A. MỞ ĐẦU
Tiếp theo giai đoạn cạnh tranh tự do, chủ nghĩa tư bản phát triển lên giai
đoạn cao hơn là giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền và sau đó là chủ nghĩa
tư bản độc quyền nhà nước. Thực chất, đây là những nấc thang mới trong quá
trình phát triển và điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản về cả lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất để thích ứng với những biến động mới trong tình hình kinh
tế -chính trị thế giới cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX cho đến nay.Chủ nghĩa
tư bản độc quyền nhà nước, bước phát triển tiếp theo của chủ nghĩa tư bản
độc quyền, sinh ra trong Chiến tranh thế giới I, sau là Anh, Pháp, Mỹ và trở
thành phổ biến từ sau Chiến tranh thế giới II đến nay.Có thể thấy, những đặc
điểm kinh tế của nó đang trở thành đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản
đương đại.Ở Việt Nam, từ sau đại hội VI năm 1986 của Đảng, chúng ta đã
thực hiện chính sách mở cửa, mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh toàn cầu hoàn diễn ra mạnh mẽ, khoa
học kĩ thuật, công nghệ thông tin phát triển như vũ bão, kinh tế công nghiệp
đang chuyển dần sang kinh tế tri thức, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng,
chúng ta đã vận dụng rất linh hoạt, thành công những lí luận về chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước trong việc điều hành nền kinh tế, xây dựng nền kinh
tế nhiều thành phần. Trong bối cảnh hiện nay, việc đẩy mạnh nghiên cứu về
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vẫn là một vấn đề cực kì quan trọng và
có ý nghĩa sâu sắc cả về mặt lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, em đã lựa
chọn đề tài: “ Vai trò và xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước” làm đề tài nghiên cứu viết tiểu luận của mình. Trong quá
trình làm bài mặc dù đã có nhiều cố gắng nghiên cứu tìm hiểu song không thể
tránh khỏi những thiếu xót hạn chế, em rất mong nhận được những ý kiến
đống góp của thầy cô và các bạn để bài làm của em được hoàn thiện hơn, em
xin chân thành cảm ơn!
1
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC
1.1.Khái niệm chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của Nhà
nước tư bản thành một tư bản thành một thiết chế thống nhất. Nhằm phục vụ
lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho Chủ Nghĩa Tư Bản.
V.I. Lênin chỉ ra rằng: “Bọn đầu sỏ tài chính dùng một mạng lưới dày
đặc những quan hệ lệ thuộc để bao trùm hết thảy các thiết chế kinh tế và
chính trị… đó là biểu hiện rõ rệt nhất của sự độc quyền ấy”. Trong cơ cấu của
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, nhà nước đã trở thành một tập thể tư
bản khổng lồ. Nó cũng là chủ sở hữu những xí nghiệp, cũng tiến hành kinh
doanh, bóc lột lao động làm thuê như một nhà tư bản thông thường.Nhưng
điểm khác biệt là ở chỗ, nhà nước còn có chức năng chính trị và các công cụ trấn áp
xã hội như quân đội, cảnh sát, nhà tù, …
Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế,
chính trị, xã hội chứ không phải chỉ là một chính sách trong giai đoạn độc
quyền của chủ nghĩa tư bản
Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế nhất định với xã hội mà nó
thống trị, song ở mỗi chế độ xã hội, vai trò kinh tế của nhà nước có sự biến
đổi thích hợp đối với xã hội đó. Các nhà nước trước chủ nghĩa tư bản chủ yếu
can thiệp bằng bạo lực và theo lối cưỡng bức siêu kinh tế. Trong giai đoạn
chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, nhà nước tư sản ở bên trên, bên ngoài quá
trình kinh tế, vai trò của nhà nước chỉ dừng lại ở việc điều tiết bằng thuế và
pháp luật. Ngày nay, vai trò của nhà nước tư sản đã có sự biến đổi, không chỉ
can thiệp vào nền sản xuất xã hội bằng thuế, luật pháp mà còn có vai trò tổ
chức và quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, điều tiết bằng
các biện pháp đòn bẩy kinh tế vào tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất:
sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
2
nước là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhằm
duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, làm cho chủ nghĩa tư bản thích nghi
với điều kiện lịch sử mới.
1.2. Nguyên nhân ra đời
Sự ra đời của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền nhà nước bắt nguồn từ mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội hoá và trình độ cao của lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuât Tư Bản Chủ Nghĩa về tư liệu sản xất, được thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất: Do sự tích tụ và tập trung tư bản ngày càng lớn làm cho tích
tụ tập trung sản xuất ngày càng cao. Do đó là xuất hiện những cơ cấu sản xuất
ngày càng lớn dẫn đến xã hội hoá sản xuất ngày càng rộng đòi hỏi phải có
trung tâm điều tiết phối hợp hành động. Đó chỉ có thể là Nhà nước.
Thứ hai: Do sự phân công lao động xã hội, sự phát triển của lực
lượng sản xuất nói chung làm xuất hiện một số ngành mà các tổ chức
độc quyền tư nhân không thể hoặc không muốn làm. Đặc biệt là các
ngành kết cấu hạ tầng hoặc nghiên cứu cơ bản ( Vốn đầu tư, vốn chu
chuyển chậm, tỉ xuất lợi nhuận thấp ).
Thứ ba: Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền làm mâu thuẫn thêm sâu sắc, đối
kháng giữa giai cấp tư sản với giai cáp công nhân và nhân dân lao động. Để
làm giảm mâu thuẫn đó Nhà nước phải thực thi một số chính sách như : trợ
cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập, phúc lợi xã hội…
Thứ tư: Với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và bành chứng của
các liên minh độc quyền thế giới vấp phải hàng rào quốc gia dân tộc và xung
đột về lợi ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. Điều đó đồi hỏi Nhà
nước phải điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế.
1.3.Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
* Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của
các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của các tổ chức Nhà nước tư bản
3
thành một thiết chế và thể chế thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ
chức độc quyền và cứu nguy cho Chủ Nghĩa Tư Bản.
* Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước là nấc thang phát triển mới
của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền ( chủ nghĩa đế quốc ). Nó là sự thống nhất
của cả ba quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức
độc quyền, tăng vai trò can thiệp của Nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh
của độc quyền tư nhân với sức mạnh của Nhà nước trong một thể chế thống
nhất và bộ máy Nhà nước cuộc vào các tổ chức độc quyền.
* Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính
trị, xã hội chú không phải chỉ là một chính sách trong giai đoạn độc quyền
Chủa Nghĩa Tư Bản. Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế nhất định
đối với xã hội mà nó thống trị, song ở mỗi chế độ xã hội, vai trò kinh tế Nhà
nước có sự biến đổi thích hợp đến với xã hội đó. Ngày nay vai trò của Nhà
nước tư sản đã có sự biến đổi, không chỉ can thiệp vào nền sản xuất xã hội
bằng thuế, luật pháp mà còn có vai trò tổ chức và quản lý các xí nghiệp thuộc
khu vực kinh tế nhà nước. V.I. Lênin chỉ ra rằng: “ Bọn đầu sỏ tài chính dùng
một mạng lưới dày đặc những quan hệ lệ thuộc bao trùm hết thảy các thiết chế
kinh tế và chính trị… đó là biểu hiện rõ rệt nhất của sự độc quyền ấy “. Trong
cơ cấu của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước, Nhà nước trở thành một
tập thể tư bản khổng lồ. Như vậy Chủ nghĩa Tư Bản đã chuyển sang một giai
đoạn mới với bản chất chính là Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước ra
đời trong cách mạng khoa học công nghệ.
Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước: Các tổ chức
độc quyền đưa người vào nắm lấy hoạt động của bọ máy tư sản từ địa phương
đến trung ương để chi phối nhà nước tư sản và mang lại lợi ích, quyền lợi cho
các tập đoàn. Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện thông qua các hội chủ xí
nghiệp mang những tên khác nhau, thí dụ như: Liên đoàn công nghiệp Italia,
Tổ chức liên hợp công nghiệp Đức, lien đoàn công thương Anh… Các hội chủ
này hoạt động như các cơ quan tham mưu cho nhà nước, chi phối đường lối
4
kinh tế, đường lối chính trị của nhà nước tư sản nhằm “lái” hoạt động của nhà
nước theo hướng có lợi cho tầng lớp độc quyền, có vai trò rất lớn, đến mức
được coi như chính phủ đằng sau chính phủ, một quyền lực thực tế đằng sau
quyền lực của chính quyền. Thông qua các hội chủ, một mặt các đại biểu của
các tổ chức độc quyền tham gia vào bộ máy nhà nước với những cương vị
khác nhau, mặt khác, các quan chức và nhân viên chính phủ được cài vào các
ban quản trị của các tổ chức độc quyền, giữ vững các chức vụ trọng yếu chính
thức hoặc danh dự, hoặc trở thành những người đỡ đầu các tổ chức độc
quyền. Trong những năm gần đây, đối với các công ty độc quyền được nhà
nước thành lập thì mục tiêu cơ bản là hoàn thành nhiệm vụ công ích thay mặt
cho Nhà nước. Nói cụ thể hơn, là đảm bảo cung cấp dịch vụ, hàng hóa thiết
yếu để duy trì mức sống tối thiểu của người dân và hoạt động của toàn xã hội.
Đây chính là điểm khác biệt về bản chất giữa một công ty độc quyền Nhà
nước với một doanh nghiệp bình thường. Vậy tại sao và cơ sở pháp lý nào cho
phép Nhà nước độc quyền làm việc đó? Đặc điểm của kinh tế thị trường là
quyền tự do kinh doanh luôn được bảo đảm. Thế nhưng, không phải bất cứ
lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh nào cũng có thể thu hút tư nhân tham gia.
Họ không muốn đầu tư vì khả năng sinh lời thấp. Như vậy, thị trường tự do
không đáp ứng nổi nhu cầu cơ bản của người dân, thị trường bất lực trước các
nhu cầu xã hội. Do vậy, Nhà nước phải can thiệp ở nơi và khi thị trường bất
lực, cho nên Nhà nước phải thiết lập các công ty độc quyền. Ở Anh, Pháp,
Đức... hiện nay Nhà nước vẫn nắm độc quyền kinh doanh một số lĩnh vực như
điện, nước, khí đốt, giao thông công cộng. Ví dụ ở Đức, giá vé xe buýt mấy
chục năm nay hầu như không thay đổi dù xuất hiện nhiều “cơn sốt” xăng dầu
trên thế giới, vì mỗi năm, Nhà nước phải bù lỗ hàng tỷ euro cho hoạt động
giao thông công cộng. Các công ty độc quyền ở các nước không bao giờ được
phép tùy tiện tăng giá, kể cả khi giá cả thế giới tăng hay viện cớ công ty bị
thua lỗ, giảm nguồn thu ngân sách. Nếu có tăng thì chỉ được phép tăng với
điều kiện phải phù hợp với khả năng và sức mua tăng của người dân. Cần lưu
5
ý là, hoạt động của công ty độc quyền phải được xem như một hình thức hoạt
động quản lý Nhà nước. Để ngăn ngừa hoạt động tiêu cực, các công ty độc
quyền phải được đặt trong sự kiểm soát chặt chẽ. Ở nước ta, hoạt động của
các công ty độc quyền Nhà nước còn nhiều vấn đề gây tranh cãi, cần phải
xem xét lại. Theo ý kiến của một số chuyên gia kinh tế và luật gia, không thể
buộc người dân chịu thiệt khi phải trả thêm tiền để các công ty độc quyền
luôn có lãi, trong khi họ vừa được độc quyền kinh doanh, vừa được Nhà nước
bảo đảm không bị thua lỗ.
B2.
Sự hình thành và phát triển sở hữu nhà nước: Sở hữu độc quyền
nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư sản độc quyền có nhiệm vụ ủng hộ
và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa
tư bản. Được biểu hiện đó là sở hữu nhà nước tăng lên và sự tăng cường mối
quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư nhân, hai loại sở hữu
này gắn kết với nhau trong quá trình tuần hoàn của tổng tư bản xã hội. Sở hữu
nhà nước được hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau: xây dựng xí
nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách, quốc hữu hóa các xí nghiệp tư nhân
bằng cách mua lại, nhà nước mua cổ phần của các xí nghiệp tư nhân, mở rộng
xí nghiệp nhà nước bằng vốn tích lũy của các xí nghiệp tư nhân…Sở hữu nhà
nước thự hiện các chức năng quan trọng sau: Một là, mở rộng sản xuất tư bản
chủ nghĩa đảm bảo địa bàn rộng lớn cho sự phát triển chủ nghĩa tư bản. Hai
là, giải phóng tư bản của tổ chức độc quyền từ những ngành ít lãi để đưa vào
những ngành kinh doanh có hiệu quả hơn. Ba là, làm chỗ dựa về kinh tế cho
nhà nước để nhà nước điều tiết một số quá trình kinh tế phục vụ lợi ích của
tầng lớp tư bản độc quyền. Ví dụ về sở hữu nhà nước ở nước ta hiện nay:
Kinh tế nhà nước dựa trên sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất, về vốn…Ở
nước ta hiện nay sở hữu nhà nước được hiểu là sở hữu toàn dân mà Nhà nước
là đại diện. Sở hữu nhà nước là trình độ thấp hơn của sở hữu toàn dân. Trong
thời kỳ quá độ lên CNXH và trong giai đoạn XHCN chỉ mới có sở hữu nhà
nước. Nhà nước đại diện cho toàn dân sở hữu những tài nguyên thiên nhiên,
6
của cải, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước…, của toàn dân, của
toàn xã hội. Nhà nước không những sở hữu mà còn nhân danh toàn dân, toàn
xã hội tổ chức quản lý, sử dụng và phân phối những sản phẩm được tạo ra từ
những tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước… Nhưng muốn thực
hiện được điều đó phải thực hiện được lợi ích kinh tế của sở hữu nhà nước.
Nếu không có lợi ích kinh tế thì sở hữu nhà nước chỉ là danh nghĩa. Điều đó
đòi hỏi phải có cơ chế giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu của Nhà
nước đối với những tài nguyên, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà
nước… của chung, của toàn dân, của toàn xã hội với quyền sử dụng chúng
của các doanh nghiệp được giao quyền sử dụng và việc phân phối sản phẩm,
giá trị mới được tạo ra nhờ những tài nguyên, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn,
ngân sách nhà nước… thuộc sở hữu nhà nước giao cho các doanh nghiệp sử
dụng. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cơ chế ấy phải chăng
là tỷ lệ phân chia sản phẩm, giá trị mới đó giữa Nhà nước và doanh nghiệp
thông qua việc doanh nghiệp nộp thuế cho Nhà nước. Chỉ có thu được một
phần lợi nhuận dưới hình thức thuế theo một tỷ lệ thích hợp từ các doanh
nghiệp được giao quyền sử dụng những tài sản, vốn… chung của toàn xã hội,
thì mới thực hiện được lợi ích kinh tế của sở hữu nhà nước. Đồng thời, doanh
nghiệp mới có động lực để phấn đấu sản xuất – kinh doanh có hiệu quả nhằm
thu được lợi nhuận cao hơn phần thuế phải nộp cho Nhà nước, thì doanh
nghiệp mới có thu nhập. Phần lợi nhuận cao hơn ấy càng lớn thì thu nhập của
doanh nghiệp càng cao
B3.
Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản: Nhà nước tư bản độc
quyền điều tiết các quá trình kinh tế thông qua các biện pháp sau. Đó là thông
qua việc hoạch định các chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế
quốc gia. Thông qua hoạt động của hệ thống pháp luật của chủ nghĩa tư bản
độc quyền, xây dựng pháp luật, thực thi pháp luật. Thông qua các công cụ
điều tiết vĩ mô khác như tài chính, tiền tệ, lãi xuất, giá cả… Các chính sách
kinh tế của nhà nước tư sản là sự thể hiện rõ nét nhất sự điều tiết kinh tế của
7
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Chúng bao
gồm nhiều kĩnh vực như: chính sách chống khủng hoảng chu kỳ, chống lạm
phát, chính sách tăng trưởng kinh tế, chính sách xã hội, chính sách kinh tế đối
ngoại. Các công cụ chủ yếu dùng để điều tiết kinh tế đó là: ngân sách, thuế,
hệ thống tiền tệ- tín dụng, các doanh nghiệp nhà nước, kế hoạch hóa hay
chương trình hóa kinh tế và các công cụ hành chính, pháp lý. Hoạt động điều
chỉnh được thực hiện bằng những tổ chức hành pháp mà những tổ chức này
được chia làm hai loại đó là: Cơ quan hành pháp của chính phủ, vừa làm chức
năng hành chính vừa làm chức năng điều chỉnh kinh tế ở tầm tổng thể. Hai là
những cơ quan điều chỉnh kinh tế do luật định, chuyên trách thanh tra, kiểm
soát, uốn nắn hành vi kinh tế của tất cả các chủ thể hoạt động sản cuất kinh
doanh theo luật. Trong kết cấu của bộ máy hành pháp ở các nước tư bản phát
triển, ta còn thấy sự xuất hiện nhanh chóng của các cơ quan điều tiết kinh tế.
Kinh phí hoạt động do chính phủ cung cấp nhưng kiểm soát việc sử dụng kinh
phí lại do quốc hội tiến hành.
* Đặc điểm
.
8
CHƯƠNG II. VAI TRÒ VÀ XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA
CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC
2.1.Những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
2.1.1. Sự phát triển chưa từng có và rộng khắp của chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước.
Biểu hiện chủ yếu là:
- Tỷ trọng của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tăng
lên rõ rệt.
- Sự kết hợp giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân cũng tăng lên
nhanh chóng.
- Chi tiêu tài chính của các nhà nước tư bản phát triển dùng để điều tiết
quá trình tái sản xuất xã hội tăng.
Sở dĩ như vậy là do:
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ xã hội hoá cao đã đặt
ra một loạt vấn đề mới đòi hỏi phải có sự giải quyết của nhà nước.
- Cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước gay gắt đòi hỏi
nhà nước phải đứng ra mở cửa thị trường.
2.1.2 .Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản cũng có những biểu hiện
mới:
Vai trò kinh tế và phương thức điều tiết nền kinh tế thị trường hiện đại
của nhà nước tư bản độc quyền lại có những nét độc đáo và là đặc điểm cơ
bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay.
- Mục tiêu của sự điều tiết kinh tế là nhằm khắc phục những khuyết tật
của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, định hướng cho sự phát triển kinh tế xã hội nhằm tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của chủ
nghĩa tư bản.
- Để điều tiết nền kinh tế, nhà nước tư bản độc quyền đã tổ chức bộ
máy điều tiết gồm cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và về mặt nhân sự có
sự tham gia của những đại biểu của tập đoàn lớn và các quan chức nhà nước.
9
Đồng thời bên cạnh bộ máy này còn có hàng loạt các tiểu ban được tổ chức
dưới những hình thức khác nhau.
- Cơ chế điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là:
cơ chế kết hộp thị trường tự do cạnh tranh với tính năng động của tư bản độc
quyền tư nhân.
- Phương thức điều tiết của nhà nước linh hoạt, mềm dẻo hơn, phạm vi
rộng hơn.
2.2.Vai trò của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển của chủ
nghĩa tư bản độc quyền, là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư
nhân với sức mạnh của nhà nước tư bản thành một thiết chế và thể chế thống
nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ
nghĩa tư bản
Ở đây nhà nước tư bản xuất hiện như một chủ sở hữu tư bản, một nhà tư
bản xã hội, đồng thời lại là người quản lý xã hội bằng pháp luật với bộ máy
bạo lực to lớn.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị,
xã hội, chứ không chỉ là một chính sách trong giai đoạn độc quyền của chủ
nghĩa tư bản.
Tùy theo học thuyết kinh tế được vận dụng, hệ thống điều tiết kinh tế ở
mỗi nước có những nét khác nhau: - còn được gọi là “mô hình thể chế kinh
tế”-như “mô hình trọng cầu”, “mô hình trọng cung”,”mô hình trọng tiền”…..
các chính sách kinh tế của nhà nước tư sản là biểu hiện quan trọng nhất của
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Vị trí, vai trò: Nhờ nắm được địa vị thống trị trong lĩnh vực sản xuất và
lưu thông, các tổ chức độc quyền có khả năng định ra giá cả độc quyền.
+ Giá cả độc quyền là giá cả hàng hóa có sự chệnh lệch rất lớn so với giá
cả sản xuất:
10
* Họ định ra giá cả độc quyền cao hơn giá cả sản xuất đối với những
hàng hóa bán ra.
* Họ định ra giá cả độc quyền thấp hơn giá cả sản xuất đối với những
hàng hóa mua vào, qua đó thu được lợi nhuận độc quyền.
Vậy giá cả độc quyền là: Giá cả độc quyền = chi phí sản xuất + P độc quyền.
Nhưng giá cả độc quyền không thủ tiêu được tác động của quy luật giá
trị và quy luật giá trị thặng dư, vì xét trên phạm vi toàn xã hội thì: Tổng giá cả
vẫn bằng tổng giá trị; tổng số lợi nhuận vẫn bằng tổng số giá trị thặng dư.
Do đó những gì mà độc quyền thu được cũng là cái mà tầng lớp tư sản
vừa và nhỏ, nhân dân lao động ở các nước TB, thuộc địa mất đi.
Như vậy ta thấy: Độc quyền ra đời từ cạnh tranh và giữ vai trò thống trị,
nhưng nó không thủ tiêu được cạnh tranh; độc quyền và cạnh tranh tồn tại
song song và thống nhất với nhau một cách biện chứng. Tuy nhiên trong thời
đại Đế quốc chủ nghĩa thì tính chất cạnh tranh khác hẳn thời kỳ tự do cạnh
tranh về mức độ và hình thức.
2.3. X u hướng vận động của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Trải qua quá trình hình thành và phát triển, cho đến ngày nay, chủ nghĩa
tư bản độc quyền nhà nước đã có sự phát triển mạnh mẽ đi kèm với nó là
những biểu hiện mới.
Khi phân tích sự vận động của chủ nghĩa tư bản, Lênin đã chỉ ra rằng:
chủ nghĩa tư bản đến giai đoạn độc quyền, nền kinh tế của nó vận động theo
hai xu hướng: sự phát triển nhanh chóng song song với sự trí trệ thối nát.
Ngày nay, hai xu hướng đó vẫn tác động trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Sự phát triển nhanh chóng của chủ nghĩa tư bản biểu hiện rõ rệt từ trong giai
đoạn từ sau thế chiến thứ hai đến nay, đặc biệt vào những năm 1950 và 1960
của thế kỉ XX với tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế, nâng cao chất lượng
hiệu quả tăng rõ rệt.
Sự phát triển đó là do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ, sự điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, sự bành
11
trướng của các công ty xuyên quốc gia và sự kích thích do cuộc chạy đua giữa
hai hệ thống kinh tế thế giới.
Xu thế trì trệ biểu hiện ở chỗ nền kinh tế chủ nghĩa tư bản tăng trưởng
chậm so với tiềm năng to lớn của khoa học công nghệ cho phép ( ví dụ, hiệu
suất sử dụng máy móc chỉ đạt 60-70 %), thất nghiệp cao gây nên sự lãng phí
về nguồn lực, quân sự hóa nền kinh tế.
Sự tồn tại tại song song của hai xu thế trong chủ nghĩa tư bản hiện đại
một mặt nói lên rằng chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn còn sức sống, quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa còn có thể tự điều chỉnh và trong giới hạn nhất định nó
còn có thể thích ứng với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất và thúc
đẩy xã hội tư bản phát triển. Song mặt khác nó cũng nói lên rằng chủ nghĩa tư
bản đang vấp phải những giới hạn nhất định, mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa
tư bản vẫn tồn tại và vận động. Đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa quyết định sự thay thế phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa bằng phương thức sản xuất cao hơn, tiến bộ hơn, đó là
xu hướng vận động của lịch sử tất yếu.
- Sự phát triển rộng khắp của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước có
những biến đổi lớn nhưng quan trọng và nổi bật hơn cả là sự phát triển rộng
khắp ở các nước tư bản. Điều này được thể hiện:
+ Tỷ trọng kinh tế nhà nước trong nền kinh tế các nước tư bản tăng
+ Sự kết hợp giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân tăng
+ Vấn đề chi tiêu tài chính để điều tiết xã hội tăng
Nguyên nhân chính là do sự phát triển không ngừng của lực lượng sản
xuất đi kèm với sự cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi nhà nước phải tham dự
vào quá trình kinh tế xã hội.
- Những biểu hiện mới trong sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản
Vai trò điều chỉnh nền kinh tế của nhà nước tư sản đã có mầm mống từ
khi chủ nghĩa tư bản ra đời. Sự can thiệp của nhà nước vào quá trình sản xuất
12
và lưu thông trong các thời kì có những đặc điểm khác nhau. Trong chủ nghĩa
tư bản hiện đại, sự điều tiết nền kinh tế thị trường của nhà nước tư bản độc
quyền đã trở thành hiện tượng thường xuyên, phổ biến và phát triển cao hơn ở
các nước tư bản. Biểu hiện mới của sự điều tiết thể hiện:
+ Mục tiêu của sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư bản độc quyền là
nhằm khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa,
định hướng cho sự phát triển kinh tế xã hội, nhằm tăng trưởng kinh tế, đảm
bảo sự phát triển và tồn tại của chủ nghĩa tư bản.
+ Để điều tiết kinh tế, nhà nước tư bản độc quyền đã tổ chức bộ máy
điều tiết, cùng với đó là các công cụ, các chính sách và các đòn bẩy kinh tế
nhằm thực hiện những mục tiêu đã được hoạch định. Bên cạnh đó, cơ chế
điều tiết của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là cơ chế thị trường tự do
cạnh tranh với tính năng động của tư bản độc quyền tư nhân. Những điểm
quan trọng nhất của cơ chế này là:
+ Hạn chế sự quan liêu hóa Nhà nước bằng cách xem xét lại hệ thống
luật kinh tế, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, xây dựng đạo luật mới phù
hợp với cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
+ Xác định lại sự trợ cấp của nhà nước đối với một số ngành, một số
lĩnh vực.
+ Thực hiện tư nhân hóa khu vực nhà nước nhằm tăng năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp và khắc phục sự kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước
+ Nới lỏng sự điều tiết của nhà nước, xác định lại thứ tự ưu tiên trong
chính sách kinh tế, hướng chủ yếu vào sự tăng trưởng lâu dài, tiến bộ khoa
học và công nghệ, chống lạm phát, khuyến khích kinh doanh.
+ Tăng cường sự phối hợp giữa các chinh sách kinh tế giữa các nước
trong những lĩnh vực có tầm quan trọng đối với sự ổn định tình hình kinh tế xã
hội. Nổi bật hơn cả trong những biểu hiện mới là việc thực hiện chính sách xã
hội, các phương thức điều tiết của nhà nước trở nên linh hoạt, mềm dẻo hơn,
phạm vi hoạt động được thể hiện như sau: Nhà nước điều tiết bằng các chương
13
trình và kế hoạch cụ thể; Điều tiết cơ cấu kinh tế bằng quan hệ thị trường, duy
trì các ngành nghề truyền thống, phát triển những ngành mũi nhọn với công
nghệ cao.; Điều tiết tiến bộ khao học và công nghệ bằng tăng chi ngân sách cho
nghiên cứu ứng dụng và phát triển, tài trợ cho nghiên cứu ứng dụng của các
công ty tư nhân; Điều tiết thị trường lao động, khuyến khích phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ để thu hút lao động; Điều tiết thị trường tài chính, tiền tệ,
chống lạm phát, điều tiết giá cả, các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Từ sự phân tích những ngưyên nhân hình thành của chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước ở trên đã cho ta thấy rằng : Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với mạnh của
nhà nước tư bản thành một thiết chế và thể chế thống nhất nhằm phục vụ lợi
ích của các tổ chức độc quyền và cứu
nguy cho chủ nghĩa tư bản. Trong chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước,
nhà nước tư sản xuất hiện như một chủ sở hữu tư bản, một nhà tư bản xã hội ,
đồng thời là người quả lý xã hội bằn pháp luật và bộ máy bạo lực to lớn.
Nhà nước tư sản xuất hiẹn kết hợp về nhân sự với các tổ chức độc quyền được
thực hiên thông qua các dảng phái tư sản thống tri và trức tiếp xay dựng đội
ngũ cho bộ máy nhà nước. Cùng với các đảng phái tư sản là các hội chủ xí
nghiệp, nó trở thành lực lượng chính trị to lớn, cung cấp kinh phí cho các
đảng phái tham gia vào việc lập pháp.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước ra đời dẫn đến sự hình thành của sở hữu tư bản độc quyền nhà nước, nó
đan kết vào sở hữu độc quyền tư nhân, bao gồm những hoạt động sản và bất
động sản của nhà nước, những doanh nghiệp trong công nghiệp và trong lĩnh
vực kết cấu hạ tầng kinh tế –xã hội , như giao thông vận tải, giáo dục, y tế.
Phạm vi mức độ phát triển của sơ hữu tư bản nhà nước tuỳ thuộc vào lợi ích
của giai cấp Tư sản thống trị. Do sự phát triển của trình độ xã hội hoá lực
lượng sản xuất đã vuợt qua sự điều tiết của cơ chế thi trường vf độc quyền tư
nhân đòi hỏi phải được bổ sung bằng sự điều tiết của nhà nước. Nhưng sự
điều tiết này lại có mặt tích cực và hạn chế :thị trương, độc quyền tư nhân và
14
điều tiết của nhà nước. Nó như một tổng thể những thiết chế kinh tế của nhà
nước, điều tiết sự vận động của toàn bộ nên kinh tế quốc dân, toàn bộ của quá
trình sản xuất xã hội .
Như vậy chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước nảy
sinh như một tất yếu kinh tế, đáp ứng yêu cầu xã hội hóa cao độ của lưc
lượng sản xuất trong khuôn khổ chế độ tư bản, đóng vai trò quan trọng đối
với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhưng vẫn vấp phải những
giơi hạn mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản không thể vượt qua khỏi.
15
CHƯƠNG III. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NÀY
ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY:
3.1.Lý luận và thực trạng nền kinh tế Việt Nam đối với chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước.
3.1.1 Một số quan điểm về chủ nghĩa tư bản độc quyền ở nước ta
Hiện nay, ở nước ta cũng có nhiểu cách giải thích khác nhau:
- Loại ý kiến thứ nhất quá nhấn mạnh lý luận về chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước, xem đó như là một “thứ chủ nghĩa”, một phương thức sản
xuất xã hội, một học thuyết hoàn chỉnh cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.
- Loại ý kiến thứ hai xem chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước chỉ là
một phương pháp cải tạo hoà bình giai cấp tư sản, như là một thành phần kinh
tế thứ yếu (và cũng có lúc xem như “không đáng kể”).
Thực ra đó là hai loại ý kiến cực đoan khác nhau, cách tiếp cận khai thác
khác nhau trong những khuynh hướng khác nhau của các giai đoạn lịch sử
nhận thức và xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội Trong mô hình chủ nghĩa xã
hội với nền kinh tế hiện vật trước đây, người ta quá xem nhẹ chủ nghĩa tư bản
nhà nước nói chung và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước nói riêng.
Ngược lại, trong khủng hoảng, khó khăn của sự đổ vỡ mô hình chủ nghĩa tư
bản, người ta lại có khuynh hướng đưa vào nội hàm của lí luận chue nghĩa tư
bản nhà nước nội dung quá rộng.
Cách tiếp cận có hiệu quả cao chính là nhận thức đúng đắn cơ sở lý luận
biện chứng của V.I. Lênin về chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, vận dụng
sát với thực tiễn cuộc sống kinh tế xã hội đang diễn ra ở nước ta trong quá trình
đổi mới quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, cần phải xuất phát từ tình
hình cụ thể, từ sự đối sánh lực lượng cụ thể trong điều kiện lịch sử cụ thể.
Tóm lại, nói một cách khái quát thì chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
là sự dung hợp giữa nhà nước và hoạt động của các xí nghiệp tư bản tư nhân.
Nếu nhà nước là của giai cấp tư sản và địa chủ thì chủ nghĩa tư bản độc
16
quyền nhà nước phục vụ lợi ích của tư bản và địa chủ. Nếu nhà nước là của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động thì chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước phục vụ cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trong
điều kiện của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một
hình thức quá độ, có tính chất quá độ chủ nghĩa.
Tuy nhiên, theo V.I. Lênin, đây là một hình thức đấu tranh, là sự tiếp tục
của đấu tranh giai cấp dưới một hình thức khác, chứ tuyệt nhiên không phải là
sự thay thế đấu tranh giai cấp bằng hoà bình giai cấp. Vì vậy, phải tỉnh táo,
sắc bén trong việc sử dụng hình thức kinh tế quá độ này.
3.2. Một số hình thức của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ở
nước ta hiện nay
3.2.1 Liên doanh, liên kết giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với các chủ
sở hữu tư nhân ở trong nước hoặc ngoài nước.
Thông qua sự liên doanh, liên kết giữa nhà nước và các chủ thể sở hữu
ngoài quốc doanh ở trong nước, nhà nước có thể huy động được vốn, đổi mới
kỹ thuật và quy trình công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm…Đồng thời,
nhà nước cũng thực hiện được lợi nhuận, chức năng kiểm kê, kiểm soát,
hướng dẫn, điều tiết sự phát triển để thúc đẩy cải cách cơ cấu kinh tế với cơ
cấu sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của thị trường trong nước và thế giới,
cấu trúc lại nền kinh tế.
Các nước trên thế giới hiện nay đều đang trên con đường tìm kiếm hình
thức liên doanh kinh tế có lợi nhất. Hình thức liên doanh này đã và đang có xu
hướng mở rộng với nhiều nước và phá vỡ quan niệm độc quyền liên doanh.
Trong liên doanh, liên kết phải tích cực chủ động tìm bạn hàng, trước hết
là các tập đoàn xuyên quốc gia, kinh doanh nhiều ngành, bởi vì, những tập
đoàn này có đặc trưng là rất linh hoạt, có những quan hệ bền vững với nhiều
nước, có bộ máy tiêu thụ đã được sắp đặt hoàn hảo.Nhưng cũng có một số
điều cần lưu ý, chẳng hạn như, trong phân công lao động thì các nước kém
phát triển thường bị phân công làm những quy trình cần nhiều lao động giản
17
đơn. Các công ty liên doanh thường đầu tư lớn vào các nước phát triển để sử
dụng tiềm lực khoa học lớn ở nơi đây nhằm đón trước các thành tựu khoa học
kỹ thuật.
3.2.2 Thành lập công ty cổ phần, cổ phần hoá xí nghiệp để thành lập
xí nghiệp tư bản nhà nước.
Công ty cổ phần cũng như cổ phần hoá xí nghiệp không phải là vấn đề
mới mẻ, như cái mới là vấn đề này được đặt trong điều kiện của nhà nước xã
hội chủ nghĩa hiện nay.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, công ty cổ phần được xem
là một tất yếu kinh tế - sự tồn tại của nó không những chỉ là kết quả của quá
trình tích tụ vốn, mà còn là nhu cầu khách quan của việc củng có tính hiệu quả
của nền kinh tế nhiều thành phần nói chung, của quốc doanh nói riêng.
Cùng với việc xây dựng các công ty cổ phần là việc bán cổ phần và thu hút
vốn, công ty cổ phần được thành lập trên cơ sở các xí nghiệp quốc doanh hiện
hành bằng biện pháp “cổ phần hoá xí nghiệp” mà gần đây được bàn tới nhiều.
Thực chất cổ phần hoá xí nghiệp quốc doanh hiện nay là chuyển từ sở
hữu nhà nước thành sở hữu tập thể, hỗn hợp; là làm gọn nhẹ, tối ưu thành
phần kinh tế quốc doanh, tăng thành phần kinh tế tập thể, cá thể, tư nhân. Nó
là một giải pháp nhằm thoát khỏi tình trạng làm ăn thua lỗ của một số xí
nghiệp quốc doanh.
Tuy nhiên, việc chuyển thành công ty cổ phần chỉ nên diễn ra ở những
ngành mà tư nhân có khả năng về vốn và sức đầu tư như may, dệt, sành sứ,
thuỷ tinh, sản xuất và chế biến nông, lâm, thuỷ sản có quy mô vừa và nhỏ,
nhiều cơ sở vận tải đường bộ, đường thuỷ, thương nghiệp bán lẻ, dịch vụ…
3.2.3 Đặc khu kinh tế.
Đặc khu kinh tế là một vùng lãnh thổ quốc gia mà trên đó người ta áp
dụng chế độ đặc biệt đối với các hoạt động kinh tế đối ngoại. Mục tiêu của nó
là tăng cường khả năng cạnh tranh của nền sản xuất, tăng cường khả năng
xuất khẩu, thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài đẩy nhanh các quá trình
18
khai thác công nghệ, kỹ thuật mới và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến
của thế giới.
Có thể rút ra một số nhận xét sau đây về đặc khu kinh tế:
- Đặc khu kinh tế là một nội dung quan trọng trong chính sách kinh tế
đối ngoại, mang tính chất mới của nền kinh tế thế giới.
- Đặc khu kinh tế không chỉ xuất hiện ở các nước xã hội chủ nghĩa mà
còn xuất hiện ở các nước có chế độ chính trị khác nhau, thậm chí ở ngay các
nước tư bản phát triển.
Vị trí địa lý kinh tế là yếu tố quan trọng nhất trong việc lựa chọn thành lập
“đặc khu kinh tế”. Kinh nghiệm cho thấy, các đặc khu kinh tế thường đặt ở
những trung tâm hoặc các địa điểm nằm trên các trục giao thông đường bộ,
đường biển, đường sông, thuận tiện cho việc giao lưu hàng hoá với nước ngoài.
- Muốn thu hút vốn đầu tư trực tiếp của người nước ngoài, điều quan
trọng là tại các đặc khu kinh tế phải có được môi trường cho hoạt động kinh tế
càng gần với điều kiên và trình độ bên ngoài càng tốt.
- Cần thiết lập ở các đặc khu kinh tế hệ thống tài chính ngân hàng có
hiệu lực, một yếu tố làm cho hoạt động kinh doanh nhộn nhịp.
- Sự ổn định chính trị xã hội cũng là yếu tố quyết định để nước ngoài
yên tâm bỏ vốn đầu tư ở các đặc khu kinh tế.
3.2.4 Khu công nghiệp chế biến xuất khẩu (Khu chế xuất).
Khu chế xuất là khu công nghiệp được quy định chuyên môn, sản xuất
chủ yếu cho xuất khẩu, trong đó người ta áp dụng quy chế tự do thuế quan, tự
do mậu dịch.
Đặc khu kinh tế cũng như khu chế xuất, về thực chất được coi là các
hình thức của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Ở đây không phải chỉ có
một hình kinh tế tư bản nhà nước đơn độc, thuần tuý mà có nhiều hình thức
cụ thể, bao gồm cả hình thức tô nhượng, liên doanh, cho tư bản nước ngoài thuê…
19
Hiện nay ở nước ta đang chủ trương thí điểm thành lập khu chế xuất ở
Tân Thuận (thành phố Hồ Chí Minh). Vì vấn đề còn hết sức mới mẻ nên cần
tham khảo kinh nghiệm các khu chế xuất trên thế giới.
3.2.5 Cho tư bản trong và ngoài nước, cho nông dân thuê các cơ sở
sản xuất kinh doanh và các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân
Trong nền kinh tế nông nghiệp nước ta đã và sẽ tồn tại các chế độ kinh
doanh khác nhau trên cùng một cơ sở dữ liệu sản xuất cơ bản là ruộng đất
thuộc sở hữu toàn dân: chế độ kinh doanh của nhà nước, của tập thể, của từng
hộ riêng lẻ, chế độ kinh doanh hỗn hợp (nhà nước, tập thể, từng hộ; nhà nước
với tập thể, tập thể với tư nhân cả trong và ngoài nước).
Cần và có thể phát triển hình thức liên doanh, liên kết rộng rãi không chỉ
trong mà cả ngoài nước. Cần mở rộng việc cho thuê đất (hình thức đấu thầu,
thầu khoán…) với quy mô hạn đinh về rừng đồi trọc, thềm lục địa, đất rừng,
đồi hoang, …Khuyến khích phát triển những hộ kinh doanh độc lập trên nhiều
lĩnh vực: trông trọt, chăn nuôi, kinh tế vườn, rừng, kinh tế gia đình, đặc biệt
những hộ kinh doanh lớn tổng hợp hoặc chuyên canh, có hoặc không thuê
mướn lao động.
Không thể liệt kê toàn bộ danh mục các hình thức kinh tế tư bản nhà
nước trong nông nghiệp vì quá trình thực hiện mới chỉ vừa bắt đầu. Nhưng đó
là con đường hữu hiệu nhất để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuât trong
nông nghiệp, chuyển nền sản xuất từ phân tán đến tập trung, từ nền nông
nghiệp nửa tự nhiên, tự nhiên sang nền kinh tế hàng hoá. Đó là con đường xã
hội hoá sản xuất nông nghiệp trong thực tế.
3.2.6 Các tổ chức hợp tác liên doanh với tư cách là các hình thức kinh
tế tư bản nhà nước.
Thực tiễn cho thấy, hợp tác xã trong sản xuất và kinh doanh là xu thế tất
yếu của những người sản xuất riêng lẻ.
Những hợp tác xã được tổ chức theo những nguyên tắc xã hội chủ nghĩa,
đặc biệt là thực hiện phân phối theo lao động, có sự hỗ trợ của nhà nước, sự
20
lãnh đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì thuộc thành phần kinh tế
tập thể mà chúng ta vẫn thường nói là một thành phần xã hội chủ nghĩa.
Nhưng trên thực tế, còn xuất hiện những tổ chức hợp tác liên doanh khác nữa
giống như ở nhiều nước khác.
Ở nước ta mấy năm nay cũng xuất hiện những tổ chức hợp tác tương tự
như kinh doanh liên hộ, tổ hợp dịch vụ, chế biến, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản
phẩm, …Những tổ chức hợp tác liên doanh này mà có sử dụng đất đai của sở
hữu toàn dân, có vay vốn của nhà nước, và nhất là có sự kiểm soát của nhà
nước, thì với quan niệm rộng theo tư tưởng V.I. Lênin đó đều là hình thức chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Chúng ta cần nắm lấy để phát triển nền
kinh tế quốc dân.
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước
3.3.1.Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng:
Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, qui hoạch, kế hoạch và cơ
chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. Đổi mới
căn bản công tác qui hoạch, kế hoạch phù hợp yêu cầu xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy
tối đa mọi lợi thế so sánh của quốc gia, vùng và địa phương, thu hút mọi
nguồn lực tham gia phát triển kinh tế - xã hội.
Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các
nguồn lực của xã hội cho phát triển, các chủ thể hoạt động kinh doanh bình
đẳng, cạnh tranh lành mạnh, công khai và minh bạch, có trật tự, kỷ cương.
Hỗ trợ phát triển, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
quan trọng.
Bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn
chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
Tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các
công cụ kinh tế; đồng thời sử dụng kịp thời có hiệu quả một số biện pháp cần
21
thiết khi thị trường trong nước hoạt động không có hiệu quả hoặc thị trường
khu vực và thế giới có biến động lớn.
Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can
thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Tách chức
năng quản lý hành chính của Nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh doanh
của doanh nghiệp, xóa bỏ “chế độ chủ quản”; phân biệt rõ ràng hệ thống cơ
quan hành chính công và hệ thống cơ quan sự nghiệp dịch vụ công cộng (giáo
dục, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể dục thể thao); phát triển mạnh
các dịch vụ công cộng.
Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính, tiền tệ, điều tiết thu nhập. Bảo
đảm tính ổn định và sự phát triển bền vững của nền tài chính quốc gia.
Định rõ mối quan hệ giữa Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành, ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về kinh tế và xã hội.
3.3.2- Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các thị
trường cơ bản, theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh:
Phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ. Thu hẹp những lĩnh vực Nhà
nước độc quyền kinh doanh, xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp; tiếp tục đổi mới
cơ chế kiểm soát giá cả. Phát triển mạnh thương mại trong nước ở tất cả các
vùng và tăng nhanh xuất khẩu, nhập khẩu.
Đẩy mạnh tự do hóa thương mại phù hợp các cam kết hội nhập kinh tế
quốc tế. Tạo bước phát triển mới, nhanh và toàn diện thị trường dịch vụ, nhất
là những dịch vụ cao cấp, có hàm lượng trí tuệ cao, giá trị gia tăng lớn. Phấn
đấu đưa tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng
GDP. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động du lịch, đa dạng hóa
các loại hình du lịch. Phát triển nhanh hơn các dịch vụ vận tải, viễn thông,
dịch vụ tài chính, ngân hàng, dịch vụ tư vấn...
Từng bước phát triển vững chắc thị trường tài chính, hoàn thiện thị
trường tiền tệ; lành mạnh hóa các hoạt động giao dịch vốn ngắn hạn và mua
22
bán các giấy tờ có giá trên thị trường. Phát triển mạnh thị trường vốn, thúc
đẩy mạnh hơn hoạt động của thị trường chứng khoán gắn với tiến trình cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
phát triển hình thức cổ phần và huy động các nguồn vốn trong xã hội cho đầu
tư phát triển. Củng cố ngân hàng nhà nước, lành mạnh hóa, cơ cấu lại hệ
thống ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, công ty mua bán nợ, công
ty đầu tư chứng khoán...
Phát triển thị trường bất động sản (bao gồm thị trường quyền sử dụng đất
và bất động sản gắn liền với đất): bảo đảm quyền sử dụng đất chuyển thành
hàng hóa một cách thuận lợi; làm cho đất đai thật sự trở thành nguồn vốn cho
phát triển; từng bước làm cho thị trường bất động sản trong nước có sức cạnh
tranh so với thị trường khu vực, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư.
Thực hiện công khai, minh bạch và tăng cường tính pháp lý, kỷ luật, kỷ
cương trong quản lý đất đai. Nhà nước điều tiết giá đất bằng quan hệ cung cầu về đất đai và thông qua các chính sách về thuế có liên quan đến đất đai.
Nhà nước vừa quản lý tốt thị trường bất động sản vừa là nhà đầu tư bất động
sản lớn nhất. Hoàn thiện hệ thống luật pháp về kinh doanh bất động sản...
3.3.3.- Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức
sản xuất, kinh doanh:
Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành
nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà
nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động
theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để
Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện
thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với
23
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của
nền kinh tế.
Doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức
kinh tế phổ biến, thúc đẩy xã hội hóa sản xuất kinh doanh và sở hữu.
Xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu; Nhà nước chỉ
thực hiện sự ưu đãi hoặc hỗ trợ phát triển đối với một số ngành, lĩnh vực, sản
phẩm; một số mục tiêu như xuất khẩu, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, khắc
phục những rủi ro; một số địa bàn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp. Xây dựng
một hệ thống doanh nghiệp VN nhiều về số lượng, có sức cạnh tranh cao, có
thương hiệu uy tín, trong đó chủ lực là một số tập đoàn kinh tế lớn dựa trên
hình thức cổ phần. Nhà nước định hướng, tạo môi trường để phát triển có hiệu
quả các doanh nghiệp theo cơ chế thị trường; bồi dưỡng, đào tạo và biểu
dương các doanh nhân có tài, có đức và thành đạt.
Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước:Hoàn thiện cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp nhà nước thật sự
hoạt động trong môi trường cạnh tranh, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu
quả. Xóa bỏ độc quyền và đặc quyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước có quyền tài sản, thật sự tự chủ, tự chịu
trách nhiệm trong kinh doanh, cạnh tranh, chấp nhận rủi ro. Gắn trách nhiệm,
quyền hạn và lợi ích của người quản lý doanh nghiệp với kết quả hoạt động
của doanh nghiệp. Chăm lo đào tạo đội ngũ quản trị giỏi đáp ứng tốt yêu cầu
quản lý công ty theo chế độ hiện đại.
Tiếp tục đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà
nước, tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu
sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích.
Đẩy mạnh và mở rộng diện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, kể cả các
24
tổng công ty nhà nước; đề phòng và khắc phục những lệch lạc, tiêu cực trong
quá trình cổ phần hóa. Giá trị doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa, kể cả
giá trị quyền sử dụng đất, phải theo cơ chế thị trường.
Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực,
có sự tham gia cổ phần của Nhà nước, của tư nhân trong và ngoài nước, các
công ty bảo hiểm, các quĩ đầu tư..., trong đó Nhà nước giữ cổ phần chi phối.
Tiếp tục đổi mới và phát triển các loại hình kinh tế tập thể: Tổng kết
thực tiễn để sớm có chính sách, cơ chế cụ thể khuyến khích phát triển mạnh
hơn các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức tổ
chức sản xuất kinh doanh, trước hết là các hợp tác xã kiểu mới, các hợp tác xã
mà thành viên tham gia gồm cả thể nhân và pháp nhân.
Khuyến khích huy động cổ phần và các nguồn vốn, không ngừng tăng
thêm vốn đầu tư phát triển, tăng tài sản và quĩ không chia. Các hợp tác xã cổ
phần từng bước trở thành thực thể chủ yếu của kinh tế tập thể.
Hợp tác xã và các loại hình kinh tế hợp tác hoạt động theo đúng các
nguyên tắc: hợp tác tự nguyện, tương trợ giữa các thành viên, dân chủ trong
quản lý; thực hiện hạch toán, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất
kinh doanh; cạnh tranh để phát triển.
Phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh
nghiệp của tư nhân: Mọi công dân có quyền tham gia các hoạt động đầu tư,
kinh doanh với quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh được pháp
luật bảo hộ; có quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội,
nguồn lực kinh doanh, thông tin và nhận thông tin.
Tôn vinh những người sản xuất, kinh doanh giỏi, chấp hành tốt pháp
luật; xóa bỏ mọi rào cản hữu hình và vô hình, tạo tâm lý xã hội và môi trường
kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân phát triển
không hạn chế qui mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm.
25