Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tài chính vi mô xu hướng phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.69 KB, 26 trang )

Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

1.Phần mở đầu
Tài chính vi mô (TCVM) ra đời từ những năm 70 của thế kỷ trước bắt đầu ngân
hàng Grameen - tổ chức TCVM đầu tiên ở Bangladesh. Đến nay, sau gần năm
mươi năm, đã có trên 10.000 tổ chức tài chính vi mô (TCTCVM) trên khắp thế
giới. TCVM ngày càng được chứng tỏ là một công cụ quan trọng trong xóa đói
giảm nghèo ở các nước đang phát triển. Thông qua việc mang đến cho người
nghèo cơ hội tiếp cận các dịch vụ tài chính (tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm) và cả
những dịch vụ phi tài chính như: giáo dục đào tạo, tư vấn kinh doanh...
Từ những năm 1980 tại Việt nam TCVM thông qua hoạt động của các tổ chức
quốc tế, tổ chức phi chính phủ và các chương trình viện trợ phát triển song
phương và đa phương. Các chương trình, dự án TCVM ở Việt Nam đã có những
đóng góp nhất định trong công cuộc xóa đói giảm nghèo của nước ta.
Mạng lưới cung ứng dịch vụ TCVM ở Việt Nam thường được phân loại theo ba
khu vực: khu vực chính thức, khu vực phi chính thức và khu vực bán chính
thức. Tổ chức hoạt động TCVM ở Việt Nam có 3 tổ chức TCVM chính thức,
được cấp phép của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và hoạt động theo Luật các
Tổ chức tín dụng (TCTD), còn lại là các chương trình/dự án/quỹ xã hội/quỹ từ
thiện/trung tâm/viện nghiên cứu cung cấp dịch vụ TCVM và tất cả họ đều được
xếp vào nhóm các TCTCVM bán chính thức còn lại là phi chính thức.
Như vậy có thể thấy sự cần thiết phải có một nghiên cứu tập trung phân tích,
đánh giá và phân tích các dịch vụ Tài chính Vi mô tại Việt Nam và thấy được xu
thế phát triển. Do vậy em chọn Tiểu luận: “Phân tích và nhận định các dịch vụ
của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ” không những cung cấp một bức tranh
tổng thể về các dịch vụ hoạt động của các TCTCVM cũng như thực trạng quản
lý Nhà nước đối với các hoạt động này ở Việt Nam qua đó việc xây dựng định
hướng phát triển, xây dựng các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động của các
TCTCVM .
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của tiểu luận.
Trên phạm vi thế giới, số lượng các nghiên cứu về TCVM rất phong phú, tập


trung vào những khía cạnh khác nhau của lĩnh vực TCVM. Hoạt động TCVM ở
Việt Nam cũng được phân tích cụ thể trong một số nghiên cứu em đã tìm hiểu
và tham khảo sẽ được liệt kê sau đây:
Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao học TCNH
Page 1


Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”
1.

Quy định chính sách cho hoạt động tài chính vi mô tại Việt nam tháng 11/2013
nhóm tác giả : Nguyễn Bích Phượng trung tâm tài chính vi mô (Trung tâm
TCVM và phát triển M&D) và công sự.

2.

Tài chính vi mô với giảm nghèo tại VN – Kiểm định và so sánh Đồng tác giả
PGS.TS. Nguyễn Kim Anh PGS.TS. Ngô Văn Thứ TS. Lê Thanh Tâm ThS.
Nguyễn Thị Tuyết Mai

3.

Việt nam : Xây dựng chiến lược tổng thể để tăng cường khả năng tiếp cận dịch
vụ TCVM của người nghèo (Ngày 6/2/2007 của Ngân hàng thế giới)

4.

Mức độ bền vững của các tổ chức TCVM Việt nam thực trạng và một số khuyến
nghị tác giả PGS.TS Nguyễn Kim Anh và đồng sự


5.

Tạp chí kinh tế “ Phát triển và hội nhập” số tháng 3 và tháng 4 năm 2013
Thông qua các tài liệu tìm hiểu trên và trên trang web của một số TCVM của
Việt nam như tổ chức TCVM tình thương TYM, M7 … tất các các nội dung
tìm hiểu đều nêu rõ tầm quan trọng của TCVM tác động đến phát triển kinh tế
của Việt nam hiện nay
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Đề tài được thực hiện nhằm giải quyết ba mục tiêu:
Thứ nhất : Phân tích, nhận định các dịch vụ tài chính vi mô
Thứ hai : Nhận định xu thế phát triển tài chính vi mô tại Việt nam
Thứ ba: Đề xuất các khuyến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động của các dịch
vụ tài chính vi mô phát triển năng động và bền vững.
4. Nội dung nghiên cứu của đề tài

-

Nội dung 1: Khái quát sơ lược tài chính vi mô

-

Nội dung 2: Phân tích, nhận định các dịch vụ tài chính vi mô ;

-

Nội dung 3: Nhận định xu thế phát triển tài chính vi mô tại Việt nam .
và đề xuất các khuyến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động của các
dịch vụ tài chính vi mô.


2

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao học TCNH

Page


Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của tiểu luận
5.1.

Đối tượng nghiên cứu :

Phân tích, nhận định các dịch vụ tài chính vi mô Nhận định xu thế phát triển tài
chính vi mô tại Việt nam và đề xuất các khuyến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt
động của các dịch vụ tài chính vi mô.
5.2.

Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu các dịch vụ của hoạt động TCVM ở Việt Nam bao gồm hai
khía cạnh chính: hoạt động của các TCTCVM chính thức, bán chính thức và
quản lý Nhà nước đối với hoạt động TCVM chính thức, bán chính thức tại Việt
Nam.
6. Phương pháp nghiên cứu

Chủ yếu sử dụng phương pháp thu thập tìm hiểu thông qua nguồn sách báo,
Internet và các nguồn khác từ đó phân tích đánh gia và đưa ra các nhận định..
7. Kết cấu của đề tài


Ngoài phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, và các phụ lục, đề
tài được kết cấu thành 4 chương bao gồm:
Chương 1: Khái quát sơ lược tài chính vi mô.
Chương 2: Phân tích, nhận định các dịch vụ tài chính vi mô ;
Chương 3: Nhận định xu thế phát triển tài chính vi mô tại Việt nam và đề xuất
các khuyến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động của các dịch vụ tài chính vi
mô.

3

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao học TCNH

Page


Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

Chương 1: Khái quát sơ lược tài chính vi mô.
1.1

Khái niệm : Có rất nhiều khái niệm về tài chính vi mô
Theo Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về Tín dụng vi mô tại Washington tháng 2
năm 1997: “Tín dụng vi mô là việc cung cấp các khoản vay quy mô nhỏ đến đối
tượng người nghèo, với mục đích giúp những người thụ hưởng thực hiện các dự
án sản xuất kinh doanh để tạo lợi nhuận từ đó nâng cao chất lượng đời sống cho
cả người vay vốn và gia đình của họ”.
Theo quan điểm của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB): “Tài chính vi mô là
việc cung cấp một phạm vi rộng các dịch vụ tài chính như tiền gửi, tài khoản tiết
kiệm, thanh toán, bảo hiểm, chuyển tiền cho người nghèo hoặc các hộ gia đình
có thu nhập thấp, cho những hoạt động kinh doanh cá thế hoặc doanh nghiệp rất

nhỏ”
Theo ngân hàng nhà nước Việt Nam : “ Tài chính vi mô là việc cấp cho các hộ
gia đình có thu nhập thấp các khoản vay nhỏ (gọi là tín dụng vi mô), nhằm mục
đích giúp họ tham gia vào các hoạt động sản xuất hoặc khởi tạo các hoạt động
kinh doanh nhỏ”.

1.2

Vai trò của tài chính vi mô trong nền kinh tế Việt nam
Tài chính vi mô tại Việt Nam được coi là một trong những biện pháp giảm
nghèo quan trọng. Khoảng 72% dân số đang sống trong khu vực nông thôn, nơi
có tới 94% người nghèo đang sinh sống, nông nghiệp là ngành kinh tế chủ chốt
với sự tham gia của 54% lực lượng lao động của cả nước. Một trong những trở
ngại lớn trong việc đạt được các mục tiêu giảm nghèo thiên niên kỷ tại Việt
Nam là thiếu các dịch vụ tài chính phù hợp và đáp ứng nhu cầu. Sự phát triển
mạnh mẽ của tài chính vi mô về phạm vi tiếp cận và các dịch vụ cung ứng, đặc
biệt là các dịch vụ về tín dụng và tiết kiệm trong những năm qua đã đáp ứng
được phần lớn nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế và công cuộc giảm nghèo.
Nhà nước và Chính phủ đã có những động thái hết sức tích cực đối với sự phát
triển tài chính vi mô ở Việt Nam. Luật tổ chức tín dụng được Quốc hội thông
qua năm 2010 là điều kiện quam trọng và là dấu mốc lịch sử khi coi TCTCVM
là một TCTD, với các quy định được luật hóa. Ngày 6/12/2011, Thủ tướng
Chính phủ đã chính thức phê duyệt “Đề án xây dựng và phát triển hệ thống tài
chính vi mô tại Việt Nam đến năm 2020”.
4

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao học TCNH

Page



Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

Các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô tại Việt Nam tương đối đa dạng,
tập trung vào các nhóm chính, đó là: Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam,
Quỹ Tín dụng nhân dân, các tổ chức tài chính vi mô, và một số ngân hàng khác
(Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn, Ngân hàng Bưu điện Liên
Việt, Ngân hàng Đông Á). Mỗi nhóm tổ chức có phân đoạn thị trường riêng,
nhưng đều tham gia vào thị trường tài chính vi mô. Ba tổ chức chính tham gia
vào việc cung cấp dịch vụ tài chính vi mô cho người thu nhập thấp/người nghèo
là NHCSXH, QTDND và các TCTCVM.
Sau gần 30 năm hoạt động, TCVM đã được nhìn nhận như một công cụ hữu
hiệu thúc đẩy quá trình xóa đói giảm nghèo tại Việt Nam, góp phần không nhỏ
vào việc giảm tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam từ 60% trong những năm 1990 xuống
4,5% năm 2015 và khoảng 30 triệu người Việt Nam đã thoát nghèo trong 20
năm qua.
Do đó, xây dựng và phát triển hệ thống TCVM an toàn, bền vững hướng đến
phục vụ người nghèo, người có thu nhập thấp đã được Chính phủ đánh giá là
một trong những mục tiêu trọng tâm đến năm 2020.
Chương 2: Phân tích, nhận định các dịch vụ tài chính vi mô:
2.1 Các dịch vụ tài chính vi mô :
Có bốn loại dịch vụ mà một TCTCVM có thể cung cấp cho khách hàng.Với
phương pháp tiếp cận tối thiểu, TCTCVM thông thường chỉ cung cấp dịch vụ
tài chính hoặc có thể cung cấp dịch vụ tài chính và một phần giới hạn dịch vụ
trung gian xã hội. Thậm chí có TCTCVM chỉ cung cấp một hoặc một số các sản
phẩm trong dịch vụ tài chính.Với cách tiếp cận tổng hợp, TCTCVM sẽ cung cấp
nhiều hơn một loại dịch vụ.
2.1.1 Trung gian Tài chính:
Bao gồm việc cung cấp các dịch vụ tài chính như tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm,
thanh toán, thẻ tín dụng.

2.1.1.1 .Dịch vụ tín dụng: Đây là dịch vụ cơ bản của hầu hết các tổ chức
TCVM, với việc cung cấp các khoản vay nhỏ đáp ứng nhu cầu của các hộ thu
nhập thấp, đặc biệt là các hộ nghèo hoặc cũng có thể là các doanh nghiệp nhỏ.
5

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao học TCNH

Page


Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

Hai phương pháp cung cấp tín dụng được áp dụng là cho vay cá thể và cho vay
theo nhóm. Bền vững tài chính là mục tiêu quan trọng các TCTCVM luôn
hướng tới với không ít khó khăn và thách thức trong việc cung cấp dịch cụ này.
2.1.1.2. Dịch vụ tiết kiệm: thường được coi là phần không thể thiếu với hầu
hết các TCTCVM với mục đích chính huy động nguồn vốn và coi tiết kiệm như
một phần bảo lãnh vốn vay, đồng thời mang lại một số lợi ích cho khách hàng
như xây dựng ý thức thói quen tiết kiệm, tích lũy tài sản, tập dượt kỹ năng tài
chính. Hai hình thức huy động tiết kiệm thường được áp dụng là tiết kiệm bắt
buộc và tiết kiệm tự nguyện. Tuy nhiên, tiết kiệm tự nguyện có thể gặp rào cản
về mặt pháp lý trong việc cho phép thực hiện hoạt động này cho mục tiêu an
toàn tài chính. Một số TCTCVM đã rất thành công đối với việc cung cấp dịch
vụ tiết kiệm, nhưng nó vẫn là điểm yếu của nhiều TCTCVM.
2.1.1.3. Dịch vụ bảo hiểm vi mô: So với dịch vụ tín dụng và tiết kiệm, dịch vụ
này chưa được cung cấp nhiều bởi các TCTCVM. Nó là hình thức kinh doanh
mới đối với các TCTCVM và đang trong giai đoạn thử nghiệm và bắt đầu phát
triển. Bảo hiểm nhân thọ là một trong những loại bảo hiểm được các TCTCVM
quan tâm áp dụng. Grameen Bank là một ví dụ điển hình cho việc áp dụng loại
hình này. Tại Việt Nam, quỹ TYM cũng đang áp dụng thử nghiệm loại sản phẩm

bảo hiểm nhân thọ thông qua “Nhóm tương hỗ”.
2.1.1.4 Dịch vụ thanh toán: bao gồm các thể thức như séc, ủy nhiệm chi, ủy
nhiệm thu, thư tín dụng hay thẻ thanh toán. Tuy nhiên, không phải tất cả các
TCTCVM được cung cấp dịch vụ này mà tùy theo quy định của mỗi nước. Tại
Việt Nam, chỉ có các ngân hàng mới được cung cấp dịch vụ thanh toán. Các
dịch vụ thanh toán gắn liền với dịch vụ huy động tiền gửi của TCTCVM. Để
thực hiện thanh toán, khách hàng cần phải dùng tới các khoản tiền gửi không kỳ
hạn.
2.1.1. 5. Thẻ tín dụng: việc cung cấp dịch vụ này cho phép khách hàng tiếp cận
với hệ thống tín dụng. Nó có thể được thực hiện trong việc mua sắm hàng hóa,
rút tiền mặt ở các máy rút tiền tự động. Cung cấp dịch vụ thẻ là lĩnh vực mới
với các TCTCVM. Tại Việt Nam dịch vụ này chỉ được cung cấp bởi các ngân
hàng.

6

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao học TCNH

Page


Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

2.1.1.6 . Cho thuê vi mô là loại sản phẩm có thể cho phép khách hàng thuê và
sử dụng các máy móc, thiết bị và họ chỉ phải thanh toán cho phần chi phí dịch
vụ sử dụng. Ở nông thôn, cho thuê vi mô thường được yêu cầu cho hoạt động
nông nghiệp theo nhóm khi mà các thành viên của một nhóm nông dân cùng
nhau thuê máy móc thiết bị, ví dụ máy cày và thay nhau sử dụng chúng, đóng
góp từng phần chi phí theo tỷ lệ. Trên quốc tế, cho thuê vi mô là sản phẩm phổ
biến cho các nông dân nghèo và các doanh nghiệp nhỏ. Tại Việt Nam, sản phẩm

này vẫn còn rất mới mẻ.
2. 1.2. Trung gian xã hội:
Là quá trình xây dựng nguồn lực con người và xã hội cần thiết cho dịch vụ
trung gian tài chính bền vững cho người nghèo. Việc cung cấp các dịch vụ trung
gian xã hội thường được các TCTCVM thực hiện thông qua tổ chức nhóm.
Nhưng một số tổ chức cũng thực hiện các dịch vụ này trực tiếp với cá nhân
khách hàng. Trung gian xã hội dựa trên cơ sở nhóm được định nghĩa là sự nỗ
lực xây dựng năng lực tổ chức của nhóm và đầu tư vào nguồn lực con người của
các thành viên. Xây dựng năng lực thường tập trung vào xây dựng liên kết
nhóm, năng lực tự quản lý của nhóm, sự tự tin của các thành viên.
2.1.3. Dịch vụ phát triển doanh nghiệp:
Bao gồm các hoạt động can thiệp phi tài chính nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phát
triển, như dịch vụ marketing và công nghệ, đào tạo kỹ năng kinh doanh, quản lý
doanh nghiệp, đào tạo sản xuất .vv.. Nhìn chung dịch vụ phát triển doanh nghiệp
là phạm trù rộng, nó có thể là bất kỳ một dịch vụ nào trừ dịch vụ tài chính. Có
quan điểm cho rằng dịch vụ phát triển doanh nghiệp nên được một tổ chức khác
cung cấp chứ không phải là một tổ chức tài chính. Tuy nhiên, nếu một
TCTCVM chọn cung ứng dịch vụ này thì cần phải tách nó ra khỏi các dịch vụ
khác và phải được hạnh toán riêng biệt và việc lựa chọn này cũng sẽ phụ thuộc
vào mục tiêu, khả năng thu hút vốn tài trợ để trợ cấp cho các khoản chi phí.
2.1.4. Dịch vụ xã hội:
Bao gồm các dịch vụ phi tài chính nhằm cải thiện các lĩnh vực của đời sống xã
hội như giáo dục, xóa mù chữ, sức khỏe, dinh dưỡng, vệ sinh môi trường .vv..
Việc cung cấp dịch vụ này tăng thêm các giá trị cho nhóm khách hàng của
TCTCVM, giúp họ cải thiện các khía cạnh khác ngoài khía cạnh tài chính, vì
7

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao học TCNH

Page



Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

dịch vụ tài chính không phải là “cây đũa thần” giải quyết được mọi vấn đề cho
người nghèo. Các dịch vụ này cũng có thể được thực hiện lồng ghép thông qua
mạng lưới hoạt động của TCTCVM. Tuy nhiên, sẽ không hợp lý khi mong đợi
thu nhập từ dịch vụ tài chính sẽ trang trải cho các chi phí của dịch vụ này và
cũng giống như việc cung cấp dịch vụ phát triển doanh nghiệp, TCTCVM phải
tách biệt các chi phí của các dịch vụ này. TCTCVM cần tìm kiếm nguồn tài
chính khác cho dịch vụ xã hội.
Việc lựa chọn phương pháp tiếp cận tối thiểu hay tổng hợp sẽ tùy thuộc mục
tiêu của TCTCVM, nhu cầu của thị trường và khả năng cung của TCTCVM.
Điều quan trọng khác là TCTCVM cần tách biệt và kiểm soát chi phí của mỗi
loại dịch vụ để đạt được sự bền vững trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính,
vấn đề này cũng cần làm rõ cho nhóm khách hàng của mình.
2.2 Phân tích tài chính vi mô
Xác định mục tiêu theo nhu cầu và định hướng thị trường.
Xác định mục tiêu thị trường của đối tượng nghèo không đòi hỏi phải có sự tập
trung riêng biệt nhưng việc này đòi hỏi phải có 1 cơ chế cung cấp chuyên biệt
và phù hợp có thể phục vụ đối tượng nghèo 1 cách hiệu quả - đơn nhất hoặc là
một phần của danh mục cho vay lớn hơn. Do vậy, xác định mục tiêu và phát
triển đúng đắn các hệ thống, phương pháp và các sản phẩm phải thay thế được
phương pháp tiếp cận được chuẩn hóa và đến một mức độ nào đó là tĩnh vốn là
đặc tính của ngành tài chính vi mô Việt Nam cho đến nay.
Có những thị trường ngách trong số những người rất nghèo ở các khu vực xa
xôi hẻo lánh và chưa được phục vụ tốt (các cộng đồng dân tộc thiểu số) nhưng
mảng thị trường lớn nhất trong ngành tài chính vi mô ở Việt Nam là 24% các hộ
gia đình nghèo và thu nhập thấp mà nhìn chung đã có sự tiếp cận nhất định đến
một số dịch vụ tài chính. Thị trường này sẽ đòi hỏi các dịch vụ tài chính ngày

càng đa dạng và tinh vi từ phía các nhà cung cấp trong những n ăm tới, và các
nhà cung cấp tài chính vi mô thành công sẽ là những người biết điều chỉnh sản
phẩm, dịch vụ và cơ chế phân phối của mình theo yêu cầu của thị trường trong
khi vẫn gia tă ng được danh mục cho vay của mình một cách an toàn và đạt
được lợi nhuận tài chính và từ đó là sự bền vững.
Nhà cung cấp lớn nhất, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trong
8

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao học TCNH

Page


Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

khi bắt đầu đa dạng hoá, có mục tiêu chính là phục vụ thị trường nông thôn, và
đưa ra các dịch vụ được đại đa số các hộ gia đình nông thôn chấp nhận. Tuy
nhiên, ngân hàng này tiếp cận mảng đối tượng nghèo hơn chỉ thông qua hạn
mức tín dụng được trợ cấp từ các nhà tài trợ (ví dụ nguồn tín dụng bổ sung cho
người nghèo thông qua Dự án Tài chính Nông thôn của Ngân hàng phát triển
Châu Á) hoặc với đảm bảo về hoạt động từ các tổ chức của quần chúng (người
ta cũng có thể lập luận rằng những thua lỗ triền miên của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn là một hình thức trợ cấp khác). Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn dường như chưa tin rằng đối tượng nghèo có thể
là 1 mảng thị trường sinh lời, có lẽ vì ngân hàng này không thể cạnh tranh đầu
đối đầu với Ngân hàng phục vụ chính sách xã hội được tài trợ.
Các Quỹ tín dụng nhân dân hiện nay có lẽ là các nhà cung cấp dịch vụ tài chính
được định hướng nhiều nhất theo nhu cầu ở Việt Nam thông qua đặc tính thu
hút tiết kiệm và sở hữu thành viên. Tuy nhiên, thậm chí các quỹ này đang hoạt
động có lợi nhuận không được phép mở rộng phạm vi đối tượng phục vụ của

mình ra ngoài nhóm cộng đồng đăng ký của họ và điều này làm hạn chế rất lớn
sự quy mô tă ng trưởng của họ. Để đạt và giữ được giấy phép của Ngân hàng
Nhà nước và một mức độ bền vững chấp nhận được, các quỹ này phải cân bằng
danh mục của mình và không thể tập trung riêng - hay thậm chí chủ yếu - đến
mảng các đối tượng nghèo hơn trong cộng đồng của mình. Các tiêu chí cấp
phép bớt khắt khe hơn của Ngân hàng Nhà nước liên quan đến hoạt động của
các quỹ có sinh lời này (về mặt địa lý và phạm vi đối tượng phục vụ) sẽ giúp
các quỹ tín dụng nhân dân mở và gia tăng danh mục cho vay của mình, từ đó
phục vụ được nhiều đối tượng hơn - kể cả những đối tượng thuộc tầng lớp BOP.
Trong số ba tổ chức chính hoạt động (chính thức) trong ngành dịch vụ tài chính
phục vụ tầng lớp BOP, chỉ có Ngân hàng Chính sách Xã hội hướng trực tiếp tới
người nghèo. Tuy nhiên, ngân hàng gần như hoạt động chủ yếu theo cách thức
do nguồn cung định hướng, và theo một số mục tiêu chính trị xã hội “bao trùm”.
Để Ngân hàng Chính sách Xã hội có thể trở thành một đơn vị kinh doanh tài
chính vi mô thành công, ngân hàng phải được phép hoạt động như một ngân
hàng thương mại, có nghĩa là được áp lãi suất để bù đắp chi phí để cho ngân
hàng có thể tăng khả nă ng huy động vốn và tiết kiệm sớm hơn n ăm 2020 nhiều
như kế hoạch của họ đã đề ra. Đồng thời, Ngân hàng Chính sách Xã hội cần
9

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao học TCNH

Page


Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

chuyển đổi toàn bộ cơ cấu tổ chức, vă n hoá và cách thức hoạt động để có thể
đáp ứng nhanh nhu cầu thị trường - theo bất kỳ nghĩa gì đây cũng là điều tuyệt
vời.

Những nhiệm vụ tương tự như thế này cũng phải được thực hiện bởi
những nhà cung cấp tài chính vi mô bán chính thức thường yếu hơn về mặt thể
chế. Những tổ chức này tập trung trực tiếp vào mảng thị trường của người
nghèo, song vẫn còn thiếu những kỹ năng kinh doanh (nghiệp vụ ngân hàng)
cần thiết. Thêm vào đó, những tổ chức này lại thường được nhận sự hỗ trợ của
chính phủ và các nhà tài trợ ít hơn nhiều và cũng nhận được ít tiền vốn tài chính
và hỗ trợ kỹ thuật hơn, nhưng lại phải chuẩn bị việc chuyển đổi nhanh chóng và
êm ả thành những định chế hợp pháp theo những qui định và pháp chế mới mà
cho đến nay chưa hoàn thành.
2.3.1.2 Hệ thống hoạt động và cơ chế cung ứng
Các nhà cung cấp tài chính vi mô vẫn ít tương tác với nhau, cũng như ít làm
việc với ngành tài chính vi mô quốc tế và khu vực năng động và do đó sẽ ít có
dịp tiếp xúc đến các tiêu chuẩn quốc tế về hoạt động của tài chính vi mô. Vì vậy,
các nhà cung ứng này thiếu sự so sánh với các nhà cung ứng khác về khả năng
thực hiện trực tiếp, và kết quả là năng lực kỹ thuật của các tổ chức này còn bị
hạn chế. Diện sản phẩm cho các chủ yếu được định hướng theo nguồn cung,
được chuẩn hoá và hơi tập trung vào việc cung cấp tín dụng. Việc ghi lại và báo
cáo dữ liệu tài chính nói chung vẫn ở một tiêu chuẩn rất thấp. Hầu hết các MFPs
về bản chất là có nhiều mục đích và tập trung vào các vấn đề phát triển xã hội,
có rất ít tập trung vào tài chính vi mô với tư cách là sự tập trung riêng lẻ của
mình. Vì thế, trình độ về năng lực kỹ thuật trong tài chính vi mô và kiến thức về
thực tiễn tốt và sự tuân thủ chưa cao.
Trong số những nhà cung cấp tài chính vi mô được điều tiết, Ngân hàng
Nông nghiệp và PTNT là ngân hàng có hệ thống hoạt động ngân hàng thương
mại mạnh nhất, song tài chính vi mô của ngân hàng vẫn chưa tích hợp vào diện
sản phẩm của ngân hàng với tư cách là một dịch vụ chuyên môn hoá và có tiềm
năng sinh lời cho người nghèo theo quyền của mình. Hơn nữa, khả năng sẵn có
của hạn mức tín dụng rẻ để cho vay lại đã giúp ngân hàng mở rộng phạm vi cho
vay ở khu vực nông thôn trong khi đó những thoả thuận hợp tác với các tổ chức
quần chúng lại giảm sút nhưng về bề ngoài không phải là kết quả của chính sách

1

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao0 học TCNH

Page


Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

bộc lộ rõ để đi xuống thị trường. Ngân hàng NN&PTNT có thể đã mở rộng
phạm vi hoạt động và điều chỉnh diện sản phẩm của mình nhằm phục vụ cho
nhiều đối tượng nghèo hơn, song tầm nhìn, sự tập trung và cam kết về quản lý,
cũng như hệ thống hoạt động chuyên môn hoá cần thiết cho dịch vụ với số
lượng lớn và giá trị thấp lại chưa được phát triển ở mức độ cao. Điều này là do
một số nhân tố sau đây: sự tồn tại của thị trường nông thôn thu nhập trung bình
hấp dẫn hơn và lớn; và do mức độ đầu tư lớn vào việc chuyển đổi từ một Ngân
hàng Thương mại Quốc doanh sang một ngân hàng thương mại cạnh tranh sau
khi Việt Nam gia nhập WTO. Ngân hàng NN & PTNT sẽ phải tiếp tục tập trung
vào quá trình chuyển đổi nội bộ hướng tới lợi nhuận và hiệu quả cao hơn với
mục tiêu là tìm kiếm vốn thị trường cho tới năm 2010.
Nhân viên của Ngân hàng Chính sách Xã hội phần lớn là cán bộ trước
đây của Ngân hàng NN&PTNT chuyển sang, họ vốn là những nhân viên ngân
hàng được đào tạo và sự kết hợp giữa uỷ quyền về chính sách đối với tín dụng
trợ cấp và có mục đích cụ thể và sự thiếu hụt chuyên môn về tài chính vi mô
trong ngân hàng chính sách đã dẫn tới việc cung cấp các dịch vụ hướng theo
nguồn cung. Hiện nay, Ngân hàng Chính sách Xã hội không có lãi và cũng
không thể trở thành một nhà cung cấp tài chính vi mô bền vững trừ phi ngân
hàng được phép áp mức lãi suất bù đắp chi phí và xây dựng diện sản phẩm của
mình để phục vụ thị trường mà ngân hàng được thành lập ra để đạt tới. Tuy
nhiên, hiện nay quy định về chính sách không cho phép ngân hàng phát triển

một định hướng và kế hoạch kinh doanh để đạt được những mục tiêu này. Giống
như Ngân hàng NN&PTNT, ngân hàng chính sách phải đối mặt với những hạn
chế nghiêm trọng về năng lực trong hiểu biết về thị trường, lập kế hoạch kinh
doanh và điều chỉnh cho phù hợp hệ thống hoạt động, cơ chế phân phối và định
hướng khách hàng hướng theo nhu cầu thay đổi của BOP. Hơn nữa, phải tập
trung vào quy định về chính sách của ngân hang làm giảm khả năng phục vụ tốt
hơn những nhóm khách hàng chủ chốt của mình. Công ty kiểm toán KPMG với
sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới (WB) đã tiến hành nghiên cứu toàn diện về
Ngân hàng Chính sách và Xã hội, và chắc chắn là sẽ đưa ra những chi tiết và
thảo luận đầy đủ về những hạn chế này. Tuy nhiên, không thể trông đợi sẽ có
những thay đổi về hoạt động theo hướng cung cấp tài chính vi mô tốt hơn trong
khuôn khổ Ngân hàng Chính sách Xã hội cho đến khi chính phủ bãi bỏ những
kiểm soát về chính trị đối với VBSP và thay đổi chính sách về lãi suất.
1

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao1 học TCNH

Page


Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

Ngân hàng Chính sách Xã hội có tiềm năng để gia tăng hoạt động
marketing và cung cấp các tài khoản tiết kiệm ở ngưỡng thấp cho BOP thông
qua mạng lưới rộng lớn của mình. Điều này chỉ có thể xảy ra nếu chính phủ VN
xoá bỏ chính sách hiện tại là bắt buộc Ngân hàng Chính sách Xã hội chuyển tiền
gửi sang Ngân hàng Phát triển VN và tạo ra một sự trợ cấp ngầm cho Ngân
hàng Phát triển của VPSC thông qua chi phí chênh lệch do điều kiện để tăng
lượng tiền gửi của Ngân hàng Chính sách và lãi suất chuyển nhượng cho Ngân
hàng Phát triển Việt Nam. Việc cho phép Ngân hàng Chính sách Xã hội đầu tư

tiền gửi để có thể tạo ra đủ doanh thu sẽ là một khích lệ làm tăng lượng tiền gửi
vào Ngân hàng này (song hiện nay chưa tồn tại). Tuy nhiên, với số lượng hạn
chế khách hàng hiện tại của VPCS và mức độ sử dụng, trình độ của cán bộ
chuyên môn, kinh nghiệm về nghiệp vụ ngân hàng (tín dụng) và phạm vi hoạt
động của Ngân hàng Chính sách Xã hội, một câu hỏi đặt ra là liệu hỗ trợ bổ
sung cho Ngân hàng Chính sách Xã hội có thể làm tăng vai trò cung cấp tài
chính vi mô của ngân hàng hay không. Ban giám đốc của VPSC chỉ ra rằng với
tư cách là một ngân hàng thương mại trong tương lai ưu tiên của họ là xây dựng
mạng lưới ngân hàng ở những thành phố lớn và do đó có rất ít lý do để tin tưởng
rằng VPSC sẽ mở rộng công tác của mình huy động tiết kiệm ở ngưỡng thấp,
không nói đến việc cung cấp tín dụng cho người nghèo và thu nhập thấp và
những sản phẩm tài chính vi mô khác.
Quỹ tín dụng nhân dân đóng một vai trò quan trọng trong tài chính vi mô
ở Việt Nam. Là tổ chức tài chính địa phương do thành viên sở hữu, khách hàng
có được mức độ ảnh hưởng trong việc cung cấp dịch vụ tài chính mà không tìm
thấy được ở bất cứ khu vực tài chính vi mô nào khác. Tuy nhiên, hạn chế phạm
vi hoạt động xét về mặt địa lý (các quỹ này thường nằm ở các xã đơn lẻ), thậm
chí đối với các PCF sinh lời, hạn chế khả n ng của các quỹ này trong việc gia
tăng quy mô cần thiết cho họ để đưa ra một dải rộng hơn các dịch vụ tài chính
vi mô.
Các nhà cung cấp tài chính vi mô bán chính thức hiện nay ở Việt Nam
được các tổ chức phi chính phủ hỗ trợ phục vụ ở bậc trung và thấp. Tuy nhiên,
họ vẫn còn gặp nhiều khó kh ăn về vị thế pháp lý, về năng lực chuyên môn, và
vốn đầu tư. Hầu hết các nhà cung cấp tài chính vi mô do các tổ chức phi chính
phủ ngoài nước hỗ trợ (ngoại trừ một vài trường hợp do Tổ chức quần chúng
1

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao2 học TCNH

Page



Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

thực thi) đều có nhiệm vụ và mục tiêu rõ ràng, có kế hoạch và chiến lược phát
triển khá tốt. Kỹ năng tốt về phát triển kinh doanh và marketing ở khu vực tư
nhân còn hạn chế trong khi kỹ năng lập kế hoạch lại được xây dựng khá gọn
gàng. Các tổ chức cung cấp tài chính vi mô chuyên biệt (bao gồm mạng lưới
quỹ tín dụng nhân dân, Quỹ tình thương, quỹ CEP, quỹ Vn-Plus,...) tập trung
vào việc giám sát hoạt động dựa trên kết quả và nhận được trợ giúp kỹ thuật
thông qua những dự án tài trợ ví dụ như đào tạo cho cán bộ quỹ.
Tuy nhiên, hầu hết các tổ chức cung cấp tài chính vi mô nhỏ hơn chủ yếu
hoạt động như những “dự án” của Tổ chức Quần chúng thực thi và không có
kiểm toán nội bộ, kiểm tra về kỹ thuật, khả n ng quản lý cũng như không có khả
năng kiểm soát để theo dõi, ghi nhận và báo cáo hoặc phân tích dữ liệu thực
hiện từ hoạt động của họ. Vì vậy nhóm cung cấp này thường chưa đủ độ chín
cũng như chưa đủ chuyên nghiệp để đáp ứng nhu nhu cầu thị trường tài chính vi
mô. Không mấy tổ chức cung cấp tài chính vi mô có đội ngũ cán bộ được đào
tạo tốt tại tất cả các cấp, và thậm chí những cán bộ có n ng lực quản lý chiến
lược hay kỹ n ng phát triển kinh doanh còn ít hơn mà những cán bộ này có thể
giúp tổ chức phát triển cho dù là sẽ có những khoá đào tạo và nâng cao tốt hơn,
linh hoạt hơn đã được tổ chức theo nhu cầu trong những nă m tới. Có những
nguồn lực hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo về tài chính vi mô ở khu vực Châu Á cần
được khai thác (nếu có thể lấy được tiền tài trợ), trong đó có ARCM (Trung tâm
nguồn lực tài chính vi mô Châu Á), EDA/MCRIL để đánh giá xếp hạng, và
Trung tâm Tài chính vi mô Châu Á được Nhóm tư vấn Hỗ trợ Người nghèo
(CGAP) hỗ trợ để kết nối VIDC. MicroSave Asia được thiết lập tại Ấn độ vào
Năm 2006. Ban Thư ký Nhóm công tác tài chính vi mô (MFWG) một khi
được thành lập sẽ hỗ trợ việc tìm kiếm trợ giúp khu vực cho ngành tài chính vi
mô.

Theo Nghị định 28, việc Ngân hàng Nhà nước cấp phép là điều kiện tiên quyết
đối với bất kỳ tổ chức cung cấp tài chính vi mô nhằm tiếp tục cung cấp dịch vụ
tài chính sau tháng 3 năm 2007 (khi giai đoạn ân hạn hai năm để Nghị định có
hiệu lực được trông đợi là sẽ hết hiệu lực). Việc áp dụng và lấy được giấy phép
mới có thể sẽ ít khó khăn hơn và là quy trình khôn ngoan ở Việt Nam hơn so
trường hợp của các tổ chức tài chính vi mô ở các nước khác. Tuy nhiên, cơ cấu
chủ sở hữu đòi hỏi yêu cầu về vốn và nhu cầu về người sở hữu “hợp lý và thích
1

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao3 học TCNH

Page


Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

hợp” và quản lý việc chuyển đổi tạo ra một thách thức to lớn, thậm chí cho cả
những nhà cung cấp tài chính vi mô lớn hơn một phần là do sự thiếu hụt về hỗ
trợ kỹ thuật để đáp ứng nhiệm vụ then chốt và có phạm vi rộng lớn này. Điều
thú vị là Ngân hàng Nhà nước đang cân nhắc việc cho phép các tổ chức Tài
chính Vi mô sáp nhập thành những công ty trách nhiệm hữu hạn quy định bởi
bảo lãnh khi khả n ăng kỹ thuật bên ngoài lúc đó có thể đã có ở những vị trí của
Hội đồng quản trị và Ban giám đốc nếu có những nguồn tài trợ cần thiết.
Nếu năng lực chuyên môn không đủ thì sẽ thiếu không gian độc lập cho
việc đưa ra quyết định, năng lực quản lý yếu, cam kết và năng lực chiến lược
yếu và các vấn đề liên quan đến Nghị định 28 có nghĩa là người ta chỉ trông đợi
từ chỉ ba đến năm Tổ chức cung cấp tài chính vi mô (MFP) lớn nhất là có thể
chuyển đổi thành Tổ chức Tài chính vi mô (MFI) chính thức hơn.
2.3.1.3 Những hạn chế trong công tác tổ chức và điều phối ở cấp
ngành

Trong hệ thống tài chính Việt Nam, việc cung cấp dịch vụ tài chính vi mô
vẫn còn tản mát và công tác điều phối giữa các bên liên quan còn rất hạn chế ở
tất cả các cấp. Ngân hàng NN & PTNT là một thành viên của Hiệp hội Ngân
hàng và Hiệp hội Ngân hàng tác động qua lại với Ngân hàng Nhà nước. Nhưng
Quỹ tín dụng (CCF) và Ngân hàng Chính sách Xã hội (VBSP) không phải là
“ngân hàng” nên không phải là thành viên. Các Quỹ Tín dụng Nhân dân (PCF)
đã thành lập riêng một hiệp hội của mình trong đó các tổ chức cung cấp tín dụng
vi mô (MFP) khác không phải là thành viên. Hiện nay có 44 nhà cung cấp tài
chính vi mô bán chính thức, không bao gồm Ngân hàng Chính sách Xã hội, đều
là thành viên của Nhóm Công tác Tài chính Vi Mô (MFWG). Và có những khác
biệt bên trong MFWG giữa các Tổ chức phi chính phủ quốc tế (INGO) mạnh
hơn về kỹ thuật và va chạm nhiều hơn và những bên liên quan trong nước là cơ
quan thực thi và thường là là đại diện cho các tổ chức quần chúng (ví dụ như
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam). Những kênh điều phối phi chính thức cũng
không tồn tại ở bất kỳ cấp nào. Do đó, gần như không có mối liên hệ và điều
phối trực tiếp giữa những MFP bán chính thức và MFP được điều tiết, là những
đơn vị phục vụ cùng một thị trường. Do đó, gần như không có thoả thuận về
những định nghĩa kinh doanh cơ bản, những chỉ số thành công/giám sát được
chuẩn hoá, tiêu chuẩn kế toán hay chia sẻ thông tin thị trường để gia tăng minh
1

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao4 học TCNH

Page


Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

bạch và tăng cường cho ngành này.
Các tổ chức quần chúng đóng một vai trò trung tâm trong nền kinh tế

chính trị và đặc biệt là Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (VWU) có một mạng
lưới toàn quốc khổng lồ bao gồm 12 triệu thành viên và có trọng tâm rõ ràng
trong hoạt động là vì tiến bộ của phụ nữ nghèo khu vực nông thôn. Khoảng 40
cơ chế tiết kiệm và tín dụng chủ yếu do các tổ chức phi chính phủ quốc tế tài trợ
đều được tiến hành trong quan hệ đối tác với Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh,
huyện và xã trên khắp Việt Nam. Còn Hội phụ nữ cấp trung ương quản lý các tổ
chức cung cấp tài chính vi mô lớn nhất cấp hai và cấp ba ở Việt Nam (theo
phạm vi hoạt động), đó là Dự án tín dụng Việt Nam-Bỉ và Quỹ Tình Thương.
Ngoài những hợp đồng khung do Ngân hàng NN & PTNT và Ngân hàng
Chính sách Xã hội ký kết, Hội phụ nữ đang “hoạt động” hợp pháp và
đang cộng tác mặc dù theo cách chưa được điều phối - với gần như tất cả các
nhà cung cấp tài chính vi mô chính thức và bán chính thức. Tuy nhiên, vẫn còn
rất ít sự liên lạc, không có những định nghĩa chung về Những Thông lệ Tốt và
tiêu chuẩn thực hiện, không có quy định hoặc giám sát về hoạt động tín dụng và
cũng có rất ít thông tin về cả ngành và quá trình kiểm soát thực hiện ở cấp
ngành.
Thiếu vắng điều phối và hoạch định quy mô hoạt động hiện tại và tiềm
năng, cùng với sự thiếu hụt những tiêu chuẩn được thừa nhận về thực hiện dựa
trên trên những tiêu chí hiện tại và được giám sát theo thời gian thông qua việc
tổng hợp các dữ liệu chính xác và đáng tin cậy từ tất các nhà cung cấp dịch vụ
tài chính cho BOP đã làm cản trở việc xây dựng của một ngành tài chính vi mô
vững mạnh và có trách nhiệm, đồng thời đã làm t ng chi phí giao dịch và rủi ro
cho cả khách hàng và nhà cung cấp.
Các nhà tài trợ cũng như các quỹ tài trợ khác đang xem xét việc đầu tư
vào những MFP có triển vọng nhiều hơn trong số các MFP hiện tại phải có được
thông tin tốt hơn về hoạt động tài chính của các tổ chức này cũng như về triển
vọng phát triển và khả nă ng đạt được bền vững tài chính trong một giai đoạn
phù hợp. Tuy nhiên, hiện tại chắc là không có cơ chế nào đạt đến dưới 1000
khách hàng mà không có đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp và ban quản lý có
tầm nhìn xa; không có kế hoạch kinh doanh ghi rõ tiềm năng tăng trưởng (thị

trường) với dự toán tài chính tích cực; và không có các dữ liệu thực hiện về mặt
1

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao5 học TCNH

Page


Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

xã hội và tài chính cơ bản nào, sẽ là sự quan tâm của bất kỳ nhà tài trợ bên
ngoài nào.
2.3.2 Vai trò của các tổ chức quần chúng trong ngành Tài chính vi
mô.
Cơ cấu chính quyền do Đảng lãnh đạo của Việt Nam đã tạo điều kiện cho
các Tổ chức Quần chúng trở thành bên liên quan quan trọng trong ngành tài
chính vi mô ở cả hai mức độ chính sách và hoạt động. Tuy nhiên, có thể thấy rõ
rằng vai trò của các tổ chức này trong tương lai cần phải xem xét lại theo tinh
thần của Nghị định 28 và theo tinh thần về lợi thế so sánh của các tổ chức này
trong việc tă ng cường ngành tài chính vi mô.
Tác động của Nghị định 28 là ở chỗ toàn bộ các dự án hiện tại về tài
chính vi mô của Tổ chức Quần chúng lẽ ra phải được xem như là những thực
thể bền vững về tài chính và luật pháp riêng biệt, hoặc đơn giản là nằm ngoài
(phải tách biệt) với các Tổ chức Quần chúng có lựa chọn duy trì quyền sở hữu
với phần vốn cổ phần. Ngoại trừ một số miễn trừ (ngưỡng) dành cho các Tổ
chức Cung cấp Tài chính Vi mô loại nhỏ được đề cập trong Thông tư của Nghị
định 28, toàn bộ các dự án này sẽ không được phép hoạt động căn cứ trên Nghị
định này.
Việc huy động phụ nữ nghèo tham gia vào nhóm tín dụng và tiết kiệm và
tạo điều kiện tiếp cận đào tạo cơ bản về quản lý nhóm, kỹ n ăng tài chính và các

Dịch vụ Phát triển Kinh doanh (BDS) phi tài chính chủ yếu nằm trong khuôn
khổ thẩm quyền của Hội Phụ nữ, và Hội Phụ Nữ thực sự là có sức mạnh thể chế
mang tính so sánh lớn trong việc thúc đẩy trao quyền kinh tế cho người nghèo.
Tuy nhiên, cũng chưa rõ ràng rằng Hội Phụ nữ với tư cách là một tổ chức quần
chúng chính trị với một chương trình nghị sự rộng lớn lại sẽ quan tâm đến thực
hiện nhiệm vụ cam go là chuyển đổi một phần hoặc toàn bộ tổ chức của mình
thành một nhà cung cấp tài chính vi mô độc lập với nhà tài trợ, bền vững và đáp
ứng nhu cầu thị trường. Hội Phụ nữ có một thành tích tuyệt vời khi là đơn vi tạo
thuận lợi cho việc gia tăng tiếp cận của phụ nữ nghèo đến các dịch vụ tài chính
và phi tài chính. Tuy nhiên, đó không phải là một sự lựa chọn tôt để trở thành
một nhà cung cấp dịch vụ tài chính vi mô chính thức và theo điều tiết, cạnh
tranh với (hoặc thậm chí thay thế) Ngân hàng Chính sách Xã hội. Thực sự,
giống như các tổ chức quần chúng khác, Hội Phụ nữ không nhất thiết phải đưa
1

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao6 học TCNH

Page


Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

ra mục tiêu trở thành tổ chức tài chính vi mô chuyên môn hóa, và đã đi tiên
phong trong việc đưa ra một số chiến lược lựa chọn hoàn hảo sau:
Một vài dự án tài chính vi mô do các tổ chức Phi chính phủ Quốc tế tài trợ
và có nhà tài trợ được thực hiện với sự hợp tác của Hội Phụ nữ đã xây dựng mối
liên kết với các cơ quan tài chính chính thức cho các khách hàng của họ, và
cung cấp cho khách hàng khả n ng tiếp cận tín dụng bền vững cũng như các
dịch vụ tiết kiệm chuyên ngành và hợp pháp. Trong số các dự án này, phải đặc
biệt chú ý đến Dự án Quy mô hoạt động của Tài chính Nông thôn Việt NamCanada được hoàn tất vào tháng 12/2003. Sau khi kết thúc dự án, Hội Phụ nữ đã

ký kết một Kế hoạch thể chế hóa để mở rộng hoạt động ra các nơi khác các sản
phẩm tín dụng và tiết kiệm tài chính vi mô mà đã được thử nghiệm thành công
và được xây dựng một cách cụ thể, những sản phẩm này do Ngân hàng NN và
PTNT cung cấp nhằm phục vụ đối tượng là phụ nữ nghèo nông thôn được huy
động tham gia vào các nhóm thông qua Hội phụ nữ các cấp trên cả nước. Tương
tự, sau khi kết thúc Dự án Tín dụng và Tiết kiệm do UNICEF tài trợ, khách
hàng được kết với ngân hàng và tiền tài trợ cho vay được tái phân bổ nhằm nâng
cao năng lực.
Hạn chề về chính sách đối với TCVM
Hoạt động TCVM đã phát triển tại nước ta từ lâu ví dụ : TCVM TYM ra
đời năm 1992 nhưng đến tháng 3/2005 nhà nước mới ban hành nghị định số
28/2005/NĐ-CP ngày 9/3/2005 nhưng vẫn chưa có một khung pháp lý nào cho
hoạt động tài chính vi mô. Và người ta cũng có thể lập luận tương tự là cũng
chưa có một chính sách tài chính vi mô hay ít nhất là chưa đạt được sự đồng
thuận nào về chính sách. Nguyên nhân của vấn đề này là do: Ngân hàng Nhà
nước và các nhà tài trợ chính cho tới nay có thể là đúng khi chủ yếu mới tập
trung trực tiếp vào cải cách rộng rãi hệ thống tài chính. Những thách thức và
những vấn đề của tài chính vi mô vẫn chưa được quan tâm nhiều và Chính phủ
cũng thiếu một chiến lược rõ ràng về dài hạn nhằm đạt được tài chính vi mô bền
vững.
Xu thế phổ biến trước đây và hiện nay vẫn vậy là xem tài chính vi mô
như là một công cụ xã hội chống lại đói nghèo và tín dụng vi mô như một công
cụ cho vay chính sách cần được bao cấp. Cách tiếp cận này được phản ánh trong
các chính sách chung của chính phủ về xoá đói giảm nghèo và đưa ra hai biến
1

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao7 học TCNH

Page



Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

dạng cụ thể:
+ Lãi suất thông qua các Ngân hàng thương mại quốc doanh làm hạn chế
một cách ngấm ngầm khả nă ng ấn định mức lãi suất của các tổ chức tài chính vi
mô để bù đắp chi phí bị loại bỏ dần dần.
+ Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam (VBSP), chịu một nửa lãi suất
của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, là đối tượng
được miễn thuế và được chính phủ Việt Nam bảo lãnh. Các chính sách liên quan
tới Ngân hàng chính sách xã hội và một chừng mực nào liên quan tới Ngân
hàng Phát triển Việt Nam cho dù là họ có thiện chí đến thế nào đi chăng nữa, đã
gây ra những biến dạng trong hệ thống, làm suy giảm việc huy động nguồn lực
và có thể làm xói mòn sự bền vững của các nhà cung cấp tài chính vi mô.
Nhìn chung, sự thiếu vắng một môi trường chính sách nhất quán và một
ngành tài chính vi mô hướng đến thương mại phản ánh nhận thức phổ biến coi
tài chính vi mô, có thể là do thiếu lựa chọn khác có tính khả thi, là một công cụ
xoá đói giảm nghèo, khác biệt và vì thế bị loại ra khỏi những hoạt động thông
thường của ngành tài chính. Trên nhiều khía cạnh, điều này cũng phản ảnh
những quan ngại về ngành tài chính rộng lớn hơn và những thách thức khó kh
ăn trong thời kỳ quá độ của một nền kinh tế thị trường tự do.
Nghị định về Tài chính vi mô (Nghị định 28) đưa ra cơ sở pháp lý cần
thiết cho tài chính vi mô bán chính thức nhưng dường như không hẳn là sự đồng
thuận về chính sách nói chung coi tài chính vi mô là một phần không thể tách
rời của hệ thống tài chính. Trong thực tế, sự thiếu đồng thuận về vai trò, chức
năng và hoạt động của tài chính vi mô đã làm chậm quá trình xây dựng pháp
luật. Vẫn còn những nghi ngờ rằng việc thực thi hoạt động theo các Thông tư
của Nghị định 28 sẽ có thể đem lại nền tảng pháp lý và quản lý cần thiết cho tài
chính vi mô với điều kiện là có những khác biệt về chính sách giữa Ngân hàng
Nhà nước và Bộ Tài chính với những bên liên quan chủ chốt khác về chính trị ở

Việt Nam.
Vì thế, sẽ là thích hợp cho các bên liên quan chủ chốt này cân nhắc việc
xem xét lại một vài khía cạnh trong môi trường chính sách, một phần của chiến
lược tài chính vi mô toàn diện nhằm đặt tài chính vi mô vào hệ thống tài chính
một cách đầy đủ hơn.
1

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao8 học TCNH

Page


Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

Hạn chế về mặt pháp lý
Với việc ban hành Nghị định 28 về “Tổ chức và Hoạt động của các Tổ
chức Tài chính vi mô" vào tháng 3/2005, Việt nam đã tiến một bước quan trọng
theo hướng tạo ra một khung chính sách thuận lợi hơn cho tài chính vi mô mặc
dù thiếu một thoả thuận chiến lược lâu dài giữa các bên liên quan chính ở Việt
Nam về vai trò, chức năng và hoạt động của tài chính vi mô ở quốc gia này.
Trong thực tế, Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành quá trình chuẩn bị Nghị định
28 nhưng chịu nhiều sức ép về việc tạo ra một môi trường chính sách thuận lợi
từ các nhà tài trợ nước ngoài và các tổ chức phi chính phủ quốc tế nhiều hơn là
từ các bên liên quan trong nước, những tổ chức có thể bị ảnh hưởng bởi Nghị
định, chẳng hạn như Các tổ chức quần chúng trong đó có Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã nhận được công thư của Thủ
tướng Chính phủ cho phép tiếp tục các hoạt động tiết kiệm và tín dụng để giảm
đói nghèo mà về nguyên tắc không bị Nghị định gạt sang một bên. Vì thế,
những bên tham gia chính này trên thị trường gần như không có lý do để ủng hộ
cho sự thay đổi hay làm việc với Ngân hàng Nhà nước để thực hiện Nghị định

28. Ngoài ra, Nghị định 28 cũng không áp dụng cho Ngân hàng chính sách xã
hội và do đó Nghị định này sẽ không thay đổi quyền hạn của ngân hàng mà
Nghị định cũng đưa ra về cung cấp tín dụng cho người nghèo với lãi suất được
trợ cấp.
Nghị định 28 đưa ra một nền tảng pháp lý cho những hoạt động tài chính
vi mô trong tương lai và sự hợp pháp về pháp lý và quản lý cho các Tổ chức Tài
chính vi mô (MFI). Nó sẽ góp phần làm minh bạch hơn và hoạt động chuyên
nghiệp hơn. Trong khi được hoạch định một cách rộng rãi, Nghị định bao gồm
hầu hết các điều khoản thông thường được chấp nhận cho pháp lý về tài chính vi
mô, đặc biệt là liên quan tới bảo đảm những khoản tiền gửi mà các MFI trung
gian nhận được. Tuy nhiên, Nghị định chưa thừa nhận rằng những thông lệ tốt
trong luật định về tài chính vi mô nói chung không hàm ý là cơ chế điều chỉnh
khắt khe mang tính cẩn trọng cho tất cả các nhà cung cấp, lớn và nhỏ, vì một rủi
ro hệ thống phát sinh từ việc trung gian hoá những khoản tiền gửi là hạn chế
trong nhiều trường hợp nhưng đó là nền tảng pháp lý cơ bản, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc chuyển đổi các cơ chế bán chính thức, nhất là cơ chế do các
tổ chức phi chính phủ điều hành trở thành các tổ chức tài chính vi mô hợp pháp
1

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao9 học TCNH

Page


Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

về mặt thương mại, có thể theo đuổi các “dòng đáy kép” của dịch vụ tài chính
dành cho người nghèo một cách bền vững. Hơn nữa, do thiếu một chiến lược tài
chính vi mô và rõ ràng là thiếu sự đồng thuận về những vấn đề thực thi nên đã
làm cho việc ban hành các Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định 28 bị chậm

trễ đáng kể.
Nghị định chia các Tổ chức tài chính vi mô (MFI) thành hai loại tổ chức có điều
tiết:
Các tổ chức tài chính vi mô không được phép giữ tiền tiết kiệm tự
nguyện, yêu cầu vốn pháp định là 500 triệu đồng (31.250 USD), và Các tổ chức
tài chính vi mô được phép huy động tiết kiệm tự nguyện, yêu cầu nâng mức vốn
pháp định tối thiểu là 5 tỷ đồng (310.000 USD).
Nghị định không giải quyết vấn đề thiết yếu là chủ sở hữu và ủng hộ
mạnh mẽ cho nhu cầu làm rõ tính thương mại của một tổ chức tài chính. Nghị
định không cho phép các thực thể tư nhân thành lập các tổ chức tài chính vi mô,
chỉ những Tổ chức quần chúng và những tổ chức phi chính phủ (phi lợi nhuận)
Việt Nam (mà những tổ chức này vẫn chưa có quy định pháp lý cụ thể tại Việt
Nam) có thể sở hữu các tổ chức tài chính vi mô được cấp phép, tổ chức này phải
là thực thể pháp lý có Giấy đă ng ký kinh doanh và một cơ cấu quản trị riêng
biệt. Tuy nhiên, các tổ chức Việt Nam và nước ngoài khác được phép góp vốn
với tư cách là chủ sở hữu thiểu số. Vấn đề chủ sở hữu có thể cản trở sự phát
triển của tài chính vi mô vì việc mở cửa thị trường cho những thực thể tư nhân
sở hữu thường khuyến khích các dòng vốn mà hiện tại chưa có. Hiện nay, Ngân
hàng nhà nước đã phần nào cho phép các tổ chức tài chính vi mô đă ng ký theo
Luật doanh nghiệp như là những công ty trách nhiệm hữu hạn được bảo đảm
ngoài Nghị định 28 ra. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực tư nhân
tham gia nhưng cũng đòi hỏi những Thông tư hướng dẫn Nghị định 28 phải xác
định rõ các biểu đồ riêng cho tài chính vi mô về tài khoản, các thực tiễn kế toán
và các chỉ số thận trọng hiện tại chưa phải là một phần tất yếu của Luật Doanh
nghiệp sẽ phải được ưu tiên đưa ra trước để dung hoà tốt hơn các quy định kế
toán hiện tại cho Doanh nghiệp với các Thực tiễn Tài chính vi mô Tốt. Ngoài ra,
còn một số những băn khoăn về Nghị định như:
Nghị định chưa tính đến việc tiếp tục tín dụng và tiết kiệm ở bất kỳ quy
mô nào trừ khi những hoạt động này được cấp phép, đưa tất cả hoạt động tài



2

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao0 học TCNH

Page


Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

chính vi mô ở Việt nam phải xin cấp phép theo Nghị định.
ở hầu hết các nước đang phát triển, các hoạt động tín dụng và tiết kiệm trên cơ
sở thành viên, quy mô nhỏ và địa phương được miễn phải xin cấp phép chính
thức vì những hoạt động này có rủi ro hệ thống hạn chế hoặc không có nguy cơ
rủi ro hệ thống và vì năng lực giám sát của mọi ngân hàng trung ương đối với
những cơ chế như vậy còn hạn chế. Ngân hàng nhà nước tán thành với quan
điểm này nhưng đương nhiên vẫn phải đưa ra những thông tư hướng dẫn cho
hoạt động trong khuôn khổ của Nghị định.
Theo Nghị định, các hoạt động hiện nay phải trang trải mọi chi phí hoạt
động để có được giấy phép. Tuy nhiên, chỉ khoảng 1/3 chương trình bán chính
thức hiện nay hoạt động ổn định và vì thế họ phải tìm kiếm nhà tài trợ để chi trả
cho những thua lỗ cho tới khi doanh thu bù đắp được chi phí - hoặc có thể đưa
ra quyết định khả thi rút lui từng bước một và chuyển danh mục tài chính vi mô
của mình cho những nhà cung cấp dịch vụ tài chính triển vọng hơn.

2

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao1 học TCNH

Page



Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

Chương 3: Nhận định xu thế phát triển tài chính vi mô
tại Việt nam và đề xuất các khuyến nghị nâng cao hiệu quả của TCVM
3.1 Nhận định xu thế phát triển tài chính vi mô
Nhận thức được vai trò quan trọng của tài chính vi mô như là một công
cụ hữu hiệu để xóa đói giảm nghèo, Thủ tướng Chính phủ đã phê chuẩn Chiến
lược phát triển tài chính vi mô của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 với mục tiêu
chuyển đổi ngành tài chính vi mô thành một ngành vững mạnh theo định hướng
thị trường, đảm bảo sự tiếp cận dịch vụ cho tất cả khách hàng với các tổ chức
tham gia dịch vụ tài chính vi mô mạnh; cung cấp nhiều dịch vụ tài chính có chất
lượng cho các hộ gia đình nghèo và thu nhập thấp; tăng cường cơ hội phát triển
kinh tế cho người dân.
Được biết, Chương trình Phát triển Tài chính vi mô sẽ hướng tới hợp nhất tài
chính vi mô vào thị trường tài chính chính thức thông qua thúc đẩy phát triển
các tổ chức tài chính vi mô mới nổi trở thành các tổ chức tín dụng chính thức
được Ngân hàng Nhà nước cấp phép hoạt động, đồng thời khuyến khích cải
cách và tái cơ cấu các tổ chức tín dụng của nhà nước có liên quan đến tài chính
vi mô như Ngân hàng Chính sách Việt Nam và Quỹ Tín dụng Nhân dân Trung
ương. Chương trình cũng giúp nâng cao năng lực hoạt động và giám sát tài
chính vi mô, và hỗ trợ phát triển các cơ sở hạ tầng của khu vực tài chính, bao
gồm cơ sở đào tạo, các chương trình tuyên truyền, và kế hoạch bảo vệ người
tiêu dùng cũng như thiết lập một hệ thống trao đổi thông tin tín dụng...
Như vậy, cần khắc phục các điểm yếu này để có thể tăng cường thu hút
tiền gửi tiết kiệm từ người dân. Việc đưa ra các giải pháp có thể tiếp cận trên
hướng: chính sách và nâng cao năng lực huy động. Đối với chính sách, cần tạo
điều kiện hỗ trợ đối với các TCVM trong huy động tiết kiệm về mặt cơ chế (dự
trữ bắt buộc, bảo hiểm tiền gửi). Đồng thời tiếp tục nhất quán chính sách chống

cho vay nặng lãi, có chế tài hữu hiệu đối với các hành vi tổ chức tín dụng đen,
cho vay nặng lãi. Một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng là chính
sách lãi suất, lãi suất phải đảm bảo đủ bù đắp được chi phí hoạt động, tình trạng
mất vốn, tình trạng lạm phát. Như kinh nghiệm của Indonesia, kể từ khi chính

2

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao2 học TCNH

Page


Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

sách lãi suất được thay đổi theo hướng thị trường, các tổ chức TCVM được
quyền quyết định lãi suất huy động, cho vay theo đối tượng khách hàng.
Song song với chính sách hỗ trợ của Nhà nước và phổ biến nâng cao nhận thức
người dân, việc nâng cao năng lực, đầu tư công nghệ, nhân sự tạo thuận lợi cho
công tác huy động tiết kiệm của các tổ chức TCVM cũng cần được hoàn thiện.
Một trong những đối tượng khách hàng cần đặc biệt chú trọng đó là phụ nữ.
Đây là những người tham gia chủ yếu vào TCVM cả ở chiều vay vốn và tiết
kiệm do đặc thù giới tính, đặc biệt ở các hộ gia đình thu nhập thấp, ở khu vực
nông thôn.
3.2 Một số đề xuất phát triển hoạt động tài chính vi mô Việt Nam
Để phát triển hoạt động tài chính vi mô, cần quan tâm giải quyết một số
vấn đề sau:
-Xây dựng chiến lược chuyển dần từ TCVM bán chính thức sang TCVM chính
thức để khách hang có nhu cầu tiếp nhận ngày càng nhiều hạn chế “tín dụng
đen” gây hậu quả đến đời sống xã hội, nhất là các hộ nghèo.
- Ngân hàng Nhà nước cần ưu đãi cho tổ chức tín dụng như nguồn vốn tham gia

vào tổ chức tài chính vi mô không bị giảm trừ khi tính tỷ lệ an toàn vốn hoạt
động của tổ chức tín dụng.
- Nguồn vốn hoạt động, bên cạnh các nguồn vốn từ tiết kiệm bắt buộc, vốn tài
trợ khác thì các tổ chức tài chính vi mô cần có cơ chế cộng biên độ lãi suất khi
huy động tiết kiệm tự nguyện để tạo nguồn vốn ổn định lâu dài. Tương tự, khi
cho vay cũng được cộng biên độ cao hơn các mức vay thông thường nhằm đảm
bảo tính linh hoạt với từng đối tượng vay và đảm bảo thu nhập cho tổ chức tài
chính vi mô để tồn tại.
- Khi cho vay, khuyến khích cho vay theo tổ/nhóm để tăng tính hỗ trợ và thanh
toán lẫn nhau giữa các thành viên trong tổ.
- Lãi suất và phí, các tổ chức tài chính vi mô cần hướng tới khung lãi suất thị
trường để tránh tâm lý ỷ lại của người vay hoặc tiêu cực trong xét duyệt cho
vay, bảo lãnh, thanh toán..

2

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao3 học TCNH

Page


Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

- Về sản phẩm dịch vụ, các cổ đông chiến lược cần hỗ trợ tổ chức tài chính vi
mô xây dựng sản phẩm dịch vụ đa dạng, phù hợp cho vay nhỏ lẻ như cho vay
trả góp, tái tục, lưu vụ với mức lãi suất có tích lũy. Các nghiệp vụ chuyển tiền,
bảo lãnh, đại lý bảo hiểm, thu chi hộ… cần phát triển theo nhu cầu và năng lực
của tổ chức tài chính vi mô. Trong tương lai phát triển các sản phẩm tài chính
phái sinh để phòng ngừa rủi ro và tăng hiệu quả hoạt động.
- Về công nghệ thông tin, do tính giản đơn của nghiệp vụ nên chỉ cần lựa chọn

hệ thống công nghệ thông tin đủ quản lý tích hợp, bảo mật và an toàn, phù hợp
từng giai đoạn phát triển.
Tóm lại, tổ chức tài chính vi mô là một loại hình tổ chức tín dụng có vai trò
quan trọng trong nền kinh tế như các loại hình tổ chức tín dụng khác. Vì vậy,
hoàn thiện và phát triển loại hình tài chính vi mô là hết sức cần thiết nhằm góp
phần hoàn thiện hệ thống tài chính nói riêng, thúc đẩy phát triển bền vững đời
sống xã hội nói chung.

2

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao4 học TCNH

Page


Tiểu luận :“Phân tích và nhận định các dịch vụ của Tài chính vi mô - Xu thế phát triển ”

PHẦN KẾT LUẬN
Với những ưu việt của hoạt động TCVM trong triển khai công tác xóa đói giảm
nghèo, Chính phủ Việt Nam đã sớm tạo điều kiện cho các hoạt động TCVM
phát triển. Từ những năm cuối của thập niên 80 thế kỷ trước, hoạt động TCVM
đã xuất hiện ở Việt Nam dưới dạng các chương trình, dự án do các tổ chức quốc
tế, tổ chức phi chính phủ và các chương trình hỗ trợ phát triển chính thức song
phương và đa phương. Ngày 08/03/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
28/2005/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ tại
Việt Nam. Từ đó, khung pháp lý cho hoạt động TCVM ngày càng được hoàn
thiện với việc chính thức công nhận các TCTCVM là một loại hình trong hệ
thống tổ chức tín dụng chính thức tại Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010. Đặc
biệt, ngày 06/12/2011 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2195/QĐ-TTg
về việc Phê duyệt “Đề án xây dựng và phát triển hệ thống TCVM tại Việt Nam

đến năm 2020” với các giải pháp trọng tâm về xây dựng môi trường pháp lý phù
hợp với đặc thù của hoạt động TCVM, nâng cao năng lực hoạch định chính sách
và quản lý của cơ quan quản lý nhà nước, nâng cao năng lực của các TCTCVM,
tuyên truyền, nâng cao nhận thức về TCVM…
NHNN đã luôn đồng hành cùng với các TCTCVM trong việc thực hiện
mục tiêu giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội như: Ban hành các chính sách về
thúc đẩy TCVM, các hoạt động cấp tín dụng ưu đãi cho người nghèo, người có
thu nhập thấp, các hoạt động an sinh xã hội.
2

Học viên thực hiện : Hoàng Xuân Chính – Lớp Cao5 học TCNH

Page


×