Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

các rủi ro và giải pháp cho các nhóm ngành: mô hình ppp, chứng khoán, dệt may, nuôi trồng thủy sản, công nghiệp ô tô.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.7 KB, 38 trang )

Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: NHẬN DẠNG, PHÂN LOẠI VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
PHÒNG NGỪA RỦI RO
1.1. Các dự án đầu tư công (TPP)
1.1.1. Tổng quan về dự án
1.1.2. Nhận dạng và phân tích các loại rủi ro gặp trong dự án PPP
1.2. Kinh doanh thị trường chứng khoán
1.2.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán
1.2.2. Nhận dạng và phân tích các loại rủi ro gặp trên thị trường
chứng khoán
1.2.3. Giải pháp
1.3. Ngành dệt may
1.3.1. Tổng quan ngành dệt may
1.3.2. Nhận dạng và phân tích các loại rủi ro gặp phải trong ngành dệt
may
1.3.3. Giải pháp
1.4. Nuôi trồng thủy hải sản
1.4.1. Tổng quan ngành nuôi trồng thủy hải sản
1.4.2. Nhận dạng và phân tích các loại rủi ro gặp trong nuôi trồng
thủy hải sản
1.4.3. Giải pháp
1.5. Ngành công nghiệp ô tô
1.5.1. Tổng quan về ngành công nghiệp ô tô
1.5.2. Nhận dạng phân tích các loại rủi ro trong ngành công nghiệp ô

1.5.3. Giải pháp
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HIỆN NAY CỦA CÔNG


TÁC QUẢN LÝ RỦI RO, VAI TRÒ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA
CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO
2.1. Dự án PPP
2.1.1. Phân tích thực trạng hiện nay của dự án PPP

SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 1


Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

2.1.2. Tầm quan trọng của công tác quản lý rủi ro dự án PPP
2.2. Kinh doanh thị trường chứng khoán
2.2.1. Phân tích thực trạng hiện nay của thị trường chứng khoán
2.2.2. Tầm quan trọng của công tác quản lý rủi ro trên thị trường
chứng khoán
2.3. Ngành dệt may
2.3.1. Phân tích thực trạng hiện nay của ngành dệt may
2.3.2. Tầm quan trọng trong công tác quản lý rủi ro ngành dệt may
2.4. Ngành nuôi trồng thủy hải sản
2.4.1. Phân tích thực trạng hiện nay của ngành nuôi trồng thủy hải sản
2.4.2. Tầm quan trọng của công tác quản lý rủi ro trong ngành nuôi
trồng thủy hải sản
2.5. Ngành công nghiệp ô tô
2.5.1. Phân tích thực trạng hiện nay của ngành công nghiệp ô tô
2.5.2. Tầm quan trọng của công tác quản lý rủi ro trong ngành công
nghiệp ô tô........................................................................................36


SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 2


Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kì hội nhập của nền kinh tế thị trường như hiện nay thì
Việt Nam đang trong giai đoạn thu hút đầu tư trong cũng như ngoài nước,
đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO cũng như TPP. Các dự án đầu tư
đem lại một nguồn lợi lâu dài cho đất nước, tuy nhiên bất kì một dự án
đầu tư nào cũng mang lại rủi ro dù lớn hay nhỏ thì việc quản trị rủi ro và
lên kế hoạch quản trị rủi ro cho các dự án đầu tư là công việc hết sức quan
trọng bởi những rủi ro thì không lường trước được tác hại cho dự án và
thiệt hại về tài chính cho doanh nghiệp. Với những rủi ro mà không được
lên kế hoạch quản trị trước thì việc xảy ra rủi ro sẽ gây lãng phí sức người
và của, đó là chưa kể đến những thiệt hại không được lường trước. Việc
không lên kế hoạch quản trị rủi ro cho dự án đầu tư còn khiến doanh
nghiệp không định trước những rủi ro có thể xảy ra, và thứ tự ưu tiên phải
quản trị những rủi ro đó. Việc quản trị rủi ro không được coi trọng đúng
mức có thể sẽ khiến cho một dự án đầu tư bị phá sản do không xử lý được
rủi ro.
Thế nhưng ngày nay nhiều doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp
trong nước vẫn xem nhẹ công tác quản trị rủi ro trong các dự án đầu tư
của mình, đặc biệt là các dự án có vốn đầu tư lớn và quy mô.
Bài tiểu luận này em dựa trên tính cấp thiết và sự phổ biến trong

công tác quản trị rủi ro của các doanh nghiệp Việt Nam bao gồm các lĩnh
vực liên quan như: chứng khoán, đệt may, nuôi trồng thủy sản, ô tô, các
dự án PPP...
Em xin chân thành cảm ơn cô Phạm Thị Trang đã cung cấp cho em
kiến thức cơ bản để hoàn thành bài tiểu luận này.
Đà Nẵng, ngày 1 tháng 5 năm 2017

SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 3


Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

CHƯƠNG 1: NHẬN DẠNG, PHÂN LOẠI VÀ ĐỀ XUẤT
GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA RỦI RO
1.1. Các dự án đầu tư công (TPP)
1.1.1. Tổng quan về dự án
PPP (Public - Private Partner) là việc Nhà nước và Nhà đầu tư cùng
phối hợp thực hiện Dự án phát triển kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ
công trên cơ sở Hợp đồng dự án.
Với mô hình PPP, Nhà nước sẽ thiết lập các tiêu chuẩn về cung cấp
dịch vụ và tư nhân được khuyến khích cung cấp bằng cơ chế thanh toán
theo chất lượng dịch vụ. Đây là hình thức hợp tác tối ưu hóa hiệu quả đầu
tư và cung cấp dịch vụ công cộng chất lượng cao, nó sẽ mang lại lợi ích
cho cả nhà nước và người dân.
Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, trong giai đoạn 1994-2009
đã có 32 dự án được thực hiện theo mô hình PPP với tổng mức vốn cam

kết khoảng 6,7 tỉ đô la. Trong đó mô hình BOT và BOO là chủ yếu. Hai
lĩnh vực đầu tư chiếm tỷ trọng lớn nhất là điện và viễn thông. Từ những
năm 1990 đến nay có khoảng 26 dự án thực hiện theo hình thức BOT với
tổng mức đầu tư là 128 ngàn tỷ đồng như: BOT cầu Cỏ May, BOT cầu
Phú Mỹ, điện Phú Mỹ, và rất nhiều nhà máy điện nhỏ và vừa khác đang
được thực hiện theo phương thức BOO.
Theo thống kê của Cục đầu tư nước ngoài Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
trong năm 2010 tổng số dự án cấp mới được đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài là 969 dự án, trong đó theo mô hình đầu tư BOT, BT, BTO có 6 dự
án chiếm 1% trên tổng số dự án cấp mới. Nhưng số lượng dự án cấp mới
chiếm 55% so với số dự án đầu tư theo hình thức BOT, BTO, BT là 11 dự
án, chiếm, tỷ trọng cao nhất trong số tất cả các hình thức đầu tư.
Theo số liệu của Cục quản lý đấu thầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng
số dự án PPP được đề xuất hiện nay là 186 dự án, gồm 165 dự án đề xuất
từ UBND tỉnh/thành phố, 21 dự án đề xuất từ các bộ ngành. Trong đó lĩnh
vực giao thông chiếm 30%, môi trường chiếm 25%, dịch vụ thương mại
SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 4


Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

chiếm 25%, năng lượng, y tế, nông nghiệp chiếm 20% và các lĩnh vực
khác chiếm 5%.
1.1.2. Nhận dạng và phân tích các loại rủi ro gặp trong dự án PPP



Rủi ro trong giai đoạn tiền thi công xây dựng

- Sự chậm trễ trong việc thu hồi đất: Rủi ro khi địa điểm dự án
chưa sẵn sàng được cung cấp trong thời gian cần thiết, hay trong chi phí
được dự tính. Việc thu hồi đất có thể dẫn đến những khoản nợ không thể
dự báo trước do những trở ngại đang tồn tại.
- Tiếp cận địa điểm dự án: Rủi ro về việc không có sự tiếp cận và
kết nối kịp thời đến địa điểm dự án, từ đó có thể ảnh hưởng đến việc khởi
công xây dựng và tiến độ phát triển chung của dự án.
- Rủi ro tài chính: Đây là những rủi ro liên quan đến sự chậm trễ
trong việc hoàn thành thu xếp tài chính do không có đủ nguồn tài chính
với mức chi phí và điều khoản dự tính.


Rủi ro trong giai đoạn xây dựng

- Rủi ro thiết kế: Rủi ro mà trong đó thiết kế được đề xuất không
có khả năng đáp ứng yêu cầu về hiệu quả hoạt động và dịch vụ của các
thông số kỹ thuật đầu ra. Điều này có thể dẫn đến những chi phí phát sinh
cho việc sửa đổi và thiết kế lại.
- Rủi ro phê duyệt: Rủi ro liên quan đến sự chậm trễ trong phê
duyệt dự án trong giai đoạn thi công, dẫn đến làm chậm tiến độ xây dựng,
khiến chi phí phát sinh vượt mức.
- Rủi ro xây dựng: Rủi ro mà trong đó việc xây dựng các tài sản
được yêu cầu trong dự án sẽ không được hoàn thành đúng thời hạn, theo
đúng ngân sách hoặc theo đúng các thông số kỹ thuật. Điều này có thể sẽ
dẫn đến chi phí phát sinh vượt mức.


Rủi ro trong giai đoạn vận hành


SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 5


Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

- Rủi ro vận hành và bảo trì: Rủi ro gắn liền với nhu cầu gia tăng
việc bảo trì, bảo dưỡng tài sản trong thời hạn dự án để đáp ứng yêu cầu về
hiệu quả hoạt động.
- Rủi ro lưu lượng giao thông (rủi ro về doanh thu): Rủi ro mà
trong đó lưu lượng giao thông thực tế rất khác với lưu lượng dự tính khiến
cho dự án không khả thi về tài chính.
- Rủi ro bàn giao: Rủi ro mà doanh nghiệp dự án không bàn giao
lại tài sản vào thời điểm kết thúc vòng đời của dự án, hoặc không đáp ứng
các yêu cầu tối thiểu về chất lượng hay giá trị có thể thực hiện của tài sản
khi bàn giao lại cho Cơ quan thực hiện.


Các rủi ro khác

- Thay đổi về luật pháp: Rủi ro mà cơ chế pháp lý hoặc quy định
hiện tại sẽ thay đổi, dẫn đến những tác động tiêu cực nghiêm trọng cho dự
án.
- Bất khả kháng: Những rủi ro nằm ngoài tầm kiểm soát của
Chính phủ hay doanh nghiệp dự án như lũ lụt, động đất, đình công.
1.1.3. Giải pháp

- Tạo lập khuôn khổ pháp lý và chính sách thực thi hợp đồng và
giải quyết tranh chấp, luật BOT/PPP, khung quy định về các khu vực rõ
ràng. Để đảm bảo sự thành công cho mô hình PPP nói chung và mô hình
PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng nói riêng cần hội đủ hai yếu tố cơ bản
sau: "hợp đồng hiệu quả" để tăng giá trị vốn đầu tư và "môi trường thuận
lợi" để quản lý PPP, trong đó một trong những nội dung cơ bản nhất của
nhân tố môi trường chính là khung thể chế, pháp lý đầy đủ và ổn định.
Điều này sẽ góp phần giảm chi phí giao dịch, tăng tính minh bạch cho các
mô hình PPP và khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân tham gia tích cực
hơn.
- Trong hoàn cảnh Việt Nam đang thiếu hụt nguồn vốn đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng như hiện nay, nhà đầu tư tư nhân nên tập trung hơn vào

SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 6


Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

mô hình hợp tác công tư trong đó nhà đầu tư tư nhân có tham gia tài trợ
dự án như BOT, BOO hơn các mô hình chỉ đóng góp kinh nghiệm, khả
năng điều hành quản lý như thiết kế-xây dựng hay vận hành-bảo dưỡng.
- Các nhà đầu tư nước ngoài với tiềm lực mạnh về nguồn vốn có
thể làm một mình hay kết hợp hai, ba nhà đầu tư tư nhân tham gia hợp tác
công tư. Riêng đối với nhà đầu tư tư nhân trong nước nên kết hợp nhiều
công ty theo hình thức cổ phần nhằm khắc phục các hạn chế về quy mô,
năng lực tài chính và giảm thiểu rủi ro đầu tư.

- Do các dự án hạ tầng chịu nhiều tác động của chính sách cũng
như hoàn cảnh xã hội nên các điều khoản trong hợp đồng cần linh hoạt,
có biên độ điều chỉnh để tránh thiệt hại ho nhà đầu tư cũng như chính
quyền.
- Có sự hỗ trợ chính trị từ tầm cao và quản trị tốt, đảm bảo rằng
chính phủ sẽ thực hiện các cam kết của mình dưới hình thức PPP. Hợp
đồng ký kết giữa chính quyền và nhà đầu tư cần rõ ràng, minh bạch là
điều kiện tiên quyết để chính quyền đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư và
là cơ sở cho chính quyền tận dụng hiệu quả nhất tính năng động và cạnh
tranh của khu vực tư nhân, góp phần tiết kiệm các chi phí về cơ sở hạ tầng
của toàn xã hội.
1.2. Kinh doanh thị trường chứng khoán
1.2.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán (securities market) là nơi trao đổi chứng
khoán. Thị trường chứng khoán giúp những người thiếu vốn huy động
được vốn và người có vốn chuyển vốn của mình thành vốn đầu tư vì thế
thị trường chứng khoán còn được gọi là thị trường vốn.
Theo đối tượng trao đổi thì thị trường chứng khoán có thể phân làm
2 đối tượng cơ bản là thị trường cổ phiếu (stock market) và thị trường trái
phiếu (bond market).

SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 7


Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang


Về mặt không gian thì không có sự phân biệt 2 thị trường này, sở
giao dịch chứng khoán và các công ty chứng khoán đều tổ chức trao đổi
cả cổ phiếu lẫn trái phiếu và các loại chứng khoán khác.
Theo tính chất của chứng khoán, thị trường chứng khoán có thể
chia làm 2 loại là thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Trái phiếu là công cụ nợ mà thực chất việc phát hành của công cụ
này là nhà phát hành đứng ra đi vay theo phương thức có hoàn trả cả gốc
lẫn lãi. Trái phiếu thường có thời hạn xác định có thể là trung hay dài hạn.
Cổ phiếu là giấy chứng nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối
với thu nhập ròng và tài sản của công ty cổ phần.
Thị trường chứng khoán Việt Nam mới chỉ hoạt động được 21 năm.
So với các nước khác thì chúng ta còn quá non trẻ, có rất nhiều rủi ro
đang rình rập, vì thế để tồn tại trên này đòi hỏi các nhà đầu tư không
những xác định đúng thời điểm và mức giá mua bán 1 loại chứng khoán
mà còn phải biết trung hòa rủi ro bằng cách đa dạng hóa thông qua việc
xây dựng danh mục chứng khoán có các mức rủi ro khác nhau hoặc chu kì
giao động lệch nhau.
1.2.2. Nhận dạng và phân tích các loại rủi ro gặp trên thị trường
chứng khoán


Rủi ro thanh khoản

Là rủi ro khi nguy cơ một sản phẩm phái sinh không thể bán tại
mức giá trị hợp lý vì không có cầu. An toàn thị trường gặp rủi ro nếu các
thành viên thị trường liên quan mất khả năng thanh toán do không thể
đóng vị thế của các hợp đồng phái sinh. Thanh khoản kém thường xảy ra
tại các thị trường không có sự quản lý, thiếu tính minh bạch và sản phẩm
không chuẩn hóa. Như vậy, rủi ro thanh khoản giảm trong mô hình thị
trường có tổ chức, trong đó lợi ích của các bên được củng cố.



Lừa đảo trên thị trường

SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 8


Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

Hiện tượng lừa đảo trên các thị trường chứng khoán tồn tại ở nhiều
dạng khác nhau như: làm giả các số liệu tài chính, đánh bóng công ty; che
giấu không cho nhà đầu tư biết các rủi ro hay các tin xấu; rút ruột công ty;
trò Ponzi (hút tiền của các nhà đầu tư mới để trả cho các nhà đầu tư cũ và
một phần bỏ túi, chứ doanh nghiệp không tạo lợi nhuận thật sự); lũng
đoạn giá chứng khoán trên thị trường; giao dịch nội gián; cò mồi kích
động các nhà đầu tư mua bán bằng các tin đồn, phân tích giả, v.v... Trong
tất cả các vụ lừa đảo như vậy, người bị thiệt hại là các nhà đầu tư. Một khi
các nhà đầu tư đã bị lừa đảo mất tiền thì có rất ít khả năng đòi lại được số
tiền bị mất đó.
Năm 2011, thị trường chứng khoán tiếp đà sụt giảm mạnh cả về giá
các loại cổ phiếu cũng như số lượng nhà đầu tư. Trước tình thế khó khăn,
để thu hút nhà đầu tư, một số công ty chứng khoán đã cố tình vi phạm các
quy định của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước như “làm giá” một số cổ
phiếu, ứng khống trước cổ phiếu cho một số nhà đầu tư “ruột”, bảo lãnh
khống cho một số nhà đầu tư vay tiền ngân hàng… Đồng thời, một số nhà
đầu tư đã có hành vi tung tin thất thiệt tạo sốt ảo một số cổ phiếu, thao

túng giá cổ phiếu nhằm trục lợi, tiêu biểu là sự kiện Tổng Giám đốc Công
ty Dược Viễn Đông thao túng giá cổ phiếu DHT - Dược Hà Tây, khai
khống, tạo doanh thu ảo cho Công ty. Do đó, Công ty đã phải chấm dứt
hoạt động vào cuối tháng 9/2011 và bị xử lý hình sự. Đây là vụ khởi tố
hình sự đầu tiên trên thị trường chứng khoán Việt Nam.


Rủi ro về hoạt động của doanh nghiệp đầu tư

Đây là rủi ro rất phổ biến hiện nay do ảnh hưởng từ của cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, thậm chí
phá sản. Chỉ tính riêng quý 1/2012 đã có hơn 12.000 doanh nghiệp đóng
cửa và ngừng hoạt động. Do vậy, nếu nhà đầu tư đang nắm giữ cổ phiếu
của những doanh nghiệp này thì sẽ đứng trước nguy cơ “mất trắng”. Từ
giữa năm 2008, thị trường bất động sản Việt Nam “đóng băng”, giao dịch
hết sức trầm lắng… Kết quả là, giá cổ phiếu thuộc các nhóm ngành này
cùng bị “vạ lây” - giảm hơn 80% so với đầu năm 2008. Chẳng hạn, cổ

SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 9


Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

phiếu TDH (Công ty Phát triển Nhà Thủ Đức) đã giảm xuống còn 28.900
đồng từ mức 141.000 đồng/cổ phiếu.



Rủi ro về chính sách

Các cơ quan chính phủ có thể ban hành nhiều loại chính sách khác
nhau ảnh hưởng trực tiếp đến các nhà đầu tư, ví dụ như: mức thuế cho lợi
nhuận từ đầu tư, các quy định về việc được mua bán chứng khoán, quy
định về chuyển ngoại tệ ra nước ngoài,... Các chính sách đó có thể khiến
các nhà đầu tư không thể thực hiện được các chiến lược đầu tư đáng lẽ có
thể thực hiện được. Đặc biệt là khi chính sách đột ngột thay đổi, nhà đầu
tư có thể bị mắc kẹt, thậm chí trở thành phạm pháp nếu không kịp thời
thay đổi theo chính sách. Ngày 27/9/2010, Thông tư 19/2010/TTNHNN
sửa đổi Thông tư 13/2010/TT-NHNN quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn
của tổ chức tín dụng được ban hành. Thông tư 13 và Thông tư 19 là văn
bản pháp lý có ảnh hưởng lớn nhất tới thị trường chứng khoán trong năm
2010 khi được xem là tác nhân gây ra sự lo lắng về khả năng thoái vốn ồ
ạt của các ngân hàng, giảm hoạt động cho vay đầu tư chứng khoán, bất
động sản... nhằm đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo chuẩn mới.


Rủi ro về thông tin

Vấn đề “thông tin bất cân xứng” là vấn đề nổi cộm trong đầu tư
chứng khoán ở Việt Nam. Rất khó khăn để biết được tình trạng kinh
doanh thực thật sự của doanh nghiệp, bởi các thông tin trên báo cáo tài
chính thường thiếu tin cậy. Hơn nữa, một số “tay trong” nắm được thông
tin tốt hơn và sớm hơn, mua bán dựa trên các thông tin đó, còn những
người khác không hề nhận được thông tin, hoặc chỉ nhận được khi đã
muộn. Ví dụ, thông tin về việc Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Đô
thị Khu Công nghiệp Sông Đà (SJS) “sập sàn” do báo Tiền phong điện tử
đăng ngày 12/1/2007 thực chất là do SJS chia 3 cổ phiếu thưởng cho 1 cổ

phiếu hiện tại nên giá cổ phiếu của Công ty giảm tương ứng từ 728.000
đồng/cổ phiếu xuống còn 190.000 đồng/cổ phiếu. Sự thua thiệt thuộc về
các nhà đầu tư cá nhân, không có nguồn tin nội bộ, khi muốn mua thì

SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 10


Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

không thể tìm được nguồn mua do các nhà đầu tư lớn đã thâu tóm toàn
bộ, khi muốn bán thì cũng không thể bán được do thị trường bão hòa.


Rủi ro về khả năng quản lý

Việc quản lý danh mục đầu tư nói chung và quản lý rủi ro nói riêng
đòi hỏi nhiều công sức, kiến thức, kinh nghiệm, v.v... Khi quyết định đầu
tư vào bất kỳ chứng khoán nào, người đầu tư cũng phải thu thập thông tin,
phân tích, quyết định đầu tư, theo dõi và xử lý,... Một người riêng lẻ có
thể không đủ khả năng để làm tất cả những việc đó một cách hiệu quả, dễ
dẫn đến nhiều sai lầm gây thiệt hại, đồng thời bỏ lỡ nhiều cơ hội đầu tư
tốt.


Rủi ro về ước lượng sai giá trị


Việc ước lượng giá trị thực của cổ phiếu không đơn giản. Những
người khác nhau có thể đưa ra các ước lượng chênh nhau đến vài lần,
trong đó có những người quá lạc quan và những người quá bi quan. Nếu
lạc quan quá, ước lượng giá trị cao quá so với giá trị thực, thì cóthể dễ
dấn đến mua cổ phiếu đắt hơn so với giá trị thực, và nếu sau đó giá cổ
phiếu giảm về giá trị thực thì thua lỗ. Vào khoảng thời gian tháng 34/2011, thị trường chứng khoán nằm trong bối cảnh chịu đựng nhiều
thông tin xấu về kinh tế vĩ mô như chỉ số lạm phát và giá một số mặt hàng
thiết yếu tăng liên tục. Tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp niêm
yết cũng trở nên khó khăn. Có đến 1/3 số công ty chứng khoán báo lỗ.
Trong khi đó, nhiều phiên giao dịch nối tiếp nhau với thanh khoản lên
xuống thất thường vẫn không phát ra một tín hiệu rõ ràng nào về xu
hướng thị trường. Hiển nhiên, đây là giai đoạn mua vào mang tính đánh
cược rất cao và quá rủi ro đối với nhà đầu tư. Hệ quả của sự rủi ro đó đã
đến vào tuần đầu tháng 5/2011, khi cả hai sàn chứng khoán đồng loạt lao
dốc mạnh, tạo nên hiệu ứng “tuần lễ kinh hoàng”. Niềm tin đánh cược với
thị trường đã bị đổ vỡ hoàn toàn.


Rủi ro về tâm lý

SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 11


Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

Nhà đầu tư Việt Nam vẫn chịu ảnh hưởng rất lớn của “tâm lý bầy

đàn.”. Nhà đầu tư có thể rất dễ bị kích động theo xu hướng chung của thị
trường, mua lúc đáng lẽ không nên mua, bán lúc đáng lẽ không nên bán,
mua bán quá nhiều, v.v... Khi thị trường chứng khoán trong trạng thái
mania (giá bị thổi phồng lên rất cao), là lúc có rủi ro cao, thì các nhà đầu
tư lại tranh nhau mua vào theo tâm lý bầy đàn, để rồi sau đó thua lỗ thảm
hại khi thị trường đi xuống. Ngược lại, khi thị trường ở mức thấp, rất rẻ so
với giá trị thực, là cơ hội hấp dẫn, thì nhà đầu tư lại sợ không dám mua
vào. Tâm lý này không chỉ ảnh hưởng tới các nhà đầu tư nhỏ lẻ, mà còn
ảnh hưởng đến các quỹ đầu tư và doanh nghiệp lớn.
1.2.3. Giải pháp
- Tránh xa các cổ phiếu nhỏ, ít thông tin, ít người quan tâm, trừ khi
tiếp cận được với các giám đốc điều hành đáng tin cậy của các công ty đó,
bởi cổ phiếu càng nhỏ và càng ít thông tin thì càng dễ bị lừa đảo và lũng
đoạn.
- Khi cổ phiếu đang giữ là của doanh nghiệp có dấu hiệu lừa đảo,
nhà đầu tư nên loại nó khỏi danh mục đầu tư, kiểm tra lại cẩn thận trước
khi quyết định có nên đầu tư vào loại cổ phiếu đó không.
- Xây dựng khả năng tự phân tích và thu thập thông tin, tự xác định
được giá trị của các cổ phiếu, để tránh bị các cò mồi kích động.
- Đa dạng hóa cổ phiếu, để nếu cổ phiếu này bị rủi ro về doanh
nghiệp thì có cổ phiếu khác bù lại.
- Chọn lựa cổ phiếu của các doanh nghiệp đang mạnh và tương đối
ít rủi ro, loại khỏi danh mục đầu tư các doanh nghiệp có nhiều nguy cơ
suy yếu hay phá sản (ví dụ như nợ quá nhiều mà tỷ lệ lợi nhuận kém,
công nghệ lỗi thời, v.v...).
- Có tầm nhìn đầu tư dài hạn, để có thể chấp nhận lỗ tạm thời khi
các biến động bất lợi về giá trong ngắn hạn xảy ra, miễn sao kỳ vọng lợi
nhuận về dài hạn là tốt.

SVTH: Nguyễn Đình Tuấn


Page | 12


Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

- Không tham lam dùng đòn bẩy cao bởi dễ gặp phải rủi ro bất lợi
khi có biến động ngắn hạn. Ngược lại, cần có tiền mặt dự trữ (hay nguồn
thu nhập đều đặn có thể dùng để đầu tư thêm), để mỗi khi giá của cổ
phiếu tốt đi xuống trong ngắn hạn thì là có cơ hội mua vào.
- Có thể kết hợp sử dụng các chứng khoán phái sinh để giảm bớt độ
biến động của danh mục đầu tư, tăng độ ổn định ngắn hạn.
- Đa dạng hóa các chứng khoán để góp phần giảm rủi ro biến động
giá thị trường.
- Dành công sức, thời gian và tiền chi phí một cách thích đáng cho
việc thu thập thông tin.
- Nhà đầu tư cần có những người đáng tin cậy giúp đỡ trong quản
lý đầu tư.
- Nếu không tự tin trong quyết định đầu tư của mình thì tốt nhất nhà
đầu tư nên ủy thác cho một tổ chức đầu tư có uy tín.
- Trau dồi thêm kiến thức về tài chính và đầu tư.
- Cần tích lũy kinh nghiệm phân tích, hoặc dựa trên sự tham mưu
của những người có chuyên môn trong việc này.
- Phân tích cần dựa trên các mô hình hợp lý và các nguồn tin đáng
tin cậy.
- Đối với các cổ phiếu là “ứng cử viên” mới cho danh mục đầu tư,
cần có đủ thời gian phân tích (ít nhất một tháng), để có thể hiểu rõ về
công ty và giá trị của chúng trước khi đầu tư.

- Xây dựng trước các tình huống có thể xảy ra và tính trước cách xử
lý tình huống để tránh hoang mang, thụ động.
- Kỷ luật trong đầu tư: có chiến lược và quy trình rõ ràng, tuân thủ
theo nó, không đầu tư theo cảm tính.
- Có kiểm soát: cần có người kiểm soát (nếu một mình đầu tư thì
không có ai kiểm soát, dễ đầu tư sai lầm).
SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 13


Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

1.3. Ngành dệt may
1.3.1. Tổng quan ngành dệt may
Trong những năm gần đây, ngành dệt may Việt Nam đã có những
bước phát triển đáng kể với tốc độ trên dưới 20%/năm, kim ngạch xuất
khẩu chiếm 15% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Giá trị sản xuất công
nghiệp của ngành dệt may trong năm 2007 tăng 17,9% so với năm 2006.
Các sản phẩm chủ yếu đều tăng như sợi toàn bộ tăng 11%; vải lụa thành
phẩm tăng 8,9%; sản phẩm quần áo dệt kim tăng 8,8%; quần áo may sẵn
tăng 12,6%. Sự phát triển ấn tượng của ngành may mặc đã góp phần đưa
Việt Nam trở thành một trong chín nước xuất khẩu hàng may mặc lớn
nhất trong số 153 nước xuất khẩu hàng dệt may trên toàn thế giới. Dệt
may đang vươn lên và tham gia vào những mặt hàng xuất khẩu có kim
ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD của Việt Nam, bên cạnh những mặt hàng
khác như dầu thô, giày dép, thuỷ sản v.v. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu
dệt may của Việt Nam đạt 7, 8 tỷ USD, tăng 33,4% so với năm 2006 và

bằng khoảng 16% giá trị xuất khẩu hàng hoá năm 2007. Hơn nữa, trong
năm 2007, dệt may đã vượt qua dầu thô và trở thành mặt hàng mang lại
kim ngạch xuất khẩu lớn nhất.
Kể từ sau Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ và đặc biệt khi
Việt Nam trở thành viên chính thức của WTO, thị trường và thị phần xuất
khẩu hàng may mặc của Việt Nam ngày càng phát triển. Trong đó, thị
trường Mỹ đứng đầu với kim ngạch xuất khẩu năm 2007 là 4, 5 tỷ USD
(chiếm khoảng 57,7% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may năm 2007); tiếp
theo là EU với 1, 5 tỷ USD (chiếm khoảng 19,2%) và Nhật Bản. Ngoài ra
còn các thị trường khác như: Đài Loan, Canada, Hàn Quốc v.v. Đặc biệt
sau khi Mỹ đã xúa bỏ hạn ngạch cho hàng may mặc của Việt Nam vào
đầu năm 2007 thì hàng may mặc của Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ đã tăng
mạnh, tăng 46,7% so với năm 2006, lớn hơn nhiều so với hàng Trung
Quốc (chỉ tăng 23% so với năm 2006 khi xuất sang thị trường Mỹ).

SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 14


Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

1.3.2. Nhận dạng và phân tích các loại rủi ro gặp phải trong ngành
dệt may


Rủi ro về chính trị, pháp lý


Đây là loại rủi ro mà các nhà kinh doanh mà đặc biệt là các doanh
nghiệp kinh doanh xuất khẩu lo ngại nhất. Bởi vì trước khi xây dựng
chiến lược kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp hay quyết định ký 1
hợp đồng xuất khẩu doanh nghiệp phải dựa vào tình hình kinh tế - xã hội,
dựa trên các quyết định về thuế, luật lệ... Một biến động mạnh về chính
trị, pháp lý xảy ra có thể làm đảo lộn mọi dự đoán của doanh nghiệp và
doanh nghiệp có thể bị thất bại.
Trong hoạt động xuất khẩu, rủi ro chính trị, pháp lý mà các doanh
nghiệp khó lường trước được là tình hình quan hệ ngoại giao giữa 2 nước
bỗng nhiên căng thẳng, hay việc ban hành các văn bản cấm nhập hay xuất
khẩu 1 mặt hàng nào đó, nước này tẩy chay hàng hóa của nước kia. Hoặc
doanh nghiệp đã gởi hàng đi và lập 1 bộ chứng từ hợp lệ nhưng vẫn gặp
rủi ro trong thanh toán khi chiến tranh hoặc xung đột xảy ra ở nước nhập
khẩu. Hơn nữa doanh nghiệp xuất khẩu có thể gặp rủi ro do phong tỏa,
cấm vận hoặc trả đũa thương mại đối với mặt hàng mà doanh nghiệp xuất
khẩu. Cụ thể tài khoản của doanh nghiệp có thể bị phong tỏa ở ngân hàng
nước ngoài hoặc doanh nghiệp đã chuẩn bị hàng xuất nhưng không thể
xuất được vì biện pháp trả đũa của nước nhập khẩu đối với nước xuất
khẩu. Rõ ràng trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu, tình hình kinh tế chính trị trong và ngoài nước là mối quan tâm hàng đầu của các doanh
nghiệp xuất khẩu vì nó quyết định lợi nhuận xuất khẩu và sự thành công
hay thất bại của doanh nghiệp.


Rủi ro về lạm phát

Lạm phát là sự tăng giá bình quân của hàng hóa, các doanh nghiệp
luôn gặp các rủi ro do các biến động kinh tế. Trong kinh doanh xuất khẩu,
thời gian kể từ khi tính toán hiệu quả của thương vụ xuất khẩu đến khi
nhận tiền thanh toán của khách hàng nước ngoài tương đối dài từ 30 cho
đến 45 ngày, do vậy xác suất xảy ra lạm phát là không hề nhỏ.

SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 15


Tiểu luận Quản trị rủi ro


GVHD:Phạm Thị Trang

Rủi ro hối đói

Rủi ro hối đói là sự không chắc chắn về 1 khoảng thu nhập hay chi
trả do biến động tỉ giá gây ra. Có thể làm tổn thất đến giá trị dự kiến của
hợp đồng. Trong hoạt động xuất khẩu, rủi ro xuất khẩu xảy ra khi ngoại tệ
mà doanh nghiệp xuất khẩu nhận được trong tương lai gần giảm so với
đồng nội tệ. Nghĩa là tiền thu về được quy đổi ra đồng nội tệ giảm so với
dự kiến. Như vậy sự biến động về tỉ giá làm cho các hợp đồng trở nên
không chắc chắn, doanh nghiệp xuất khẩu cần có các biện pháp nghiệp vụ
trên các thị trường tiền tệ để hạn chế các rủi ro do biến động tỉ giá gây
nên.


Rủi ro do chính sách ngoại thương thay đổi

Chính sách ngoại thương là hệ thống các nguyên tắc, biện pháp
kinh tế, hành chính, pháp luật nhằm điều tiết các hoạt động mua bán quốc
tế của một nhà nước trong một giai đoạn nhất định.
Hầu hết các chính sách ngoại thương của các nước thay đổi theo
các giai đoạn tùy theo mục đích, định hướng của nhà nước đó. Sự thay đổi

thường xuyên của các chính sách này là một đe dọa lớn cho các doanh
nghiệp xuất khẩu vì các doanh nghiệp này không chỉ chịu rủi ro do sự
thay đổi của các chính sách ngoại thương trong nước mà còn phải chịu rủi
ro của nước có hàng nhập khẩu.
Trong rủi ro do sự thay đổi các chính sách ngoại thương doanh
nghiệp xuất khẩu có thể gặp nhiều rủi ro khác nhau nhưng cơ bản vẫn là
rủi ro về quy định hạn ngạch, thủ tục hải quan, thuế xuất nhập khẩu, và
các quy định hành chính khác.


Rủi ro do biến động giá

Bao gồn rủi ro biến động giá cả các yếu tố đầu vào và biến động giá
xuất khẩu trên thị trường trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu
của doanh nghiệp đặt biệt đối với các hành động xuất khẩu có thời gian
dài.

SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 16


Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

Biến động giá cả các yếu tố đầu vào gồm biến động giá cả nguyên
vật liệu, chi phí lưu thông... Thêm vào đó các doanh nghiệp xuất khẩu
phải gặp rủi ro do giá xuất khẩu giảm.



Rủi ro thiếu vốn

Để nâng cao khả năng cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp không
ngừng cải tiến chất lượng sản phẩm cũng như dịch vụ. Song do thiếu vốn,
doanh nghiệp không đủ khả năng đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô
sản xuất tối ưu. Từ đó không đủ sức cạnh tranh với đối thủ dẫn tới việc
mất thị phần. Ngoài ra trong hoạt động xuất khẩu, rủi ro thiếu vốn còn
làm cho quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu không được đảm bảo dẫn
tới giao hàng chậm.


Rủi ro do thiếu thông tin

Việc thiếu thông tin sẽ đem lại những hậu quả không lường trước
được đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tiến hành những hoạt
động xuất khẩu với các “công ty ma” đến khi không được thanh toán tiền
hàng mới biết mình bị lừa. Hơn nữa việc không nắm bắt được thông tin
những biến động về giá cả, nhiều doanh nghiệp đã kí hợp đồng với giá
thấp đến khi giá trên thị trường thế giới tăng vọt làm cho giá của thị
trường trong nước cũng tăng theo khiến doanh nghiệp bị lỗ.


Rủi ro do năng lực quản lý kém

Đây là rủi ro được xem như là không có phương thuốc chữa hiệu quả.
1 nhà quản lý có năng lực quản lý kém sẽ liên tục gặp những rủi ro khác
nhau. Từ những quyết định sai lầm, vội vã, không tính toán kĩ sẽ làm cho
doanh nghiệp gặp phải rủi ro, thiệt hại về tài sản hay mất uy tín của khách
hàng.



Rủi ro thiếu trình độ chuyên môn nghiệp vụ

Có thể nói hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu
nhân viên có nghiệp vụ ngoại thương đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ sự thiếu hiểu biết về luật pháp và tập quán kinh doanh quốc tế mà

SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 17


Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

biểu hiện là sự vi phạm hợp đồng, nhầm chất lượng, thiếu số lượng... Một
khi trình độ nghiệp vụ của nhân viên ngoại thương còn yếu kém họ dễ
dàng bị mắc lừa và hậu quả là rủi ro phát sinh thường xuyên và liên tiếp
xảy ra.
1.3.3. Giải pháp
- Nâng cao năng suất không chỉ từ rút gọn quy trình và tối ưu hóa sản
xuất mà còn bao gồm thay thế những thiết bị có độ tự động kém, sử dụng
nhiều lao động bằng thiết bị có độ tự động cao nhằm giảm chi phí lao
động
- Tuyển dụng, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực để có thể từng bước
hiện đại hóa các khâu đã lựa chọn.
- Tăng cường công tác quản trị trong việc xác định các thông tin về
khách hàng, ngân hàng, chú trọng công tác soạn thảo ký kết hợp đồng

xuất khẩu, tập trung vào một số thị trường quen thuộc…Nhằm giảm nguy
cơ rủi ro.
Lập quỹ dự phòng tài chính để bù đắp thiệt hại, tránh cho doanh
nghiệp bị rơi vào nguy cơ bị phá sản. Quỹ dự phòng tài chính lập ra nhằm
bảo toàn vốn kinh doanh, trả lương cho nhân viên, bù đắp khi xảy ra rủi
ro, tổn thất và đáp ứng nhu cầu cần thiết.Như vậy việc rủi ro xảy ra không
thể tránh khỏ thì doanh nhiệp phải chấp nhận nó và nhanh chóng hạn chế
tác hại của rủi ro đã xảy. Việc lập quỹ dự phòng tạo điều kiện cho doanh
nghiệp nhanh chóng khắc phục hậu quả, huy động nguồn lực bên trong
hay thuê bên ngoài để khắc phục hậu quả.
- Chuyển giao, phân tán rủi ro: Là việc doanh nghiệp ràng buộc
trách nhiệm của hàng hóa đối với người mua, người vận chuyển hay trung
gian xuất nhập khẩu, vì vậy khi rủi ro xảy ra thì các đối tác sẽ phải chịu
một phần thiệt hại với doanh nghiệp mình. Điều này thể hiện trên tinh
thần trách nhiệm, các quy tắc, cam kết giữa các bên trước đó, là cơ sở để
tiến hành san sẻ rủi ro

SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 18


Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

- Tham gia bảo hiểm: Bảo hiểm là một sách lược để giảm tính
không chắc chắn của người tham gia bảo hiểm về việc có hay không xảy
ra rủi ro trong công tác xuất khẩu hàng hóa, thông qua việc san sẻ những
rủi ro tới một bên khác là bên nhận bảo hiểm. Nếu xảy ra rủi ro thì công

ty bảo hiểm sẽ đền bù theo giá trị kí kết hợp đồng trước đó. Việc bảo hiểm
cũng tùy theo loại hình dịch vụ, hàng hóa, đơn vị bảo hiểm và chọn điều
kiện bảo hiểm mà mức lệ phí bảo hiểm cũng như mức công ty bảo hiểm
sẽ trả khi rủi ro xảy ra là khác nhau.
1.4. Nuôi trồng thủy hải sản
1.4.1. Tổng quan ngành nuôi trồng thủy hải sản
Thủy hải sản là thuật ngữ dùng để chỉ về những nguồn lợi, sản vật
đem lại cho con người từ môi trường nước (nước mặn, nước ngọt, nước
lợ). Hải sản bao gồm các loại cá biển, động vật thân mềm (bạch tuộc,
mực, tôm, nghêu, sò, ốc, hến, hàu...), động vật giáp xác (tôm, cua và tôm
hùm), động vật da gai (nhím biển). Ngoài ra, các thực vật biển ăn được,
chẳng hạn như một số loài rong biển và vi tảo. Còn thủy sản bao gồm các
nhóm: nhóm cá (cá tra, cá bống tượng, cá chình,…); nhóm giáp xác (tôm
càng xanh, tôm sú, tôm thẻ, tôm đất); nhóm động vật thân mềm (nghêu,
sò huyết, hàu, ốc hương,....); nhóm rong; nhóm bò sát và lưỡng cư (cá
sấu, ếch, rắn…).
Ngày nay, đất để nuôi trồng thủy hải sản là đất có mặt nước nội địa,
bao gồm ao, hồ, đầm, phá, sông, ngòi, kênh, rạch; đất có mặt nước ven
biển; đất bãi bồi ven sông, ven biển; bãi cát, cồn cát ven biển; đất sử dụng
cho kinh tế trang trại; đất phi nông nghiệp có mặt nước được giao, cho
thuê để nuôi trồng thủy hải sản.
Nghề nuôi trồng thủy sản rất đa dạng tùy thuộc theo từng chuyên
ngành trong đó, có hơn bốn loại lĩnh vực chính, tương ứng với các sản
phẩm khác nhau : nhóm động vật thân mềm, nhóm tảo, nhóm giáp xác
(tôm, cua) và các loại cá. Người nuôi trồng thủy sản đánh bắt con giống
trong môi trường tự nhiên, hoặc mua chúng trong những trang trại nuôi
trồng thủy sản/ cơ sở sản xuất giống. Tiếp đến, họ theo dõi sự phát triển
SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 19



Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

của chúng trong từng địa điểm thích hợp được mua lại trong các trang trại
nuôi trồng thủy sản. Cuối cùng, họ đóng gói và chuyển đi nhằm mục đích
thương mại. Trong tất cả những công việc trên, người nuôi trồng thủy sản
tiến hành qui trình nuôi trồng thủy sản dựa trên tiêu chuẩn vệ sinh nghiêm
ngặc và với sự tôn trọng môi sinh. Người nuôi trồng có thể làm việc trong
những khuôn viên kín, nơi mà nhiệt độ được kiểm soát hoặc ngoài trời tùy
theo mực độ thủy triều. Họ tiến hành nhiều công việc thủ công, nhưng
công nghệ tự động hóa vẫn có hiệu quả nhiều hơn.
1.4.2. Nhận dạng và phân tích các loại rủi ro gặp trong nuôi trồng
thủy hải sản


Rủi ro về nguồn nguyên liệu đầu vào

Khả năng tự cung cấp nguồn nguyên liệu cho chế biến của các doanh
nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu Việt Nam hiện nay tương đối thấp. Do
không làm chủ được về nguồn nguyên liệu, nên các doanh nghiệp gặp
nhiều rủi ro liên quan tới tính kịp thời của nguyên liệu. Đồng thời phần
lớn nguyên liệu là do tự sản xuất nên cũng không đảm bảo về chất lượng
cũng như vệ sinh an toàn.


Rủi ro về chi phí đầu vào


Do điều kiện địa lý và khí hậu thuận lợi, đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) là nơi sản xuất phần lớn nguyên liệu thủy sản cho ngành chế
biến. Điều này cũng đồng nghĩa với sự hạn chế về phát triển diện tích
nuôi trồng thủy sản trong tương lai do đặc tính sản xuất tập trung này. Tại
khu vực này, khí hậu chia làm 2 mùa chính: mùa mưa từ tháng 5 đến hết
tháng 11 thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản, và mùa khô từ tháng 12 đến
tháng 4 năm sau. Sản lượng thủy sản trong từng năm cũng biến động theo
mùa: quý I đạt mức thấp, sau đó tăng dần đến hết quý III, sang quý IV đạt
đỉnh ở tháng 10 và giảm nhẹ vào tháng 11, 12. Giá thu mua nguyên liệu
thủy sản do đó cũng biến động theo mùa vụ tương ứng: tháng 10 là tháng
cao điểm vụ thu hoạch thì giá thu mua thường giảm mạnh, sau đó khi mùa
khô bắt đầu thì giá thu mua thường tăng.

SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 20


Tiểu luận Quản trị rủi ro


GVHD:Phạm Thị Trang

Rủi ro biến động về tỉ giá

Các doanh nghiệp nôi trồng thủy sản nước ta chủ yếu hướng tới xuất
khẩu sang các nước khác, đặc biệt là thị trường Mỹ, nên những biến động
về tit giá có ảnh hưởng rất lớn đến ngành. Mặc dù theo nhận định của các
chuyên gia thì đồng đô la Mỹ có tính ổn định rất cao, không dễ rớt giá,
tuy nhiên trong hơn 1 năm qua thì nó cũng có những biến động rất lớn

một phần do tình hình chính trị trong nước, một phần nữa thì do xung đột
về chính trị với Triều Tiên đồng thời nền kinh tế Mỹ cũng đang bị khựng
lại do các chính sách mới ban hành của tổng thống Donald Trump cũng là
nguyên nhân khiến đồng đô la Mỹ biến động thất thường.


Rủi ro về tranh chấp thương mại

Do lợi thế sản xuất theo quy mô lớn, chi phí nhân công thấp nên các
sản phẩm của ngành thủy sản Việt nam có giá thành khá cạnh tranh trên
thị trường quốc tế. Tuy nhiên, chính lợi thế này lại gây ra một rủi ro khá
lớn cho ngành thủy sản Việt Nam là rủi ro pháp lý. Không ít lần, hiệp hội
thủy sản các quốc gia nhập khẩu sản phẩm của chúng ta kiện các doanh
nghiệp Việt Nam về việc bán phá giá. Tính từ vụ kiện bán phá giá đầu tiên
vào năm 1994, đến nay có gần 30 vụ kiện chống bán phá giá và tự vệ.
 Rủi ro về rào cản kĩ thuật của các nước nhập khẩu
Tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm do các nước nhập khẩu cá
tra, cá ba sa đưa ra ngày càng nghiêm ngặt. Các hóa chất cấm sử dụng và
dư lượng kháng sinh tối thiểu trong sản phẩm thường xuyên được các
nước này bổ sung vào làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu gặp khá nhiều
khó khăn. Chất lượng thủy sản xuất khẩu xuống cấp ảnh hưởng xấu đến
thương hiệu - dẫn đến nguy cơ mất thị trường. Có thể khẳng định, sản
phẩm thủy sản Việt Nam vẫn chưa thực sự gây dựng được một thương
hiệu có uy tín về chất lượng, thậm chí vẫn còn được coi là sản phẩm “giá
rẻ”, thường xuyên bị người tiêu dùng tại nhiều thị trường lớn đặt dấu hỏi
về chất lượng. Sau nhiều lần bị thị trường trả lại vì dư lượng hóa chất cao
trong sản phẩm, thủy sản Việt Nam đã để lại ấn tượng không tốt đối với
người tiêu dùng về vấn đề này, đặc biệt là những thị trường mới.
SVTH: Nguyễn Đình Tuấn


Page | 21


Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

1.4.3. Giải pháp
- Đa dạng đối tượng nuôi nhằm giảm thiểu rủi ro, đồng thời định
hướng người nuôi tập trung đầu tư phát triển sản xuất nuôi trồng thủy hải
sản theo chiều sâu, áp dụng các tiến bộ khoa học-kỹ thuật, hướng đến ổn
định diện tích nuôi trồng thương phẩm và tăng năng suất thu hoạch.
- Tiếp tục thực hiện hiệu quả công tác xúc tiến thương mại để củng
cố và phát triển các thị trường truyền thống, các thị trường lớn (EU, Nhật,
Mỹ) và phát triển mở rộng các thị trường Đông Âu, Trung Đông, Trung
Quốc, Hàn Quốc… Ngoài ra, phát triển, mở rộng thị trường nội địa phục
vụ du lịch, các đô thị, khu dân cư lớn...
- Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực thủy sản phù hợp với nhu cầu
phát triển sản xuất. Xây dựng trường đại học thủy sản và các cơ sở dạy
nghề thủy sản tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Ban hành chính sách
khuyến khích các cơ sở nghiên cứu, đào tạo gắn kết với các doanh nghiệp,
trang trại và cơ sở sản xuất để đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật và công nghệ
mới vào sản xuất.
- Tập trung cho nghiên cứu biển, nghiên cứu ngư trường, nguồn lợi
thủy sản. Có dự báo thường xuyên cập nhật về ngư trường để hướng dẫn
ngư dân hoạt động sản xuất trên biển.
- Có biện pháp thiết thực và phù hợp để thực hiện hợp tác với các
nước trong khu vực và trên thế giới về khoa học công nghệ, kỹ thuật trong
khai thác hải sản, cơ khí đóng tàu, máy tàu, trong thiết lập hệ thống thông
tin quản lý nghề cá biển....

- Bảo vệ môi trường, bảo vệ tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy
sản. Đẩy mạnh áp dụng các công nghệ mới, tiên tiến, thân thiện với môi
trường để giảm thiểu và xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường trong quá
trình sản xuất của ngành thủy sản.
- Có cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư phát triển mô hình
vùng nuôi trồng thủy sản tập trung, chính sách về tăng cường quản lý chất
lượng và bình ổn giá một số mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực, chính
SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 22


Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

sách khuyến khích áp dụng tiến bộ kỹ thuật và các tiêu chuẩn nâng cao
chất lượng sản phẩm thủy sản....
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước, hoàn thiện hệ thống tổ
chức quản lý nhà nước ngành thủy sản từ trung ương đến địa phương.
- Tiếp tục phát triển các hình thức hợp tác, liên doanh trong các lĩnh
vực khai thác, nuôi trồng, cơ khí, hậu cần dịch vụ, chế biến, thương mại
thủy sản với các nước trong khu vực và quốc tế. Tiếp tục đàm phán, hợp
tác với các nước trong khu vực về khai thác thủy sản tại các vùng biển
chồng lấn, hợp tác khai thác trên vùng biển các nước ASEAN; bảo đảm
cho ngư dân tránh trú bão trong vùng biển nước ngoài khi thiên tai, phối
hợp tuần tra kiểm soát chung trên biển, bảo đảm an toàn cho ngư dân hoạt
động sản xuất trên biển.
1.5. Ngành công nghiệp ô tô
1.5.1. Tổng quan về ngành công nghiệp ô tô

Ngành công nghiệp ô tô Việt Nam bắt đầu vào năm 1991 với sự
xuất hiện của 2 công ty ô tô có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) là Mekong
và VMC. Sau hơn 25 năm hình thành và phát triển đã có hơn 160 doanh
nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô ra đời và con số này chưa dừng lại ở đây.
Nền tảng của ngành công nghiệp ô tô trong nước là những doanh
nghiệp cơ khí lớn trước kia làm công việc sửa chữa đại tu xe, nay được bổ
sung nâng cao năng lực sản xuất. Các doanh nghiệp này hầu hết được tổ
chức theo hướng chuyên môn hóa một số chủng loại xe (xe tải, xe khách,
xe chuyên dụng...) với dây chuyền sản xuất đơn giản là gò, hàn, sơn, lắp
ráp... thiếu sự hợp tác lẫn nhau, trang thiết bị phần lớn lạc hậu trừ một vài
doanh nghiệp có đầu tư lớn như Trường Hải, TMT... còn lại thì tổng giá
trị tài sản mỗi doanh nghiệp không vượt quá 20 tỉ đồng.
Trình độ công nghệ còn hạn chế cùng với đó là đội ngũ lao động
còn non trẻ ít kinh nghiệm đang là khó khăn lớn của ngành.

SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 23


Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

Mặc dù những năm qua ngành công nghiệp ô tô cũng đã có những
cố gắng đáng kể để chuẩn bị cho hội nhập kinh tế quốc tế, xong do xuất
phát của ta kém nên ta còn thua kém các doanh nghiệp nước ngoài rất
nhiều cả về chất lượng và dịch vụ chăm sóc khách hàng. Trong những
năm tới khi mà Việt Nam đã gia nhập các tổ chức như WTO, TPP... sẽ mở
ra những cơ hội và thách thức lớn đi kèm với đó là rủi ro cho ngành công

nghiệp ô tô, chúng ta cần có kế hoạch phát triển ngành để dần hoàn thiện
và có chỗ đứng trên thị trường thế giới.
1.5.2. Nhận dạng phân tích các loại rủi ro trong ngành công nghiệp ô



Rủi ro do môi trường tự nhiên-xã hội

Một trong những nguồn rủi ro cơ bản nhất là môi trường vật chất
xung quanh chúng ta. Động đất, hạn hán, bão lụt, đều có thể dẫn đến tổn
thất. Sự bất lực của chúng ta trong việc hiểu biết môi trường chúng ta
đang sống, sự ảnh hưởng của nó đối với chúng ta và ngược lại là nguyên
nhân chủ yếu của rủi ro này. Nó cũng gây nên những thiệt hại kinh tế
đáng kể với ngành sản xuất ô tô.
Sự thay đổi các chuẩn mực giá trị, hành vi của con người, cấu trúc xã
hội, các định chế,... là rủi ro thứ hai. Điển hình như Lào, một quốc gia mà
mức sống của người dân chỉ ở mức trung bình thì nếu như cứ tập trung
xuất khẩu ô tô vào đây thì chắc chắn sẽ gặp rủi ro.


Rủi ro về chính trị

Đây là một trong những rủi ro quan trọng nhất đối với ngành xuất
khẩu nói chung và ngành xuất khẩu ô tô nói riêng. Nếu như cố gắng xuất
khẩu cho một nước có tình hình chính trị bất ổn như ở các nước Trung
Đông hay Triều Tiên... thì rủi ro sẽ luôn rình rập và có thể mất trắng. Thứ
nhất ở tại các nước này thì người dân sẽ rất khó khăn về kinh tế do phải
dồn hết vào quốc phòng nên ngân sách cho dân sinh xã hội sẽ bị cắt giảm,
thứ 2 là các nước như thế này thường sẽ bị cấm vận nên khó có thể tiếp
cận được.


SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 24


Tiểu luận Quản trị rủi ro

GVHD:Phạm Thị Trang

Một điều nữa là chính sách của một tổng thống có thể ảnh hưởng
nghiêm trọng lên các tổ chức chẳng hạn như việc cắt giảm ngân sách địa
phương, ban hành các qui định mới.... Trên phương diện quốc tế, môi
trường chính trị còn phức tạp hơn do đó sẽ tạo ra nhiều rủi ro hơn. Không
phải tất cả các quốc gia điều dân chủ trong cách điều hành, nhiều nơi có
thái độ và chính sách khác nhau về kinh doanh. Tài sản nước ngoài đôi
khi có thể bị nước chủ nhà "quốc hữu hóa " hay việc thay đổi liên tục về
chính sách thuế, các qui định về kinh doanh xuất nhập khẩu.... Vì thế
muốn có lợi nhuận thì cần chú ý tới rủi ro này đầu tiên.


Rủi ro về pháp luật-pháp lý

Những chính sách, luật lệ của một quốc gia cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến doanh thu và lợi nhuận của các công ty xuất khẩu ô tô. Điển hình
nếu xuất khẩu sang Châu Âu chắc chắn chúng ta sẽ không cạnh tranh lại
với các doanh nghiệp địa phương bởi thuế giá trị gia tăng ở đây rất lớn từ
17 – 25% sẽ làm cho giá ô tô chúng ta tăng cao sẽ tạo ra thua lỗ.



Rủi ro về tài sản

Là khả năng được hay mất đối với tài sản vật chất, tài sản tài chính
hay tài sản vô hình và các kết quả này xảy ra do các hiểm họa hoặc rủi ro.
Tài sản có thể bị hư hỏng, bị hủy hoại hay tàn phá, mất mát hoặc giảm giá
theo nhiều cách khác nhau. Điển hình như máy móc hư hỏng sẽ làm cho
dây chuyền sản xuất ngừng lại làm chậm tiến độ và thiếu hụt sản phẩm.


Rủi ro về nguồn nhân lực

Là nguy cơ rủi ro có liên quan đến "tài sản con người" của tổ chức.
Rủi ro có thể gây tổn thương hay tử vong cho các nhà quản lý, công nhân
viên hay các đối tượng có liên quan đến tổ chức như khách hàng, người
cung cấp, người cho vay, các cổ đông,.... Các yếu tố mạo hiểm và mối
nguy hiểm phát sinh từ các nguồn rủi ro và đối tượng rủi ro này nhiều vô
kể. Một số có thể tưởng tượng được, một số thì không. Chỉ cần 1 công
nhân trong dây chuyền sản xuất bị đau giữa chừng thì cũng đã ảnh hưởng
rất lớn đến năng suất của dây chuyền đó.

SVTH: Nguyễn Đình Tuấn

Page | 25


×