Lời Cảm Ơn!
Khoảng thời gian trên giảng đường Đại Học luôn là quãng
thời gian quan trọng và đặc biệt có ý nghĩa đối với mỗi người
sinh viên như tôi – là quãng thời gian để tôi trang bị cho mình
những hành trang kiến thức vững tin bước vào cuộc sống. Và tất
cả những kiến thức học được trong bốn năm qua, những kinh
nghiệm có được sau một khoảng thời gian thực tập tại Văn
phòng Hướng dẫn tham quan – TT VH - TT TP. Hội An đã hội tụ
đầy đủ trong khóa luận tốt nghiệp Đại Học này.
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp đại học của mình tôi
xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến cô giáo
hướng dẫn Th.S Châu Thị Minh Ngọc, người đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm khóa luận vừa qua.
Tôi xin gởi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo trong
Khoa Du Lịch – Đại Học Huế đã tận tình giảng dạy và truyền thụ
cho tôi bao kiến thức bổ ích.
Xin chân thành cảm ơn các anh, các chị tại Văn phòng
Hướng dẫn tham quan Hội An đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi được tham gia thực tập và tiến hành thực nghiệm các
kỹ năng nghiệp vụ du lịch, cũng như là cơ hội có được những
trải nghiệm thực tế đầy ý nghĩa.
Nhân dịp này, tôi cũng xin gởi lời cảm ơn tới gia đình và
bạn bè luôn ở bên, động viên giúp đỡ tôi yên tâm học tập và
hoàn thành khóa luận của mình.
Xin chân thành cảm
ơn!
Huế, tháng 05 năm
2017
Sinh viên thực hiện
Đỗ Nguyễn Tường Vi
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu thập và
kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất kỳ đề tài nghiên
cứu khoa học nào.
Huế, tháng 05 năm 2017
Sinh viên thực hiện
Đỗ Nguyễn Tường Vi
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
3
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
MỤC LỤC
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
4
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
DANH MỤC BẢNG
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
5
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Nghĩa đầy đủ
TTVH – TT
Trung tâm văn hóa – thể thao
ĐH
Nghĩa tiếng việt
Đại học
ĐVT
Đơn vị tính
TP
Thành phố
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
6
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
UBND
Ủy ban nhân dân
GTTB
Gía trị trung bình
Famtrip
Familiazation trip
Chuyến đi làm quen
World Tourist Organization
Tổ chức du lịch thế giới
United Nations Educational
Tổ chức Giáo dục, Khoa
Scientific and Cultural
học và Văn hoá của Liên
Organization
Hợp Quốc
WTO
UNESCO
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
7
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
“Du lịch làng nghề được các nhà nghiên cứu, các chuyên gia đánh giá là một
loại hình du lịch văn hóa chất lượng cao bởi lẽ làng nghề truyền thống được xem như
một tài nguyên du lịch nhân văn có ý nghĩa. Làng nghề truyền thống được coi là một
“bảo tàng sống”, nơi lưu giữ kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vừa phong
phú, đa dạng, vừa sinh động, cụ thể, góp phần làm nên hệ giá trị của văn hóa dân tộc.
Đây chính là yếu tố thu hút sự quan tâm của du khách. Theo các nhà khoa học, các di
sản văn hóa làng nghề truyền thống bao gồm: hệ thống các công trình kiến trúc, hệ
thống công cụ sản xuất, các nghệ nhân dân gian, sản phẩm nghề truyền thống, công
nghệ và kỹ năng sản xuất mang tính gia truyền của dòng họ, gia đình, các lễ hội, sinh
hoạt văn hóa tín ngưỡng, cảnh quan sinh thái nhân văn… Làng nghề - đó không chỉ
đơn thuần là nơi chế tác các sản phẩm thủ công truyền thống mà còn là môi trường văn
hóa lưu giữ và trao truyền qua nhiều thế hệ những tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật dân
gian, những kinh nghiệm sản xuất và phong tục tập quán của cộng đồng. Với hệ giá trị
này, hiện nay, làng nghề truyền thống đã trở thành điểm du lịch hấp dẫn đối với du
khách trong và ngoài nước, họ đến với làng nghề không chỉ đơn thuần để tham quan
các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh mà trên hết là để thưởng thức những
ngón nghề của muôn vạn bàn tay khối óc với tinh thần cần cù, bền bỉ, sáng tạo và
thăng hoa nối tiếp nhau qua nhiều thế hệ; từ đó, từng bước tìm hiểu và khám phá một
nền văn hóa”. (Trích Tạp chí Giáo dục Nghệ thuật, ngày 26/10/2016 – Bài đăng: Du
lịch làng nghề - Tiềm năng và định hướng phát triển.)
Thực tế trong vài năm gần đây, du lịch làng nghề đang trở thành một trong
những loại hình du lịch hấp dẫn và thu hút khá nhiều sự quan tâm của du khách tại mỗi
điểm đến. Du lịch làng nghề được xem là sản phẩm đặc thù của các quốc gia đang phát
triển trong đó có Việt Nam.
Việc phát triển hình thức du lịch làng nghề là một trong số các xu hướng vận
động của làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì tiềm
năng du lịch ở các làng nghề truyền thống trong nước là rất lớn. Mỗi làng nghề đều
gắn với vùng văn hóa, hệ thống di tích và truyền thống riêng, cùng với cung cách sáng
tạo sản phẩm riêng biệt. Vì vậy, việc cần đẩy mạnh công tác giới thiệu, quảng bá làng
nghề và sản phẩm truyền thống là điều vô cùng cần thiết. Đặc biệt, việc chú trọng công
tác quảng bá du lịch làng nghề là rất quan trọng và quyết định xem hình ảnh làng nghề
có đến được với đông đảo du khách trong và ngoài nước.
Khi nói đến con đường di sản miền Trung không thể không nói đến Quảng Nam
- mảnh đất không chỉ nổi tiếng với những di sản văn hóa đã được thế giới vinh danh
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
8
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
mà còn bởi nhiều làng nghề truyền thống có lịch sử lâu đời. Ngày nay, nhiều làng nghề
ở Quảng Nam đã trở thành điểm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Với
điều kiện giao thông thuận lợi nối kết giữa hai di sản văn hóa thế giới, du khách có dịp
tham gia vào những tour du lịch làng nghề đầy hấp dẫn nơi đây. Phải kể đến một làng
nghề truyền thống đó là làng gốm Thanh Hà – Hội An với lịch sử trên 500 năm. Đến
nay, làng gốm Thanh Hà vẫn được coi là đối tác duy nhất có thể cung cấp các nguyên
vật liệu đúng tiêu chuẩn, hợp quy cách và chất lượng cao phục vụ công tác trùng tu,
bảo tồn di sản văn hóa thế giới khu phố cổ Hội An. Nhận thấy rằng, để phát triển du
lịch làng nghề tại đây cần phải đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động xúc tiến, quảng bá,
giới thiệu làng nghề và các sản phẩm làng nghề. Quảng bá luôn là một khâu quan
trọng trong hoạt động du lịch. Do đó việc tìm hiểu, nghiên cứu hoạt động quảng bá du
lịch làng nghề hiện tại của thành phố để đưa ra các giải pháp quảng bá phù hợp sẽ là
động thái tích cực thúc đẩy du lịch thành phố và sẽ là phương tiện gián tiếp tạo nguồn
khách du lịch quốc tế và nội địa.
Xuất phát từ những vấn đề trên cùng với việc nhận thức được tầm quan trọng
của hoạt động quảng bá du lịch mà tôi quyết định chọn đề tài: “Nghiên cứu hoạt động
quảng bá du lịch làng gốm Thanh Hà của thành phố Hội An” làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1.
Mục tiêu tổng quát
Đánh giá thực trạng quảng bá du lịch làng gốm Thanh Hà của thành phố Hội
An.
2.2.
Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về du lịch, quảng bá du lịch.
- Nghiên cứu hoạt động quảng bá du lịch làng gốm Thanh Hà của thành phố
Hội An.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động quảng bá du lịch làng
gốm Thanh Hà của thành phố Hội An.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.
Đối tượng nghiên cứu
3.2.
Hoạt động quảng bá du lịch làng gốm Thanh Hà
Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: làng gốm Thanh Hà – Hội An
- Thời gian: từ 02/2017 đến 05/2017
- Khách thể nghiên cứu: người có nhu cầu du lịch làng gốm Thanh Hà, kể cả
du khách trong nước và quốc tế.
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
9
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
4. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp thu thập số liệu
Tài liệu thứ cấp
–
Thu thập số liệu từ Trung Tâm Văn Hóa – Thể Thao Thành Phố Hội An qua 3 năm
2014 – 2016.
–
Các số liệu khác thông qua sách, báo, internet.
Tài liệu sơ cấp
Điều tra thông qua việc phát bảng hỏi.
Phương pháp chọn mẫu điều tra: Phương pháp nghiên cứu định lượng, thực
hiện thông qua điều tra bằng bảng hỏi để thu thập thông tin.
Xác định quy mô mẫu:
Công thức tính quy mô mẫu của Linus Yamane:
N=
Trong đó:
–
n : quy mô mẫu
–
N: kích thước tổng thể, N= 176877 lượt khách tham quan tại làng gốm Thanh Hà năm
2016.
e: độ sai lệch. Chọn khoảng tin cậy 90% và sai số cho phép giữa tỷ lệ mẫu và
tổng thể là e=10%.
–
Áp dụng công thức, ta có quy mô mẫu là:
n= = 99,94
Do có nhiều hạn chế trong điều kiện điều tra và đảm bảo tính khách quan của
mẫu nên em chọn 120 mẫu để tiến hành điều tra.
b. Phương pháp xử lý và phân tích tài liệu
Đối với tài liệu thứ cấp
–
Phương pháp tổng hợp, sàng lọc, sắp xếp để xử lý các tài liệu thu thập được.
–
Phương pháp học thuật, khoa học để chỉnh sửa tài liệu theo văn phong thích hợp.
–
Phương pháp lập luận quy nạp.
Đối với tài liệu sơ cấp
–
Phương pháp xử lý số liệu từ phần mềm SPSS.
–
Phương pháp thống kê kế toán học.
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
10
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
–
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
Phương pháp phân tích bảng biểu, sơ đồ.
c. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Số liệu thu thập sẽ được xử lý trên phần mềm phân tích thống kê SPSS 20.0. Cụ
thể như sau:
•
Phân tích thống kê mô tả: Tần suất (Frequencies), phần trăm (Percent), giá trị trung
bình (Mean).
Ý nghĩa của từng giá trị trung bình đối với thang đo khoảng:
+ Giá trị khoảng cách bằng (Maximum – Minimum )/n = ( 5 – 1 )/5 = 0,8.
1,0 – 1,80 Rất không đồng ý/rất không cần thiết/rất không thường xuyên/rất
không quan trọng.
1,81 – 2,60 Không đồng ý/không cần thiết/không thường xuyên/không quan
trọng.
2,61 – 3,40 Bình thường.
3,41 – 4,20 Đồng ý/cần thiết/thường xuyên/quan trọng.
4,21 – 5,00 Rất đồng ý/rất cần thiết/rất thường xuyên/rất quan trọng.
•
Phân tích phương sai 1 yếu tố (Oneway–ANOVA): Phân tích sự khác biệt ý kiến
đánh giá giữa các nhóm khách theo các nhân tố: Giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp và
quốc tịch.
Giả thuyết kiểm định:
H0: Không có sự khác biệt trong đánh giá giữa các cá nhân khác nhau.
H1: Có sự khác biệt trong đánh giá giữa các cá nhân khác nhau.
Nếu Sig >= 0,1: Chấp nhận giả thuyết H0.
Nếu Sig < 0,1: Chấp nhận giả thuyết H1.
Chú thích:
Sig (P–value) <= 0,01 (***): Khác biệt có ý nghĩa thống kê cao.
0,01 < Sig (P–value) <= 0,05 (**): Khác biệt có ý nghĩa thống kê trung bình.
0,05 < Sig (P–value) <= 0,1 (*): Khác biệt có ý nghĩa thống kê thấp.
–
Sig (P–value) > 0,1 (Ns) (Non – significant) : Không có sự khác biệt ý kiến giữa các
nhóm khách.
•
Kiểm định tham số trung bình mẫu đối với những biến độc lập có hai mẫu
(Independent Sample T – test)
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
11
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
Kiểm định Independent Sample T – test là phép kiểm định giả thuyết về trung bình
của tổng thể, được dùng trong trường hợp ta muốn kiểm định giả thuyết về sự bằng nhau
của hai trung bình tổng thể dựa trên hai mẫu độc lập rút từ hai tổng thể này.
Trong kiểm định Independent Sample T – test ta có một biến định lượng để tính trung
bình và một biến định tính dùng để chia nhóm ra so sánh.
Trong nghiên cứu này, kiểm định tham số trung bình của hai tổng thể - trường hợp
hai mẫu độc lập nhằm mục đích kiểm định sự khác biệt về đánh giá mức độ hấp dẫn và
mức độ ấn tượng giữa các khách hàng có giới tính khác nhau.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài lời cảm ơn, lời cam đoan, phần đặt vấn đề, kết luận, kiến nghị, mục lục và phụ
lục thì kết cấu của đề tài chủ yếu gồm 3 chương sau:
Chương 1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Chương 2. Nghiên cứu hoạt động quảng bá du lịch làng gốm Thanh Hà của TP. Hội
An.
Chương 3. Giải pháp nhằm nâng cao hoạt động quảng bá du lịch làng gốm Thanh Hà
– Hội An.
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
12
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
PHẦN II: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Du lịch và khách du lịch
Khái niệm về du lịch
Du lịch đã trở thành một trong những hình thức sinh hoạt khá phổ biến của con
người trog thời đại ngày nay. Tuy nhiên, xét theo nhiều góc độ tiếp cận khác nhau sẽ
có những cách định nghĩa khác nhau về du lịch.
Tại hội nghị LHQ về du lịch họp tại Rome - Italia (21/8 - 5/9/1963), các
chuyên gia đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: “Du lịch là tổng hợp các mối quan
hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của
cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục
đích hoà bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ.”
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (World Tourist Organization), đã nhìn nhận du
lịch dưới góc độ: “Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành,
tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục
đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục đích
khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường
sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền. Du lịch
cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư.”
Theo khoản 1, điều 4, Chương I, Luật du lịch Việt Nam năm 2005, ban hành
ngày 14/6/2005: “Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên
của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một thời gian
nhất định”
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam năm 1966, du lịch được hiểu:
Thứ nhất, du lịch được hiểu ở góc độ cầu tức góc độ người đi du lịch: “Du lịch là một
dạng nghỉ dưỡng sức, tham quan tích cực của con người ngoài nơi cư trú với mục đích:
nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa nghệ
thuật”.
Thứ hai, du lịch được hiểu ở góc độ một ngành kinh tế: “Du lịch là một ngành kinh
doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên,
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
13
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất
nước; đối với người nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình; về mặt kinh tế du
lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là hình thức xuất khẩu
hàng hóa và dịch vụ tại chỗ”.
Như vậy, du lịch được nhìn nhận dưới góc độ khác nhau sẽ có cách định nghĩa
khác nhau. Ta thấy được, du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù với sự tham gia
của nhiều thành phần, chúng tạo thành một tổng thể phức tạp vừa mang đặc điểm của
ngành kinh tế vừa mang đặc điểm của ngành văn hóa - xã hội.
Khái niệm về khách du lịch
Theo khoản 1, điều 4, Luật Du lịch Việt Nam năm 2005: “Khách du lịch là
người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành
nghề để nhận thu nhập ở nơi đến”.
Các tổ chức Quốc tế như tổ chức liên hiệp các quốc gia – League of Nations,
của Tổ chức du lịch thế giới – WTO, của Tiểu ban các vấn đề kinh tế- xã hội trực
thuộc Liên hiệp quốc và của Hội đồng thống kê liên hiệp quốc…. có nhiều định nghĩa
khác nhau về khách du lịch nói chung, khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa
nói riêng. Xong xét một cách tổng quát thì đều có một số điểm chung nổi bật như sau:
- Khách du lịch phải là người khởi hành rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của
mình.
- Khách du lịch có thể khởi hành với mọi mục đích khác nhau, loại trừ mục đích
lao động để kiếm tiền ở nơi đến.
- Thời gian lưu lại nơi đến ít nhất là 24 giờ, nhưng không được quá một năm.
Hiện tại, có nhiều tiêu chí để phân loại khách du lịch (theo mục đích chuyến đi,
theo quốc tịch, theo nguồn khách, theo giới tính v.v.), dưới đây là một số loại khách du
lịch điển hình:
Du khách quốc tế
Năm 1963 tại hội nghị của Liên Hiệp Quốc về du lịch tại Roma, Ủy ban thống
nhất thì: “Khách du lịch quốc tế là người thăm viếng một số nước khác ngoài nơi cư
trú của mình với bất cứ lý do nào ngoài mục đích hành nghề để nhận thu nhập từ nước
được viếng thăm”.
Theo định nghĩa của Tổ chức du lịch thế giới (WTO): “Khách du lịch quốc tế là
những người viếng thăm một nước ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình trong thời
gian 24 giờ nhưng không vượt quá một năm và không nhằm mục đích kiếm tiền”.
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
14
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
Theo khoản 3, điều 34, Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 định nghĩa như sau:
“Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
vào Việt Nam du lịch; công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra
nước ngoài du lịch”.
Du khách nội địa
Theo định nghĩa của Tổ chức du lịch thế giới (WTO): “Khách du lịch nội địa là
những người cư trú trong nước, không kể quốc tịch thăm viếng một nơi cư trú thường
xuyên của mình trong thời gian ít nhất 24 giờ cho một mục đích nào đó ngoài việc
hành nghề để kiếm tiền tại nơi được viếng thăm”.
Theo khoản 2, điều 43, Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 định nghĩa như sau:
“Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt
Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam”.
1.1.1.2. Sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch là một thuật ngữ có rất nhiều quan niệm định nghĩa và cũng
được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Các khái niệm về sản phẩm du lịch rất đa dạng
tùy theo hướng tiếp cận khác nhau. Sản phẩm du lịch là một khái niệm rộng, là tổng
thể các yếu tố hữu hình hoặc vô hình, kết hợp với nhau, tạo thành các sản phẩm du lịch
hoàn chỉnh, làm thỏa mãn nhu cầu cho du khách trong hoạt động du lịch.
Sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho du khách, được tạo nên
bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng các
nguồn lực: cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc
gia nào đó.
Theo khoản 10, điều 4, Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 định nghĩa như sau:
“Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu của khách du
lịch trong chuyến đi du lịch”.
Có thể nhận thấy rằng, sản phẩm du lịch không chỉ là mối quan tâm của khách
du lịch mà còn là mối quan tâm của các nhà quản lý, kinh doanh, cộng đồng địa
phương. Nói đến sản phẩm du lịch là nói đến các dịch vụ (hoặc hàng hóa như đồ lưu
niệm…) có thể đem bán cho du khách.
Sản phẩm du lịch có nhiều hướng tiếp cận khác nhau và được hiểu ở nhiều
phạm vi khác nhau:
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
15
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
Ở phạm vi điểm đến, sản phẩm du lịch gắn liền với một điểm đến cụ thể: biển,
đảo, núi, sông, hồ, di tích, danh thắng, công trình, lễ hội, làng nghề,… phục vụ cho
nhu cầu của khách du lịch.
Ở phạm vi dịch vụ, sản phẩm du lịch gắn liền với những dịch vụ cụ thể, đó là
những dịch vụ lưu trú, ăn uống, vận chuyển, tham quan, giải trí, mua sắm, các dịch vụ
bổ sung khác…
Ở phạm vi của tour, sản phẩm du lịch gắn liền với những sản phẩm cụ thể, đó là
những chương trình du lịch, những dịch vụ trọn gói hoặc từng phần phần bán ra phù
hợp với nhu cầu của khách du lịch.
Như vậy, sản phẩm du lịch được hiểu là các tài nguyên du lịch, dịch vụ du lịch,
hàng hóa và tiện nghi cung ứng cho du khách, là tổng thể những yếu tố có thể trông
thấy hoặc không trông thấy được, do các cá nhân, tổ chức kinh doanh du lịch cung cấp
để phục vụ, thỏa mãn nhu cầu của từng đối tượng du khách khác nhau. Nó phù hợp với
những tiêu chí nghề nghiệp và thông lệ quốc tế đồng thời chứa đựng những giá trị đặc
trưng bản địa; đáp ứng và làm thỏa mãn các mục tiêu kinh tế - xã hội đối với các cá
nhân, tổ chức và địa phương nơi đang diễn ra các hoạt động kinh doanh du lịch.
Những yếu tố cấu thành sản phẩm du lịch
Cũng như tất cả những sản phẩm khác, sản phẩm du lịch gồm nhiều yếu tố kết
hợp với nhau để đáp ứng cho thị trường thỏa mãn tối đa nhu cầu của du khách. Sản
phẩm du lịch bao gồm các yếu tố cơ bản sau:
- Tài nguyên thiên nhiên: khí hậu, cảnh quan, núi rừng, sông, biển, đảo, suối,
hồ, thác…
- Tài nguyên nhân văn, các di sản văn hóa, các công trình kiến trúc, nghệ thuật,
di tích lịch sử, phong tục tập quán, lễ hội, làng nghề…
- Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nghành du lịch: nhà hàng, khách sạn, khu vui
chơi giải trí…
- Hệ thống phương tiện giao thông phục vụ du lịch: máy bay, tàu lửa, tàu
thuyền, xe ô tô…
- Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch: hệ thống giao thông, điện, nước, y tế, bưu
chính viễn thông…
- Môi trường kinh tế và xã hội: giá cả liên quan đến du lịch, an toàn xã hội,
trình độ dân trí, văn minh đô thị…
Đặc điểm của sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch mang đặc tính nhìn thấy được và không nhìn thấy được.
Các yếu tố nhìn thấy được chủ yếu là: tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng, vật
chất kỹ thuật, phương tiện vận chuyển, đặc sản, hàng lưu niệm… Các yếu tố không
nhìn thấy được bao gồm: các dịch vụ du lịch, các yếu tố tâm lý…
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
16
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
Sản phẩm du lịch mang tính đa dạng của các bên tham gia: thông thường sản
phẩm du lịch có nhiều yếu tố cấu thành như: cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, các
loại dịch vụ…
Sản phẩm du lịch mang tính đặc thù: sản phẩm du lịch không thể tồn kho, sản
phẩm du lịch đòi hỏi phải có sự tham gia của du khách để tồn tại và là điều kiện cần
thiết để thực hiện dịch vụ. Sản phẩm du lịch mang tính không co giãn của cung so với
cầu, sản phẩm du lịch không di chuyển đến thị trường tiêu thụ.
1.1.1.3. Làng nghề truyền thống
Làng nghề truyền thống là vấn đề luôn được rất nhiều nhà khoa học quan tâm ở
những góc độ khác nhau. Nghề và các làng nghề thủ công truyền thống luôn là đối
tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực: văn hóa, lịch sử, du lịch... Trong du lịch, làng
nghề truyền thống được xem như là một yếu tố của tài nguyên du lịch. Vì vậy, những
nghiên cứu về các làng nghề thì có nhiều, nhưng nghiên cứu để đánh giá nó như một
tài nguyên cho ngành du lịch thì hầu như rất ít.
Hiện nay, ở nước ta có nhiều quan điểm khác nhau về làng nghề.
Theo Trần Quốc Vượng (1996, trang 38 - 39), làng nghề được hiểu như sau:
“Làng nghề là làng ấy vẫn có trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhỏ (lợn,
gà…), cũng có một số nghề phụ khác (đan lát, làm tương, làm đậu phụ…) song nổi
trội một số nghề cổ truyền, tinh xảo với một tầng lớp thủ công chuyên nghiệp hay bán
chuyên nghiệp, có phường (cơ cấu tổ chức), có ông trùm, ông phó cả… cùng một số
thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư
nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất
ra những mặt hàng thủ công, những mặt hàng đã có tính mỹ nghệ, đã trở thành sản
phẩm hàng hóa và có quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng xung quanh và với thị
trường đô thị, thủ đô và tiến tới mở rộng ra cả nuớc rồi có thể xuất khẩu ra cả thị
trường nước ngoài. Những làng nghề ấy ít nhiều đã nổi danh từ lâu (có một quá khứ
hàng trăm năm) “dân biết mặt, nước biết tên, tên làng đã đi vào lịch sử, vào ca dao tục
ngữ trở thành di sản văn hóa dân gian”.
Cùng với quan điểm của Trần Quốc Vượng, Bùi Văn Vượng (2002), cũng cho
rằng: làng nghề truyền thống là làng nghề cổ truyền làm nghề thủ công và tại đó thì
không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ thủ công cũng
đồng thời là người làm nghề nông (nông dân) nhưng yêu cầu chuyên môn hóa cao đã
tạo ra những người thợ này chuyên sản xuất hàng nghề truyền thống ngay tại làng quê
của mình.
Trong những quan điểm trên, các tác giả đã đưa ra những dấu hiệu rất cụ thể để
nhận biết về làng nghề nhưng dường như những dấu hiệu đó chỉ đúng với những làng
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
17
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
nghề truyền thống, đã có lịch sử phát triển lâu đời mà chưa đúng với những làng nghề
nói chung, đặc biệt là những làng nghề mới ra đời trong thời gian gần đây.
Theo Dương Bá Phượng (2001), “Làng nghề là làng ở nông thôn có một hay
một số nghề thủ công tách hẳn khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập”. Quan điểm
này đã nêu được hai yếu tố là làng (ở nông thôn) và nghề (thủ công tách khỏi nông
nghiệp và kinh doanh độc lập) nên có khả năng bao quát hơn về các làng nghề ở nước
ta nói chung tuy nhiên nó không hoàn toàn phù hợp với hiện trạng các làng nghề ở
Việt Nam vẫn tồn tại đan xen cả thủ công nghiệp và nông nghiệp, nhiều làng ở nước ta
có nghề nhưng vẫn chưa được gọi là làng nghề.
Có rất nhiều nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm làng nghề kèm theo những tiêu
chí rất cụ thể về lao động và việc làm như: Làng nghề là những làng đã từng có từ 50
hộ hoặc từ 1/3 tổng số hộ hay lao động của địa phương trở lên làm nghề chiếm phần
chủ yếu trong tổng thu nhập của họ trong năm.
Cùng với quan điểm này, trong Dự thảo Nghị định của Chính phủ về một số
chính sách khuyến khích phát triển làng nghề nông thôn được Bộ Nông nghiệp và phát
triển nông thôn đệ trình tháng 5/2005, Làng nghề là thôn, ấp, bản có trên 35% số hộ
tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn và thu nhập từ ngành nghề nông thôn chiếm
trên 50% tổng thu nhập của làng… Như vậy, các quan điểm này đã quan tâm đến tỷ lệ
người làm nghề và thu nhập từ ngành nghề nhưng lại cố định tiêu chí xác định làng
nghề. Điều này sẽ tạo ra nhiều khó khăn trong việc hoạch định các chính sách phát
triển khi chế độ ưu đãi với các làng nghề thay đổi.
Theo tác giả Mai Thế Hởn (2003, trang 11 – 13), làng nghề được quan niệm là
một cụm dân cư sinh sống trong thôn (làng) có một hay một số nghề được tách ra khỏi
nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập. Thu nhập từ các nghề đó chiếm tỷ trọng
cao trong tổng giá trị sản phẩm của toàn làng. Làng nghề theo quan niệm của tác giả
Mai Thế Hởn là những làng có tuyệt đại đa dân số làm nghề cổ truyền. Nó được hình
thành, tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, được nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ
khác kiểu cha truyền con nối hoặc ít nhất cũng tồn tại hàng chục năm. Trong làng sản
xuất mang tính tập trung, có nhiều nghệ nhân tài hoa và một nhóm người có tay nghề
giỏi làm hạt nhân để phát triển nghề.
Từ các quan niệm trên cho thấy, khái niệm về làng nghề được cấu thành từ hai
yếu tố là làng và nghề. Bởi vậy, không phải bất cứ làng nào có nghề cũng được gọi là
làng nghề. Quan niệm về làng nghề phải được thể hiện trên hai mặt định tính và định
lượng. Xét về mặt định tính, làng nghề phải thể hiện sự khác biệt so với các làng thuần
nông hoặc so với các phố nghề ở thành thị. Xét về mặt định lượng, làng nghề phải đạt
đến quy mô nhất định và có tính ổn định tương đối cao. Vì có điểm xuất phát là làng
gắn với nông nghiệp nên quy mô của làng phải phát triển đến một mức độ nào đó mới
được gọi là làng nghề. Việc xác định sự phát triển của làng nghề vừa phải đặt nó trong
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
18
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
quy mô làng về số hộ, số lao động, thu nhập từ hoạt động kinh tế của nghề, vừa phải
xem xét bản thân hoạt động nghề của làng. Với một lịch sử phát triển lâu đời của làng
xã, Việt Nam là một đất nước có rất nhiều làng nghề tồn tại và phát triển. Có những
làng chỉ có một nghề nhưng cũng có những làng tồn tại đan xen nhiều nghề. Có những
làng có nghề truyền thống, có lịch sử hàng trăm năm, gắn với những mặt hàng tinh xảo
nhưng cũng có những làng nghề mới ra đời được vài chục năm gần đây trong thời kỳ
đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường. Sự tồn tại đan xen các làng nghề này đã tạo
nên một diện mạo phong phú, nhiều vẻ cho nông thôn Việt Nam.
Du lịch làng nghề là một biểu hiện đặc thù của phương Đông và là một thế
mạnh của Việt Nam. Điều đó phần nào phản ánh qua việc khái quát tình hình khai thác
loại hình du lịch này ở một số nước châu Á, và đặc biệt là ở nước ta. Nhưng du lịch
làng nghề Việt Nam vẫn còn trong tình trạng khai thác tự nhiên và đầu tư thăm dò.
Chưa có những nghiên cứu đầy đủ cũng như chưa có những hoạt động thực tiễn đem
lại cho chúng ta một mô hình tốt trong vấn đề này. Tuy vậy, du lịch làng nghề vẫn là
một trong những hướng đi có nhiều triển vọng nhất của du lịch Việt Nam.
Trong xu thế hội nhập và mở cửa, làng nghề truyền thống đang dần lấy lại vị trí
quan trọng của mình trong đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi dân tộc mỗi quốc
gia. Những làng nghề này như một hình ảnh đầy bản sắc, khẳng định nét riêng biệt,
độc đáo không thể thay thế. Một cách giới thiệu sinh động về đất, nước và con người
của mỗi vùng, miền, địa phương. Phát triển du lịch làng nghề chính là một hướng đi
đúng đắn và phù hợp, được nhiều quốc gia ưu tiên trong chính sách quảng bá và phát
triển du lịch. Những lợi ích to lớn của việc phát triển du lịch làng nghề không chỉ thể
hiện ở những con số tăng trưởng lợi nhuận kinh tế, ở việc giải quyết nguồn lao động
địa phương mà hơn thế nữa, còn là một cách thức gìn giữ và bảo tồn những giá trị văn
hoá của dân tộc. Đó là những lợi ích lâu dài không thể tính được trong ngày một ngày
hai. Du lịch làng nghề truyền thống ngày càng hấp dẫn du khách và đang là một hướng
phát triển du lịch ở nhiều quốc gia trên thế giới. Bên cạnh những lợi ích về kinh tế, xã
hội, hình thức du lịch này còn góp phần bảo tồn và phát huy những bản sắc văn hoá
độc đáo của từng vùng miền, địa phương. Một địa phương muốn thu hút khách du lịch,
tạo ra nhiều loại hình du lịch hấp dẫn đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách thì phải
bắt tay vào việc xây dựng và phát triển các sản phẩm du lịch gắn liền với việc khai
thác có chiều sâu và khai thác đúng tài nguyên du lịch của địa phương đó.
Làng nghề vừa là sản phẩm du lịch đặc trưng khi làng nghề đó có khả năng hấp
dẫn, thu hút khách, vừa là sản phẩm du lịch bổ sung khi tạo ra những mặt hàng lưu
niệm cho du khách. Làng nghề truyền thống là tài nguyên du lịch nhân văn góp phần
thu hút số lượng lớn khách du lịch, làm cho hoạt động du lịch thêm phong phú đa
dạng, tạo nên nhiều lựa chọn hấp dẫn cho du khách. Ngoài ra du lịch làng nghề truyền
thống còn làm đa dạng các sản phẩm du lịch. Trong những năm gần đây, loại hình du
lịch làng nghề ở Việt Nam ngày càng hấp dẫn du khách, đặc biệt là du khách nước
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
19
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
ngoài, bởi những giá trị văn hóa lâu đời và cách sáng tạo sản phẩm thủ công đặc trưng
ở mỗi vùng.
1.1.2. Quảng bá du lịch
1.1.2.1. Khái niệm về quảng bá
Quảng bá được hiểu là sự phổ biến rộng rãi về một đối tượng nào đó bằng các
phương tiện chuyển tải thông tin, nhằm thu hút sự chú ý, từ đó tạo ra nhu cầu tiêu
dùng. Quảng bá là cách thức của một doanh nghiệp, một địa phương, một vùng, miền
hay ngành kinh tế, một quốc gia nhằm tạo ra và duy trì một hình ảnh sản phẩm trước
công chúng, có lợi cho việc kinh doanh trên thị trường. Trong xu thế hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng, việc thực hiện chính sách về quảng bá là hoạt động vô cùng cần
thiết và rất quan trọng.
Quản bá du lịch có thể hiểu trên hai khía cạnh. Với mục đích văn hóa thuần túy:
quảng bá là hoạt động nhằm giới thiệu về đất nước, con người, truyền thống dân tộc
v.v… tới khách du lịch và đồng thời khơi dậy lòng yêu quê hương đất nước của mọi
người. Với mục đích kinh tế: quảng bá là hoạt động quảng cáo sản phẩm du lịch tới
khách du lịch, thu hút khách du lịch…
1.1.2.2. Các phương thức quảng bá du lịch
Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch luôn được các nhà nghiên cứu phát triển du
lịch xác định là một trong những yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy nhanh sự phát
triển của ngành du lịch. Trong việc quảng bá du lịch có nhiều cách thức, hình thức
quảng bá khác nhau như thông qua các hình thức nghe, nhìn, đọc và cảm quan, cảm
nhận như thông qua trang website, tờ rơi, tập gấp, ấn phẩm, vật phẩm, sách, báo, tạp
chí, làm clip, phim ảnh, thông qua các phương tiện vận chuyển, hội chợ du lịch…Việc
đẩy mạnh hoạt động quảng bá du lịch qua các phương thức quảng bá là điều vô cùng
cần thiết hiện nay.
Hiện nay, các công cụ quảng bá được xem như là một công cụ sắc bén để quảng
bá du lịch, phải kể đến đó là quảng bá du lịch thông qua website, hội chợ du lịch, phim
ảnh. Một trang web đáng tin cậy, thông tin và nội dung phong phú và có tính tương tác
cao chính là cầu nối trực tiếp giữa những người làm du lịch trong nước với khách hàng
và đối tác quốc tế. Bên cạnh đó, việc quảng bá du lịch trực tiếp tại các hội chợ luôn
được đánh giá là khâu then chốt, chủ đạo trong lĩnh vực quảng bá du lịch.
Thông qua các phương thức quảng bá, việc giới thiệu được các điểm du lịch,
sản phẩm du lịch, các tour, tuyến, chính sách ưu tiên, ưu đãi về phát triển du lịch tạo ra
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
20
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
sức hút mạnh đến khách du lịch đồng thời tạo mối quan hệ liên doanh, liên kết, trao
đổi, học tập, kết nối xây dựng tour, tuyến, mở rộng và khai thác thị trường, liên kết du
lịch trong nước và quốc tế.
1.1.2.3. Tác động và vai trò của quảng bá trong phát triển du lịch
Quảng bá trong phát triển du lịch đóng một vai trò hết sức quan trọng, thông
qua việc quảng bá các điểm đến và sản phẩm du lịch được truyền đến khách du lịch
một cách rỗng rãi hơn. Thực tế cho thấy quảng bá giúp nâng cao nhận thức, tạo dựng
hình ảnh của điểm đến du lịch trong lòng du khách, qua đó góp phần đáng kể vào việc
phát triển du lịch. Quảng bá trong du lịch có tác động mạnh mẽ góp phần xúc tiến du
lịch, có vai trò trong việc giới thiệu điểm đến, vẻ đẹp và sức hấp dẫn của điểm đến đó.
Quảng bá giúp cho du khách dễ dàng tiếp cận được với các sản phẩm dịch vụ du lịch
từ đó tạo sự an tâm về điểm đến cho du khách.
Ngành du lịch mang tính chất đặc trưng bởi khách du lịch thường ở vị trí cách
xa với sản phẩm du lịch hay dịch vụ du lịch mà họ muốn sử dụng hoặc là các sự kiện,
chương trình du lịch xảy ra một cách không thường xuyên. Một cá nhân khi tiến hành
tìm kiếm các thông tin, nội dung liên quan đến hoạt động du lịch nó bao gồm các nội
dung, thông tin bên trong và bên ngoài để giúp thực hiện được nhu cầu tìm hiểu về sản
phẩm du lịch mà họ muốn. Nếu không có khả năng kiểm tra điểm đến hoặc sự kiện
đặc biệt trước đó, khách du lịch phải phụ thuộc vào các nguồn thông tin thứ cấp để đưa
ra các quyết định đi du lịch, mua sản phẩm du lịch. Việc tìm kiếm các thông tin du lịch
được thể hiện qua việc dựa vào thu hồi thông tin mà cá nhân đã từng sử dụng trong
quá khứ, điển hình là một lần truy cập trước đó vào trang web hoặc một điểm đến
tương tự.
Các tìm kiếm bên ngoài thể hiện sự nỗ lực tìm kiếm thông tin mới của du khách
thông qua các phương tiện truyền thông hoặc từ văn học du lịch đích thực (DSTL –
Destination Specific Travel Literature) như các tài liệu du lịch. Các tìm kiếm bên
ngoài thông tin đòi hỏi sự tham gia tích cực của người tiêu dùng phải bắt đầu một số
hình thức yêu cầu. Theo Gitelson và Crompton đã đề xuất ba lý do tại sao các tìm kiếm
bên ngoài của du khách quan trọng trong du lịch:
- Trong mỗi chuyến đi du lịch thì việc mua sắm là có khả năng cao và liên quan
đến việc sử dụng tiền tùy ý của từng du khách.
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
21
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
- Người tiêu dùng không thể thực sự quan sát được tiềm năng mua sắm của họ,
do đó phải sử dụng các nguồn thông tin thứ cấp.
- Các du khách thường có xu hướng đến thăm các điểm đến mới và tương đối xa
lạ như một động lực chính để đi du lịch.
Qua đó nhận thấy rằng, để phát triển du lịch cần đẩy mạnh hoạt động quảng bá,
bởi quảng bá nhằm rút ngắn khoảng cách giữa du khách với điểm đến, sản phẩm du
lịch; giúp du khách hiểu rõ về sản phẩm du lịch. Từ đó, tạo động lực thúc đẩy đến
quyết định lựa chọn tiêu dùng sản phẩm du lịch nào của du khách. Ngoài ra, quảng bá
du lịch được sử dụng như một lời nhắc nhở dài hạn hoặc tham khảo cho du khách.
Việc quảng bá sản phẩm du lịch sẽ tác động mạnh đến việc phát triển du lịch, giúp
kích cầu du lịch, nâng cao và thu hút lượng khách đến. Qua đó, quảng bá du lịch góp
phần:
-
Quảng bá du lịch góp phần chuyển biến, nâng cao nhận thức các ngành, địa
phương và toàn thể xã hội về du lịch.
Quảng bá du lịch nhằm nâng cao hình ảnh du lịch của vùng quốc gia, lãnh thổ,
đất nước trong khu vực và trên toàn thế giới.
Quảng bá du lịch nhằm nâng cao số khách đến, thu hút lượng khách đến tại nơi
có dịch vụ du lịch.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tình hình phát triển du lịch Hội An giai đoạn 2014 – 2016
1.2.1.1. Tình hình khách đến Hội An giai đoạn 2014 – 2016
Bảng 1.1: Số lượt khách du lịch mua vé tham quan phố cổ Hội An
giai đoạn 2014 – 2016
(ĐVT: lượt khách)
Năm
2014
2015
2016
2015/2014
(%)
2016/2015
(%)
Loại khách
Khách quốc tế
581.616
820.124
1.168.311
141,00
142,46
Khách nội địa
Tổng
259.297
840.913
350.859
400.742
135,31
114,22
1.170.98 1.569.053
139,25
133,99
3
(Nguồn: TTVH – TT TP. Hội An, 2017)
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
22
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
Năm 2015, mặc dù tình hình kinh tế trong và ngoài nước vẫn còn khó khăn
nhưng nhìn chung du lịch Hội An vẫn đạt mức tăng trưởng khá với tỉ lệ tăng 39,25%
lượt khách mua vé tham quan so với năm 2014. Cụ thể, lượt khách quốc tế mua vé
tham quan tăng 41%, khách nội địa tăng 35,31% so với cùng kỳ. Đến năm 2016 lượng
khách quốc tế đến mua vé tham quan tăng mạnh với tỉ lệ 42,46% so với năm 2015,
trong khi đó khách nội địa tăng chậm chỉ với 14,22%.
Qua đó nhận thấy rằng, thị trường khách quốc tế đến tham quan Hội An là lớn
và tăng đều giai đoạn 2014 – 2016, trong khi đó thị trường khách nội địa tăng không
đều và gần đây nhất năm 2016 chỉ tăng 14,22% so với năm 2015.
Thị trường khách truyền thống đến với Hội An chủ yếu là khách đến từ châu
Âu. Thời điểm năm 2014, do những biến động của tình hình thế giới nên khách du lịch
đến Hội An có dấu hiệu sụt giảm đáng kể. Nhiều nhất là du khách Nga (giảm gần
22%), rồi đến các nước Bồ Đào Nha, Pháp, Australia, Thụy Điển và Mỹ... Đặc biệt do
tác động của tình hình căng thẳng trên biển Đông nên lượng khách Trung Quốc, Hồng
Kông, Đài Loan đến Hội An giảm mạnh (nguồn: TTVH – TT TP. Hội An). Ngoài thị
trường khách truyền thống, đã xuất hiện khách đến từ thị trường mới như Hàn Quốc,
Nhật Bản. Bà Đinh Thị Thu Thủy, Trưởng phòng Thương mại - du lịch thành phố cho
biết: cùng với chương trình khai thác thị trường Hàn Quốc và Nhật Bản cho 3 địa
phương “một điểm đến” gồm Quảng Nam, Đà Nẵng và Huế, Hội An đã tham gia
chương trình kích cầu, kích thích thị trường tại khu vực của Nhật và Hàn Quốc nhân
tuyến đường bay mới mở nên lượng khách của Nhật Bản và Hàn Quốc tăng đột biến
sau đó.
1.2.1.2. Doanh thu từ hoạt động du lịch
Bảng 1.2: Doanh thu từ hoạt động bán vé tham quan du lịch phố cổ Hội An giai
đoạn 2014 – 2016
(ĐVT: nghìn đồng)
Năm
Doanh thu
2014
2015
2016
2015/2014
2016/2015
(%)
(%)
90.537.680 126.483.600 172.256.680
139,7
136.2
(Nguồn: TTVH – TT TP. Hội An, 2017)
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
23
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
Từ bảng số liệu trên, nhận thấy rằng doanh thu từ hoạt động bán vé tham quan
phố cổ Hội An năm 2015 tăng tỷ lệ 39,7% so với năm 2014 tức tăng gần 36 tỷ đồng,
và năm 2016 doanh thu tăng tỷ lệ 36,2% so với năm 2015 tức tăng gần 46 tỷ đồng.
Trong khi đó, tổng doanh thu toàn ngành Thương mại- Du lịch của Hội An
trong năm 2015 đạt gần 3 ngàn tỷ đồng, tăng 7,78% so với cùng kỳ năm 2014. Trong
đó, doanh thu du lịch hơn 2.270 tỷ đồng, tăng 9,21% so với năm 2014 (Nguồn: Phòng
Thương mại – Du lịch Hội An).
1.2.2. Tình hình hoạt động quảng bá du lịch ở Việt Nam
Theo Tổng cục Du lịch, năm 2016, các chỉ tiêu về lượng khách du lịch quốc tế,
nội địa và tổng thu từ khách du lịch đạt những kỷ lục mới: đón 10 triệu lượt khách
quốc tế (tăng 25% so với năm 2015), phục vụ 62 triệu lượt khách nội địa, tổng thu từ
du lịch đạt 400.000 tỷ đồng, chứng minh Du lịch Việt Nam đạt được những thành tựu
nổi bật trong năm vừa qua một phần nhờ công tác quảng bá, xúc tiến du lịch được triển
khai ngày càng chuyên nghiệp như sử dụng công nghệ mạng e-marketing, phối hợp
với VTV triển khai thực hiện chương trình quảng bá du lịch (VTVtrip), hợp tác với các
cơ quan truyền thông... song song với việc việc quan tâm đầu tư, bảo tồn các công
trình di tích, di sản cùng với cung cấp các loại hình dịch vụ tốt nhất cho du khách. Để
tối đa hóa lợi thế, tiềm năng du lịch rất lớn của Việt Nam cần có những biện pháp khai
thác, quảng bá có hiệu quả, các địa phương, cơ quan liên quan và mỗi người dân cần
thực hiện những "chuyển động" tích cực để tạo ấn tượng mạnh mẽ hơn với du khách.
Nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về vai trò của du lịch, trong đó
có quảng bá du lịch đã được củng cố, nâng dần lên và chuyển biến theo hướng
tích cực
- Các chủ trương, chính sách phát triển du lịch từng bước được thể chế hóa
thông qua luật du lịch và hệ thống các văn bản hướng dẫn và các văn bản pháp lý liên
quan.
- Các nội dung chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam,
các chương trình hành động quốc gia về du lịch; chương trình xúc tiến, quảng bá du
lịch các giai đoạn được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt được thực hiện, từng bước
nâng cao chất lượng, hiệu quả phát triển du lịch cũng như xúc tiến du lịch. Từng bước
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
24
Lớp: K47 QTKDDL
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Châu Thị Minh Ngọc
tăng cường phối hợp liên ngành trong quảng bá du lịch như phối kết hợp tổ chức các
chương trình, sự kiện du lịch hoặc liên quan ở trong và ngoài nước hay áp dụng một số
chính sách tạo thuận lợi cho khách du lịch nước ngoài như đơn phương miễn thị thực
cho du khách từ 7 quốc gia (Nga, Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy, Đan Mạch, Hàn Quốc,
Nhật Bản); áp dụng thí điểm chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng cho du khách; cấp
giấy phép tham quan, du lịch Việt Nam cho người nước ngoài quá cảnh; tạo điều kiện
thuận lợi cho các đoàn khách du lịch caravan; xây dựng và triển khai các chương trình
kích cầu du lịch...
- Nhận thức về quảng bá, xúc tiến du lịch của doanh nghiệp được nâng lên.
Các doanh nghiệp du lịch ngày càng chủ động trong các hoạt động quảng bá, xúc tiến
cho sản phẩm, dịch vụ của mình cả ở trong và ngoài nước. Nhiều doanh nghiệp đã đặc
biệt chú trọng đến đội ngũ marketing của đơn vị, đầu tư thích đáng cho đội ngũ nhân
lực cũng như tài lực cho hoạt động này, qua đó từng bước xây dựng và khẳng định
được thương hiệu của mình, đồng thời góp phần không nhỏ trong việc quảng bá hình
ảnh du lịch quốc gia.
Qui mô và phạm vi hoạt động quảng bá du lịch được mở rộng
- Các hoạt động quảng bá du lịch ở nước ngoài đã được mở rộng về phạm vi và
quy mô.
Bao gồm việc tham gia các chương trình, sự kiện văn hóa-du lịch như Tuần lễ văn hóadu lịch Việt Nam ở nước ngoài; tham gia các hội chợ du lịch quốc tế lớn tại các thị
trường trọng điểm (Top Resa tại Pháp, WTM tại Anh, ITB tại Đức, ITB Asia tại
Singapore, JATA tại Nhật, CITM tại Trung Quốc, MITT tại Nga, Thaland Travel Mart
Plus tại Thái Lan, các kỳ Hội chợ TRAVEX được tổ chức luân phiên tại các nước
ASEAN...); triển khai nhiều chương trình giới thiệu điểm đến tại khu vực thị trường
châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản, Ôtxtrâylia...; quảng bá trên các phương tiện truyền
thông có uy tín và độ phủ rộng trên thế giới như Kênh truyền hình CNN, BBC; tổ chức
đón các đoàn Fam trip, Press trip của các thị trường gửi khách trọng điểm vào Việt
Nam; đẩy mạnh việc xây dựng các ấn phẩm du lịch đa dạng, nhiều ngôn ngữ; ứng
dụng công nghệ thông tin trong quảng bá, tuyên truyền trên mạng internet…
- Các hoạt động quảng bá du lịch được tổ chức rỗng rãi trên phạm vi cả nước.
SVTH: Đỗ Nguyễn Tường Vi
25
Lớp: K47 QTKDDL