Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Quan điểm lịch sử cụ thể với công cuộc đối mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.18 KB, 14 trang )

A.ĐẶT VẤN ĐỀ
Bước vào thiên niên kỷ mới, loài người đã và đang có những bước tiến
quan trọng trong công cuộc trinh phục thế giới. Những thành tựu trong lĩnh
vực khoa học - kỹ thuật nói riêng và trong mọi mặt của đời sống xã hội nói
chung đã nâng dần loài người lên một tầm cao mới. Trong sự chuyển biến
mạnh mẽ đó, Việt Nam chúng ta cũng không ngừng biến đổi vận động. Tính
đến nay nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới được hơn một thập kỷ, bên
cạnh những thành tựu đã đạt được, những vấn đề của nền kinh tế luôn đặt ra
những thách thức cho các nhà kinh tế. So với thế giới, nước ta vẫn là một
nước nghèo, nền kinh tế còn yếu kém, chậm phát triển, những tàn dư của nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp vẫn còn tồn tại đã kìm hãm sự phát triển
của nền kinh tế. Chính vì thế chúng ta phải nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng
đắn cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp với
khu vực thế giới và thời đại. Điều đó cũng có nghĩa là phải phân tích các yếu
tố kinh tế trong tổng thể các mối quan hệ, trong sự vận động, phát triển
không ngừng. Do vậy việc vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể của triết học
Mác - Lênin vào qúa trình đối mới kinh tế ở Việt Nam là rất cần thiết.
Quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình đối mới kinh tế ở
Việt Nam sẽ giúp cho nền kinh tế nước ta có được hướng đi đúng đắn. Vì
vậy, trong bài viết tiểu luận triết học của mình em đã chọn đề tài: “Quan
điểm lịch sử cụ thể với công cuộc đối mới kinh tế ở Việt Nam hiện
nay”.
Tuy nhiên, do kiến thức còn hạn hẹp sẽ không tránh khỏi nhiều sai xót. Do
vậy, em kính mong nhận được sự góp ý và hướng dẫn của các thầy cô trong khoa để
bà viết của em có kết quả tốt hơn.
Hà Nội, tháng 3 năm 2005
Sinh viên: Đỗ Hoàng Anh Tuấn
Trang 1
B. NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ CỤ THỂ
1. Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể


Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là cơ
sở hình thành quan điểm lịch sử cụ thể. Mọi sự vật hiện tượng của thế giới
đều tồn tại, vận động và phát triển trong những điều kiện không gian và thời
gian cụ thể xác định. Điều kiện không gian và thời gian có ảnh hưởng trực
tiếp tới tính chất, đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại
trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất,
đặc điểm của nó sẽ khác nhau, thậm trí có thể làm thay đổi hòan toàn bản
chất của sự vật.
2. Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể
Quan điểm lịch sử có 3 yêu cầu:
Thứ nhất: Khi phân tích xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong
điều kiện không gian và thời gian cụ thể của nó, phải phân tích xem những
điều kiện không gian ấy có ảnh hưởng như thế nào đến tính chất, đặc điểm
của sự vật, hiện tượng. Phải phân tích cụ thể mọi tình hình cụ thể ảnh hưởng
đến sự vật, hiện tượng.
Thứ hai: Khi nghiên cứu một lý luận, một luận điểm khoa học nào đó
cần phải phân tích nguồn gốc xuất xứ, hoàn cảnh làm nảy sinh lý luận đó. Có
như vậy mới đánh giá đúng giá trị và hạn chế của lý luận đó. Việc tìm ra
điểm mạnh và điểm yếu có tác dụng trực tiếp đến quá trình vận dụng sau này.
Thứ ba: Khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn phải tính đến
điều kiện cụ thể của nơi được vận dụng. Điều kiện này sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến kết quả của sự vận dụng đó.
3. Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử vào quá trình xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam?
Trang 2
Trước tiên cần phải khẳng định rằng KTTT định hướng XHCN cũng là
một dạng vật chất. Nền kinh tế Việt Nam là một dạng vật chất xã hội theo sự
phân loại của triết học Mác-Lênin. Chính vì thế nền KTTT định hướng
XHCN Việt Nam cũng tồn tại, vận động và phát triển theo những nguyên lý,
quy luật của triết học Mác-Lênin, mà cụ thể là trong những điều kiện không

gian thời gian theo quan điểm lịch sử cụ thể.
Sự ra đời và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hơn 10 năm
qua đã góp phần thay đổi bộ mặt đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy
nhiên đó chưa phải là cái đích cuối cùng của Đảng ta và nhân dân ta, bởi nền
kinh tế nước ta vẫn còn chậm phát triển. Khi chúng ta vừa chuyển từ nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, từ một nền kinh tế
yếu kém lạc hậu với hệ thống sản xuất, hệ thống quản lý kinh tế với những
cán bộ mang nặng tư tưởng ỷ lại sang nền KTTT năng động, do đó khó có
thể tránh khỏi những vấp váp sai lầm. Thêm nữa, thời điểm chúng ta bắt đầu
đổi mới, chuyển sang nền KTTT là quá muộn so với các nước trên thế giới
và khu vực khi mà các nước tư bản như Mỹ, Nhật, Tây Âu,...đã tiến hành cơ
chế thị trường và phát triển vượt xa ta mấy trăm năm. Nhờ sử dụng triệt để
KTTT, CNTB đã đạt được những thành tựu về kinh tế - xã hội, phát triển lực
lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, quản lý xã hội đã đạt được
những thành tựu về văn minh hành chính, văn minh công cộng, con người
nhậy cảm tinh tế với khả năng sáng tạo...và có cả những tiêu cực: sự gay gắt
dẫn đến tình trạng “cá lớn nuốt cá bé” sự phân cách giàu nghèo ngày càng
lớn, ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt, tệ nạn xã hội...Tuy nhiên, là
nước đi sau và theo CNXH, chúng ta có cơ hội kế thừa và phát triển những
thành tựu của nhân loại mà trước hết là sử dụng văn minh cuả KTTT, loại bỏ
những khuyết tật của nó để xây dựng CNXH có hiệu quả hơn.
Chính vì những lẽ đó, chúng ta cần phải vận dụng quan điểm lịch sử
cụ thể vào việc nghiên cứu quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN
ở Việt Nam.
Trang 3
II. Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể
1. Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
a. Những điều kiện trong nước

Đầu tiên chúng ta cần tìm hiểu xuất phát điểm về kinh tế của nước ta
khi bắt đầu đổi mới. Bức tranh chung của kinh tế Việt Nam năm trước đổi
mới là tăng trưởng thấp 3,7%/năm, làm không đủ ăn và dựa vào nguồn viện
trợ bên ngoài rất lớn. Thu nhập quốc dân trong nước, sản xuất chỉ đáp ứng
được 80-90% thu nhập quốc dân sử dụng. Đến năm 1985 tỷ trọng thu từ bên
ngoài chiếm 10,2% thu nhập quốc dân sử dụng, nợ nước ngoài lên tới 8,5 tỷ
rúp và 1,9 tỷ USD. Cũng vào các năm đó nền kinh tế rơi vào tình trạng
khủng khoảng trầm trọng, siêu lạm phát ở mức 774,7% vào năm 1986 kéo
theo giá cả leo thang và vô phương kiểm soát.
Sự tàn phá của chiến tranh và nền kinh tế bao cấp yếu kém kéo dài đã
để lại nhiều hậu quả nặng nề: cơ sở vật chất thấp kém với nền KH - CN, kỹ
thuật lạc hậu, hầu hết các hệ thống máy móc trong các xí nghiệp đều do Liên
Xô cũ giúp đỡ từ trong chiến tranh nên năng suất thấp, chất lượng kém.
Điều kiện địa lý cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng mạnh mẽ
đến nền kinh tế. Về địa hình, nước ta trải dài trên nhiều vĩ tuyến, bề ngang
hẹp, địa hình phức tạp mang đậm nét của sự phân dị sâu sắc về điều kiện tự
nhiên, kinh tế, xã hội. Các đặc điểm này chi phối sự phân công lao động xã
hội theo lãnh thổ và phát triển các vùng kinh tế. Nằm ở Tây Thái Bình
Dương và Đông Nam Á, khu vực phát triển cao, ổn định, nơi cửa ngõ của
giao lưu quốc tế, Việt Nam có nhiều khả năng để phát triển nhiều loại hình
kinh tế khác nhau dựa trên những lợi thế về vận tải biển, dịch vụ viễn thông,
du lịch. Tài nguyên khoáng sản phân bố không đều trên các vùng, ngay ở mỗi
vùng cũng phân tán và thiếu đồng bộ không gắn với nhau gây khó khăn cho
Trang 4
việc khai thác sử dụng chúng và ảnh hưởng đến việc bố chí kinh tế của các
vùng. Về dân số, nước ta có dân số đông, nguồn lao động dồi dào nhưng
phân bố cũng không đồng đều.
Về chế độ chính trị: Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một trong
những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Theo các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì kinh tế quyết định chính trị “ chính trị là

sự biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị không phải là mục đích mà chỉ là
phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế.” Lênin đã chỉ rõ: “để thoả mãn
những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm phương
tiện đơn thuần.” Khẳng định đó của Lênin không có nghĩa là phủ nhận vai
trò quyết định của kinh tế đối với chính trị mà muốn nhấn mạnh tác động của
chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị
mà nó được xem xét giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Như
vậy chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thống nhất biện
chứng với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế.
Sau khi miền Bắc giải phóng và từ sau năm 1975 thống nhất đất nước,
cả nước ta đã kiên quyết đi theo con đường XHCN - đây là lựa chọn tất yếu
và đúng đắn. Tuy nhiên, vì không qua giai đoạn TBCN, chúng ta đã gặp
nhiều khó khăn và bỡ ngỡ trong công cuộc xây dựng một hệ thống chính trị
vững mạnh. Thêm vào đó, khi ta đang trong tình trạng ban đầu của công cuộc
đổi mới, một giai đoạn quan trọng mà chính trị là yếu tố định hướng dẫn
đường thì CNXH ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu sụp đổ hàng loạt đã
gây nhiều hoang mang cho Đảng và nhân dân ta. Điều này cũng chứng tỏ
rằng đang có rất nhiều thế lực phản động không ngừng tìm cách phá hoại, lật
đổ chế độ CNXH ở nước ta.
b. Những điều kiện thế giới và khu vực
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, mặc dù thế giới còn nhiều diễn biến
phức tạp nhưng hoà bình và hợp tác là xu thế chủ đạo, là đòi hỏi bức xúc của
Trang 5

×