Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

tiểu luận môn chủ nghĩa tư bản hiện đại “những điểm mới của CNTB trong thời đại chúng ta so với thời đại c mác”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.93 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế của các nước tư bản nói
riêng từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã có rất nhiều biến đổi so với trước
chiến tranh, một trong những nhân tố có vai trò quan trọng tạo nên những
biến đổi đó là sự điều chỉnh kinh tế của nhà nước. Với vai trò to lớn của mình,
Nhà nước có thể kích thich hoặc kìm hãm sự phát triển của kinh tế bằng hệ
thống các công cụ và chính sách đã vạch ra. Vai trò quản lý kinh tế của nhà
nước bắt nguồn từ sự cần thiết phải phối hợp hoạt động lao động chung và do
tính chất xã hội hoá của sản xuất quy định. Lực lượng sản xuất càng phát
triển, trình độ xã hội hoá của sản xuất càng cao thì phạm vi thực hiện vai trò
này càng rộng và mức độ đòi hỏi của nó càng chặt chẽ và nghiêm ngặt.
Nhưng có một thực tế chúng ta cần nhìn nhận rằng, dù có những điều chỉnh
như thế nào thì chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn là chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhưng ở nấc thang phát triển cao hơn, những biến đổi, thích nghi của CNTB
ngày nay chỉ là những biểu hiện mới trong năm đặc điểm của CNTB độc
quyền. Bản chất kinh tế của CNTB ngày nay vẫn là sự thống trị của các tổ
chức độc quyền, bản chất chính trị là hiếu chiến, xâm lược và phản
động.Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế nước ta theo định
hướng xã hội chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc
xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản
chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những tinh hoa mà nhân loại đã đạt được
dưới thời kì tư bản chủ nghĩa. Do vậy, việc nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản
luôn là việc làm cần thiết và có ý nghĩa sâu sắc. Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn
đề tài: “Những điểm mới của CNTB trong thời đại chúng ta so với thời đại
C.Mác” để nghiên cứu viết tiểu luận. Trong quá trình làm bài, dù đã có nhiều
cố gắng nghiên cứu tìm hiểu song không thể tránh khỏi những hạn chế. Tôi
rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để bài tiểu
luận của tôi được hoàn chỉnh hơn. Tôi xin chân thành cảm !
1



NỘI DUNG
I/ Một số vấn đề lý luận về chủ nghĩa tư bản ngày nay.
1.1.Khái niệm.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại - hiểu theo nghĩa rộng - là chủ nghĩa tư bản
gắn liền với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, là chủ nghĩa tư
bản có trình độ phát triển cao về kinh tế, kĩ thuật và công nghệ và có sự điều
chỉnh thích nghi với thời đại mới.
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã
làm cho chủ nghĩa tư bản biến đổi một cách sâu sắc từ lực lượng sản xuất đến
quan hệ sản xuất, từ cơ sở kinh tế đến kiến trúc thượng tầng. Do đó, chủ nghĩa
tư bản hiện đại là chủ nghĩa tư bản có trình độ phát triển cao và có sự điều
chỉnh thích nghi với thời đại.
1.2.Đặc trưng.
- Chủ nghĩa tư bản hiện đại vận động trên một cơ sở vật chất kỹ thuật
mới hoàn toàn về chất.
Từ 1980 đến nay, chủ nghĩa tư bản đã bước vào một thời kì kĩ thuật
mới -Thời kì công nghệ là khoa học. Đây là một nền công nghiệp cơ khí kiểu
mới, nền công nghiệp hoạt động trên cơ sở những công nghệ thiết bị mới hoàn
toàn về nguyên tắc, làm cho việc sản xuất kinh doanh diễn ra theo phương
thức hoàn toàn mới. Chính vì vậy, đã tạo ra một sức sản xuất to lớn, với một
tốc độ tăng trưởng nhanh chóng khiến cho quy luật tiết kiệm được thực hiện
một cách hoàn hảo. Trong thời kì này, nhiều ngành sản xuất vật chất với công
nghệ hiện đại ra đời như: kỹ thuật điện tử, vi điện tử, người máy, năng lượng
nguyên tử, vật liệu cao cấp, kỹ thuật vi sinh học,…đã tạo ra những thành tưu
mới và được chủ nghĩa tư bản áp dụng một cách có hiệu quả để tạo ra một cơ
ở vật chất kỹ thuật mới hoàn toàn về chất.
- Nhà nước tư bản là một trung tâm điều tiết vĩ mô, người tổ chức đời
sống kinh tế xã hội của xã hội tư bản.

2



Đến giai đoạn chủ nghĩa tư bản hiện đại, sự can thiệp của nhà nước vào
nền kinh tế mới trở thành nhân tố chủ động, định hướng và uốn nắn được quá
trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa vận động theo các mục tiêu định trước. Tuy
nhiên, hiệu quả của quá trình định hướng này còn nhiều han chế do bản chất
tư bản chủ nghĩa của nó kìm hãm, nhưng đây cũng là bước biến đổi về chất
trong sự điều chỉnh kinh tế của nhà nước tư sản. Ở giai đoạn này, sự can thiệp
của nhà nước vào nền kinh tế đã có những chuyển biến quan trọng, từ chỗ chỉ
là những giải pháp tình thế ứng phí với tình hình chiến tranh và khủng hoảng
kinh tế, nó đã chuyển sang các giải pháp chỉ đạo tăng trưởng, ổn định, phát
triển lâu dài nền kinh tế. Hệ thống điều chỉnh kinh tế của nhà nước tư sản hiện
đại đã được định hình và có khả năng can thiệp vào mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế xã hội. Nó có thể hoàn thành cả nhiệm vụ điều tiết kinh tế ngắn hạn và
điều chỉnh sự vận động của nền kinh tế dài hạn. Từ đó, điều chỉnh kinh tế của
nhà nước tư bản hiện đại đã trở thành một bộ phận cấu thành hữu cơ trong
toàn bộ cơ chế tái sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự can thiệp toàn diện của nhà
nước vào quá trình tái sản xuất tư bản xã hội là đặc trưng nổi bật của chủ
nghĩa tư bản hiện đại. Song đó chỉ là sự thích ứng của chủ nghĩa tư bản với sự
phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Nó không xóa bỏ được các điều
kiện mà trong đó các quy luật vốn có của chủ nghĩa tư bản hoạt động, tức là
sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế vẫn chịu sự chế ước của quy luật
kinh tế tư bản chủ nghĩa. Do đó, không thể xóa bỏ được tình trạng phát triển
tự phát và khủng hoảng kinh tế.
- Các công ty xuyên quốc gia - lực lượng cơ bản của chủ nghĩa tư bản
hiện đại.
Là một trong những chủ thể quan trọng nhất của nền kinh tế toàn cầu,
các công ty xuyên quốc gia chiếm một vị trí lớn mạnh hơn bao giờ hết trong
các hoạt động kinh tế quốc tế và trong các quan hệ kinh tế quốc tế.
Trên thực tế, thông qua các chiến lược kinh doanh, đầu tư toàn cầu, các

công ty xuyên quốc gia đóng vai trò là động lực phát triển kinh tế thế giới
3


cũng như thúc đẩy phát triển kinh tế ở các quốc gia có chi nhánh của nó hoạt
động. Với tiềm lực chiếm tới 4/5 tổng sản lượng công nghiệp thế giới và 90%
tổng FDI toàn cầu, các công ty xuyên quốc gia thực sự chi phối hầu hết các
hoạt động kinh tế trên phạm vi toàn thế giới. Tuy nhiên, cũng phải thấy tính
chất 2 mặt của đầu tư trực tiếp mà các công ty xuyên quốc gia thực hiện. Một
mặt làm tăng thêm nguồn vốn và các hệ quả lợi ích khác cho nước chủ nhà,
nhưng mặt khác, nếu không quản lý giỏi thì chính qua đó cũng để lại những
hậu quả ngoài mong muốn.
1.3. Những nhân tố tác động đến sự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản.
1.3.1.Cách mạng khoa học và công nghệ.
Cách mạng khoa học và công nghệ tác động đến chủ nghĩa tư bản theo
hai hướng: một mặt, chủ nghĩa tư bản hiện đại sử dụng những thành tưu của
cuộc cách mạng này để tăng tỷ suất thặng sư, tăng khả năng chi phối các nước
đang phát triển. Các nước tư bản phát triển làm chủ công nghệ cao và tiên
tiến, tiếp tục dẫn dắt các tiến trình khoa học và công nghệ và cả các tiến trình
phát triển kinh tế của thế giới. Một hậu quả của nó là khoảng cách giàu nghèo
giữa các nước phát triển với các nước chậm phát triển đã không giảm đi mà
ngày càng có xu hướng gia tăng nhanh chóng. Thực tế đó đang trở thành nguy
cơ chia cắt thế giới thành hia nửa khác biệt và gia tăng sự mất ổn định quốc
tế. Mặt khác trong sâu xa và về lâu dài, cách mạng khoa học và công nghệ là
nhân tố thách thức chủ nghĩa tư bản, cũng làm cho mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất xã hội hóa cao với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày
càng gay gắt và sâu sắc.
1.3.2. Sự ra đời, phát triển, khủng hoảng và đổi mới của hệ thống xã
hội chủ nghĩa.
Từ cuối những năm 1970 đến đầu những năm 1980, các nước xã hội

chủ nghĩa trên thế giới lần lươt tiến hành cải tổ, cải cách, đổi mới,…Đến cuối
những năm 1980 đầu những năm 1990, một loạt nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu rồi đến Liên Xô lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng, chế độ xã hội
4


chủ nghĩa ở các nước này sụp đổ, các đảng cộng sản và công nhân cầm quyền
ở các nước này bị tan rã; các nhà nước xã hội chủ nghĩa liên bang như Liên
Xô, Tiệp Khắc, Nam Tư cũng tan rã.
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu
đã gây nên cơn chấn động chính trị toàn cầu. Song không một ai có thể phủ
nhận được ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga
năm 1917 cũng như vị trí, vai trò và những đóng góp vĩ đại của hệ thống xã
hội chủ nghĩa thế giới đối với lịch sử phát triển của nhân loại.
Hiện có năm đảng cộng sản và công nhân đang trực tiếp lãnh đạo sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước mình là: Đảng Cộng sản Trung
Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Cuba, Đảng Lao động Triều
Tiên và Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
của nhân dân các nước này chính là chủ nghĩa xã hội hiện thực, là thành quả
chung của phong trào cộng sản và Công nhân quốc tế. Năm đảng, năm nước
đang đi tiên phong trong sự nghiệp đấu tranh của nhân loại tiến lên hình thài
kinh tế xã hội mới – xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa
xã hội.
Từ những bài học thành công và thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô và các nước Đông Âu, những kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước mình, các nước Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba, Cộng hòa dân chủ
nhân dân Triều Tiên đã và đang tích cực tìm tòi sáng tạo, cả về lý luận và thực
tiễn, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của
đất nước, dân tộc mình, phù hợp với những biến đổi diễn ra trên thế giới. Mặc
dù vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức trong nước và với các

âm mưu hành động “ diễn biến hòa bình”, can thiệp, phá hoại, lật đổ của các
thế lực đế quốc thù địch. Song chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc, Việt Nam,
Lào, Cuba và Triều Tiên đã không chỉ kiên cường trụ vững mà còn có những
bước phát triển mới được thế giới công nhận. Vượt qua muôn ngàn khó khăn
thứ thách và cả sự chống phá của các thế lực thù địch, năm nước xã hội chủ
5


nghĩa đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy vẫn còn
rất khó khăn, song thế và lực của chủ nghĩa xã hội đã khác xã so với thời kì
năm 1990 khi Liên Xô tan rã.
1.3.3. Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng
nhiều nước tham gia, tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu
tố, bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các
nước đang phát triển. Toàn cầu hóa là quá trình phổ biến trên toàn cầu những
giá trị, mô hình kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, khoa học - kỹ thuật, công
nghệ,…nhất định. Toàn cầu hóa bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế và cho đến nay,
nội dung chủ yếu của nó vẫn là toàn cầu hóa kinh tế,... Khái niệm này bao
hàm sự gia tăng nhanh chóng hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc
gia, khu vực để vươn tới quy mô toàn cầu. Toàn cầu hóa kinh tế vừa là trung
tâm, vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy các lĩnh vực khác của xu thế
toàn cầu hóa. Sự tham gia vào quá trình toàn cầu hóa được gọi là hội nhập.
Hội nhập có thể theo nhiều cấp độ và nội dung khác nhau như: hội nhập khu
vực, hội nhập quốc tế, hội nhập kinh tế, hội nhập văn hóa,…
1.3.4. Hòa bình, hợp tác và phát triển.
Hiện nay, hòa bình, hợp tác và phát triển đang là một xu thế lớn của
thời đại. Xu thế này được quy định bởi các yếu tố sau:
- Sự tồn tại của vũ khí giết người hàng hoạt, với sức mạnh hủy diệt
khủng khiếp của nó, đã làm cho bất cứ giới cầm quyền nào cũng phải tính

toán kỹ vấn đề chiến tranh và hòa bình. Ngày nay, nhiều nước ở nhiều khu
vực khác nhau trên thế giới đã sở hữu vũ khí hạt nhân và các loại vũ khí giết
người hàng loạt với sức hủy hoại ghê gớm, mà nếu chiến tranh xảy ra thì
không có bên thắng bên thua mà chỉ có sự hủy diệt toàn cầu. Điều đó có nghĩa
là tất cả các nước đều có lợi ích giống nhau trong việc ngăn ngừa chiến tranh
hủy diệt.

6


- Cục diện thế giới ngày nay đã có sự thay đổi quan trọng. Mỹ vẫn tiếp
tục là siêu cường duy nhất có sức mạnh vượt trội về các mặt so với các cường
quốc khác, nhưng thế của Mỹ đang suy giảm tương đối và không phải muốn
làm gì cũng được, trong khi đó, các cường quốc khác đang vươn lên mạnh mẽ
trở thành đối trọng với sức mạnh của Mỹ. Xu hướng đa cực hóa, đa dạng hóa
trong quan hệ quốc tế đang phát triển. Quan hệ giữa các nước lớn hiện nay là
quan hệ thận trọng, vừa hợp tác vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau. Hợp tác
nhưng không dẫn tới liên minh, liên kết; đấu tranh nhưng tránh xung đột và
đối đầu quân sự trực tiếp.
- Sự phụ thuộc lẫn nhau, nhất là về kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa
giữa các quốc gia rất sâu sắc, khiến sự đụng đầu quân sự sẽ làm đổ vỡ toàn bộ
nền kinh tế thế giới, gây thiệt hại cho tất cả các quốc gia. Hơn bao giờ hết,
vấn đề lợi ích kinh tế, tài chính hiện đang có tiếng nói quan trọng trong quan
hệ giữa các quốc gia. Quản lý kinh tế đang là sư thử thách quan trọng nhất để
đánh giá khả năng của một chính phủ. Tăng cường lợi ích kinh tế quốc gia
đang là mục tiêu hàng đầu trong chính sách đối ngoại của các nước.
- Nhân loại đang đứng trước những vấn đề toàn cầu và mối đe dọa an
ninh phi truyền thống hết sức bức xúc đòi hỏi phải có sự hợp tác đa phương
để giải quyết. Đó là các vấn đề như khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc
gia, thảm họa môi trường sinh thái,…chúng đan xen và tác động tiêu cực đến

an ninh và phát triển của các quốc gia, do đó, không thể xem xét giải quyết
một cách riêng lẻ ,à cần tới sự hợp tác đa phương.
- Tất cả các quốc gia trên thế giới đều có nhu cầu muốn ổn định, hòa
bình, hợp tác để phát triển. Đây chính là môi trường và điều kiện thuận lợi
cho tất cả các quốc gia có thể tham gia tích cực vào không gian hội nhập quốc
tế trên tất cả các lĩnh vực.
Tuy nhiên, trên thế giới còn tồn tại nhiều yếu tố căng thẳng, bất trắc và
khó lường. Đó là:

7


+ Đấu tranh và cọ sát giữa các nước lớn về chiến lược và kinh tế gia
tăng đưa đến sự đổ vỡ trong quan hệ căng thẳng trong thời gian dài, nhưng có
thể có lúc dẫn tới căng thẳng cục bộ.
+ Các cuộc xung đột khu vực cục bộ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, biên
giới lãnh thổ vẫn sẽ tiếp diễn. Các nước đế quốc đang và sẽ tiếp tục lợi dụng,
khai thác những mâu thuẫn đó vì lợi ích riêng của chúng.
+ Khủng bố quốc tế, phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt tiếp tục diễn
biến phức tạp. Mỹ và một số nước lợi dụng vấn đề khủng bố, ngăn chặn vũ
khí hủy diệt hàng loạt để thực hiện ý đồ riêng của mình, gây tác động tiêu cực
đến tình hình chính trị, an ninh của các quốc gia và khu vực. Đồng thời, các
vấn đề an ninh phi truyền thống khác như tội phạm xuyên quốc gia, buôn bán
ma túy, đói nghèo, dịch bệnh,…tiếp tục tác động đến an ninh và phát triển của
mọi quốc gia.
+ Các vấn đề nhạy cảm như dân chủ, nhân quyền vẫn còn diễn biến rất
phức tạp và là nguyên nhân gây mất ổn định ở một số nước và khu vực.
Tất cả những điều đó, đòi hỏi các quốc gia phải nâng cao cảnh giác
quan tâm đến củng cố an ninh, quốc phòng, chống sự can thiệp, áp đặt từ bên
ngoài.

1.3.5.Các cuộc khủng hoảng liên tiếp xảy ra.
Những cuộc khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản sau cách mạng
tháng Mười Nga đến nay bao gồm hai loại: khoảng hoảng chu kì và khủng
hoảng cơ cấu. Theo nhận xét của nhiều học giả, các cuộc khủng hoảng chu kì
nổ ra dồn dập hơn. Nếu trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, chu kì khủng
hoảng kinh tế kéo dài khoảng 8-10 năm, thì sau chiến tranh thế giới lần thứ
hai, chu kì này rút ngắn xuống còn 5-6 năm. Điều đó có nghĩa là sức ép kinh
tế diễn ra dồn dập hơn, đòi hỏi chủ nghĩa tư bản phải điều chỉnh mau lẹ hơn.
Các cuộc khủng hoảng cơ cấu xẩy ra đa dạng hơn trước: khủng hoảng nguyên
liệu, dầu mỏ, tài chính, tiền tệ,…Những cuộc khủng hoảng cơ cấu này phản
ánh sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho nhu cầu về nguyên liệu, dầu
8


mỏ đã vượt quá khả năng cung cấp. Các ngành công nghiệp mới phát triển đã
làm cho sản phẩm của các ngành công nghiệp truyền thống trở nên ế ẩm, phá
sản. Sự bùng nổ của sản xuất và lưu thông hàng hóa đã làm cho số lượng vàng
của thế giới không đủ làm bản vị của tiền tệ,… Cùng với các cuộc khủng
hoảng kinh tế thì các cuộc khủng hoảng chính trị, tư tưởng xã hội ở các nước
tư bản chủ nghĩa cũng đang diễn ra khá phức tạp. Các cuộc khủng hoảng hệ
thống chính trị đã thể hiện sự bất lực của các nhà nước tư sản hiện đại trước
chiều hướng giảm sút liên tục nhịp độ tăng trưởng kinh tế của hầu hết các
nước tư bản chủ nghĩa phát triển kể từ những năm 1960 đến nay.
Có thể nói, những cuộc khủng hoảng đa dạng dưới chủ nghĩa tư bản đã
phản ánh sự phát triển của các lực lượng sản xuất xã hội vượt qua các giới hạn
của quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội và ép buộc các quan hệ này phải thay
đổi. Sự bảo thủ, trì trệ của hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội của chủ nghĩa tư
bản hiện đại luôn là nguyên nhân sâu xa của các cuộc khủng hoảng.
Để thoát khỏi khủng hoảng, duy trì sự tồn tại và phát triển của mình
chủ nghĩa tư bản hiện đại đã điều chỉnh để thích nghi. Chủ nghĩa tư bản đã sử

dụng được những thành tựu mới của khoa học và công nghệ, cải tiến phương
pháp quản lý, thay đổi cơ cấu sản xuất,…Những điều chỉnh đó có tác dụng rất
lớn trong việc duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản.
II/ Những điểm mới của chủ nghĩa tư bản trong thời đại chúng ta.
2.1 . Chủ nghĩa tư bản đang trong bước quá độ từ cơ sở vật chất kỹ
thuật truyền thống sang cơ sở vật chất kỹ thuật hoàn toàn mới về chất đó là kinh tế trí thức.
Kinh tế tri thức có những đặc trưng là:
- Các tài sản vật thể (physical assets) như đất đai, nhà máy, thiết bị
không còn đóng vai trò như trước. Chất xám, vốn con người có ý nghĩa quyết
định sức mạnh kinh tế. Trong trao đổi, phần mềm chiếm vị trí quan trọng.

9


- Các hoạt động kinh tế đều được “số hoá” và được vận hành trên các siêu
xa lộ thông tin, các mạng lưới máy tính lan toả khắp nơi. Thông tin sẽ đóng vai
trò quyết định nhất và có vai trò như “bản vị của mọi hoạt động kinh tế”.
- Các quan niệm truyền thống và phương thức sản xuất kinh doanh sẽ
thay đổi. Ví dụ, sở hữu trí tuệ được đề cao, quản lý theo mạng sẽ thay thế
phương pháp quản lý theo thứ bậc.
Tuy nhiên, hiện nay loài người mới ở bước quá độ, những biểu hiện cụ
thể của bước quá độ là sự thay thế từng bước các tư liệu sản xuất truyền thống
do cuộc cách mạng công nghiệp mang lại bằng các tư liệu sản xuất hiện đại
dựa trên cơ sở của những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ,
mà tập trung ở các lĩnh vực điện tử, tin học, vật liệu mới, công nghệ sinh học,
… thể hiện trong những thiết bị siêu nhỏ, siêu nhẹ, siêu bền,… tác động
nhanh, hiệu quả cao, tiêu tốn ít năng lượng. Các tư liệu sản xuất này hết sức
đa dạng, phong phú cả vế đối tượng lao động lẫn tư liệu lao động. Các công
cụ thiết bị tự động hoá ngày càng phát triển thay thế cho các công cụ, thiết bị
cơ khí hoá. Có thể nói khái quát là hiện đã có ba loại thiết bị biểu hiện chức

năng tự động hoá. Đó là:
+ Máy tự động trong quá trình hoạt động.
+ Máy công cụ điều khiển bằng số.
+ Người máy, đặc biệt là người máy(Robot) đã từng bước thay thế phần
công việc nặng nhọc, những công đoạn nguy hiểm, độc hại cho người lao
động, đồng thời đã xuất hiện những nhà máy tự động hoá do người máy điều
khiển những công đoạn cần thiết. Các quá trình lao động trí óc cũng đã bước
đầu được thử nghiệm để người máy thay thế.
Tính cách mạng của tư liệu sản xuất trước hết thể hiện ở công cụ lao
động dây chuyền đến tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất. Do vậy,
phương thức sản xuất của cải vật chất cũng có bước nhảy vọt từ kỹ thuật cơ
khí sang bán tự động và tự động và các yếu tố cơ bản của nền kinh tế tri thức
đã xuất hiện.
10


Nguyên nhân của bước quá độ này là do tác động của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ. Chính cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với
những lĩnh vực mũi nhọn được tập trung là kỹ thuật điện tử, công nghệ thông
tin, vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ hải dương,…đã tạo ra những
thành tựu mới và được chủ nghĩa tư bản.
1. Hiện nay thế giới có khoảng 500.000 người máy công nghiệp và
được tập chung ở những nước tư bản phát triển. Tỷ lệ người máy trên một vạn
dân của Thụy Điển là 8, Nhật Bản: 6, Mỹ: 2, Cộng hoà liên bang Đức: 1, 5
2. Tỷ lệ này có sự khác nhau ở các nước, chẳn hạn ở Pháp số công nhân
làm việc trên máy hoàn toàn tự động chiếm 15, 7% tổng số công nhân trong
các ngành công nghiệp. Áp dụng một cách hiệu quả để tạo ra “ cái cốt vật
chất” mới thay cho đại công nghiệp cơ khí. Vai trò khoa học ở đây rất to lớn,
nó đã thực sự phát huy tác dụng khi trở thành lực lượng sản xuất như C. Mác
đã khẳng định, và ngày nay vai trò đó đã được đánh giá cao. Chẳng hạn theo

đánh giá gần đây người ta cho rằng những đổi mới công nghệ đã đóng góp tới
65% tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản, 73% kinh tế của Anh va 76% kinh tế
của Pháp và Cộng hoà liên bang Đức.
2.2.Sự biến đổi về cơ cấu lao động.
Đội ngũ người lao động làm thuê lực lượng sản xuất cơ bản, cũng có sự
biến đổi cả về trình độ nghiệp vụ cơ cấu và các yếu tố cấu thành giá trị hàng
hoá sức lao động để phù hợp với bước nhảy vọt mang tính cách mạng của tư
liệu sản xuất. Cho đến nay đội ngũ lao động ở các nước tư bản phát triển đã
đạt trình độ văn hoá chuyên môn nghiệp vụ cao. Cơ cấu lao động đã có sự
thay đổi theo chiều hứơng tiến bộ và các yếu tố tái sản xuất tư bản chủ nghĩa
một cách có hiệu quả.
-

Về cơ cấu lao động :

Lao động dịch vụ được tập trung cao 70-75%, đồng thời đội ngũ
chuyên gia có tay nghề cao chủ yếu được tập trung ở khu vực này. Chẳng hạn
ở Mĩ thập kỉ 80, tỉ lệ lao động “cổ trắng” và “ cổ xanh” là 50/32. Đồng thời
11


xuất hiện lực lượng “công nhân cổ vàng”. Đó là cán bộ có trình độ chuyên
môn đại học, trên đại học. Lực lượng lao động này đang ngày càng tăng lên ở
các nước tư bản phát triển.
Với nền sản xuất dần dần từng bước chuyển sang nền “ sản xuất tri
thức”, vai trò của nguồn nhân lực càng trở nên quan trọng. Theo đánh giá của
ngân hàng thế giới ởNhật Bản nguồn lực con người chiếm 81% trong tổng số
các nguồn lực. Còn với Mĩ, Pháp, Đức, Italia lần lượt là 59%, 77%, 79%, 82%.
Để đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, các nước tư bản đã tăng cường
đầu tư vào việc nghiên cứu và triển khai, thực hiện hợp tác quốc tế trong

những chương trình nghiên cứu các đề tài mang tính chiến lược, thực hiện cải
cách giáo dục. . .
-

Về tái sản xuất sức lao động:

Do sự đầu tư vào con người để làm tăng các yếu tố tái sản xuất sức lao
động cả về vật chất lẫn tinh thần nhằm khơi dậy sự sáng tạo, phục vụ quá
trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện mới một cách tốt hơn nên
tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng, GDP bình quân đầu người cao, tuổi thọ bình
quân và tỉ lệ người biết chữ tăng, điều đó biểu hiện ở chỉ số HDI tăng. Theo
thống kê của LHQ, chỉ số HDI của các nước tư bản phát triển thập kỉ 90 khá
cao, xấp xỉ 1. Chẳng hạn chỉ số HDI ở Nhật là 0, 98 và Canada là 0. 989.
Cùng với việc nâng cao trình độ nghề nghệp của người lao động, các
nước tư bản đã quan tâm đến các yếu tố cấu thành của gía trị hàng hoá sức lao
động, thực hiện nâng cao chất lượng cuộc sống. Chẳng hạn, thông qua sự điều
tiết kinh tế, can thiệp vào các điều kiện của quá trình tái sản xuất, đảm bảo
các điều kiện ăn, ở, sinh hoạt, đi lại, học hành, vui chơi giải trí của bản thân
và gia đình người lao động. Do đó xuất hiện tầng lớp trung lưu ( bao gồm cả
những người công nhân “cổ trắng”, “cổ vàng” ).
Ngoài việc thực hiện chính sách xã hội, như chính sách việc làm, bảo
hiểm, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp gia đình đông con chăm sóc y tế người già,
trẻ em, người tàn tật. . . nhà nước tư sản còn sử dụng các công cụ điều tiết giá
12


cả, lạm phát, thuế, thực hiện điều tiết phân phối lạiđể ổn định tiền lương, thu
nhập.
Sự quan tâm đến điều kiện tái sản xuất sức lao động của chủ nghĩa tư
bản một mặt liên quan đến tiêu dùng có tính sản xuất và có thể nói nó cũng

giống như sự quan tâm của nhà tư bản đến máy móc thiết bị, vì đó là tư bản
và là tài sản của mình. Nhưng mặt khác xã hội càng văn minh thì buộc chủ
nghĩa tư bản cũng phải sử dụng các phương pháp tinh tế trong việc giải quyết
các quan hệ xã hội. Do đó, không thể không quan tâm đến tài nguyên con
người, nhân tố quyết định cuối cùng đến việc thắng hay thua đối thủ cạnh
tranh. Đó là một tất yếu khách quan mà nhà nước với tư cách là người quản lí
kinh tế và quản lí xã hội phải thực hiện.
Có thể nói trong điều kiện thời đại ngày nay, chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước đã tăng cường điều tiết quá trình phân phối và phân phối lại.
Vì vậy, mặc dù về cơ bản người lao động cũng chỉ nhận được phần V, còn nhà
tư bản hưởng phần m, song do quá trình điều tiết của nhà nước một phần nhỏ
m cũng thuộc về người lao động dưới hình thức quĩ phúc lợi xã hội và được
hưởng thụ thông qua việc tiêu dùng các giá trị sử dụng của công trình do quĩ
phúc lợi xã hội mang lại.
2.3. Sự biến đổi, điều chỉnh của quan hệ sản xuất.
2.3.1 Sự biến đổi về các hình thức sở hữu.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay hình thức sở hữu của chủ
nghĩa tư bản đã có bước biến đổi hết sức to lớn với những biểu hiện quan
trọng là:
Hình thức sở hữu đa dạng:
- Có nhiều chủ thể cùng sở hữu tư liệu sản xuất trong một doanh nghiệp
cổ phần với những tỉ lệ khác nhau trong đó có cả những nhà tư bản lớn nhỏ và
kể cả người lao động cũng đóng góp cổ phần để được hưởng lợi tức cổ phần.
Chẳng hạn ở Thuỵ Điển có tới 21% dân cư có cổ phần trong các doanh
nghiệp. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng sở hữu của các nhà tư bản vẫn giữ vị
13


trí trọng yếu, còn sở hữu cổ phiếu của người lao động chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ,
không đáng kể và được chủ nghĩa tư bản sử dụng nhưmột công cụ trong quản

lí để thu hút sự quan tâm của ngươì lao động vào quá trình sản xuất. Theo số
liệu thống kê quốc tế toàn bộ cổ phần mà người lao động ở Mĩ có được chỉ
chiếm khoảng 1% toàn bộ giá trị cổ phiếu. Ví dụ ở Mĩ một doanh nghiệp có
số vốn hoạt động là 180 triệu USD, nhưng giá trị mỗi cổ phiếu bán ra cho
người lao động chỉ là 2 USD. Như vậy, người lao động có nắm nhiều cổ phiếu
thế nào đi nữa cũng không đủ để giữ vị trí quan trọng trong công ty.
Ngoài hình thứccổ đông hoá một cách rộng rãi trong các tầng lớp dân
cư, hiện nay đã bước đầu xuất hiện loại hình xí nghiệp do công nhân tự quản.
Chẳng hạn nhà nước Mĩ đã “ quốc hữu hoá “ chi nhánh của GMC và giao cho
công nhân tự quản còn nhà nước chỉ tham gia hỗ trợ thông qua chính sách vĩ
mô. Điều này không có nghĩa là các nhà tư bản tự nguyện chuyển quyền sở
hữu cho người lao động và càng không có nghĩa là “ cuộc cách mạng trong sở
hữu tư liệu sản xuất “ ở thời đại ngày nay sẽ diễn ra theo cách tiến hoá như
một số người đã và đang cố tình nhầm lẫn và với ý đồ muốn phê phán “ sự lỗi
thời “ của chủ nghĩa Mác theo cách nghĩ của họ.
- Trong chủ nghĩa tư bản ngày nay, sở hữu không chỉ giới hạn trong
việc sở hữu tư liệu sản xuất ( tức là sở hữu hiện vật) mà chủ yếu là sở hữu về
mặt giá trị ( vốn ) dưới nhiều hình thức như vốn tự có, vốn cổ phần, vốn cho
vay. Nếu như thời kì đầu trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản
quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền quản lí gắn làm một trong một chủ sở
hữu và khi xuất hiện tư bản cho vay đã làm hai quyền đó tách rời ( tức là tư
bản sở hữu tách rời tư bản chức năng ) thì trong chủ nghĩa tư bản ngày nay sự
tách rời đó càng được đẩy mạnh và lao động quản lí đã trở thành một nghề,
giám đốc thực hiện chức năng quản lí thông qua hợp đồng là thuê. Tuy nhiên,
ở đây không có nghĩa là nguyên lí về quyền sở hữu quyết định quyền quản lí,
vì thế không còn giá trị, mà trái lại điều đó chỉ thể hiện sự biến thể do sự phát

14



triển của phân công lao động xã hội ở trình độ mới, còn vai trò quyết định
cuối cùng của người sở hữu vẫn không có sự thay đổi.
Cùng với quá trình đó còn xuât hiện nhiều hình thức sở hữu khác, như
sở hữu trí tuệ, sở hữu các công trình khoa học, bằng phát minh sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp, thông tin. Các hình thức này, nhất là sở hữu thông tin, đã
ngày càng trở nên quan trọng trong nền kinh tế thị trường hiện đại và mang
tính quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế. Bởi vì, chính trí tuệ là nguồn
gốc của việc sản sinh ra của cải xã hội. Rất nhiều nhà Khoa học, trong đó có
Các Mác, đã khẳng định và đề cao vai trò của tri thức khoa học đối với sự
phát triển kinh tế –xã hội giống như “ đôi đũa thần” làm giàu cho xã hội.
- Sở hữu tư nhân đã có sự biến đổi lớn, tính độc lập tương đối bị mất
dần, thay vào đó là sở hữu hỗn hợp. Trong quá trình sản xuất, kinh doanh các
nhà tư bản lớn đã từng bước thôn tính các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lôi cuốn
chúng vào quĩ đạo hoạt động của mình dưới những hình thức khác nhau theo
cơ chế “tham dự”. Các doanh nghiệp nhỏ này trở thành vệ tinh nhận thầu và
thầu lại của các doanh nghiệp lớn mà các doanh nghiệp lớn đó thường là
doanh nghiệp độc quyền được tổ chức lại trong một cơ cấu mới. Chẳng hạn
Công ty GE một công ty hàng đầu thế giới của Mỹ về ngành điện dân dụng,
đã tập hợp quanh mình 3200 xí nghiệp thành viên (kể cả các hộ gia đình) với
những mối liên kết ở mức độ khác nhau, thực hiện những chức năng khác
nhau như sản xuất từng bộ phận chi tiết, đảm nhận từng công đoạn, từng khâu
trong sản xuất, lưu thông qua việc nhận thầu, thầu lại theo những hợp đồng
của công ty mẹ.
Điều cần nhấn mạnh là mặc dù với “hệ thống tham dự mới” trong đó có
sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, của các hộ gia đình và cả
những người công nhân lao động làm thuê, song có thể nói đó chủ yếu là sự
biến đổi trong cách thức tổ chức quản lí doang nghiệp nhằm nâng cao hiệu
suất của tư bản chứ không có nghĩa là người công nhân trở thành chủ sở hữu
tư liệu sản xuất, bởi vì giá trị cổ phiếu mà họ sở hữu là quá thấp so với giai
15



cấp tư bản như đã nêu ở trên. Mặt khác với sở hữu đó người công nhân chưa
trở thành người chủ sở hữu thực sự, mà chỉ mang tính hình thức nên chỉ là
người bán sức lao động, chứ không phải vừa lao động, vừa quản lí theo hình
thức tiểu chủ. Về mặt lí luận, cần phân biệt khi là chủ sở hữu thực sự thì phải
có thực quyền chi phối cái mà mình sở hữu (với những mức độ nhát định).
Đồng thời cũng cần phân biệt về mặt lượng cũng như mối quan hệ biện chứng
giữa lượng và chất.
Ngoài ra nguồn gốc của gía trị cổ phiếu mà họ có là do tiền lương tiết
kiệm được chứ không phải từ nguồn gốc chiếm đoạt lao động của người khác,
những phần tiết kiệm đó lại chỉ bù đắp (thậm chí không đủ bù đắp) được phần
mà họ mắc nợ do phải đứng ra mua chịu tư bản cố định gia đình do nhà nước
đứng ra điều tiết. Trên thực tế giá trị của cái gọi là tư liệu sản xuất mà họ sở
hữu nằm trong hệ thống quản lí ngân hàng và sự khống chế của tư bản tài
chính chứ họ không có quyền tự do sử dụng theo ý riêng của mình.
Hình thức sở hữu độc quyền vẫn tồn tại nhưng không còn độc quyền
thuần tuý mà là dạng hỗn hợp và dưới hình thức sở hữu của các công ty xuyên
quốc gia, hoặc chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, tư bản tài chính. Đây là
hình thức vận động rất mới mẻ của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mà ở
thời Lênin mối chỉ có mầm mống.
+ Về hình thức sở hữu độc quyền xyên quốc gia.
Do quá trình tích tụ và tập trung sản xuất được đẩy mạnh hơn nữa, dưới
tác động của qui luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản, cùng với những
điều kiện quốc tế hoá sản xuất, tư bản và thông tin, các tổ chức độc quyền
quốc gia đã vượt biên giới quốc gia, thực hiện kinh doanh quốc tế dưới nhiều
hình thức và trở thành các công ty xuyên quốc gia.
Khi ra ngoài biên giới quốc gia, các công ty này đã thực hiện sự liên kết
để bành trướng thế lực và khai thác tiềm năng của nước chủ nhà. Thông qua
con đường đó các công ty xuyên quốc gia ngày càng thâu tóm nhiều tư liệu

sản xuất, vốn, trí tuệ quốc tế, tạo ra nhiều hình thức sở hữu hỗn hợp mang tính
16


quốc tế hoá. Hiện nay trên 70% các xí nghiệp chi nhánh của các công ty
xuyên quốc gia là các xí nghiệp liên doanh với tỉ lệ vốn góp khác nhau, ít nhất
là 2và thông thường có 3-4 chủ sở hữu trong một xí nghiệp. Hiện nay các
công ty xuyên quốc gia thường tồn tại dưới dạng concern và
CM(conglomerate) mà concern và CM là những tổ hợp đa ngành với những
mức độ khác nhau. Điều đó phản ánh tính đa dạng, phức tạp và tính hỗn hợp
và sở hữu xuyên quốc gia.
Có thể nói hiệ tượng đa quốc gia hoá trong sở hữu ở các xí nghiệp chi
nhánh của các công ty xuyên quốc gia đã trở thành phổ biến, làm cho tính hỗn
hợp của sở hữu tăng lên mạnh mẽ.
Hình thức sở hữu độc quyền xuyên quốc gia là hình thức sở hữu hỗn
hợp và đã được quốc tế hoá. Đó cũng chính là hình thức sở hữu mang tính
khách quan do các tác động của quá trình xã hội hoá sản xuất dưới hình thức
quốc tế trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, nhất là trong thời đại ngày nay.
+ Về hình thức sở hữu tư bản tài chính.
Tư bản tài chính là hình thức hỗn hợp về tư bản giữa tư bản công ngiệp
và tư bản ngân hàng do quá trình tích tụ sản xuất dẫn tới. Ngày nay mặc dù
hạt nhân của nó không thay đổi, nhưng tư bản tài chính đã lôi cuốn hầu như
toàn bộ tư bản ở các ngành sản xuất, lưu thông và cơ cấu tổ chức của mình,
hình thành nên một cơ cấu mang tính hỗn hợp, trước hết về mặt sở hữu. Lênin
khẳng định: tư bản tài chính bao giờ cũng có tính quốc tế hoá trong mọi hoạt
động. Ngày nay đặc tính ấy biểu hiện rất rõ rệt và mang tính phổ biến. Đó là
trường hợp khá điển hình về sự phát triển những đặc tính vốn có của độc
quyền và cũng là trương hợp điển hình về tính hỗn hợp và tính quốc tế hoá
của hình thức sở hữu của chủ nghĩa tư bản đương đại –kế thừa và phát triển
đặc tính của nó ở giai đoạn trước –giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh

thống trị.
+Hình thức sở hữu độc quyền nhà nước.

17


Xét về bản chất giai cấp của nhà nước tư sản, sở hữu nhà nước chính là
sở hữu của tư bản tập thể. Điều này đúng như nhận xét của Ăng ghen rằng
nhà nước tư sản là nhà nước của các nhà tư bản, là nhà tư bản tập thể lí tưởng
và nhà nước ấy càng chyển nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao
nhiêu thì nó lại biến thành nhà tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu.
Sở hữu độc quyền nhà nước được hình thành thông qua nhiều con
đường khác nhau trong đó có quốc hữu hoá các xí nghiệp của tư bản tư nhân,
xây dựng mới bằng việc chi ngân sách nhà nước, góp vốn cổ phần và mua lại
một phần xí nghiệp tư bản tư nhân trong trường hợp cần thiết. Song ngay
trong trường hợp quốc hữu hoá hoặc xây dựng mới bằng việc chi ngân sách
nhà nước thì tính hỗn hợp của sở hữu không vì thế mà thay đổi, vì nhà nước
tư sản chẳng qua là “ nhà tư bản tập thể” hoặc chỉ là “ một công ty cổ phần”
như Ăng ghen đã nhận xét.
Sự biến đổi của hình thức sở hữu trong quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa là một đặc trưng rất cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay bởi vì sở hữu
là quan hệ xã hội của nền sản xuất, là tổng thể các quan hệ kinh tế và theo đó
là tổng thể các quyền sử dụng, chi phối, quản lí, định đoạt gắn liền với nó
trong một xã hội nhất định. Đồng thời nó cũng chính là sự thốn nhất biện
chứng giữa điều kiện cần phái có của sản xuất với mặt kết quả thực tế trong
quá trình tái sản xuất. Việc biến đổi về hình thức quan hệ sở hữu nêu trên là
sự biến đổi dưới tác động của qui luật về sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất. Do tính chất xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất, đòi
hỏi quan hệ sản xuất phải có sự biến đổi để thích ứng. Trong điều kiện của
chủ nghĩa tư bản sự hỗn hợp hoá và quốc tế hoá theo kiểu tư bản chủ nghĩa là

một sự đáp ứng đòi hỏi ấy. Đó chính là quá trình kinh tế mang tính khách
quan ngoài ý muốn chủ quan của nhà tư bản.
Sự biến đổi của hình thức sở hữu trong quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa để thích ứng với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã có tác
động trở lại nhất định đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy sự tác
18


động này còn có tính hạn chế, song đây là quá trình mang tính khách quan và
là xu thế vận động cơ bản trong thời đại ngày nay. Đông thời sự biến đổi cúa
hình thức sở hữu cũng đã đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi quan hệ quản lí và
phân phối phải có sự biến đổi tương ứng.
2.3.2 Sự điều chỉnh về quan hệ tổ chức quản lí.
Sự biến đổi về tổ chức quản lý trong nền kinh tế của CNTB hiện đại
diễn ra cả trong lĩnh vực vi mô và vĩ mô, từ trong các công ty, xí nghiệp đến
hoạt động quản lý của nhà nước tư sản. Trên cơ sở những thành tựu của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin, tự động
hoá các thiết bị điều khiển chương trình số, thiết kế và chế tạo với sự giúp đỡ
của máy tính điện tử, các hẹ thống sản xuất linh hoạt, người máy,… phương
thức tổ chức quản lý sản xuất vật chất có sự thay đổi từ sản xuất lớn hàng loạt
sang tổ chức quản lý theo loạt nhỏ hay đơn chiếc đáp ứng yêu cầu thị hiếu đa
dạng của khách hàng tức là thực hiện phi hàng loạt hoá và đa dạng các sản
phẩm: phi chuyên môn hoá sản xuất theo tổ hợp các khối cấu kiện, phụ kiện
chứ không phải từ những cấu kiện rời được chuyên môn hoá như trước, phi
tập trung hoá - quá trình sản xuất được phân tán thành những đơn vị sản xuất
nhỏ và vừa trên phạm vi rộng của cả quốc gia và quốc tế; vi tiểu hình hoá sản
phẩm với phương châm “nhỏ là đẹp”. Các sản phẩm sản xuất ra có kích cỡ
ngày càng nhỏ, thậm chí nhỏ cỡ nanomet như Robot y học dùng trong chuẩn
đoán và chữa bệnh.
Thực hiện tổ chức quản lý từ xa được thực hiện trên cơ sở xuất hiện các

siêu lộ thông tin cho phép điều khiển quá trình sản xuất trên diện rộng ở nhiều
vùng khác nhau, nền kinh tế mang tính chất toàn cầu và hoạt động như một
đơn vị kinh tế cấp toàn cầu, vì vậy hoạt động quản lý cũng mang tính chất
quốc tế hoá, toàn cầu hoá. Tất cả các biến đổi trên cho thấy, việc tổ chức quản
lý sản xuất và hoạt động kinh tế đã dịch chuyển từ kiểu đại trà, được tiêu
chuẩn hoá theo loạt lớn sang kiểu sản xuất loạt nhỏ và linh hoạt theo đơn đặt
hàng, cũng như dịch chuyển từ các tổ chức có quy mô lớn được liên kết theo
19


chiều dọc sang phi liên kết theo chiều dọc và sang các mạng lưới theo chiều
ngang giữa các đơn vị kinh tế trong nước và ngoài nước.
Trước sự phát triển của khoa học công nghệ và phân công lao động
quốc tế hình thức quản lý chuyển đổi từ loại tập chung cao độ quyền lực quản
lý vào công ty mẹ theo kiểu “kim tự tháp” sang các công ty chi nhánh, các
đơn vị sản xuất theo kiểu “màng lưới”. Như A. Toffer nhận xét: “Tổ chức
quản lý theo kiểu hình tháp, cồng kềnh và quan liêu, hiện đang bị các công ty
chạy đua giải thể” đã làm cho các loại hình tổ chức mới theo kiểu ma trận,
nhóm dự án ngày càng được đề cao và ưa chuộng, đây sẽ là loại hình tổ chức
quản lý chủ yếu của xã hội dựa trên tri thức. Bởi vì trong xã hội thông tin
ngày nay, sự truyền đạt tin tức quản lý phải được nhanh chóng, chính xác,
trong khi mô hình quản lý cũ đã làm chậm và mất tính chuẩn của tin do việc
truyền tin qua nhiều tầng lớp trong không gian từ trên xuống dưới và ngược
lại, không linh hoạt, cồng kềnh kém hiệu quả. Thể chế truyền thống đã tỏ ra
bất cập trước những vấn đề mới phát sinh như: Tính nhất trí của lợi ích, sự
khác nhau về văn hoá, tuổi thọ sản phẩm,…Thể chế quản lý màng lưới không
co trung tâm, mỗi một tầng quản lý trong mạng lưới, mỗi người quản lý đều là
một trung tâm, giữa chúng có mối liên hệ phức tạp giao chéo kiểu rẻ quạt.
Mục tiêu quản lý của nó không chỉ có quản lý kinh doanh, tiêu thụ, quản lý
nhân viên, mà còn cả việc thiết kế hình tượng xí nghiệp, với tôn chỉ là hoạt

động có hiệu quả nhất tàI năng và ưu thế của mỗi người trong mạng lưới công
ty. Trong hình thức này, tin tức lan truyền như hệ thống thần kinh, đảm bảo
cho mọi cấp quản lý đều nhận được thông tin mới nhất và hoàn chỉnh để đưa
ra quyết sách, do đó mà có khả năng ứng phó với mọi điều kiện sản xuất tiêu
thụ sản phẩm trước mọi biến động của thị trường thế giới hiện nay.
Mô hình tổ chức quản lý của thể chế này có hai loại, theo quá trình nằm
ngang và theo kiểu “tế bào sản xuất”
+ Mô hình tổ chức quản lý theo quá trình nằm ngang được xây dựng là
nhằm khắc phục những khuyết tật của kiểu quản lý truyền thống, giảm bớt
20


nhiều tầng lớp trung gian, chuyển từ việc lấy chức năng công việc làm hạt nhân
sang quá trình làm hạt nhân để tổ chức nhân viên. Nội dung chủ yếu của kết
cấu tổ chức quản lý theo kiểu nằm ngang là việc tập hợp những viên chức có
kỹ năng khác nhau vào một “tế bào sản xuất” để họ thấy được đầy đủ mục tiêu
của một “quả trình tác nghiệp”. Từ đó họ tự quản lý sản xuất, phát huy cao độ
tinh thần hợp tác và ưu thế của một tập thể hoàn chỉnh để giành thắng lợi trong
cạnh tranh. ở đây, đội sản xuất trỏ thành nền tảng và đảm nhiệm một quá trình
sản xuất, thực hiện tự kiểm soát, kiểm tra chất lượng sản phẩm của mình, giảm
được việc tổ chức giám sát, kiểm tra và loại bỏ được mọi hoạt động không làm
tăng giá trị của sản phẩm, kích thích thi đua hợp tác của nhân viên, tăng khả
năng tiếp xúc, cuốn hút khách hàng, do vậy mà nó hiệu quả hơn.
+ Mô hình tổ chức quản lý kiểu “tế bào sản xuất” là kiểu tổ chức quản
lý trong đó công nhân được chia ra từng ca, kíp nhỏ (thường từ 2-50 công
nhân) có thể chế tạo, kiểm tra và hoàn thành toàn bộ sản phẩm. Mỗi công
nhân có thể làm nhiều việc và mỗi tế bào phảI chịu trách nhiệm về chất lượng
sản phẩm của mình. “Tế bào sản xuất” là một “quá trình hẹp” nhựng lại rất
linh hoạt, đáp ứng được yêu cầu thay đổi kiểu dáng, mẫu mã của khách hàng
một cách nhanh chóng, đảm bảo cho việc sản xuất theo đơn đặt hàng phù hợp

với sự biến động mau lẹ của thị trường. Mỗi tế bào sản xuất một sản phẩm
khác nhau, nếu rủi ro thì chỉ ảnh hưởng tới tế bào “đương sự” tránh được rủi
ro cho toàn xí nghiệp. Do đó, tế bào sản xuất mang lại năng suất, chất lượng,
hiệu quả cao hơn.
Như vậy, một điều nổi rõ trong quá trình chuyển đổi hình thức tổ chức
quản lý là nhằm vào phát huy và sử dụng các nguồn lực của con người - đó là
hệ thống tổ chức sản xuất lấy con người làm trung tâm, định hướng vào loại
nhân lực có trình độ cao trong quá trình sản xuất, bồi dưỡng kiến thức và
nâng cao trình độ chuyên môn một cách liên tục và có hệ thống, với một đội
ngũ công nhân năng động và cách thức tổ chức linh hoạt từ trên xuống dưới
đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn cả việc trang bị các thiết bị hiện đại. Việc
21


hoàn thiện công tác quản lý nguồn nhân lực con người mang lại một tác động
mạnh mẽ hơn nhiều mặt về thành tựu so với việc mua sắm các kỹ thuật tiên
tiến hơn từ các máy cộng cụ điều khiển bằng chương trình số cho tới các hệ
thống sản xuất linh hoạt. Trước hết, các xí nghiệp lớn ngày càng thực hiện chế
độ cung ứng (hoặc chế độ khoán), giao một số linh kiện hoặc giai đoạn nào đó
của sản phẩm cho các xí nghiệp khác hoàn thành. Cách làm này đã có từ lâu.
Chỗ khác nhau giữa chế độ cung ứng mới hiện nay và trướckia là ở chỗ,
chẳng những các hãng chế tạo lớn khoán việc sản xuất mà còn khoán toàn bộ
công tác nghiên cứu khoa học, chế tạp thử cho tới sản xuất những linh kiện đó
cho các xí nghiệp khác, từ đó hình thành nên mạng lưới xí nghiệp do hãng chế
tạo lớn cầm đầu, có nhiều hãng nhận khoán (hoặc hãng cung ứng) tham gia.
Các xí nghiệp đều độc lập về mặt pháp luật, nhưng về sản xuất là một chỉnh
thể, về hành động thì nhất trí, mục tiêu và sự chú ý của họ đều tập chung vào
việc làm thế nào để sản phẩm có sức cạnh tranh lớn nhất.
Thứ đến, để nâng cao hiêu quả công tác, các xí nghiệp lớn đang cải tiến
cơ chế quản lý trước đây là phân công ngành quá chi tiết, quá nhiều tầng

nấc,... lần lượt giảm bớt các tầng nấc, xoá bỏ một số ngành chức năng, hoặc
phá bỏ “rào chắn” giữa chúng, thực hiện tổng hợp hoá chức năng, cắt giảm
hàng loạt nhân viên quản lý trung gian.
2.3.3 Sự biến đổi trong quan hệ phân phối.
Để thoát khỏi khủng hoảng, các nhà kinh tế học của CNTB, đại biểu là J. M.
Keynes đã chủ trương kích cầu bằng cách nâng cao tiêu dùng và tăng
đầu tư, việc nâng cao tiền lương và cải thiện đời sống của công nhân không
những không tổn hại đến lợi nhuận của nhà tư bản mà nó còn có lợi cho quá
trình tái sản xuất mở rộng TBCN, làm dịu mâu thuẫn giữa tư bản và lao động,
thúc đẩy sản xuất có lợi cho nhà nước tư bản, giữ môI trương xã hội ổn định,
củng cố chính trị.
Cách mạng khoa học công nghệ chẳng những tạo tiền đề để nâng cao sức
sản xuất mà còn tạo ra cơ sở vật chất để nâng cao mức sống người lao động.
22


Cùng với việc tăng lương thực tế, đời sống của công nhân được nâng
cao, kết cấu tiêu dùng của công nhân cũng có sự thay đổi lớn, tỷ lệ chi cho ăn,
mặc giảm xuống, chi cho cải thiện đời sống tăng lên. Hiện nay không còn
hiện tượng thiếu ăn thiếu mặc (trừ những trường hợp cá biệt do nghiện ngập,
bệnh tâm thần,….). Việc sử dùng hàng tiêu dùng lâu bền như điện thoại, vô
tuyến, máy giặt, ô tô, nhà ở,… đều tăng lên và được cải thiện rất nhiều.
Tuy nhiên, tương quan giữa việc nâng cao chất lượng cuộc sống của
người công nhân với việc nâng cao khối lượng lợi nhuận của nhà tư bản là
tương quan cùng chiều nhưng không cùng mức độ.
Như vậy, mặc dù đời sống của công nhân có được nâng lên, nhưng
chênh lệch về thu nhập và tài sản giữa công nhân và tư bản càng tăng. Việc
tăng lương thực tế, tăng mức sống của công nhân chỉ là nhằm tăng lên mức
cầu hiệu quả có lợi cho quá trình tái sản xuất của CNTB mà thôi. Do vậy,
trong lòng CNTB vẫn chứa đựng những xung đột lợi ích gay gắt, vẫn chứa

đựng khả năng khủng hoảng, đòi hỏi nhà nước phải trực tiếp tham gia vào quá
trình phân phối lợi ích, mới có thể cứu vãn được CNTB.
Điều chỉnh quan hệ lợi ích của nhà nước được diễn ra bắt đầu từ những
tác động vào thị trường sức lao động, thông qua quan hệ mua bán giữa người
bán (người lao động) và người mua (nhà tư bản). Đây là một thị trường luôn
biến động bởi mối tương quan giữa nhà tư bản và người lao động, giữa giới
chủ và người thợ, là mối quan hệ vừa thống nhất vừa mâu thuẫn không thể
thay thế cho nhau được. Sự can thiệp của nhà nước vào các quan hệ trao đổi,
mua bán này bằng cách quy định các mức tối thiểu, độ dài ngày lao động, số
ngày nghỉ việc trong năm, quy tắc sa thải, quy chế làm việc trong doanh
nghiệp, phương tiện bảo hộ, bằng các luật và các quy định pháp luật khác
nhau. Những biến đổi trong quan hệ lợi ích trong CNTB hiện đại đã và đang
đem lại những cải thiện mới đối với đời sống người lao động và những tiến bộ
xã hội nói chung. Sở dĩ có sự tăng thêm đó thì nói chung vì sự trao đổi sản
phẩm diễn ra ngày càng nhiều hơn, sự trao đổi này làm cho dân cư ở thành thị
23


và nông thôn, dân cư ở các khu vực địa lý khác nhau,…cũng tiếp xúc với
nhau nhiều hơn. Sở dĩ có sự tăng thêm đó lại còn là vì mật độ và sự tập trung
đông đúc giai cấp công nhân, làm cho trình độ giác ngộ và ý thức về nhân
phẩm của giai cấp đó được nâng cao khiến họ có thể đấu tranh thắng lợi
chống những xu hướng tham tàn của chế độ TBCN.
Trong CNTB hiện đại, quan hệ sản xuất đã có sự điều chỉnh. Đây là sự
điều chỉnh theo hướng xã hội hoá sản xuất ngày càng tăng, là cách thức giải
quyết mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với hình thức chiếm hữu
tư nhân TBCN. Quan hệ sở hữu được giải quyết theo hướng xã hội hoá ngày
càng nhiều, quản lý dân chủ hơn, phân phối lợi ích đã chú ý tới người lao
động và được coi là nguồn lực chủ yếu của sự phát triển xã hội. Đặc biệt, hình
thức tư bản độc quyền nhà nước là hình thức vận động mới của quan hệ sản

xuất TBCN, là kết quả của quá trình xã hội hoá sản xuất là “sự chuẩn bị vật
chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội”. Sự điều chỉnh này là một quá trình
khách quan buộc các nhà tư sản phải đưa ra những hình thức quan hệ sản xuất
thích hợp, vừa là để thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển, đảm bảo lợi ích
của tư bản độc quyền, vừa là để làm dịu bớt những mâu thuẫn căng thẳng xã
hội, duy trì sự tồn tại và phát triển của CNTB.
III/ Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này đối với nước ta.
3.1. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và
hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là
bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển.
Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực

24


của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát
triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ
chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập
đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân
theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ
nghĩa. Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu
sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi
tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Quan hệ phân phối bảo đảm
công bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn lực được phân bổ theo

chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện chế độ
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo
mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối Žhong qua hệ
thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế, định
hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất.
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nướcgắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên,
môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền
vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát
triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và
các ngành công nghiệp có lợi thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng
đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và
xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm phát triển hài hoà giữa các vùng, miền;
thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời tạo điều kiện
phát triển các vùng có nhiều khó khăn. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ,
đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2. Quan tâm tới các vấn đề về văn hóa, phúc lợi xã hội.
- Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần
25


×