôn luôn thay đổi và phát triển, sự phát triển của

lao động sản xuất và hoạt động xã hội là nguyên nhân khiến con người phải đi sâu
nghiên cứu đầy đủ hơn về thế giới và tìm hiểu khả năng nhận thức của chính
mình. Để tạo ra công cụ sản xuất, con người phải tìm tòi, nghiên cứu các loại vật
liệu khác nhau. Để thuần dưỡng động vật, con người phải biết về cấu tạo cơ thể và
đặc điểm sinh hoạt của chúng. Để trồng trọt, con người phải nghiên cứu đất đai,
cây trồng và thời tiết... Những hiểu biết lúc đầu còn ít ỏi, về sau tăng dần trở thành
một hệ thống tri thức vững chắc.
Cùng với quá trình phân công lao động xã hội, xuất hiện những người
thông thái có khả năng trí tuệ đặc biệt, biết chế tạo và sử dụng những công cụ,
những phương pháp độc đáo để tìm hiểu thế giới và kết quả là tạo ra một hệ thống
hiểu biết có giá trị đặc biệt, đó chính là tri thức khoa học. Cũng từ đây có hoạt
động nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp.
Như vậy, tri thức khoa học là kết quả của quá trình nhận thức có mục đích,

có kế hoạch, có phương tiện đặc biệt, do đội ngũ các nhà khoa học thực hiện. Tri
thức khoa học là hệ thống tri thức khái quát về các sự vật, hiện tượng của thế giới
và về các qui luật vận động của chúng. Đây là hệ thống tri thức được xác lập
trên các căn cứ xác đáng, có thể kiểm tra được và có tính ứng dụng.
Tri thức khoa học và tri thức thông thường tuy khác nhau nhưng có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Tri thức khoa học có thể xuất phát từ tri thức thông
thường, theo gợi ý của những hiểu biết thông thường để tiếp hành không nghiên
cứu một cách sâu sắc. Tuy nhiên tri thức khoa học không phải là tri thức thông
thường được hệ thống hoá lại hay những tri thức thông thường được hoàn thiện.
Tri thức khoa học là kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học đặc biệt.
Từ những phân tích trên chúng ta có thể kết hợp với định nghĩa sau đây:
“Khoa học là hệ thông tri thức về tự nhiên, về xã hội và tư duy. về những qui luật
phát triển khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy, hệ thống tri thức lấy được
hình thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội".
(Đại bách khoa toàn thư Liên Xô. Quyển XIX, tr.24 1, bản tiếng Nga).
2.

Khoa học là một hình thái ý thức xã hội
4


Toàn bộ cuộc sống của xã hội loài người bao gồm hai lĩnh vực: lĩnh vực vật
chất (tồn tại xã hội) và lĩnh vực tinh thần (ý thức xã hội). Tồn tại xã hội là tất cả
những gì đang diễn biến xung quanh chúng ta. Ý thức xã hội là kết quả của sự
phản ánh tồn tại xã hội vào bộ não con người. Sự phản ánh này được thực hiện
với nhiều mức độ khác nhau như: ý thức sinh hoạt đời thường, tâm lý, ý thức xã
hội, trong đó có hệ tư tưởng.
Ý thức đời thường là sự phản ánh những cái cụ thể trực tiếp, gần gũi của cuộc
sống hàng ngày của con người. Ý thức xã hội là sự phản ánh những cái sâu sắc
toàn diện và hệ thống về thế giới.

Ý thức xã hội được phản ánh bằng nhiều hình thái khác nhau như: Tôn
giáo, Đạo đức Nghệ thuật, Chính trị, Khoa học... Sự khác nhau giữa các hình
thái ý thức xã hội được qui định bởi mục đích, tính chất và phương thức phản
ánh. Thế giới là đối tượng duy nhất của sự nhận thức và cũng là nguồn gốc duy
nhất đem lại nội dung cho sự nhận thức.
Khoa học là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hiện thực khách quan, tạo ra
hệ thống chân lý về thế giới. Hệ thống chân lý này được diễn đạt bằng các khái
niệm, phạm trù trừu tượng, những nguyên lý khái quát, những giả thuyết, học
thuyết... Khoa học phản ánh thế giới bằng các phương thức và công cụ đặc biệt.
Khoa học không những hướng vào giải thích thế giới mà còn nhàm tới cải tạo thế
giới. Khoa học làm cho con người mạnh mẽ trước thiên nhiên, bắt thiên nhiên
phục vụ cho cuộc sống của mình.
Khoa học có vị trí độc lập tương dối trước các hình thái ý thức xã hội khác
nhưng đồng thời lại có mối liên hệ biện chứng với chúng. Tất cả các hình thái ý
thức xã hội đều là đối tượng nghiên cầu của khoa học. Khoa học có khả năng
vạch rõ nguồn gốc, bản chất, xác định tính chính xác của sự phản ánh hiện thực và
ý nghĩa xã hội của tất cả các hình thái ý thức xã hội khác.

5


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ PHƯƠNG

II.

PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1.

Nghiên cứu khoa học:
1.1. Khái niệm nghiên cứu khoa học

Nghiên cứu khoa học là một hoạt động có mục đích, có kế hoạch được tổ

chức chặt chẽ của đội ngũ các nhà khoa học, là hoạt động nhận thức thế giới khách
quan, là quá trình phát hiện chân lí và vận dụng chúng vào đời sống. Nghiên cứu
khoa học là sự tìm hiểu khám phá những thuộc tính bản chất của sự vật hoặc hiện
tượng, phát hiện được quy luật vận động của chúng, đồng thời vận dụng những quy
luật ấy để sáng tạo các giải pháp cải tạo thế giới khách quan.
Nghiên cứu khoa học mang hai nội dung cơ bản sau:
+ Phát hiện quy luật vận động của thế giới khách quan (tự nhiên, xã hội, con
người).
+ Sáng tạo các giải pháp nhằm biến đổi trạng thái của sự vật hoặc hiện tượng, cải
tạo thế giới, tức tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người.
Bản chất nghiên cứu khoa học là các hoạt động sáng tạo của các nhà khoa
học nhằm nhận thức thế giới, tạo ra hệ thống tri thức có giá trị để sử dụng vào
cải tạo thế giới.
1.2.

Chủ thể của nghiên cứu khoa học

Chủ thể của nghiên cứu khoa học là các nhà khoa học với những phẩm chất trí
tuệ và tài năng đặc biệt, được đào tạo chu đáo. Quá trình nghiên cứu được thực
hiện trong một cơ quan nghiên cứu với một tập thể có tiềm lực mạnh, được tổ
chức chặt chẽ, có chương trình chiến lược hoạt động. Sự sáng tạo khoa học bao
giờ cũng được bắt đầu từ một ý tưởng của cá nhân và sau đó được sự hỗ trợ, hợp
tác nghiên cứu của một tập thể, theo ý tưởng định hướng nghiên cứu của người đề
xuất. Vì vậy, có thể nói: chủ thể nghiên cứu khoa học vừa là cá nhân, vừa là tập
thể.
1.3.

Mục đích của nghiên cứu khoa học


Mục đích của nghiên cứu khoa học là tìm tòi, khám phá bản chất và các
quy luật vận động của thế giới, tạo ra thông tin mới, nhằm ứng dụng chúng vào
sản xuất vật chất hay tạo ra những giá trị tinh thần, để thỏa mãn nhu cầu cuộc
6


sống của con người. Nhiều nghiên cứu khoa học không chỉ là nhận thức thế giới
mà còn cải tạo thế giới, khoa học đích thực luôn vì cuộc sống con người.
1.4.

Phương pháp nghiên cứu khoa học

Phương pháp nghiên cứu khoa họclà phương pháp nhận thức thế giới bao gồm
những quan điểm tiếp cận, những quy trình, các thao tác cụ thể để tác động vào
đối tượng để làm bộc lộ bản chất của đối tượng. Nghiên cứu khoa học còn phải sử
dụng những công cụ đặc biệt, có tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe trong định tính và
định lượng để thí nghiệm, thực nghiệm… đo lường và kiểm định sản phẩm
sáng tạo.
1.5.

Sản phẩm của nghiên cứu khoa học

Sản phẩm của nghiên cứu khoa học là hệ thống thông tin mới về thế giới và
những giải pháp cải tạo thế giới. Cho nên có thể nói khoa học luôn hướng tới cái
mới. Nhiều ý tưởng khoa học độc đáo đi trước thời đại và có giá trị dẫn dắt sự
phát triển của thực tiễn.
Sản phẩm khoa học luôn được kế thừa, hòan thiện, bổ sung theo đà tiến bộ
của xã hội lòai người và ngày một tiệm cận tới chân lý khách quan. Mỗi lý
thuyết khoa học được hình thành, phát triển hưng thịnh, rồi lạc hậu nhường chỗ

cho cái mới, cái tiến bộ, cái có triển vọng hơn.
Nghiên cứu khoa học có chứa đựng những yếu tố mạo hiểm, bởi vì nghiên
cứu khoa học không phải lúc nào cũng thành công. Sự thành công sẽ tạo ra giá
trị mới cho nhân loại và có cả những thất bại rủi ro, đó là sự phải trả giá của
nghiên cứu khoa học, nhưng chính sự thất bại đó cũng là một thông tin có ích để
đồng nghiệp không lặp lại sai lầm tương tự.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học tạo ra các tri thức mới làm phong phú kho tàng kiến thức
1.6.

của nhân loại, ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào giải quyết các vấn đề của thực
tiễn đời sống xã hội, cải tạo xã hội, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của đời
sống con người góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
1.7.
Chức năng của nghiên cứu khoa học

7


Nghiên cứu khoa học là hoạt động phức tạp. Cùng với lịch sử phát triển của
loài người, trình độ nhận thức khoa học ngày một nâng cao. Tổng kết lịch sử
phát triển khoa học người ta thấy loài người đã trải qua mấy trình độ nhận thức
sau đây:
-

Trình độ mô tả: Mô tả khoa học là trình bày lại những kết quả nghiên cứu
một hiện tượng hay một sự kiện khoa học làm sao cho đối tượng đó được

-


thể hiện đến mức độ nguyên bản tối đa.
Tri thức mô tả là những tri thức thu nhận được qua quan sát, điều tra và
được trình bày hệ thống ký hiệu có tính trực quan, đồng thời là những khái
niệm có liên quan đến hệ thống ký hiệu này. Mô tả là biện pháp quan trọng

để chuẩn bị tư liệu cho việc giải thích khoa học.
Tri thức mô tả thường được người ta phân biệt thành mô tả định tính và mô tả
định lượng
+ Mô tả định tính là chỉ rõ các đặc trưng về vật chất của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ, Trái đất và sao kinh tinh quay xung quanh mặt trời theo một quỹ đạo bầu
dục, “Quy theo một quỹ đạo bầu dục” là một đặc trưng về chất của cả hai hành
tinh Trái đất và Kim tinh. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở mô tả dựa trên những tiêu
chí định tính trên đây, thì người ta chưa thể phân biệt được Trái đất và Kim tinh
khác nhau như thế nào. Vì vậy, sự mô tả định tính phải được bổ sung bằng các mô
tả định lượng.
+ Mô tả định lượng là tiêu chí chỉ rõ các đặc trưng về lượng của sự vật hoặc
hiện tượng. Trong ví dụ trên, người ta biết được một trong những đặc trưng về
lượng là chu kỳ quay của Trái đất xung quanh mặt trời là 365,24 ngày đêm; còn
chu kỳ của Kim tinh xung quanh Mặt trời là 224,7 ngày đêm. Đó là các mô tả
định lượng.
1.8.

Đặc điểm của nghiên cứu khoa học

Nghiên cứu khoa học trước hết là một hoạt động xã hội, là một dạng nhân
công lao động xã hội. Nhưng nghiên cứu khoa học có những đặc điểm khác với
các loại hình lao động khác, nhất là so với lao động trong lĩnh vực sản xuất vật

8



chất. Những đặc điểm ấy làm cho lao động nghiên cứu khoa học khó đánh giá.
Nhà khoa học Marx cho rằng: “Sản phẩm của lao động khoa học luôn luôn được
đánh giá kém xa so với giá trị thực của nó, bởi vì giá trị lao động sống nhằm
tái tạo ra nó không thể nào so sánh được với giá trị lao động quá khứ đã sáng tạo
ra nó lần đầu tiên”. Và ông đã đưa ra ví dụ, “Bất kỳ một em học sinh tiểu học
nào cũng có thể học thuộc lòng một bản cửu chương. Trong khi các nhà bác học
phải mất bao nhiêu năm nghiên cứu mới xây dựng nên nó”. Để có cơ sở đánh giá
giá trị và tầm quan trọng của loại hình lao động này, chúng ta nêu lên một số đặc
điểm cơ bản của nghiên cứu khoa học.
1.8.1

Tính mới mẻ

Nghiên cứu khoa học là một quá trình thâm nhập vào thế giới của những sự
vật, hiện tượng mà con người chưa biết. Vì vậy, quá trình nghiên cứu khoa học là
quá trình sáng tạo luôn hướng tới những phát hiện mới hoặc sáng tạo mới. Trong
nghiên cứu khoa học không có sự phát hiện lại hoặc sáng tạo lại. Vì vậy, tính mới
là thuộc tính số một của lao động khoa học.
Đặc điểm trên đây cho thấy một đặc điểm khác, là quá trình nghiên cứu
khoa học không có sự lặp lại một thí nghiệm hoặc một quan sát đúng như công
việc đã làm trước đó. Ví dụ, khi làm lại một thí nghiệm hóa học với những thành
phần hóa chất tham gia phản ứng vẫn được giữ nguyên như ban đầu, thì các
tham số về điều kiện phản ứng, như nhiệt độ, áp suất, v.v… phải thay đổi.
“Tính mới” cần phải được hiểu là, cho dù đạt được một phát hiện mới,
nhưng người nghiên cứu còn tiếp tục vươn tới những phát hiện mới hơn. Tuy
nhiên, cần lưu ý rằng, tính mới của nghiên cứu khoa học không hề mâu thuẫn,
và do vậy, không thể bị hiểu lầm bởi một tính chất khác về tính tin cậy của kết
quả nghiên cứu.
1.8.2.


Tính thông tin

Sản phẩm của nghiên cứu khoa học được thể hiện dưới nhiều dạng, có thể đó
là một báo cáo khoa học, tác phẩm khoa học, song cũng có thể là một mẫu vật
liệu mới, mẫu sản phẩm mới, mô hình thí điểm về một phương pháp tổ chức sản
xuất mới, vv… Tuy nhiên, trong tất cả các trường hợp này, sản phẩm khoa học
9


luôn mang đặc trưng thông tin về quy luật vận động của sự vật hoặc hiện tượng,
thông tin về quy trình công nghệ và các tham số đi kèm quy trình đó.
Ví dụ: Kết quả nghiên cứu cho sản phẩm là một kilogram ngô giống đã được
thử nghiệm thành công. Nhìn bề ngoài, nó có vẻ không khác bao nhiêu so với một
kilogram ngô khác, nhưng đi sâu vào bên trong, nó chứa đựng những thông tin
hoàn toàn mới về kỹ thuật lai tạo, kỹ thuật canh tác, khả năng chống chịu sâu
bệnh, chế độ chăm bón, tưới tiêu, bảo vệ thực vật, v.v...
1.8.3.

Tính khách quan

Tính khách quan vừa la đặc điểm của nghiên cứu khoa học, vừa là một tiêu
chuẩn của người nghiên cứu khoa học. Một nhận định vội vã theo cảm tính, một
kết luận thiếu các xác nhận bằng kiểm chứng chưa thể xem là một phản ánh
khách quan về bản chất của sự vật hoặc hiện tượng.
1.8.4.

Tính tin cậy

Tính tin cậy là một thuộc tính của sản phẩm khoa học. Một kết quả nghiên cứu

đạt được nhờ một phương pháp nào đó chỉ có thể xem là tin cậy khi nó có khả
năng kiểm chứng lại nhiều lần do nhiều người khác nhau thực hiện trong những
điều kiện quan sát hoặc thí nghiệm hoàn toàn giống nhau và với những kết quả
thu được hoàn toàn giống nhau.
Một kết quả ngẫu nhiên dù phù hợp với giả thuyết đã đặt ra trước đó cũng
chưa thể xem là đủ tin cậy để kết luận về bản chất của sự vận động hoặc hiện
tượng. Điều này dẫn đến một nguyên tắc mang tính phương pháp luận của
nghiên cứu khoa học, là khi trình bầy một kết quả nghiên cứu, người nghiên cứu
đã chỉ rõ các điều kiện, các nhân tố và phương tiện thực hiện (nếu có).
o
Ví dụ: Khi nói “Nước sôi ở nhiệt độ 100 C”, thì người nghiên cứu đã cần phải
chỉ ra điều kiện là nước nguyên chất, đun nóng dưới áp xuất 1atm. Nếu lặp lại các
điều kiện giống như thế, mọi người đều có thể đạt được kết quả giống như những
kết quả đạt được trước đó.
1.8.5.

Tính rủi ro

10


Trong quá trình nghiên cứu khoa học có thể không tìm ra kết quả, hay lời giải,
song nó cũng được thừa nhận đóng góp cho một công cuộc nghiên cứu để mách
bảo những nghiên cứu sau này tránh được sai lầm mà nghiên cứu trước đó đã trải
qua hay mắc phải.
1.8.6.

Tính cá nhân

Dù là một công trình nghiên cứu khoa học do một tập thể thực hiện, thì vai trò

cá nhân trong sáng tạo cũng mang tính chất quyết định. Tư duy cá nhân trong
nghiên cứu chính là quá trình tự tìm tòi, điều tra, sáng tạo để có ý kiến riêng có
giá trị mới mẻ về mặt khoa học. Người nghiên cứu nên thường xuyên kiểm tra
trong các tác phẩm của mình về xuất xứ của các sản phẩm trí tuệ, xem đâu là sản
phẩm tư duy của riêng mình, đâu là ý kiến cấp trên, đâu là tiếp thu của người khác
hoặc kế thừa từ một công trình nghiên cứu của các đồng nghiệp đi trước.
2.

Phương pháp
Phương pháp là phạm trù phức tạp, có phạm vi bao quát rộng, với nhiều

cấp độ và rất phong phú về nội dung và chủng loại. Phương pháp nghiên cứu
khoa học có ba đặc trưng quan trọng:
+ Một là: Phương pháp luôn gắn với những tư tưởng cơ bản, có tính
nguyên tắc, định hướng chỉ đạo hoạt động, đó chính là các quan điểm tiếp cận
đối tượng, là thế giới quan của nhà nghiên cứu.
+ Hai là: Phương pháp là một hệ thống các phương thức hoạt động, bao
gồm thủ pháp, các thao tác hoạt động có tính kỹ thuật. Đó là các phương pháp cụ
thể.
+ Ba là: Phương pháp là hệ thống các quy trình hoạt động, là trình tự các
bước đi, bao gồm logíc tiến trình và logic nội dung của hoạt động. Phương pháp
có tính quy trình.
Trong nghiên cứu khoa học, phương pháp và phương pháp luận là hai khái
niệm gần nhau nhưng không được đồng nhất. Phương pháp luận là hệ thống các
quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo chủ thể xác định con đường và phạm vi nghiên
cứu. Phương pháp là cách thức, thủ đoạn hoạt động cụ thể của chủ thể. Cái thứ
nhất thuần túy lý luận, cái thứ hai vừa lý luận vừa thực tiễn, cái thứ nhất chỉ đạo
cái thứ hai, cái thứ hai xuất phát từ cái thứ nhất trong sự thống nhất chung.
11



Các quan điểm phương pháp luận là một hệ thống, tồn tại với ba cấp độ:
+ Có những quan điểm chung nhất chỉ dẫn hoạt động nhận thức đối với tất cả lĩnh
vực khoa học, đó chính là các quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
nó là nền tảng của mọi tư tưởng học thuật. Quan điểm duy vật biện chứng là
cơ sở xuất phát cho các quan điểm Phương pháp luận chung và Phương pháp luận
chuyên ngành.
+ Có những quan điểm phương pháp luận chung áp dụng cho một nhóm ngành
hay một số lĩnh vực khoa học, thí dụ phương pháp luận nghiên cứu khoa học xã
hội, phương pháp luận nghiên cứu khoa học Tự nhiên hay Kỹ thuật
+ Có những quan điểm riêng dùng cho bộ môn, một chuyên ngành cụ thể. Ví dụ:
Phương pháp luận nghiên cứu Toán học, phương pháp luận nghiên cứu Kinh tế,
phương pháp luận nghiên cứu Tâm lý học…
3.

Phương pháp nghiên cứu khoa học
3.1.

Khái niệm và đặc điểm

Phương pháp là phạm trù trung tâm của phương pháp luận nghiên cứu khoa
học, phương pháp không chỉ là vấn đề lý luận mà còn là vấn đề có ý nghĩa thực
tiễn to lớn, bởi vì chính phương pháp góp phần quyết định thành công của mọi
quá trình nghiên cứu khoa học. Chúng ta sẽ tìm hiểu bản chất của phương pháp và
các đặc điểm của nó
Bản chất của phương pháp nghiên cứu khoa học chính là việc con người sử
dụng một cách có ý thức các quy luật vận động của đối tượng như một phương
tiện để khám phá chính đối tượng đó. Phương pháp nghiên cứu là con đường
dẫn nhà khoa học đạt tới mục đích sang tạo.
Phương pháp bao giờ cũng là cách làm việc của chủ thể nhằm vào các

đối tượng cụ thể, ở đây có hai điều chú ý là: Chủ thể và đối tượng.
+ Phương pháp là cách làm việc của chủ thể, cho nên nó gắn chặt với chủ
thể và như vậy phương pháp có mặt chủ quan. Mặt chủ quan của phương pháp
chính là năng lực nhận thức, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo của chủ thể, thể
hiện trong việc ý thức được các quy luật vận động của đối tượng và sử dụng
chúng để khám phá chính đối tượng.
+ Phương pháp là cách làm việc của chủ thể và bao giờ cũng xuất phát từ
đặc điểm của đối tượng, phương pháp gắn chặt với đối tượng và như vậy
phương pháp có mặt khách quan. Mặt khách quan quy định việc chọn cách này
12


hay cách kia trong hoạt động của chủ thể. Đặc điểm của đối tượng chỉ dẫn cách
chọn phương pháp làm việc. Trong nghiên cứu khoa học cái chủ quan phải tuân
thủ cái khách quan. Các quy luật khách quan tự chúng chưa phải là phương pháp
nhưng nhờ có chúng mà ta phát hiện ra phương pháp. Ý thức về sự sang tạo của
con người phải tiếp cận được các quy luật khách quan của thế giới.
Phương pháp có tính mục đích vì mọi hoạt động của con người đều có mục
đích, mục đích nghiên cứu các đề tài nghiên cứu khoa học chỉ đạo việc tìm tòi và
lựa chọn phương pháp nghiên cứu và ngược lại nếu lựa chọn được phương pháp
chính xác phù hợp thì sẽ làm cho mục đích nghiên cứu đạt tới nhanh hơn và đôi
khi vượt qua các yêu cầu mà mục đích đã dự kiến ban đầu. Phương pháp nghiên
cứu gắn chặt với nội dung của các vấn đề cần nghiên cứu. Phương pháp là
hình thức vận động của nội dung. Nội dung công việc quy định phương pháp
làm việc. Trong mỗi đề tài khoa học có phương pháp cụ thể, trong mỗi ngành
khoa học có một hệ phương pháp đặc trưng.
Phương pháp nghiên cứu khoa học có một cấu trúc đặc biệt, đó là một hệ thống
các thao tác được sắp xếp theo một chương trình tối ưu. Sự thành công nhanh
chóng hay không của một hoạt động nghiên cứu chính là phát hiện được hay
không logic tối ưu của các thao tác hoạt động và sử dụng nó một cách có ý thức.

Phương pháp nghiên cứu khoa học luôn cần có các công cụ hỗ trợ cần có các
phương tiện kĩ thuật hiện đại với độ chính xác cao. Phương tiện và phương pháp
là hai phạm trù khác nhau nhưng chúng lại gắn bó chặt chẽ với nhau căn cứ vào
đối tượng nghiên cứu mà ta chọn phương pháp nghiên cứu, theo yêu cầu của
phương pháp mà ta chọn các phương tiện phù hợp và nhiều khi phải tạo ra các
công cụ đặc biệt để nghiên cứu một đối tượng cụ thể nào đó. Chính các phương
tiện kĩ thuật hiện đại đảm bảo cho quá trình nghiên cứu đạt tới độ chính xác cao.
3.2.

Phân loại phương pháp

Phương pháp nghiên cứu khoa học là một hệ thống phong phú. Chính vì sự
phong phú ấy của phương pháp và cũng để tiện sử dụng, người ta tìm cách phân
loại chúng. Trong thực tế có nhiều cách phân loại phương pháp:
+ Dựa vào phạm vi sử dụng người ta chia phương pháp thành: Những phương
pháp chung nhất dùng cho tất cả các lĩnh vực khoa học, những phương pháp
13


chung dùng cho một số ngành và những phương pháp đặc thù chỉ dùng cho một
lĩnh vực cụ thể.
+ Dựa theo lý thuyết thông tin về quy trình nghiên cứu một để tài khoa học và
người ta chia phương pháp thành ba nhóm: nhóm phương pháp thu thập
thông tin, nhóm phương pháp sử lý thông tin và nhóm phương pháp trình bày
thông tin.
+ Dựa theo tính chất và trình độ nghiên cứu của đối tượng người ta chia
phương pháp thành: nhóm phương pháp mô tả, nhóm phương pháp giải thích và
nhóm phương pháp phát hiện.
+ Dựa theo trình độ nhận thức khoa học chung của loài người, người ta
chia phương pháp thành hai nhóm: nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

và phương pháp nghiên cứu lý thuyết
+ Ngày nay toán học đã thâm nhập vào mọi khoa học đem lại sức sống mới
cho khoa học, chính vì thế bên cạnh hai nhóm phương pháp nhận thức thực tiễn
và lý thuyết, người ta có thêm một nhóm phương pháp mới: nhóm phương pháp
Toán học. Do vậy nghiên cứu khoa học có ba nhóm phương pháp: nhóm phương
pháp nghiên cứu thực tiễn, nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết và nhóm
phương pháp sử dụng Toán học.
Trong thực tế tùy theo mục đích và đặc điểm chuyên ngành người ta sử dụng
phối hợp nhiều phương pháp để hỗ trợ và kiểm tra lẫn nhau nhằm khẳng định các
kết quả nghiên cứu. Trong một lĩnh vực khoa học có một sốcác phương pháp đặc
trưng. Trong một đề tài người ta có thể sử dụng một hệ thống nhiều phương pháp
phối hợp, được gọi là phương pháp hệ.
3.3.

Đối tượng và nội dung nghiên cứu của phương pháp luận
nghiên cứu khoa học:

Trước đây, hầu như chỉ có triết học mới dành mối quan tâm nghiên cứu về
khoa học như một phạm trù triết học nhằm giải thích nguồn gốc của khoa học, các
tuy luật nội tại của khoa học, quan hệ giữa khoa học với khách thể mà khoa học
nghiên cứu, quan hệ giữa khoa học với các hình thái xã hội. Triết học được coi là
khoa học của các khoa học. Với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ,
khoa học đã trở thành bộ máy khổng lồ đang nghiên cứu, khám phá tất cả các
14


góc cạnh của thế giới. Kết quả nghiên cứu đã tạo ra một hệ thống tri thức đồ sộ
và mở ra kỷ nguyên bùng nổ thông tin. Những khám phá mới của khoa học đã làm
thay đổi nhiều quan niệm truyền thống trong sản xuất vật chất và trong đời sống
tinh thần của xã hội. Về mặt này, khoa học không chỉ được xem xét trong quan hệ

với khách thể mà khoa học nghiên cứu, mà còn được xem xét trong quan hệ qua
lại với hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội.
Trước sự phát triển nhanh chóng ấy của khoa học và công nghệ, đến phần
mình, bản thân khoa học cũng cần được nghiên cứu một cách khoa học. Một
mặt, phải tổng kết thực tiễn hoạt động nghiên cứu khoa học, phân loại và hệ thống
hoá toàn bộ những tri thức đã nhận thức được. Mặt khác, phải khái quát những lý
thuyết về cơ chế và phương pháp sáng tạo khoa học, cũng như tìm tòi các biện
pháp tổ chức, quản lý tốt quá trình nghiên cứu khoa học. Như vậy là, chính khoa
học đã trở thành đối tượng nghiên cứu.
Các phương pháp nhận thức khoa học hiện đại rất đa dạng và cách phân
loại chúng cũng rất khác nhau. Cách thường gặp hơn cả là dựa vào phạm vi tác
động của các quy luật khách quan đã được nhận thức và được khái quát dưới
hình thức lý luận, từ đó hình thành hệ thống các nguyên tắc điều chỉnh hoạt
động của chủ thể. Theo cách phân loại này, các phương pháp được chia ra thành
phương pháp riêng, phương pháp chung và phương pháp phổ biến. Phương pháp
riêng chỉ thích hợp cho từng bộ môn khoa học (phương pháp sinh vật học,
phương pháp hoá học, phương pháp xã hội học). Phương pháp chung được sử
dụng cho nhiều ngành khoa học khác nhau (các phương pháp quan sát, thí
nghiệm, phương pháp mô hình hoá, phương pháp tối ưu hoá, phương pháp quy
hoạch hoá thực nghiệm). Phương pháp phổ biến thích hợp cho mọi ngành khoa
học khác nhau cùng nhà đối với mọi lĩnh vực trong hoạt động thực tiễn. Phương
pháp biện chứng chính là phương pháp phổ biến và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu
của khoa học hiện đại
4.

Khái niệm khoa học giáo dục

15



Nghiên cứu khoa học giáo dục là nghiên cứu bản chất, mục đích, nhiệm vụ và
các tính chất qui luật của giáo dục, vai trò của giáo dục trong phát triển kinh tế xã
hội và cá nhân, quá trình giáo dục và dạy học.
Các lĩnh vực nghiên cứu chủ yếu của Khoa học giáo dục gồm: lí luận giáo dục,
lí luận dạy học, quản lí giáo dục.
Nhiều tư tưởng về giáo dục xuất phát từ kinh nghiệm cũng như từ những triết lí
về con người nhưng từ thế kỉ thứ XI, việc nghiên cứu giáo dục mới thật sự trở
thành một ngành khoa học, khi các nhà giáo dục biết đưa khoa học tâm lí vào quá
trình dạy học.
Hơn một thế kỉ nay, khoa học giáo dục đã khẳng định nét đặc thù riêng, vừa vận
dụng mọi thành tựu của các ngành khoa học xã hội, tự nhiên và kĩ thuật vừa thúc
đẩy các ngành khoa học ấy phát triển.
Phương pháp là phạm trù rất rộng, có phạm vi bao quát của phương pháp
luận rất lớn. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học đặt ra cho mình hàng loạt
những nhiệm vụ quan trọng sau đây:
+ Nghiên cứu làm sáng tỏ bản chất của khoa học và hoạt động nghiên cứu
khoa học, tổng kết các quy luật phát triển của khoa học hiện đại.
+ Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ chế tư duy sáng tạo trong nhận thức của nhà
khoa học và các kỹ năng thực hành sáng tạo của họ.
+ Nghiên cứu những quan điểm tổng quát, những cách tiếp cận đối tượng
nhận thức, đồng thời xây dựng hệ thống lý thuyết về phương pháp nghiên cứu
khoa học, với tư cách là con đường, cách thức và kỹ thuật nghiên cứu cụ thể,
đây là vấn đề trung tâm của phương pháp luận.
+ Phương pháp luận khẳng định phương pháp nghiên cứu khoa học không
những nằm trong logic nhận thức mà còn nằm trong cấu trúc nội dung một công
trình khoa học. Cho nên Phương pháp luận nghiên cứu khoa học một mặt xác
định các bước đi trong tiến trình nghiên cứu một đề tài, mặt khác còn tìm ra cấu
trúc logic nội dung của các công trình khoa học đó.
+ Phương pháp luận nghiên cứu khoa học cũng chú ý đến phương pháp tổ
chức, quản lý nghiên cứu hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, coi đó

là một khâu ứng dụng chính các thành tựu khoa học, nhằm nâng cao tiềm lực
khoa học và tổ chức quá trình nghiên cứu khoa học đạt hiệu quả cao.

16


CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ LOGIC VÀ QUAN ĐIỂM THỰC TIỄN
I.

QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ - LOGIC TRONG NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC GIÁO DỤC
1.

Khái niệm phương pháp lịch sử

Phương pháp lịch sử là phương pháp nghiên cứu bằng đi tìm nguồn gốc
phát sinh, quá trình phát triền và biến hóa của đối tượng, để phát hiện bản chất
và quy luật của đối tượng.
Mọi sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội đều có lịch sử của mình, tức
là có nguồn gốc phát sinh, có vận động phát triền và tiêu vong. Quy trình phát
triền lịch sử biểu hiện toàn bộ tính cụ thể của nó, với mọi sự thay đổi, những
bước quanh co, những cái ngẫu nhiên, những cái tất yếu, phức tạp, muôn hình,
muôn vẻ, trong các hoàn cảnh khác nhau và theo một trật tự thời gian nhất định.
Đi theo dấu vết của lịch sử chúng ta sẽ có bức tranh trung thực về bản thân đối
tượng nghiên cứu.
Quan điểm lịch sử - logic trong nghiên cứu khoa học giáo dục là quan điểm
hướng dẫn tiến trình tìm tòi sáng tạo khoa học. Thực hiện quan điểm này cho phép
ta nhìn thấy toàn cảnh sự xuất hiện, sự phát triển, diễn biến và kết thúc của các đối
tượng khách quan, mặt khác giúp ta tìm ra luật tất yếu của sự phát triển đối tượng.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, lịch sử là sự phát triển, diễn biến có thật của

các hiện tượng và sự thật của các hiện tượng và sự vật khách quan, lịch sử là sự
thật khách quan ngoài ý muốn chủ quan của con người; còn logic là sự phản ánh
trong tư duy con người quá trình diễn biến lịch sử của hiện thực khách quan, là trật
tự của quá trình phát triển.
Quan điểm lịch sử - logic trong nghiên cứu khoa học giáo dục chính là việc
thực hiện quá trình nghiên cứu đối tượng bằng phương pháp lịch sử. Tìm hiểu sự
nảy sinh, phát triển của giáo dục trong những thời gian và không gian cụ thể với
những điều kiện hoàn cảnh cụ thể, để phát hiện cho được quy luật tất yếu của quá
trình sư phạm.
Nguyên tắc lịch sử trong NCKH giáo dục thực hiện nhiều chức năng:

17


-

Dùng các sự kiện lịch sử để minh hoạ, làm sáng tỏ các luận điểm khoa học, các

-

nguyên lí sư phạm.
Dùng các tài liệu lịch sử, theo một chuẩn, để đánh giá những kết luận sư phạm,

-

đánh giá chân lí khoa học.
Dựa vào các kết luận lịch sử, với các quy luật tất yếu các logic khách quan mà xây

-


dựng giả thuyết khoa học giáo dục và chứng minh giả thuyết đó.
Dựa vào xu thế phát triển của lịch sử giáo dục để nghiên cứu thực tiễn giáo dục,
tìm ra những khả năng mới, dự đoán các khuynh hướng phát triển của các hiện

-

tượng giáo dục.
Dựa vào lịch sử để thiết kế mô hình các biện pháp, các hình thức giáo dục mới,

-

thiết kế triển vọng phát triển của các quá trình giáo dục.
Sưu tập, xử lí thông tin, kinh nghiệm giáo dục để giải quyết các nhiệm vụ giáo dục,
để ngăn ngừa và tránh những sai lầm khuyết điểm có thể có trong tương lai.
Như vậy, đảm bảo sự thống nhất giữa tính lịch sử và tính logic trong NCKH là
tôn trọng lịch sử khách quan, là hiểu thấu được những điều kiện có thật của mọi sự
phát sinh, phát triển, diễn biến của các hiện tượng giáo dục, để tìm ra các quy luật
phát triển chung nhất của sự thật lịch sử ấy, giúp người nghiên cứu tránh được
những sai sót…
2.

Quan điểm lịch sử - logic trong nghiên cứu khoa học
Quan điểm lịch sử logic trong nghiên cứu khoa học là một luận điểm quan

trọng của phương pháp luận nghiên cứu khoa học.
Thực hiện quan điểm này một mặt cho phép ta nhìn thấy toàn bộ đối tượng
nghiên cứu; sự xuất hiện quá trình diễn biến, phát triển và kết thúc sự kiện. Giúp
ta phát hiện các quy luật phát triển tất yếu của đối tượng, điềm mà bất cứ hoạt
động khoa học nào cũng hướng tới như một mục đích quan trọng nhất.
Lịch sử là sự vận động có thực của các đối tượng trong thế giới khách

quan. Sự diễn biến lịch sử bao giờ cũng phức tạp, quanh co và đầy mâu thuẫn,
trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể nhất định. Lịch sử có những diễn biến
thành công và có cả những thất bại. Sự diễn biến lịch sử bao giờ cũng xuất phát từ
những nguyên nhân, từ nguyên nhân dẫn đến hệ quả. Điều kiện lịch sử thuận lợi
thúc đẩy nhanh quá trình phát triển của các sự kiện. Sự phát triển của lịch sử là sự
diễn biến khách quan.
18


Logic là sự phản ánh quá trình phát triển của thực tiễn lịch sử vào ý thức của
con người. Logic là cái tất yếu, là trật tự diễn biến, là con đường ngắn nhất của sự
phát triển lịch sử. Logic là kết quả nhận thức của con người về sự diễn biến có
quy luật của đối tượng. Nghiên cứu khoa học về bản chất là những cố gắng nhằm
phát hiện ra cái logic tất yếu ấy của hiện thực
Quan điểm lịch sử - logic trong nghiên cứu khoa học yêu cầu phải nghiên cứu
đối tượng bằng phương pháp lịch sử. Phát hiện nguồn gốc nảy sinh, quá trình
diễn biến của đối tượng trong những thời gian. Phát hiện nguồn gốc nảy sinh, quá
trình diễn biến của đối tượng trong những thời gian, không gian với những điều
kiện hoàn cảnh cụ thể
Lịch sử và logic tuy là hai phạm trù nhưng thống nhất với nhau. Ngiên cứu
khoa học đi từ cái lịch sử để phát hiện cái tất yếu của lịch sử, đó là cái logic khách
quan của sự phát triển lịch sử đó.
Bảo đảm sự thống nhất giữa tính lịch sử và tính logic trong nghiên cứu
khoa học chính là tôn trọng lịch sử khách quan, là hiểu triệt để những điều kiện có
thật của mọi sự diễn biến của đối tượng nghiên cứu. Phải phát hiện ra các quy luật
phát triển chung của sự thật lịch sử. Điều đó nói lên ý nghĩa lý luận và ý nghĩa
thực tiễn của quan điểm lịch sử và logic.
Khi nghiên cứu các hiện tượng giáo dục phải tìm hiểu, phát hiện sự nảy sinh,
phát triển của giáo dục trong những thời gian và không gian cụ thể với những điều
kiện hoàn cảnh cụ thể để phát hiện ra qui luật tất yếu của quá trình dạy học – giáo

dục.
Phương pháp logic là phương pháp xem xét, nghiên cứu các sự kiện lịch sử dưới
dạng tổng quát, nhằm vạch ra bản chất, khuynh hướng tất yếu, quy luật vận động
của lịch sử. Khác với phương pháp lịch sử, phương pháp logic không đi vào toàn
bộ diễn biến, những bước quanh co, thụt lùi của lịch sử; nó bỏ qua những cái ngẫu
nhiên có thể xảy ra trong lịch sử mà nắm lấy bước phát triển tất yếu, nắm lấy cái
cốt lõi của sự phát triển, nghĩa là nắm lấy quy luật lịch sử. Như vậy, phương pháp
logic cũng phản ánh quá trình lịch sử nhưng phản ánh dưới hình thức trìu tượng và
khái quát bằng lý luận. Có nghĩa là, phương pháp logic trình bày các sự kiện một
cách khái quát trong mối quan hệ đúng quy luật, loại bỏ các chi tiết không cơ bản.
Đó là hình thức đặc biệt phản ánh quá trình lịch sử.
19


Theo Ăng-ghen, phương pháp logic không phải là cái gì khác mà vẫn là phương
pháp lịch sử, chỉ có điều là nó thoát khỏi những hình thức lịch sử và những ngẫu
nhiên pha trộn. Lịch sử bắt đầu từ đâu, quá trình tư duy cũng phải bắt đầu từ đó.
Và sự vận động tiếp tục thêm nữa của nó chẳng qua chỉ là sự phản ánh quá trình
lịch sử dưới một hình thức trìu tượng và nhất quán về mặt lý luận. Nó là phản ánh
đã được uốn nắn lại, nhưng uốn nắn theo những quy luật mà bản thân quá trình lịch
sử thực tế đã cung cấp, hơn nữa mỗi một nhân tố đều có thể xem xét ở cái điểm
phát triển mà ở đó quá trình đạt tới chỗ hoàn toàn chín muồi, đạt tới cái hình thái
cổ điển của nó.
3.

Yêu cầu khi thực hiện
Dùng các sự kiện lịch sử để minh hoạ chứng minh, làm sáng tỏ các luận điểm

khoa học, các nguyên lí sư phạm hay kết quả của các công trình nghiên cứu.
Dựa vào xu thế phát triển của lịch sử giáo dục để nghiên cứu thực tiễn giáo dục,

tìm ra các khả năng mới, dự đoán các khuynh hướng phát triển của các hiện tượng
giáo dục.
Sưu tập, xử lí thông tin, kinh nghiệm giáo dục để giải quyết các nhiệm vụ giáo dục,
để ngăn ngừa và tránh khỏi những sai lầm khuyết điểm có thể lặp lại trong tương
lai.
Dựa vào lịch sử để thiết kế mô hình các biện pháp, các hình thức giáo dục mới, dự
đoán triển vọng phát triển của quá trình giáo dục.
4.

Ý nghĩa của quan điểm logic – lịch sử
Quan điểm lịch sử-logic trong nghiên cứu KHGD cho phép ta nhìn thấy toàn

cảnh sự xuất hiện, sự phát triển, diến biến và kết thúc của các sự vật hiện tượng,
mặt khác giúp ta phát hiện qui luật tất yếu của sự phát triển đối tượng, giúp các nhà
khoa học nghiên cứu và hoạt động thực tiễn giáo dục tránh được những sai lầm
không đáng có.
Phương pháp lịch sử là phương pháp xem xét và trình bày quá trình phát triển
của các sự vật, hiện tượng lịch sử theo một trình tự liên tục và nhiều mặt, có lớp
lang sau trước, trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác. Yêu cầu đối với
phương pháp lịch sử là đảm bảo tính liên tục về thời gian của các sự kiện; làm rõ

20


điều kiện và đặc điểm phát sinh, phát triển và biểu hiện của chúng, làm sáng tỏ các
mối liên hệ đa dạng của chúng với các sự vật xung quanh.
Khi nghiên cứu bất cứ một hiện tượng xã hội nào như chế độ chính trị, chiến
tranh, nghệ thuật lãnh đạo chỉ đạo cách mạng, ... phương pháp lịch sử xem xét rất
kỹ các điều kiện xuất hiện và hình thành ra chúng, làm rõ quá trình ra đời, phát
triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến hoàn thiện của các hiện tượng xã hội này.

Đồng thời đặt quá trình phát triển của hiện tượng trong mối quan hệ nhiều hiện
tượng tác động qua lại, thúc đẩy hoặc hỗ trợ lẫn nhau trong suốt quá trình vận động
của chúng. Bằng phương pháp lịch sử, có thể cho phép chúng ta dựng lại bức tranh
khoa học của các hiện tượng, các sự kiện lịch sử đã xảy ra. Vì thế, có thể nói rằng
phương pháp lịch sử đã trở thành một mặt không thể tách rời của phương pháp
biện chứng duy vật.
Đặc trưng của quan điểm lịch sử
Tuân thủ nguyên tắc niên biểu, nghĩa là trình bày quá trình hình thành và phát
5.

triển của sự vật, hiện tượng theo đúng trình tự vốn có của nó. Phương pháp lịch sử
trình bày một sự vật, hiện tượng có đầu đuôi, có thời gian xuất hiện, hình thành và
các bước vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng đó. Chỉ trên cơ sở tuân thủ
theo nguyên tắc niên biểu mới thấy được tính liên tục trong vận động, phát triển
của một hiện tượng cần nghiên cứu, và từ đó mới có thể rút ra được tính chất, đặc
điểm, xu hướng và quy luật vận động của chúng.
Làm rõ sự phong phú, muôn hình muôn vẻ của sự vận động, phát triển của lịch
sử - nghiên cứu lịch sử phải tỉ mỉ, công phu, phải xem xét các mặt biểu hiện của
nó, không được đơn giản, càng không được cắt xén làm cho lịch sử trở nên đơn
điệu, tẻ nhạt. Đúng như Lênin đã viết: "Lịch sử bao giờ cũng phong phú về nội
dung, cũng đa dạng về nhiều mặt, cũng sinh động hơn điều mà chúng ta hình dung
được". Thí dụ như: Quy luật phổ biến của cách mạng Việt Nam là toàn dân vũ
trang, cả nước đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Những
biểu hiện của quyluật này trong thực tiễn lịch sử của hai cuộc kháng chiến lại rất
phong phú đa dạng và hết sức sinh động, không giống nhau cả về hình thức và nội
dung. Tính rộng khắp và sâu sắc của toàn dân đánh giặc trong kháng chiến chống
Mỹ (1954-1975) đã có bước phát triển mới, cao hơn với hình thức phong phú, sáng
21



tạo hơn thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Nếu không đầu tư công sức nghiên cứu
tài liệu thực tiễn sẽ không làm sáng tỏ được bước phát triển mới của quy luật này.
Tuy vậy, khi chúng ta trình bày các sự vật, hiện tượng lịch sử phải tránh sa vào
liệt kê hiện tượng, sự kiện, dồn đống tư liệu mà không chú ý đến sự vận động
"logic" của các sự kiện, hiện tượng để chỉ ra xu hướng vận động có tính quy luật
của chúng. Cho nên, phản ánh sự phong phú, đa dạng của nội dung lịch sử không
đồng nghĩa với tập hợp thật nhiều sự kiện vụn vặt, lắp ghép theo trình tự thời gian.
Làm như vậy, không bao giờ có thể tạo ra được một bức tranh khoa học, phản ánh
đúng lịch sử và quy luật vận động của nó.
Một đặc trưng nữa là phải bám sát và phản ánh đúng các bước phát triển quanh
co, thậm chí thụt lùi tạm thời của lịch sử, bởi lẽ trong sự phát triển phong phú,
muôn màu, muôn vẻ của xã hội loài người, không phải lịch sử tiến lên theo con
đường bằng phẳng, mà các bước phát triển của lịch sử diễn ra có lúc nhanh, lúc
chậm, lúc thuận, lúc nghịch, có khi quanh co hoặc thụt lùi. Tái hiện lịch sử phải
trung thực, phản ánh đúng tiến trình vận động của nó, không được tùy tiện lược bỏ
những khuyết điểm, hạn chế và những bước thụt lùi. Chỉ có được như vậy, việc
nghiên cứu lịch sử mới thực sự rút ra được những bài học bổ ích.
Phương pháp lịch sử giúp chúng ta có thể đi sâu tái dựng được cả không khí
lịch sử, cả tâm lý và tình cảm của con người trong những sự vật, hiện tượng tiêu
biểu. Như chúng ta đã biết, lịch sử diễn biến, phát triển thông qua các sự vật, hiện
tượng lịch sử. Phương pháp lịch sử không phải chỉ là trình bày nhiều sự vật, hiện
tượng mà phải biết lựa chọn, trình bày các sự vật, hiện tượng tiêu biểu, điển hình.
Những sự vật, hiện tượng đó là những biểu hiện tập trung nhất phản ánh quy luật
vận động của lịch sử. Khi nghiên cứu các sự kiện quan trọng này, không những
phải làm sáng tỏ điều kiện hình thành và diễn biến của sự kiện mà còn phải đi sâu
tìm hiểu để làm rõ sắc thái riêng của từng sự kiện, mô tả được tâm lý, tình cảm của
quần chúng nhân dân và cả không khí sôi động, hào hùng của cuộc đấu tranh cách
mạng lúc bấy giờ.

22



Vận dụng phương pháp lịch sử trong nghiên cứu cần chú ý nêu rõ địa điểm, thời
gian xảy ra sự vật, hiện tượng, con người đã tham gia vào sự kiện, hiện tượng đó,
bởi vì các yếu tố này là những dấu ấn quan trọng của lịch sử. Nó đảm bảo tính
khách quan và xác thực trong tái hiện lịch sử, nhất là khi trình bày các sự kiện tiêu
biểu của các cuộc đồng khởi nêu trên, các hoạt động đánh dấu bước ngoặt của lịch
sử hoặc cuộc tổng tiến công chiến lược làm chuyển biến cục diện cách mạng chẳng
hạn. Đối tượng nghiên cứu của lịch sử rất phong phú đòi hỏi giới sử học phải nắm
chắc phương pháp lịch sử để khai thác nó một cách triệt để và sâu sắc. Phương
pháp lịch sử không chỉ là đơn thuần trình bày tiến trình phát triển của lịch sử bằng
cách sưu tầm và liệt kê nhiều sự kiện, hiện tượng. Quan trọng hơn là phải đầu tư
tìm hiểu, vạch ra được cái "logic" phát triển của các sự kiện, có nghĩa là tìm quy
luật phát triển của lịch sử.
Phương pháp lịch sử có ưu thế trong việc nghiên cứu lịch sử nhưng chỉ riêng
phương pháp lịch sử thì chưa thể tạo nên một công trình nghiên cứu lịch sử có tính
lý luận và khoa học. Bởi vậy, cần vận dụng có hiệu quả phương pháp logic và các
phương pháp khác trong nghiên cứu lịch sử.
6.

Vận dụng phương pháp logic trong nghiên cứu lịch sử cần tuân thủ những
yêu cầu sau:
a. Tránh máy móc và định kiến
Cần chú ý trong nghiên cứu lịch sử, khi sử dụng các luận điểm khoa học phải
coi đó chỉlà các phương tiện, công cụ của tư duy logic, chứ không phải cái có sẵn
để định hình hco lịch sử theo ý muốn chủ quan của người nghiên cứu. Các nhà
nghiên cứu phải dùng các luận điểm đểphát hiện ra "logic" phát triển của lịch sử
chứ không được đưa ra một cái khung logic phát triển rồi gán cho lịch sử. Trong
các quy luật vận động của lịch sử có quy luật phổ biến và quy luật đặc thù (riêng).
Chúng ta nắm chắc quy luật phổ biến để xem xét các sự kiện, hiện tượng lịch sử,

nhưng lại phải đi sâu vào các sự kiện, hiện tượng lịch sử nhằm tìm ra quy luật đặc
thù của chúng. Thí dụ: Nói đến chiến tranh nhân dân thì quy luật phổ biến của nó
là đấu tranh toàn diện và đông đảo quân fhcúng tham gia. Nhưng chiến tranh nhân
dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng vận động và phát triển trong điều kiện
23


lịch sử của đất nước và con ngươì Việt Nam nên nó có những biểu hiện riêng, phát
triển với những nét đặc thù riêng không giống như chiến tranh nhân dân ở các quốc
gia, dân tộc khác.
Nếu nghiên cứu lịch sử mà không làm rõ được những nét riêng đó thì khái quát
logic chỉ dừng lại ở những biểu hiện của quy luật chung, không rút ra được điều gì
bổ ích của chiến tranh nhân dân vô cùng phong phú, sáng tạo của dân tộc ta. Xét
cho cùng thì làm rõ được tính phổ biến, cũng như tính đặc thù của lịch sử, có nghĩa
là các nhà nghiên cứu đã khái quát đúng đắn được quy luật của lịch sử cụ thể, tránh
được sự chủ quan và định kiến trong nghiên cứu.
b.

Trên cơ sở những diễn biến của lịch sử thì khái quát logic mới có căn cứ.
Tách rời diễn biến lịch sử, chỉ dùng khái quát logic thay thế cho phương pháp

lịch sử thì thường dẫn đến những suy luận trìu tượng, nhận xét chung chung, thậm
chí kết luận sai lệch nữa. Do vậy, người nghiên cứu cần chú ý tránh sự hời hợt
trong nghiên cứu, phân tích các sự kiện, hiện tượng lịch sử rồi vội vã rút ra các kết
luận nông cạn, thậm chí sai lệch, đồng thời cũng cần phải tránh sự khái quát thiếu
hẳn các sự kiện, hiện tượng lịch sử làm cơ sở cho những điểm kết luận.
Như vậy, có nghĩa là phương pháp logic là sự phân tích khoa học biện chứng
của sự phát triển thực tế của sự vật, hiện tượng chứ không phải rút một khái niệm
này từ một khái niệm khác một cách tư biện. Sự phù hợp giữa logic và lịch sử là
một nguyên tắc phương pháp luận của logic biện chứng mácxít. Bởi lẽ muốn hiểu

được bản chất, quy luật của sự vật thì phải hiểu sự phát sinh, phát triển của nó.
Ngược lại, chỉ có nắm được bản chất và quy luật của sự vật, hiện tượng thì mới
nhận thức được lịch sử của nó một cách đúng đắn.
Dựng lại cái logic khách quan của sự phát triển của sự vật, hiện tượng là nhiệm
vụ của phương pháp logic. Muốn vậy, khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng phải bắt
đầu từ hình thức phát triển tương đối hoàn thiện và chín muồi nhất của nó chứ
không thể tùy tiện. Nếu lịch sử chính là bản thân cuộc sống thì logic là bản chất
của cuộc sống do nghiên cứu lý luận chỉ ra.
Không có sự khác nhau về nguyên tắc giữa lịch sử và logic. Vấn đề là ở chỗ
sự kết hợp giữa chúng một cách nhuần nhuyễn trong nghiên cứu sao cho đối tượng
24


được dựng nên với một diện mạo lịch sử trung thực, đúng như bản thân nó vốn có
và trong đó nổi bật logic về sự vận động, sinh thành, phát triển của nó. Giải thích
tính thống nhất giữa hai phương pháp, khi bàn về phương pháp logic, Ph. Ăngghen
đã viết: "Về bản chất, phương pháp logic không phải là cái gì khác mà chính là
phương pháp lịch sử đã được giải thoát khỏi hình thức lịch sử, không bị phụ thuộc
vào cái hoàn cảnh ngẫu nhiên, pha trộn..." và phương pháp logic "hoàn toàn không
nhất định đóng khung trong phạm vi trìu tượng thuần túy. Trái lại, nó đòi hỏi phải
có sự minh họa lịch sử. Như vậy, có thể hiểu rằng, phương pháp lịch sử đã chứa
đựng tính "logic" của sự phát triển lịch sử; còn phương pháp logic đã bao hàm
phương pháp lịch sử. Hai phương pháp này kết hợp chặt chẽ với nhau, và trong bản
thân phương pháp này đã có sự thâm nhập của phương pháp kia, không thể vận
dụng từng phương pháp tách rời nhau.
Tóm lại, xem xét từng phương pháp, ta thấy được các yêu cầu và tính độc
lập tương đối của mỗi phương pháp nhưng cả hai phương pháp lịch sử và logic đều
thống nhất ở mục tiêu là làm sáng tỏ quy luật khách quan của sự phát triển lịch sử.
Trong nghiên cứu, biên soạn lịch sử phải vận dụng được tính thống nhất trong sự
khác biệt của chúng. Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa phương pháp lịch sử và

phương pháp logic trong nghiên cứu, biên soạn lịch sử có một ý nghĩa phương
pháp luận rất quan trọng. Nó tránh cho ta mắc phải cách xem xét một chiều khi
nghiên cứu lịch sử, ngăn ngừa chủ quan, máy móc. Nó cũng giúp ta tránh tình
trạng ôm đồm, chỉ liệt kê tài liệu và ngăn ngừa cả kiểu lý luận suông không cần
thiết.
Việc khám phá bản chất và cấu trúc của sự tồn tại của thế giới xung quanh
ta, mà trước hết là thế giới những vật thể hữu hình, từ xưa đến nay, luôn luôn là
vấn đề được quan tâm hàng đầu trong lịch sử nhận thức của nhân loại. Hầu hết các
trường phái triết học đều bằng cách này hay cách khác giải quyết vấn đề này. Và
bởi vậy, trong triết học, phạm trù vật chất xuất hiện.
Chính từ sự xuất hiện như vậy trong lịch sử triết học, cũng như là trong mỗi
giai đoạn khác nhau, quan điểm về vật chất cũng rất khác nhau. Do đó, việc nghiên
cứu phạm trù vật chất cần thiết phải được tiến hành bằng cả phương pháp lịch sử
cũng như phương pháp logic.

25


×