Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận về chiến lược ANQG của Mỹ đối với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.04 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do trọn đề tài
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, do những biến đổi sâu sắc của tình
hình thế giới, nhất là tương quan lực lượng giữa các nước lớn, Mỹ xác định
mục tiêu chiến lược là giữ vị trí siêu cường quốc duy nhất của mình, thiết lập
một trật tự thế giới do Mỹ lãnh đạo. Trải qua các đời tổng thống, Mỹ đã và
đang thử nghiệm nhiều phương án, chiến lược khác nhau, nhưng chính sách
đối ngoại, đối nội đều được hoạch định nhằm bảo đảm thực hiện mục tiêu
chiến lược xuyên suốt đó. Chính sách đối ngoại của Mỹ được thể hiện rõ và
công khai trong các bản Chiến lược An ninh quốc gia (ANQG) do các tổng
thống Mỹ. Nội dung xuyên suốt của các chiến lược ANQG này là Mỹ phải sử
dụng những ưu thế về thực lực sức mạnh trên nhiều mặt nhằm xây dựng trật
tự thế giới mới, không cho phép bất cứ một quốc gia nào ở bất cứ đâu lớn
mạnh tới mức độ có thể đối trọng và đe dọa vị trí siêu cường của Mỹ.
Đến nay, nước Mỹ đã công bố 05 bản chiến lược an ninh quốc gia của
mình, gần đây nhất là chiến lược ANQG do tổng thống Barak Obama công bố
năm 2015. Mặc dù mỗi đời tổng thống đều có sự điều chỉnh khác nhau, song
chính sách đối với châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có nhắc tới Việt Nam,
như một trong những trọng điểm chiến lược.
Mối quan tâm và sự gia tăng can thiệp của Mỹ đối với khu vực Đông
Nam Á thông qua quá trình triển khai chiến lược ANQG trong những năm gần
đây đang tạo ra những chuyển động mới trên bàn cờ quyền lực khu vực, thúc
đẩy cuộc cạnh tranh chiến lược, nhất là giữa các nước lớn tại đây trở lên phức
tạp và quyết liệt hơn. Điều này tác động trực tiếp đến môi trường chính trị, an
ninh Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, buộc mỗi quốc gia phải có đối sách
thích hợp nhằm duy trì hòa bình, ổn định, chủ quyền ANQG và nền độc lập
dân tộc trong tình hình mới.
Việt Nam là quốc gia đang phát triển theo định hướng XHCN, nên xét về
chiến lược lâu dài, Mỹ vẫn không từ bỏ ý đồ can thiệp vào công việc nội bộ



của Việt Nam trên các mặt để từ đó hướng Việt Nam đi theo quỹ đạo của Mỹ.
Điều này được quy định bởi tham vọng chiến lược là xóa bỏ CNXH, mở rộng
mô hình dân chủ và kinh tế thị trường TBCN. Việc Mỹ triển khai chiến lược
ANQG đối với Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh và những chuyển biến
nhanh chóng, phức tạp của khu vực đã đặt Việt Nam trước tình thế vừa có thời
cơ thuận lợi, vừa đối diện với nhiều nguy cơ và thách thức lớn. Bởi vậy, để
tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế sâu
rộng, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh,
Việt Nam cần chú ý nghiên cứu, đánh giá chiến lược, chính sách về ANQG và
xử lý thận trọng, khôn khéo mối quan hệ với các nước láng giềng, với các
nước lớn, trong đó có Mỹ nhằm duy trì, củng cố môi trường hòa bình, chủ
quyền, độc lập dân tộc, tranh thủ tối đa những nhân tố thời đại thuận lợi cho
sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
Từ những trình bày trên, việc nghiên cứu chiến lược ANQG của Mỹ để
làm căn cứ đề xuất nội dung chiến lược ANQG của Việt Nam là cần thiết, có
ý nghĩa khoa học và chính trị thực tiễn sâu sắc đối với đường lối đối nội, đối
ngoại của Việt Nam. Do vậy, tác giả chọn đề tài “Ảnh hưởng của chiến lược
ANQG của Mỹ đối với chiến lược ANQG của Việt Nam” viết tiểu luận môn
học.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Chiến lược ANQG của Mỹ (năm 2015)
2.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi nội dung: Chiến lược ANQG của Mỹ (năm 2015) và ảnh
hưởng của nó đối với chiến lược ANQG của Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: từ năm 2015 đến nay.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu: Làm rõ nội dung của chiến lược ANQG của
Mỹ và ảnh hưởng của nó đến chiến lược ANQG của Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
2



Làm rõ một số nhận thức cơ bản về chiến lược ANQG của Mỹ có ảnh
hưởng đến chiến lược ANQG của Việt Nam.
Làm rõ những ảnh hưởng, tác động của chiến lược ANQG của Mỹ đối
với chiến lược ANQG của Việt Nam.
Dự báo những vấn đề có thể ảnh hưởng tới chiến lược ANQG của Mỹ
trong thời gian tới.
Nghiên cứu, đánh giá nội dung chiến lược ANQG của Việt Nam hiện nay
có liên quan đến nội dung chiến lược ANQG của Mỹ.
4. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận được nghiên cứu theo 02 phần chính:
Phần I: Ảnh hưởng của chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ đối với chiến
lược an ninh quốc gia của Việt Nam.
Phần II: Dự báo, nội dung chiến lược ANQG của Việt Nam có liên quan
đến chiến lược ANQG của Mỹ

3


Phần I: ẢNH HƯỞNG CỦA CHIẾN LƯỢC AN NINH QUỐC GIA
CỦA MỸ ĐỐI VỚI CHIẾN LƯỢC AN NINH QUỐC GIA CỦA VIỆT
NAM.
1.1. Nhận thức về chiến lược ANQG của Mỹ
1.1.1. Khái niệm về chiến lược ANQG của Mỹ
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2, Mỹ vươn lên vị trí siêu cường thế giới
và là trung tâm đầu não của CNTB đế quốc. Và từ đây, Mỹ bỏ thông lệ hoạch
định chiến lược quốc gia với nội dung chủ yếu đề đập đến chính sách đối nội,
mà thay vào đó, năm 1947, Mỹ bắt đầu vạch chiến lược ANQG với nội dung
chủ yếu đối phó với các mối đe dọa và thách thức từ bên ngoài đối với lợi ích

toàn cầu của Mỹ.
Đến năm 1986, Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật quy định hằng năm,
Tổng thống Mỹ đệ trình một văn kiện chính thức về chiến lược ANQG. Ý đồ
của Mỹ là muốn có cách tiếp cận mới mang tính thống nhất, chỉnh thể hơn.
Chiến lược ANQG của Mỹ là loại chiến lược lớn ở cấp cao, dưới đó các chiến
lược chuyên ngành thuộc các lĩnh vực quốc phòng, quân sự, ngoại giao, kinh
tế…Theo quan điểm của Mỹ, chiến lược ANQG phải xác định được thời cơ,
thách thức, mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược, các quan điểm, nguyên tắc nền
tảng, các chính sách huy động và kết hợp mọi nguồn lực quốc gia (quân sự,
kinh tế, chính trị, văn hóa…) nhằm tạo môi trường an ninh thuận lợi trong và
ngoài nước để xúc tiến các lợi ích quốc gia và toàn cầu của Mỹ. Các tổng
thống Mỹ thường sử dụng chiến lược ANQG để đề ra các mục tiêu lớn và ưu
tiên trong việc bảo đảm an toàn cho người dân Mỹ. Chiến lược an ninh sẽ
quyết định xu hướng chi ngân sách, chính sách quốc phòng và an ninh của
Mỹ. Chiến lược ANQG thường được công bố 4 năm một lần.
Chiến lược ANQG của Mỹ được công bố chính thức đầu tiên do Tổng
thống R. Reagan công bố năm 1988. Chiến lược này đề ra phương hướng,
nhiệm vụ và các giải pháp cơ bản đến năm 2000 với mục tiêu nhất quán là
4


giành quyền bá chủ thế giới theo quan điểm buộc mọi dân tộc phải sống dưới
nền “tự do, dân chủ” kiểu Mỹ, trong quỹ đạo trật tự thế giới dưới sự lãnh đạo
của Mỹ. Các đời tổng thống tiếp theo đã có những bổ sung, điều chỉnh nhằm
phù hợp với tình hình thế giới luôn thay đổi: Tổng thống G.H.Bush (cha)
công bố chiến lược “vượt trên ngăn chặn”; tổng thống Bill Clinton công bố
chiến lược “Toàn cầu cam kết và mở rộng” (năm 1995) và chiến lược ANQG
cho thế kỷ mới (năm 1999); chiến lược ANQG năm 2002 và 2006 do Tổng
thống G.H.Bush (con) công bố; chiến lược ANQG năm 2010 và 2015 do
Tổng thống B.Obama. Tuy nhiên, mục tiêu cơ bản vẫn nhất quán thực hiện

tinh thần lợi ích Mỹ.
1.1.2. Nội dung chiến lược ANQG của Mỹ năm 2015
Ngày 06/02/2015, Tổng thống Mỹ Barak Obama đã chính thức công bố
văn bản “Chiến lược ANQG” của Mỹ gồm 04 nội dung chính là “An ninh thịnh vượng - giá trị - trật tự quốc tế dựa trên luật pháp” như trong Chiến lược
ANQG năm 2010 do chính ông Barak Obama tuyên bố. Nhưng đã dựa vào
những biến đổi của thế giới và trong nước như: sự xuất hiện của tổ chức Nhà
nước Hồi giáo tự xưng (IS), vấn đề Ucraina, quan hệ “xuống dốc không
phanh” với Nga và sự “trỗi dậy” của Trung Quốc,… nên chiến lược mới phải
có “tầm nhìn và sách lược mới cho việc tận dụng vị thế lãnh đạo mạnh mẽ và
bền vững của Mỹ để thúc đẩy lợi ích quốc gia, giá trị phổ biến và trật tự quốc
tế dựa trên luật pháp”.
Chiến lược xác định thách thức cấp bách nhất hiện nay là chủ nghĩa cực
đoan, bạo lực, sự “gây hấn” của Nga, tấn công mạng và biến đổi khí hậu…
Đồng thời, đặt ra các nguyên tắc, những công việc ưu tiên để Mỹ có cách thức
“lãnh đạo” thế giới một cách hiệu quả, thiết thực hơn trong 4 vấn đề chủ yếu,
đó là: an ninh, thịnh vượng, giá trị và trật tự quốc tế với cách tiếp cận có
những điểm mới “vạn biến”.
- Vấn đề an ninh, Chiến lược nêu 06 phương thức để thúc đẩy an ninh
của nước Mỹ, công dân Mỹ, các đồng minh và các đối tác của Mỹ. Trong đó,
nhấn mạnh việc duy trì lực lượng quốc phòng, xây dựng quân đội tinh gọn,
5


được chăm lo, huấn luyện và trang bị tốt nhất thế giới. “Chuyển đổi tư thế an
ninh quốc phòng toàn cầu bền vững, nâng cao năng lực quyết định thắng lợi
của Mỹ và các đối tác khu vực”. Nhưng đồng thời, Mỹ cũng sẽ cắt giảm lực
lượng quân sự đến mức thấp nhất trong khi yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra nặng nề
hơn. Cho rằng sử dụng chính sách ngoại giao mềm và tận dụng tối đa công
nghệ, đặc biệt là công nghệ do thám và tình báo sẽ giúp khắc phục những khó
khăn này.

Chiến lược này hoan nghênh, sẵn sàng hợp tác với các nước lớn đang
nổi, nhưng cảnh báo sẵn sàng ngăn chặn các đối thủ tiềm tàng. Và ngay trong
lời giới thiệu ban đầu của Chiến lược, Mỹ đã nhắc đến Nga, Trung Quốc như
đối thủ cần đặc biệt chú ý vì sẽ ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo của Mỹ đối
với thế giới, hay nói cách khác là sự trỗi dậy tiềm năng của Nga và Trung
Quốc sẽ ảnh hưởng đến lợi ích Mỹ. Tuy nhiên, với cách thức không đồng nhất
và ở những mức độ nguy hiểm khác nhau, Mỹ chọn Nga là đối thủ nguy hiểm
nhất và cấp bách nhất phải ngăn chặn. Còn với Trung Quốc, Mỹ xác định là
một “quan hệ nước lớn kiểu mới”, tăng cường hợp tác với Trung Quốc, nhưng
vẫn chú ý đến vấn đề “hiện đại hóa quân sự” và “vai trò hăm dọa trong việc
giải quyết tranh chấp lãnh thổ” của Trung Quốc. Mỹ xác định tiếp tục duy trì
sức mạnh quân sự và sự chi phối chính trị nhằm không cho Nga có cơ hội
khôi phục vai trò siêu cường, ngăn chặn mối quan hệ Nga - Trung Quốc liên
kết chống lại chiến lược toàn cầu của Mỹ; hạn chế và tiến tới triệt tiêu ý đồ lôi
kéo Đông Bắc Á và Đông Nam Á vào vòng ảnh hưởng của Trung Quốc.
Chiến lược 2015 khẳng định, nước Mỹ sẽ tiếp tục lãnh đạo liên minh
quốc tế trong cuộc chiến chống tổ chức “Nhà nước Hồi giáo tự xưng” ở Irắc
và Xyri; cùng các đồng minh châu Âu bao vây cô lập nước Nga; đẩy mạnh
thực hiện chiến lược “Xoay trục” sang châu Á - Thái Bình Dương để kiềm
chế các tham vọng của Trung Quốc. Mỹ khẳng định quan điểm về sự cân
bằng, phản ứng “có chừng mực” nhằm thay đổi hành vi của nước đối lập,
chọn cách trừng phạt kinh tế Nga một cách từ từ để tạo ảnh hưởng đến hành
vi của quốc gia này chứ không áp dụng hoàn toàn.

6


Ngoài ra, Chiến lược còn nhấn mạnh “tăng cường an ninh lãnh thổ của
Mỹ để bảo đảm cho nhân dân nước này tránh bị chủ nghĩa khủng bố tấn
công” và “nỗ lực vì một thế giới không có vũ khí hạt nhân, đồng thời bảo đảm

cho nguyên liệu hạt nhân sẽ không rơi vào tay những quốc gia thiếu trách
nhiệm và các chủ thể phi nhà nước theo chủ nghĩa bạo lực”. Đây được coi là
cái cớ để Mỹ triển khai lực lượng quân sự đến các quốc gia có hoạt động của
khủng bố, nhất là tổ chức IS và tiến hành các hoạt động răn đe đối với các
quốc gia có sử dụng vũ khí hạt nhân, vũ khí hóa học.
Một điểm mới đáng chú ý nữa là Chiến lược 2015 xác nhận an ninh quốc
gia đang bị đe dọa ngay trong lòng nước Mỹ. Lần đầu tiên, kẻ thù “từ bên
trong”, tức là những kẻ khủng bố người Mỹ, sống trên đất Mỹ được coi là mối
đe dọa trực tiếp.
- Về sự “thịnh vượng”, Chiến lược 2015 đề ra 05 phương thức (như: tăng
cường an ninh năng lượng, mở cửa thị trường cho các sản phẩm, dịch vụ và
vốn của Mỹ, thúc đẩy các hiệp định thương mại, đối tác xuyên Thái Bình
Dương, xuyên Đại Tây Dương và nhiều sáng kiến khác) để làm cho nền kinh
tế Mỹ mạnh hơn, sáng tạo và tăng trưởng bền vững trong một hệ thống kinh tế
quốc tế cởi mở, tăng thêm cơ hội và thịnh vượng cho nước Mỹ cũng như thế
giới. Chiến lược 2015 đã bổ sung, nhấn mạnh một số điểm, như: hợp tác với
các đối tác đang nổi (gồm: Trung Quốc, Ấn Độ) trong khi vẫn duy trì mối
quan hệ chặt chẽ với các đồng minh truyền thống. Đồng thời, chủ trương Mỹ
chuyển trọng tâm hợp tác kinh tế quốc tế với tổ chức G-20 chứ không chỉ chú
trọng tới nhóm các nước phát triển G-7 như trước đây.
- Về quan niệm giá trị, Chiến lược chỉ ra 05 phương thức để “thúc đẩy sự
tôn trọng đối với các giá trị phổ quát ở Mỹ và trên thế giới, tạo thế đứng Mỹ ở
tiêu chuẩn cao nhất trên phương diện này để đảm bảo an toàn cho nhân dân
Mỹ và an ninh cho đồng minh của Mỹ”. Chiến lược vẫn nhấn mạnh điều “bất
biến” là Mỹ phải “lãnh đạo cộng đồng quốc tế” trong việc thúc đẩy và bảo vệ
dân chủ, nhân quyền, ngăn chặn các hành vi bạo lực chà đạp nhân quyền.

7



Khu vực mà Mỹ chú ý nhất đến vấn đề này là khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương. Mỹ nhấn mạnh “sẽ tiếp tục hỗ trợ nhằm tăng cường an ninh, đẩy
mạnh phát triển và thúc đẩy nền dân chủ ở khu vực Châu Á - Thái Bính
Dương. Đây là một nội dung quan trọng nhằm làm sâu thêm mối quan hệ với
Việt Nam, Inđônêsia và Malaysia. Điển hình như nội dung “hỗ trợ Myanmar
để làm sâu sắc thêm và duy trì cải cách, bao gồm củng cố nền dân chủ và tiến
hành hòa giải dân tộc”. Đặt ra yêu cầu các quốc gia phải thực hiện các “giá
trị” theo tiêu chuẩn của Mỹ thì mới được “hỗ trợ phát triển”.
- Về vấn đề “trật tự quốc tế”, Chiến lược 2015 chỉ ra 07 phương thức
mang tính tổng hợp (cả về chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao…) để thực
hiện có hiệu quả hơn vai trò “lãnh đạo” của Mỹ trong một trật tự quốc tế đã
có nhiều thay đổi. Trong đó, nhấn mạnh “tăng cường xây dựng liên kết đa
dạng hoá, phát huy vai trò lãnh đạo của Mỹ ở Liên hợp quốc và các tổ chức
đa phương khác bằng cách tăng cường và nâng cấp các chuẩn mực, quy tắc,
tiêu chuẩn và cơ chế có liên quan”.
Chiến lược đưa ra phương hướng “tận dụng sự mở cửa của Cuba để tăng
cường tiếp xúc, thúc đẩy một thế giới Tây bán cầu thịnh vượng, an ninh và
dân chủ” với mục đích thực sự là tác động, chuyển hóa dần nội bộ Cuba,
hướng lái theo Mỹ, dần đi đến xóa bỏ hệ thống XHCN trên thế giới.
Mỹ tiếp tục duy trì phương thức giải quyết những vấn đề trong mối quan
hệ quốc tế trên những cơ sở các quy tắc “cộng đồng quốc tế tuân thủ luật
pháp, hiệp ước và thỏa thuận quốc tế”. Tuy nhiên, Chiến lược 2015 không hề
nói đến việc sẽ làm thế nào với những nước không tuân thủ nguyên tắc, không
thỏa hiệp và vội vã hành động không kiềm chế. Mặc dù Mỹ đề cập tới việc
tạm dừng biện pháp quân sự đơn phương, nhưng không hoàn toàn bác bỏ việc
đánh đòn phủ đầu khi tuyên bố Mỹ sẽ bảo lưu sự lựa chọn hành động đơn
phương trong những tình huống cấp thiết.

8



1.1.3. Việc triển khai chiến lược ANQG của Mỹ đối với Việt Nam trên
một số lĩnh vực chủ yếu
- Về chính trị - tư tưởng: Điểm nổi bật trong tính toán chiến lược của Mỹ
ở Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị là sử dụng con bài “dân chủ” và
“nhân quyền” với những âm mưu, thủ đoạn, công cụ, lực lượng không giống
nhau ở mỗi thời điểm. Mỹ câu kết với các lực lượng đối lập trong và ngoài
nước, thông qua vấn đề dân chủ, nhân quyền, đẩy mạnh “Diễn biến hòa bình”
kết hợp với bạo loạn lật đổ khi có điều kiện. Những thủ đoạn chống phá của
Mỹ đã gây nhiều khó cho Việt Nam, nhưng những gì Mỹ đạt được vẫn còn
khoảng cách khá xa so với tham vọng của Mỹ.
- Về kinh tế: Mỹ xác định việc gia tăng thương mại với Việt Nam sẽ
đóng góp vào sự phát triển kinh tế của khu vực, biến Việt Nam cũng như khu
vực Đông Nam Á trở thành thị trường hấp dẫn hơn đối với các hàng hóa và
dịch vụ Mỹ. Mục tiêu kinh tế của Mỹ ở Việt Nam là thúc đẩy, mở rộng
thương mại và đầu tư, từ đó thúc đẩy cải cách cơ cấu kinh tế và chính trị.
Theo đó, Mỹ tích cực ủng hộ quá trình thực hiện Hiệp định tư do thương mại
ASEAN (AFTA), khuyến khích, tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia các tổ
chức kinh tế thế giới và khu vực.
- Về an ninh - quốc phòng: Trước tình hình có nhiều vụ khủng bố ở trong
khu vực, Mỹ coi Đông Nam Á là mặt trận thứ hai trong cuộc chiến chống
khủng bố toàn cầu. Mỹ mượn cớ chống khủng bố để công khai, “hợp pháp
hóa” việc triển khai lực lượng quân sự trở lại Đông Nam Á. Đồng thời gia
tăng sự can dự và kiểm soát trên khu vực Biển Đông bằng cách triển khai kế
hoạch điều động quân, tăng cường lực lượng không quân tại các đảo Guam,
Hawai, tăng cường tập trận trên biển với các quốc gia.
1.2. Ảnh hưởng của Chiến lược ANQG Mỹ năm 2015 đến Việt Nam
1.2.1. Ảnh hưởng tích cực
Ý đồ chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam là xuất phát từ lợi ích của Mỹ,
từ vị trí chiến lược, vai trò của Việt Nam ở khu vực và thế giới. Việc Mỹ gia

9


tăng can thiệp và hiện diện tại Việt Nam giúp Việt Nam có cơ hội gia tăng vai
trò, vị thế chính trị của mình trên trường quốc tế và khu vực.
Mặc dù Chiến lược 2015 không nói rõ ý nghĩa quan trọng như thế nào về
các vấn đề “an ninh”, phát triển và “dân chủ” trong quan hệ Việt Nam - Mỹ,
nhưng chỉ riêng việc Việt Nam được nhắc đến trong Chiến lược này đã là một
chỉ số quan trọng trong mối quan hệ giữa hai quốc gia. Ngoài việc có nhiều
điểm tương đồng về lợi ích chiến lược giữa Việt Nam và Mỹ, sự năng động
kinh tế, ổn định chính trị và vị thế địa chiến lược đang lên của Việt Nam là cơ
sở, tiền đề quan trọng, cơ hội thuận lợi cho việc thúc đẩy quan hệ chiến lược
giữa Việt Nam và Mỹ lên tầm cao mới. Đồng thời, đây cũng là nhân tố giúp
Việt Nam điều chỉnh chính sách, nhất là trong mở rộng quan hệ hội nhập quốc
tế và duy trì bản sắc chính trị. Bên cạnh đó, Việt Nam có cơ hội tăng cường
hợp tác về an ninh - quốc phòng với các nước lớn có tiềm lực quân sự, công
nghiệp và kỹ thuật hiện đại, từ đó có điều kiện hiện đại hóa quân đội Việt
Nam, đủ sức bảo vệ lãnh thổ.
Việc Mỹ tăng cường quan hệ chiến lược với Việt Nam cũng tạo thuận lợi
cho Việt Nam tiếp tục theo đuổi chiến lược đối ngoại đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ quốc tế, thực hiện chính sách “đa cửa”, từ đó củng cố độc lập tự
chủ của mình và mở rộng hội nhập quốc tế.
1.2.2. Ảnh hưởng tiêu cực
Sự tranh giành ưu thế địa - chính trị giữa các nước lớn ở Việt Nam và
khu vực không chỉ bị chi phối bởi chủ nghĩa dân tộc và nước lớn, mà còn bị
tác động bởi đấu tranh ý thức hệ chính trị - tư tưởng giai cấp. Điều này lại
càng làm tăng thêm sự phức tạp và nhạy cảm trong quan hệ ứng xử của Việt
Nam với nước nước lớn, trong đó có Mỹ.
Mặc dù Việt Nam đã đạt được vị thế quốc tế cao, nhưng vị trí của Việt
Nam trong chính sách đối ngoại của Mỹ và các nước lớn trong khu vực vẫn

còn tương đối thấp so với khả năng mà Việt Nam có thể đạt được. Do vậy, Mỹ
chưa thực sự coi Việt Nam là đối tác tin cậy, chưa có hoạt động ủng hộ rõ nét

10


Việt Nam trong những vấn đề nhạy cảm như Biển Đông, lưu vực Sông
Mêkông.
Ý đồ và toan tính chiến lược kinh tế của Mỹ tạo ra không ít trở ngại,
thách thức cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Thông qua các hình thức
hợp tác, viện trợ phát triển, mối quan hệ gắn kết về ý thức hệ chính trị - tư
tưởng về bạn - thù từng tồn tại trong lịch sự và khác biệt về chính trị, văn
hóa…Mỹ vẫn không ngừng thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, lôi
kéo hoặc làm phân hóa nội bộ Việt Nam. Do trình độ và tiềm năng chưa cao,
còn yếu kém trong cạnh tranh kinh tế, nên Việt Nam có thể trở thành “thuộc
địa” cung cấp nguyên liệu thô cho các nước phát triển và trở thành bãi rác thải
công nghiệp của thế giới…
Xét về chiến lược lâu dài, Mỹ không từ bỏ ý định can thiệp vào công
việc nội bộ của Việt Nam trên các mặt để từ đó hướng Việt Nam đi vào quỹ
đạo của Mỹ. Điều này được quy định bởi ý đồ của Mỹ là xóa bỏ CNXH và
mở rộng nền kinh tế thị trường TBCN. Thông qua các chiêu bài của mình, Mỹ
ngày càng mở rộng “quyền lực mềm” của mình, lôi kéo bộ phận quần chúng
thực hiện chiến lược chuyển hóa chế độ, can thiệp vào nội bộ của Việt Nam.

11


Phần 2: DỰ BÁO, NỘI DUNG CHIẾN LƯỢC AN NINH QUỐC
GIA CỦA VIỆT NAM CÓ LIÊN QUAN ĐẾN CHIẾN LƯỢC AN NINH
QUỐC GIA CỦA MỸ

2.1. Dự báo tình hình
Sau khi được bầu làm Tổng thống, ông Doland Trum sẽ có những điều
chỉnh về chiến lược ANQG cho phù hợp với điều kiện hoành cảnh mới. Tuy
bản chất vẫn sẽ là bảo vệ, phát huy giá trị Mỹ và thực hiện vai trò lãnh đạo
của Mỹ đối với thế giới nhưng hình thức có thể sẽ thể hiện mạnh mẽ hơn nữa
việc bảo vệ các giá trị, lợi ích Mỹ và có thể có nhiều quyết định ảnh hưởng
xấu tới việc phát triển kinh tế, an ninh, quốc phòng, đối ngoại ở Châu Á.
Trong thời gian tới, bên cạnh việc triển khai chính sách tái cân bằng
hướng tới khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ không lơ là bỏ qua Châu
Âu, Trung Đông mà thể hiện chiến lược toàn cầu cân bằng hơn giữa các khu
vực trong điều kiện cắt giảm ngân sách. Do lợi ích kinh tế, an ninh ngày càng
gắn chặt với sự phát triển của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, tần suất
các hoạt động đối ngoại song - đa phương giữa Mỹ với các quốc gia trong khu
vực, trong đó có Việt Nam, sẽ tăng. Mức độ can thiệp của Mỹ vào các vấn đề
khu vực, đặc biệt là trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng sẽ tăng cường và được
thể hiện cụ thể hơn. Quan hệ quốc tế trong khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp
hơn, sự bất an gia tăng, cuộc chạy đua vũ trang được đẩy mạnh, sự cọ sát về
tài chính, kinh tế, tiền tệ cũng sẽ quyết liệt.
Xu hướng chung có thể khẳng định rất ít hoặc không có khả năng xảy ra
xung đột quân sự lớn, kể cả giữa hai đối thủ lớn là Mỹ và Trung Quốc. Xu thế
hòa bình, hợp tác vẫn trội hơn. Tuy nhiên, tồn tại nguy cơ xung đột cục bộ
nhất là trên vùng Biển Đông và Biển Hoa Đông chủ yếu là do những tính toán
của Trung Quốc. Dù vậy, Trung Quốc vẫn tính toán kỹ lưỡng mức độ, hình
thức sao cho không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng ít tới mục tiêu tận dụng để
phát triển, không làm cho các nước trong khu vực quá lo ngại, co cụm mà ngả
theo Mỹ.

12



Mỹ gia tăng triển khai chính sách đối với Đông Nam Á, qua đó giúp
ASEAN vẫn có thể giữ vai trò vai trò chủ đạo trong khu vực. Nhưng sự tham
gia sâu hơn của Mỹ vào khu vực và khả năng hình thành TPP một mặt đảm
bảo sự cân bằng ảnh hưởng trong cấu trúc khu vực, nhưng có thể làm giảm
vai trò, thậm chí thách thức vai trò chủ đạo của ASEAN, không ít trường hợp
có thể bị các nước lớn bỏ qua, nhất là khi đoàn kết nội bộ bị rạn nứt.
Mỹ xây dựng được khuôn khổ “quan hệ nước lớn kiểu mới” ổn định với
Trung Quốc thì vai trò của các nước trong khu vực Đông Nam Á, trong đó có
Việt Nam, đối với chiến lược của Mỹ sẽ giảm đi, thậm chí là không thuận lợi.
Chính sách sử dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền nhằm can thiệp vào tình
hình nội bộ các nước không phải là mới, cũng không phải là nội dung “tái cân
bằng” của Mỹ, nhưng kết quả đạt được ở một số quốc gia càng thúc đẩy Mỹ
triển khai ở Việt Nam, khuyến khích sự phát triển của “xã hội dân sự”, ủng hộ
số chống đối ở Việt Nam.
Vai trò của Mỹ trong vấn đề Biển Đông và lưu vực Sông Mêkông trong
thời gian qua là phù hợp với lợi ích của ta. Và trong thời gian tới có thể tác
động kiềm giảm các hoạt động tranh chấp, xung đột liên quan. Nhưng vẫn cần
có sự cảnh giác trước âm mưu lợi dụng các vấn đề này để thâm nhập, tác
động, chuyển hóa nội bộ ta.
2.2. Nội dung cơ bản Chiến lược ANQG của Việt Nam liên quan đến
chiến lược ANQG của Mỹ
Việt Nam không ban hành chiến lược ANQG thể hiện các lợi ích, giá trị
quốc gia, mà Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua Nghị quyết bao gồm hệ
thống các quan điểm, tư tưởng, giải pháp, phương châm chỉ đạo xây dựng,
phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Và gần đây nhất là Nghị quyết số 28NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) ngày 25/10/2013 về
chiến lược bảo vệ ANTQ.
Nghị quyết số 28-NQ/TW được ban hành trên cơ sở thành tựu, kinh
nghiệm về lý luận và thực tiễn qua gần 30 năm đổi mới đất nước, nhất là kế
13



thừa kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đây là Nghị quyết chuyên đề về
nhiệm vụ BVTQ của Đảng ta. Trong đó, xác định rõ mục tiêu, quan điểm,
phương châm chỉ đạo, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện BVTQ trong bối
cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực, hội nhập quốc tế. Nghị quyết đã thể
hiện quan điểm của Đảng trong quan hệ đối ngoại với Mỹ cũng như phương
hướng, biện pháp để đối phó với Chiến lược ANQG của Mỹ, cụ thể như sau:
- Trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và
toàn diện hơn; lợi ích của mỗi chủ thể đan xen nhau, vấn đề lợi ích mang tính
toàn cầu ngày càng gia tăng. Vì thế, cần hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa
đối tác và đối tượng. Đảng ta không nêu cụ thể quốc gia, thế lực nào là đối
tượng đấu tranh, mà chỉ xác định “bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành
động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc đều là đối tượng của chúng ta”. Do vậy, mặc dù nhận thức được việc Mỹ
vẫn chưa từ bỏ ý đồ xâm lược Việt Nam, nhưng ta vẫn không xác định Mỹ là
“đối tượng”. Đảng ta nhận định: “Trong tình hình diễn biến nhanh chóng và
phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: trong mỗi đối tượng vẫn có
thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn
với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”. Do vậy, Việt Nam coi Mỹ vừa là đối tác,
vừa là đối tượng, chuyển từ tư duy bạn, thù sang tư duy đối tác, đối tượng trên
cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc; thấy rõ sự đan xen, chuyển hóa giữa đối
tượng, đối tác; xác định lấy đối tác làm cơ sở để thiết lập quan hệ quốc tế rộng
rãi; đồng thời đấu tranh với đối tượng, với mặt là đối tượng. Bên cạn đó, Việt
Nam cũng xác định quan hệ đối ngoai hợp lý với Nga và Mỹ, không quá
khăng khít, thân thiết nhưng cũng không xa rời, độc lập.
- Việt Nam xác định các nguy cơ đe dọa ANQG trong tình hình hiện nay
là “những nhân tố bên trong, bên ngoài lãnh thổ Việt Nam có khả năng thực tế
gây nguy hại cho an ninh quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”. Đảng vẫn xác định có nguy cơ xuất phát từ âm mưu, ý đồ của các thế

lực thù địch đối với Việt Nam, nhưng xác định rõ những nguy cơ từ bên trong
là chính. Qua đó đã thể hiện rõ nhận thức về tiềm lực kinh tế - an ninh - quốc
14


phòng so với Mỹ và các quốc gia khác, đồng thời thể hiện quan điểm về chủ
động trong bảo vệ ANQG nhưng trên cơ sở tự nâng cao “sức đề kháng” để
chống lại hoạt động phá hoại của kẻ địch.
- Đảng xác định: “Mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: Phát
huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị,
tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên
trì đấu tranh để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”.
Các nội dung bảo vệ Tổ quốc quan hệ chặt chẽ biện chứng với nhau trong
chỉnh thể thống nhất; bảo vệ lĩnh vực này cũng có nghĩa là góp phần bảo vệ
lĩnh vực khác và ngược lại, không xem nhẹ hoặc tuyệt đối hóa một lĩnh vực
nào, qua đó hạn chế sơ hở mà địch có thể lợi dụng để chống phá, làm suy yếu,
dần tới tan rã cả hệ thống.
- Quốc phòng và an ninh đều hướng vào mục tiêu chung là bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa; được thể hiện trong sự kết hợp
chặt chẽ giữa xây dựng lực lượng và thế trận của nền quốc phòng toàn dân với
xây dựng lực lượng và thế trận của nền an ninh nhân dân. Đại hội XII nhấn
mạnh: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc”. Mối quan hệ biện
chứng đó đặt trong tổng thể thống nhất và gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng, phát triển
kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Xây dựng thế trận và lực lượng của quốc

phòng và an ninh phải đảm bảo toàn diện, đồng bộ, quan hệ chặt chẽ, có chất
lượng và hiệu quả cao trên phạm vi toàn quốc, cũng như trong từng địa bàn,
từng lĩnh vực cụ thể. Việc tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh không
phải nhằm mục đích cân bằng với các quốc gia khác mà là để nâng cao sức
mạnh, đủ sức bảo vệ ANQG khi có tình huống phức tạp xảy ra.

15


- Công tác đảm bảo ANQG phải phát huy sức mạnh của dân tộc và sức
mạnh thời đại. Do vậy, Đảng hết sức quan tâm đến công tác củng cố tổ chức,
sức chiến đấu của lực lượng vũ trang, trong đó có lực lượng Công an nhân
dân cùng với việc củng cố thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an
ninh nhân dân. Đồng thời, tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại với các quốc
gia, trong đó giữ vững quan hệ đoàn kết với các quốc gia trong khối ASEAN,
góp phần vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, vừa củng cố, tăng cường sức mạnh
trong đảm bảo ANQG.

16


KẾT LUẬN
Dù có thay đổi như thế nào, chiến lược ANQG của Mỹ vẫn là bảo vệ lợi
ích lâu dài, xuyên suốt của Mỹ: lãnh đạo thế giới, phổ biến giá trị và lối sống
Mỹ trên toàn thế giới. Chiến lược ANQG của Mỹ có ảnh hưởng rất lớn đến
tình hình ANQG và công cuộc bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng chế độ
XHCN ở Việt Nam. Một mặt, xuất phát từ quá trình lịch sử để lại, một mặt
xuất phát từ vị trí địa - chính trị quan trọng của Việt Nam trong khu vực
ASEAN nên Việt Nam được Mỹ coi là cứ điểm quan trọng trong chiến lược
toàn cầu và là một trong những mắt xích quan trọng trong chiến lược ANQG

của mình. Việc thực thi chiến lược ANQG của Mỹ tại Việt Nam đã tác động
không nhỏ đến tình hình ANCT - TTATXH trong nước. Điều này, đòi hỏi Việt
Nam phải hết sức tỉnh táo phân định rõ tình hình, tận dụng thời cơ và đối phó
với những thách thức để ổn định và phát triển trong bối cảnh có nhiều biến
động như hiện nay.
Những nội dung trên cũng đã được Đảng ta xác định trong Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Việc xử lý các vụ việc liên quan đến
ANQG ở nước ta hiện nay phải hết sức thận trọng, khéo léo, đồng thời đề
phòng, cảnh giác với Chiến lược ANQG mới của Tổng thống Trump. Để đảm
bảo mục tiêu, lợi ích chiến lược của Việt Nam trong quan hệ với Mỹ, việc
điều chỉnh, hoàn thiện chính sách của chúng ta cho thích ứng, linh hoạt với
một thế giới đầy biến động là tất yếu để xây dựng vào bảo vệ Tổ quốc theo
định hướng XHCN.

17



×