Tải bản đầy đủ (.doc) (133 trang)

Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Vũ Quang tỉnh Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.69 MB, 133 trang )

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1

Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là tư liệu

sản xuất đặc biệt, là bộ phận hợp thành quan trọng của môi trường sống và tổ
chức các hoạt động kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng. Còn đối với sản xuất
nông nghiệp, đất đai là tư liệu không thể thay thế được.
Với sức ép gia tăng dân số cùng với sự phát triển về nhu cầu phát triển
của xã hội, đất để sản xuất nông nghiệp ngày càng giảm mạnh về cả số lượng
và chất lượng. Sử dụng đất đai một cách có hiệu quả và bền vững đang là yêu
cầu cấp thiết đặt ra đối với toàn cầu và mỗi quốc gia.
Sản xuất nông nghiệp nước ta có những đặc trưng như: sản xuất còn
manh mún, công nghệ lạc hậu, năng suất chất lượng còn thấp. Tuy nhiên trong
một vài thập kỉ gần đây nền nông nghiệp nước ta đã có những chuyển biến,
góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sản xuất nông
nghiệp không những đảm bảo cho an ninh lương thực quốc gia mà còn có một
số lượng khá lớn được xuất khẩu.
Nguồn tài nguyên đất đai có hạn về diện tích, trong khi đó diện tích
đất nông nghiệp bị thu hẹp dần do sức ép của gia tăng dân số, quá trình đô
thị hóa và công nghiệp hoá thì mục tiêu sử dụng đất có hiệu quả là hết sức
cần thiết. Chính vì vậy việc phát huy và mở rộng những loại hình sử dụng
đất vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao vừa bền vững là vấn đề mang tính
chiến lược lâu dài. Hiện nay đã có những nghiên cứu sử dụng đất bền vững
cho một số vùng sinh thái, phạm vi cấp tỉnh và một số vùng sản xuất đặc
trưng. Tuy nhiên, ở những phạm vi cấp huyện thì những nghiên cứu đánh giá
mang tính ứng dụng thực tiễn nhằm xác định các loại hình sử dụng đất hiệu
quả và bền vững còn hạn chế.

1




Vũ Quang là huyện miền núi nằm trong vùng Tây Bắc của tỉnh Hà
Tĩnh. Toàn huyện có 12 đơn vị hành chính cấp xã với tổng diện tích tự nhiên
63821,13ha, chiếm 10,64% diện tích tự nhiên của toàn tỉnh. Trên địa bàn
huyện có tuyến đường chiến lược Hồ Chí Minh - trục xuyên Việt phía Tây của
cả nước; đã tạo nên những thuận lợi quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội
của huyện trong tương lai khi nền kinh tế của cả nước hội nhập với khu vực
và thế giới.
Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp vẫn là mũi nhọn trong nền kinh tế của
huyện nhưng còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, nên sản lượng
ngành nông nghiệp chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường hiện
nay. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng đó là việc
bố trí cơ cấu cây trồng vật nuôi chưa hợp lý, không tận dụng được lợi thế về
đất đai, khí hậu ở từng tiểu vùng của huyện. Mặt khác, đất đai của huyện khá
đa dạng về loại hình thổ nhưỡng, địa hình lại phức tạp, có những yếu tố thuận
lợi nhưng cũng không ít khó khăn cho việc khai thác sử dụng đất.
Bên cạnh đó, trên thế giới và ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên
cứu đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuât nông nghiệp, nhưng ở tỉnh Hà
Tĩnh đề tài nghiên cứu trong lĩnh vực này còn rất ít, riêng ở huyện Vũ Quang
lĩnh vực này chưa có công trình nghiên cứu nào.
Từ những vấn đề khoa học và thực tiễn sản xuất đang diễn ra ở huyện
Vũ Quang như đã trình bày ở trên, để góp phần thực hiện thành công các mục
tiêu phát triển nông nghiệp của huyện, nhằm nâng cao đời sống cho người nông
dân. Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá hiệu quả sử dụng
đất sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Vũ Quang - tỉnh Hà Tĩnh”
1.2

Mục đích, yêu cầu


1.2.1

Mục đích

- Đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất nhằm góp phần giúp người

2


dân lựa chọn phương thức sử dụng đất phù hợp trong điều kiện cụ thể của huyện.
- Đưa ra giải pháp sử dụng đất có hiệu quả cao hơn đáp ứng yêu cầu phát
triển nông nghiệp bền vững
1.2.2

Yêu cầu

- Đánh giá trung thực, sát với thực tế tình hình sử dụng đất của địa bàn
nghiên cứu.
- Các giải pháp đưa ra có tính khả thi, phù hợp với địa bàn nghiên cứu.
1.3

Ý nghĩa

1.3.1

Ý nghĩa khoa học

Góp phần bổ sung lý luận về phương pháp đánh giá các loại hình sử
dụng đất và bổ sung cơ sở thực tiễn để đánh giá đất đai theo FAO cho vùng
sản xuất.

1.3.2

Ý nghĩa thực tiễn

Đánh giá được hiệu quả các loại hình sử dụng đất hiện tai, góp phần xây
dựng định hướng các loại hình sử dụng đất có hiệu quả để phục vụ cho công
tác đánh giá đất, quy hoạch và sử dụng đất trên địa bàn huyện Vũ Quang, tỉnh
Hà Tĩnh.

3


2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1

Đất nông nghiệp và tình hình sử dụng đất nông nghiệp

2.1.1

Khái quát về đất nông nghiệp, đất sản xuất

nông nghiệp
Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất
nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc nghiên cứu
thí nghiệm về nông nghiệp. Theo Luật đất đai năm 2003, đất nông nghiệp
được chia ra làm các nhóm đất chính sau: đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm
nghiệp, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối và đất nông nghiệp khác. Trong
đó, đất sản xuất nông nghiệp cũng được chia thành: đất trồng cây hàng năm
(Đất trồng Lúa, đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm
khác) và đất trồng cây lâu năm [9].

Trong giai đoạn kinh tế - xã hội phát triển, mức sống của con người còn
thấp, công năng của đất là tập trung vào sản xuất vật chất, đặc biệt trong sản
xuất nông nghiệp chủ yếu là sản xuất nhỏ lẻ, tự cung tự cấp để phục vụ nhu cầu
thiết yếu: ăn, mặc, ở…Khi con người biết sử dụng đất đai vào cuộc sống cũng
như sản xuất thì đất đóng vai trò quan trọng trong hiện tại và tương lai.
Cùng với việc phát triển mạnh mẽ công nghệ và khoa học, kỹ thuật đã
đem lại thành tựu kỳ diệu làm thay đổi bộ mặt trái đất và cuộc sống nhân loại.
Nhưng do chạy theo lợi nhuận tối đa cục bộ không có 1 chiến lược phát triển
chung nên đã gây ra những hậu quả tiêu cực: ô nhiễm môi trường, thoái hoá
đất… Hàng năm gần 12 triệu ha rừng nhiệt đới bị tàn phá ở Châu Mỹ La Tinh
và Châu Á. Cân bằng sinh thái bị phá vỡ, hàng triệu ha đất đai bị hoang mạc
hoá. Theo kết quả điều tra của UNDP và trung tâm thông tin nghiên cứu đất
quốc tế (ISRIC) đã cho thấy: thế giới có khoảng 13,4 tỷ ha đất thì đã có 2 tỷ
ha đất bị hoang hoá ở các mức độ khác nhau trong đó Châu Á và Châu Phi là

4


1,2 tỷ ha chiếm 62% tổng diện tích bị thoái hoá. Số liệu trên cho thấy đất đai
bị thoái hoá tập trung ở các nước đang phát triển.
Trong lịch sử phát triển của thế giới bất kỳ nước nào dù phát triển hay
đang phát triển thì việc sản xuất nông nghiệp đều có vị trí quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân, tạo ra sự ổn định xã hội và mức an toàn lương thực quốc gia.
Sản phẩm nông nghiệp là nguồn tạo ra thu nhập ngoại tệ, tuỳ theo lợi thế của
mình mà mỗi nước có thể xuất khẩu thu ngoại tệ hay trao đổi lấy sản phẩm
công ngiệp để đầu tư lại cho nông nghiệp và các ngành khác trong nền kinh tế
quốc dân.
Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nhằm thoả mãn nhu cầu cho
xã hội về nông sản phẩm đang trở thành một trong các mối quan tâm lớn nhất
của người quản lý và sử dụng đất.

2.1.2

Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới

Đất nông nghiệp là nhân tố vô cùng quan trọng đối với sản xuất nông
nghiệp. Trên thế giới, mặc dù nền sản xuất nông nghiệp của các nước phát
triển không giống nhau nhưng tầm quan trọng đối với đời sống con người thì
quốc gia nào cũng thừa nhận. Hầu hết các nước coi sản xuất nông nghiệp là
cơ sở nền tảng của sự phát triển. Tuy nhiên, khi dân số ngày một tăng nhanh
thì nhu cầu lương thực, thực phẩm là một sức ép rất lớn. Để đảm bảo an ninh
lương thực loài người phải tăng cường các biện pháp khai hoang đất đai. Do
đó, đã phá vỡ cân bằng sinh thái của nhiều vùng, đất đai bị khai thác triệt để
và không còn thời gian nghỉ, các biện pháp gìn giữ độ phì nhiêu cho đất chưa
được coi trọng. Kết quả là hàng loạt diện tích đất bị thoái hoá trên phạm vi
toàn thế giới qua các hình thức bị mất chất dinh dưỡng và chất hữu cơ, bị xói
mòn, bị nhiễm mặn và bị phá hoại cấu trúc của tầng đất... Người ta ước tính
có tới 15% tổng diện tích đất trên trái đất bị thoái hoá do những hành động bất
cẩn của con người gây ra [15]. Theo P.Buringh, toàn bộ đất có khả năng nông

5


nghiệp của thế giới chừng 3,3 tỷ ha (chiếm 22% tổng diện tích đất liền);
khoảng 78% (xấp xỉ 11,7 tỷ ha) không dùng được vào nông nghiệp.
Đất trồng trọt là đất đang sử dụng, cũng có loại đất hiện tại chưa sử dụng
nhưng có khả năng trồng trọt. Đất đang trồng trọt của thế giới có khoảng 1,5 tỷ
ha (chiếm xấp xỉ 10,8% tổng diện tích đất đai và 46% đất có khả năng trồng
trọt). Như vậy, còn 54% đất có khả năng trồng trọt chưa được khai thác.
Đất đai trên thế giới phân bố ở các châu lục không đều. Tuy có diện tích
đất nông nghiệp khá cao so với các châu lục khác nhưng châu Á lại có tỷ lệ

diện tích đất nông nghiệp trên tổng diện tích đất tự nhiên thấp. Mặt khác, châu
Á là nơi tập trung phần lớn dân số thế giới, ở đây có các quốc gia dân số đông
nhất nhì thế giới là: Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia. Ở châu Á, đất đồi núi
chiếm 35% tổng diện tích. Tiềm năng đất trồng trọt nhờ nước trời nói chung là
khá lớn khoảng 407 triệu ha, trong đó xấp xỉ 282 triệu ha đang được trồng trọt
và khoảng 100 triệu ha chủ yếu nằm trong vùng nhiệt đới ẩm của Đông Nam
Á. Phần lớn diện tích này là đất dốc và chua; khoảng 40 - 60 triệu ha trước đây
vốn là đất rừng tự nhiên che phủ, nhưng đến nay do bị khai thác khốc liệt nên
rừng đã bị phá và thảm thực vật đã chuyển thành cây bụi và cỏ dại.
Đất canh tác của thế giới có hạn và được dự đoán là ngày càng tăng do
khai thác thêm những diện tích đất có khả năng nông nghiệp nhằm đáp ứng nhu
cầu về lương thực thực phẩm cho loài người. Tuy nhiên, do dân số ngày một
tăng nhanh nên bình quân diện tích đất canh tác trên đầu người ngày một giảm.
Đông Nam Á là một khu vực đặc biệt. Từ số liệu của UNDP năm 1995 cho
ta thấy đây là một khu vực có dân số khá đông trên thế giới nhưng diện tích đất
canh tác thấp, trong đó chỉ có Thái Lan là diện tích đất canh tác trên đầu người
khá nhất, Việt Nam đứng hàng thấp nhất trong số các quốc gia Asean [9].
2.1.3

Tình hình sử dụng đất nông nghiệp của Việt

Nam

6


Đất sản xuất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào
sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, hoặc nghiên cứu thí nghiệm
về nông nghiệp…Theo kết quả kiểm kê đất đai năm 2005, Việt Nam có tổng
diện tích tự nhiên là 33.093.857 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp chỉ có

10.693.168ha, dân số là 85.846.997 người, bình quân diện tích đất sản xuất
nông nghiệp là 1245,6 m2/ người [2].
Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nhằm thoả mãn nhu cầu cho
xã hội về sản phẩm nông nghiệp đang trở thành vấn đề cấp bách luôn được các
nhà quản lý và sử dụng đất quan tâm. Thực tế cho thấy, trong những năm qua do
tốc độ công nghiệp hoá cũng như đô thị hoá diễn ra khá mạnh mẽ ở nhiều địa
phương trên phạm vi cả nước làm cho diện tích đất nông nghiệp ở Việt Nam có
nhiều biến động. Qua kiểm kê cho thấy cả nước có tổng diện tích tự nhiên
33.093.857 ha bao gồm đất nông nghiệp 26.100.106 ha chiếm 79%, đất phi
nông nghiệp 3.670.186 ha chiếm 11% và đất chưa sử dụng 3.323.512 ha
chiếm 10% diện tích tự nhiên, trong đó có 24.989.102 ha chiếm 75,51% là đã
có chủ sử dụng. So với năm 2005, diện tích đất sản xuất nông nghiệp tăng
1.277.600 ha, trong đó đất trồng lúa có 4.127.721 ha, vượt so với quy hoạch
10,33% nhưng giảm 37.546 ha, bình quân hàng năm giảm 7.000 ha [25]. So
với một số nước trên thế giới, nước ta có tỷ lệ đất dùng vào sản xuât nông
nghiệp rất thấp. Là một nước có đa phần dân số làm nghề nông thì bình quân
diện tích đất canh tác trên đầu người nông dân rất thấp là một trở ngại lớn. Để
vượt qua, phát triển một nền nông nghiệp đủ sức cung cấp lương thực thực
phẩm cho toàn dân và có một phần xuất khẩu cần biết cách khai thác hợp lý
đất đai, cần triệt để tiết kiệm đất, sử dụng đất có hiệu quả cao trên cơ sở phát
triển một nền nông nghiệp bền vững.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, nông nghiệp Việt Nam cũng tồn
tại và phát sinh một số vấn đề:

7


Đất nông nghiệp và đất canh tác bình quân đầu người ngày càng giảm,
do dân số vẫn tiếp tục tăng nhanh, dẫn đến sự thiếu hụt tư liệu cơ bản để phát
triển sản xuất nông nghiệp. Diện tích đất đai bị xói mòn, thoái hóa do việc phá

rừng gây ra cũng đang ngày càng tăng lên.
- Môi trường sinh thái đang bị ô nhiễm nghiêm trọng ở một số địa
phương do chất thải công nghiệp, do sử dụng bừa bãi phân hóa học, hóa chất
trừ sâu, diệt cỏ, gây ô nhiễm đất canh tác, nguồn nước mặt, nước ngầm và để
dư lượng chất độc hại trong nông sản thực phẩm.
- Đói nghèo đang cũng tồn tại ở nhiều vùng miền núi cũng như vùng
nông thôn đồng bằng.
2.1.4

Nguyên tắc và quan điểm sử dụng đất nông

nghiệp bền vững
*. Nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp
Đất đai là nguồn tài nguyên có hạn trong khi đó nhu cầu sử dụng đất
ngày càng gia tăng, đặc biệt đất nông nghiệp có xu hướng ngày càng giảm do
bị trưng dụng sang các mục đích phi nông nghiệp. Vì vậy, sử dụng đất nông
nghiệp ở nước ta với mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội trên cơ sở bảo
đảm an ninh lương thực, thực phẩm, bảo vệ, khôi phục và phát triển rừng,
tăng cường nguyên liệu cho công nghiệp, đảm bảo khả năng phòng hộ môi
trường, bảo vệ tính đa dạng sinh học, bảo vệ hệ động thực vật quý hiếm của
rừng, phát triển công nghiệp chế biến vừa và nhỏ với thiết bị công nghệ tiến
tiến; khai thác tiềm năng lao động, giải quyết công ăn việc làm góp phần xoá
đói, giảm nghèo, thu hút nguồn lực đầu tư, nâng cao vai trò và giá trị đóng
góp của ngành nông - lâm nghiệp vào phát triển kinh tế quốc dân.
Sản xuất nông nghiệp trên cơ sở cân nhắc những mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội, tận dụng được tối đa lợi thế so sánh về điều kiện sinh thái và
không làm ảnh hưởng xấu đến môi trường là những nguyên tắc cơ bản và cần

8



thiết để đảm bảo cho khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên đất. Do đó đất
nông nghiệp cần được sử dụng theo nguyên tắc "đầy đủ, hợp lý và hiệu quả"
- Đầy đủ: Đây là nguyên tắc quan trọng, đảm bảo diện tích đất canh tác
luôn đáp ứng được nhu cầu về an toàn lương thực, diện tích đất nông nghiệp
đáp ứng được tiêu chuẩn môi trường sinh thái được bền vững cũng như nhu
cầu sinh hoạt của con người.
- Hợp lý: Đây là nguyên tắc giúp cho việc khai thác, sử dụng đất đạt
hiệu quả cao nhưng vẫn đảm bảo được tính an toàn và hiệu quả.
- Hiệu quả: Trong khai thác và quản lý sử dụng đất tính hiệu quả cao
nhất cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Mặt khác có những quan điểm đúng
đắn theo xu hướng tiến bộ phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, làm cơ sở
thực hiện sử dụng đất có hiệu quả kinh tế xã hội cao.
*. Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp.
Theo chiến lược phát triển nông nghiệp - nông thôn Việt nam đến năm
2010 [10], quan điểm sử dụng đất nông - lâm nghiệp là:
- Tận dụng triệt để các nguồn lực thuận lợi, khai thác lợi thế so sánh về
khoa học kỹ thuật, đất đai, lao động để phát triển cây trồng, vật nuôi có tỷ
xuất hàng hóa cao, tăng sức cạnh tranh và hướng tới xuất khẩu.
- Áp dụng phương thức sản xuất nông lâm kết hợp, lựa chọn các loại
hình sử dụng đất thích hợp, đa dạng hoá sản phẩm, chống xói mòn, thâm canh
sản xuất bền vững.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông lâm nghiệp trên cơ sở thực hiện
đa dạng hoá cây trồng vật nuôi, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp
với sinh thái và bảo vệ môi trường.
- Phát triển nông lâm nghiệp một cách toàn diện và có hệ thống trên cơ
sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển theo chiều sâu, đáp ứng yêu cầu đa
dạng hoá của nền kinh tế quốc dân.

9



- Phát triển nông nghiệp toàn diện gắn liền với việc xoá đói giảm
nghèo, giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc phòng và phát huy nền văn
hoá truyền thống của các dân tộc, không ngừng nâng cao vai trò nguồn lực
của con người.
- Phát triển kinh tế nông nghiệp trên cơ sở áp dụng khoa học công nghệ
vào sản xuất.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của địa phương phải gắn
liền với định hướng phát triển kinh tế, xã hội của vùng và cả nước.
Ở Việt Nam các hệ thống nông nghiệp bền vững đã có trong các hệ
thống định canh truyền thống. Từ lâu đời, người nông dân Việt Nam đã biết
áp dụng các hệ thống canh tác luân canh, xen canh, gối vụ, canh tác kết hợp
trồng trọt – chăn nuôi – thủy sản – ngành nghề. Ở vùng đồng bằng sông
Hồng, hệ thống canh tác là một tổ hợp cây trồng phong phú: lúa và hoa màu
trên đồng ruộng, cây thực phẩm, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây vật liệu ở
trong vườn, ở hàng rào, chăn nuôi trong vườn nhà, thả cá trong ao, ngoài
đồng; thủ công nghiệp dùng nguyên liệu sẵn có từ nông nghiệp. Hệ thống
nông nghiệp định canh ở vùng đồi núi đặc trưng bởi ruộng bậc thang, vườn
bậc thang: để lại chỏm cây trên đỉnh đồi, san ruộng bậc thang theo đường
đồng mức, ngăn đất các chỗ trũng làm nơi chứa nước tưới lúa và nuôi cá,…
Vùng ven biển để khắc phục hiện tượng cát đụn, cát bay bằng cách trồng các
hàng cây chắn gió, trồng rừng ngập mặn để lấn biển. Những hệ thống định
canh vùng đông Nam bộ đã hình thành trên các giồng đất có nước ngọt,
những vùng đất cao ven sông, đất cù lao giữa sông.
2.1.5

Phương hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam

trong những năm tới

Những năm gần đây, cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta bước đầu đã
gắn phương thức truyền thống với phương thức công nghiệp hoá và đang từng

10


bước giảm bớt tính tự cấp, tự túc, chuyển dần sang sản xuất hàng hoá và
hướng mạnh ra xuất khẩu.
Trên cơ sở thành tựu kỹ thuật nông nghiệp của hơn 20 năm đổi mới, dựa
trên những dự báo về khoa học kỹ thuật, căn cứ vào điều kiện cụ thể, phương
hướng chủ yếu phát triển nông nghiệp Việt Nam trong 10 năm tới sẽ là:
- Tập trung sản xuất nông sản hàng hoá theo nhóm ngành hàng, nhóm
sản phẩm, dựa trên cơ sở dự báo cung cầu của thị trường nông sản trong
nước, thế giới và khai thác tốt lợi thế so sánh của các vùng.
- Xác định cơ cấu sản phẩm trên cơ sở các tiềm năng tự nhiên, kinh tế,
xã hội của từng vùng, lấy hiệu quả kinh tế tổng hợp làm thước đo để xác định
cơ cấu, tỷ lệ sản phẩm hợp lý về các chỉ tiêu, kế hoạch đối với từng nông sản
hàng hoá.
- Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng ngành chăn
nuôi, nhóm cây công nghiệp, rau quả so với cây lương thực. Giảm tỷ trọng lao
động nông nghiệp xuống còn 50%, tăng quỹ đất nông nghiệp bình quân trên
một lao động nông nghiệp. Đồng thời đẩy mạnh công nghiệp hoá, phát triển
ngành nghề công nghiệp, dịch vụ ngoài nông nghiệp. Mặt khác, cần phải phát
triển mạnh các ngành nghề, dịch vụ trong nông nghiệp để giải quyết lao động
nông nhàn.
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách phù hợp với yêu cầu cao hơn của
công nghiệp hoá. Để khuyến khích sản xuất nông sản hàng hoá, khuyến khích
các sản phẩm xuất khẩu, cần tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị
trường và từng bước hoàn thiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đặc biệt là thị trường ruộng đất, tạo ra sự lưu chuyển đất nông

nghiệp nhằm tạo ra các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp hàng hoá với quy
mô thích hợp.
- Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp. Cần ứng

11


dụng đồng bộ các yếu tố khoa học công nghệ vào sản xuất nông sản hàng hoá,
nâng cao trình độ khoa học công nghệ trong sản xuất, chế biến, lưu thông tiếp
thị nông sản hàng hoá.
Sản phẩm làm ra chứa đựng một lượng tri thức khoa học - kỹ thuật và
tổ chức quản lý cao để không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá
thành sản phẩm và tiếp cận tích cực nhất với kinh tế tri thức đang diễn ra trên
toàn cầu.
Đại hội Đảng lần thứ XI đã đề ra mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2011 - 2015: 7,0 - 7,5%/năm. Giá trị gia tăng
công nghiệp - xây dựng bình quân 5 năm tăng 7,8 - 8%; giá trị gia tăng nông
nghiệp bình quân 5 năm 2,6 - 3%/năm. Cơ cấu GDP: nông nghiệp 17 - 18%,
công nghiệp và xây dựng 41 - 42%, dịch vụ 41 - 42%; sản phẩm công nghệ cao
và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt 35% tổng GDP; tỉ lệ lao động qua
đào tạo đạt 55%. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 12%/năm, giảm nhập
siêu, phấn đấu đến năm 2020 cân bằng được xuất nhập khẩu. Vốn đầu tư toàn
xã hội bình quân 5 năm đạt 40% GDP. Tỉ lệ huy động vào ngân sách nhà nước
đạt 23 - 24% GDP; giảm mức bội chi ngân sách xuống 4,5% GDP vào năm
2015. Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động. Tỉ trọng lao động nông - lâm thuỷ sản năm 2015 chiếm 40 - 41% lao động xã hội. Thu nhập của người dân
nông thôn tăng 1,8 - 2 lần so với năm 2010. Tốc độ tăng dân số đến năm 2015
khoảng 1%. Năm 2015, GDP bình quân đầu người khoảng 2.000 USD. Tuổi
thọ trung bình năm 2015 đạt 74 tuổi. Tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giảm bình
quân 2%/năm. Tỉ lệ che phủ rừng năm 2015 đạt 42 - 43%. (Nghị quyết Đại hội

Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng Sản Việt Nam)
2.2

Khái quát về vấn đề hiệu quả sử dụng đất

2.2.1

Khái niệm về loại hình sử dụng đất

12


Loại hình sử dụng đất là bức tranh mô tả thực trạng sử dụng đất của
một vùng đất với những phương thức quản lý sản xuất trong các điều kiện
kinh tế xã hội và kỹ thuật được xác định.
Những loại hình sử dụng đất này có thể hiểu theo nghĩa rộng là các loại
hình sử dụng đất chính (Major type of land use), hoặc có thể được mô tả chi
tiết hơn với khái niệm là các loại hình sử dụng đất (Land Use Type, LUT).
* Loại hình sử dụng đất chính: Là sự phân nhỏ của sử dụng đất trong
khu vực hoặc vùng nông lâm nghiệp, chủ yếu dựa trên cơ sở của sản xuất các
cây trồng hàng năm, lâu năm, lúa, đồng cỏ, rừng, khu giải trí nghỉ ngơi, động
vật hoang dã hoặc/và của công nghệ được dùng đến như tưới nước, cải thiện
đồng cỏ.
Tuy nhiên trong đánh giá đất (LE), nếu chỉ xem xét việc sử dụng đất qua
các loại hình sử dụng đất chính thì chưa đủ, vì chúng chưa phản ánh được.
- Những loại cây trồng hay những giống loài cây gì sẽ được trồng? Điều
này rất quan trọng vì mỗi loài, giống cây khác nhau sẽ đòi hỏi điều kiện đất
đai khác nhau.
- Các loại phân bón được dùng đã đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của các
loại cây trồng chưa? Đôi khi việc sử dụng phân bón không hợp lý còn làm giảm

độ phì đất hoặc chưa ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của việc sử dụng đất đó.
Để trả lời được những vấn đề trên, cần phải có những mô tả chi tiết hơn
trong việc sử dụng đất, vì vậy một khái niệm “Loại hình sử dụng đất” (LUT)
được đề cập đến trong LE.
* Loại hình sử dụng sử dụng đất (Land Use Type – LUT): Là loại hình
đặc biệt của sử dụng đất được mô tả theo các thuộc tính nhất định. Theo
H.Hulzing (1993) [33] các thuộc tính đó bao gồm:
- Thuộc tính sinh học: các sản phẩm và lợi ích khác;
- Thuộc tính kinh tế - xã hội: định hướng thị trường; khả năng vốn; khả

13


năng lao động; kĩ thuật, kiến thức và quan điểm;
- Thuộc tính kỹ thuật và quản lý: sở hữu đất đai và quy mô quản lý đất; sức
kéo/cơ giới hóa; các đặc điểm trồng trọt; đầu tư vật tư; công nghệ được sử dụng;
năng suất và sản lượng; thông tin kinh tế có liên quan đến đầu vào và đầu ra;
- Thuộc tính về cơ sở hạ tầng: các yêu cầu về hạ tầng cơ sở.
Không phải tất cả các thuộc tính trên đều được đề cập đến như nhau
trong trong các dự án LE mà việc lựa chọn các thuộc tính và mức độ mô tả
chi tiết phụ thuộc vào tình hình sử dụng đất của địa phương cũng như cấp độ,
yêu cầu chi tiết và mục tiêu của mỗi dự án LE khác.
2.2.2

Đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất

a. Khái niệm về hiệu quả sử dụng đất
Khái niệm về hiệu quả ngày nay được sử dụng rất rộng rãi, nói đến hiệu
quả được hiểu là công việc đạt kết quả tốt. Hay hiệu quả là kết quả mong
muốn, cái sinh ra kết quả mà con người mong đợi và hướng tới. Trong sản

xuất, hiệu quả có nghĩa hiệu suất, năng suất. Với lĩnh vực kinh doanh thì hiệu
quả là lãi suất, lợi nhuận. Trong lao động thì hiệu quả là năng suất lao động
được đánh giá bằng số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm hoặc bằng số lượng sản phẩm được sản xuất trong một đơn vị thời gian.
Còn trong xã hội, hiệu quả xã hội là có tác dụng tích cực đối với một lĩnh vực xã
hội nào đó.
Đánh giá chất lượng của hoạt động sản xuất là nội dung đánh giá hiệu quả.
Sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cơ cấu cây
trồng, vật nuôi phù hợp là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của hầu
hết các nước trên thế giới [23]. Nó không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà
khoa học, các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh doanh nông nghiệp mà
còn là sự mong muốn của nông dân, những người trực tiếp tham gia vào quá
trình sản xuất nông nghiệp.

14


Khái niệm hiệu quả sử dụng đất phải xuất phát từ luận điểm triết học
của Mác và những nhận thức lí luận của lí thuyết hệ thống, hiệu quả phải
được xem xét trên 3 mặt: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả môi
trường [17].
* Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh mặt chất lượng của
các hoạt động sản xuất. Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu biểu hiện kết quả của hoạt
động sản xuất, nói rộng ra là của hoạt động kinh tế, hoạt động kinh doanh,
phản ánh tương quan giữa kết quả lao động, vật tư, tài chính. Đó là chỉ tiêu
phản ánh trình độ, chất lượng sử dụng của các yếu tố sản xuất kinh doanh
nhằm đạt được kết quả kinh tế tối đa với chi phí tối thiểu. Tuỳ theo mục đích
đánh giá ta có thể đánh giá hiệu quả kinh tế bằng những chỉ tiêu khác nhau
như: năng suất sử dụng vốn, hàm lượng vật tư của sản phẩm, lợi nhuận so với

vốn, thời gian thu lại vốn…
Theo Các Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể là
quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối một cách có kế hoạch thời gian lao
động theo các ngành sản xuất khác nhau. [28]
Theo các nhà khoa học Đức (Stenien, Hanau, Rusteruyer, Simmerman1995): Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu so sánh mức độ tiết kiệm chi phí trong một
đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất
vật chất trong một thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội [17].
Bản chất của hiệu quả kinh tế sử dụng đất là: trên một diện tích đất đai
nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất nhiều nhất, với một
lượng đầu tư chi phí về vật chất và lao động thấp nhất nhằm đáp ứng yêu cầu
ngày càng tăng về vật chất của xã hội. Xuất phát từ lý do này mà trong quá
trình đánh giá đất nông nghiệp cần phải chỉ ra được loại hình sử dụng đất có
hiệu quả kinh tế cao.

15


* Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội trong sử dụng đất hiện nay là phải tạo ra được nhiều
sản phẩm, thu hút được nhiều lao động, đảm bảo đời sống nhân dân, đảm bảo
an ninh lương thực, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển, nội lực và nguồn lực
của địa phương được phát huy; đáp ứng nhu cầu của hộ nông dân về ăn, mặc,
và nhu cầu sống khác; phải tạo ra được sự ổn định và phong phú về thị trường
tiêu thụ. Sử dụng đất phù hợp với tập quán, nền văn hoá của địa phương thì
việc sử dụng đó bền vững hơn, ngược lại sẽ không được người dân ủng hộ.
Theo Nguyễn Thị Vòng và các cộng sự (2001) [24] thì hiệu quả xã hội là
mối tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt xã hội và tổng chi phí bỏ ra.
Hiệu quả về mặt xã hội sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu được xác định
bằng khả năng tạo việc làm trên một diện tích đất nông nghiệp [19];
Từ những quan niệm trên đây của các tác giả cho ta thấy giữa hiệu quả

kinh tế và hiệu quả xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng là tiền đề
của nhau và là một phạm trù thống nhất, phản ánh mối quan hệ giữa kết quả sản
xuất và các lợi ích xã hội mang lại. Trong giai đoạn hiện nay việc đánh giá hiệu
quả xã hội của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp là nội dung được nhiều nhà
khoa học quan tâm.
* Hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường được thể hiện ở chỗ: Loại hình sử dụng đất phải
bảo vệ được độ màu mỡ của đất đai, ngăn chặn được sự thoái hoá đất bảo vệ
môi trường sinh thái. Độ che phủ tối thiểu phải đạt ngưỡng an toàn sinh thái
(>35%) đa dạng sinh học [6].
Hiệu quả môi trường được phân ra theo nguyên nhân gây nên, gồm:
hiệu quả hoá học, hiệu quả vật lý và hiệu quả sinh học môi trường [32].
Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả hoá học môi trường được đánh

16


giá thông qua mức độ sử dụng và tác động của các hóa chất trong nông
nghiệp. Đó là việc sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình
sản xuất đảm bảo cho cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất
cao và không gây ô nhiễm môi trường.
Hiệu quả sinh học môi trường được thể hiện qua mối tác động qua lại
giữa cây trồng với đất, giữa cây trồng trong mối tương tác với các đối tượng
sinh học có lợi và có hại khác nhằm đảm bảo tính đa dạng mà vẫn đạt được
yêu cầu đặt ra.
Hiệu quả vật lý môi trường được thể hiện thông qua việc lợi dụng tốt
nhất tài nguyên khí hậu như ánh sáng, nhiệt độ, nước mưa của các kiểu sử
dụng đất để đạt được sản lượng cao và tiết kiệm chi phí năng lượng đầu vào.
b. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất
* Mục đích đánh giá hiệu quả các LUT là để tính toán, so sánh và phân

loại mức độ thích hợp của các chỉ tiêu kinh tế, xã hội và môi trường với các
loại hình sử sử dụng đất nông nghiệp ở địa phương.
Các chỉ tiêu cần tính toán để đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
thường quy về đơn vị 1 ha cho từng loại hình sử dụng đất nông nghiệp.
*. Chỉ tiêu kinh tế
- Hiệu quả kinh tế trên 1 ha đất canh tác:
+ Giá trị sản xuất (GO: Gross Output): Là toàn bộ giá trị sản phẩm
được tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là 01 năm).
GO = Σ Qi Pi + q1P1
Trong đó:

Qi: Khối lượng chính loại i
Pi: Đơn giá sản phẩm chính loại i
q1: Khối lượng sản phẩm phụ loại i
Pi: Đơn giá sản phẩm phụ loại i

+ Chi phí trung gian (IC: Intermediate cost): Là toàn bộ chi phí vật chất

17


thường xuyên và dịch vụ được sử dụng trong quá trình sản xuất. Trong nông
nghiệp, chi phí trung gian bao gồm các khoản chi phí nguyên vật liệu như:
giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, dịch vụ làm đất, thuỷ lợi…(Nguyễn
Khang, 1995).
IC = Σ Cj
Trong đó: Cj: Khoản chi phí thứ j
+ Giá trị gia tăng (VA: Value Added): Là giá trị tăng thêm của quá trình
sản xuất sau khi đã loại bỏ chi phí vật chất và dịch vụ.
VA = GO – IC

+ Thu nhập hỗn hợp (NVA: Net Value Added): Là phần trả cho người
lao động cùng tiền lãi thu được trên từng loại hình sử dụng đất.
NVA = VA – DP – T
Trong đó: DP: Khấu hao tài sản cố định
T: Thuế sử dụng đất
- Hiệu quả trên 1 đơn vị chi phí vật chất (thường tính cho 1000đ chi phí)
+ Giá trị sản xuất trên chi phí vật chất: H CGO = GO/IC
+ Giá trị gia tăng trên chi phí vật chất: H CVA = VA/IC
+ Thu nhập hỗn hợp trên chi phí vật chất: H CNVA = NVA/IC
- Hiệu quả trên một đơn vị lao động
+ Giá trị sản xuất trên lao động: H LGO = GO/LD
+ Giá trị gia tăng trên lao động: H LVA = VA/LD
+ Thu nhập hỗn hợp trên lao động: H LNVA = NVA/LD
*. Một số chỉ tiêu xã hội
Phân tích hiệu quả xã hội của bất kỳ loại hình sử dụng đất nông nghiệp
nào cũng cần trả lời một số câu hỏi sau đây:
- Khả năng đảm bảo đời sống của nông dân cũng như toàn xã hội (vấn
đề an ninh lương thực, vấn đề gỗ củi nhiên liệu...)

18


- Có phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của huyện và tập
quán canh tác của người dân địa phương hay không?
- Khả năng thu hút lao động, giải quyến việc làm?
- Tính ổn định, bền vững của những loại hình sử dụng đất bố trí ở các
vùng định canh định cư, kinh tế mới?
- Tỷ lệ sản phẩm hàng hóa?
Tuy nhiên, không phải bất kỳ loại sử dụng nào cũng đạt được đầy đủ
các chỉ tiêu xã hội nêu trên. Tùy theo yêu cầu nghiên cứu hay mục tiêu xây

dựng dự án, người đánh giá có thể không lựa chọn chỉ tiêu này mà lựa chọn
chỉ tiêu kia để đưa vào đánh giá.
*. Đánh giá hiệu quả môi trường
Các chỉ tiêu cần xem xét bao gồm:
- Tỷ lệ che phủ tối đa (tính bằng % diện tích mặt đất) mà loại sử dụng đất
nhất định tạo ra, khả năng chống xói mòn rửa trôi (lượng đất mất do xói mòn).
- Nguy cơ gây ô nhiễm hoặc phú dưỡng nguồn nước do bón quá nhiều
một loại phân bón, do sử dụng thuốc hóa học bảo vệ thực vật, hay do nước thải.
- Nguy cơ làm tái độ nhiễm mặn hoặc tái nhiễm phèn do thay đổi
phương thức sử dụng đất, do sử dụng nước tưới không đảm bảo tiêu chuẩn
cho phép...
- Chiều hướng biến động độ phì tự nhiên của đất qua một số mốc thời gian
trong chu kỳ kinh doanh hoặc suốt thời kỳ kinh doanh đối với cây lâu năm; qua
một số vụ (năm) canh tác đối với loại sử dụng đất cây trồng ngắn ngày...
Tác động thay đổi về sử dụng đất đến môi trường có thể chia làm 2
nhóm yếu tố: tác động trực tiếp đến môi trường vùng nghiên cứu và tác động
gián tiếp đến môi trường vùng nghiên cứu.
- Tác động trực tiếp: gây rửa trôi, xói mòn, thoái hóa đất, sức sản xuất
của đất, những đất có vấn đề, nước, sự xuất hiện của lụt lội, khô hạn, bồi lắng

19


cặn phù sa làm giảm công suất của các công trình thủy lợi, chất lượng nước,
độ che phủ, cấu trúc đa dạng hóa cây trồng,...
- Tác động gián tiếp: ảnh hưởng đến dòng chảy hạ lưu, tình trạng ô
nhiễm nước ngầm do sự thẩm thấu của thuốc trừ sâu, phân bón, sự suy giảm
tài nguyên động thực vật do chặt phá rừng...
* Cơ sở để lựa chọn hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả các LUT
+ Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu đánh giá hiệu quả các LUT.

+ Nhu cầu của địa phương về việc phát triển, sử dụng các LUT bền vững.
- Nguyên tắc khi lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp:
Dựa vào các tiêu chuẩn và bảng phân cấp đánh giá mức độ thích hợp,
lựa chọn các loại sử dụng đất nông nghiệp theo mục tiêu đề ra. Loại sử dụng
đất nông nghiệp lý tưởng nhất nhất là loại có 4 nhóm chỉ tiêu đạt mức cao đến
rất cao. Thông thường, khi bố trí sử dụng đất, người ta luôn lựa chọn những
loại hình sử dụng đất nông nghiệp có nhiều chỉ tiêu đạt ở mức cao đến trung
bình. Ngoài ra, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội là những căn cứ để quyết
định lựa chọn loại sử dụng đất.
+ Hệ thống chỉ tiêu phải có tính thống nhất, tính toàn diện và tính hệ
thống. Các chỉ tiêu phải có mối quan hệ hữu cơ với nhau, phải đảm bảo tính
so sánh có thang bậc. [8], [13].
+ Để đánh giá chính xác, toàn diện cần phải xác định các chỉ tiêu cơ bản
biểu hiện hiệu quả một cách khách quan, chân thật và đúng đắn theo quan điểm
và tiêu chuẩn đã chọn, các chỉ tiêu bổ sung để hiệu chỉnh chỉ tiêu cơ bản, làm
cho nội dung kinh tế biểu hiện đầy đủ hơn, cụ thể hơn [3], [18], [19].
+ Các chỉ tiêu phải phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển
nông nghiệp ở nước ta, đồng thời có khả năng so sánh quốc tế trong quan

20


hệ đối ngoại, nhất là những sản phẩm hàng hóa có khả năng hướng tới
xuất khẩu [18].
+ Hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo tính thực tiễn và tính khoa học và
phải có tác dụng kích thích sản xuất phát triển.
c. Cơ sở đánh giá khả năng bền vững của các loại hình sử dụng đất
Trên cơ sở của việc đánh giá các hiệu quả ta đánh giá sự bền vững của
các loại hình sử dụng đất. Để đánh giá tính bền vững trong sử dụng đất cần dựa

vào 3 tiêu chí sau đây:
* Bền vững về kinh tế
Ở đây cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, được thị trường chấp nhận.
Hệ thống sử dụng đất phải có mức năng suất sinh học cao trên mức
bình quân vùng có cùng điều kiện đất đai. Năng suất sinh học bao gồm các
sản phẩm chính và phụ (đối với cây trồng là gỗ, hạt, củ, quả...và tàn dư để
lại). Một hệ bền vững phải có năng suất trên mức bình quân vùng, nếu không
sẽ không cạnh tranh được trong cơ chế thị trường.
Về chất lượng: sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn tiêu thụ tại địa phương,
trong nước và xuất khẩu, tùy mục tiêu của từng vùng.
Tổng giá trị sản phẩm trên đơn vị diện tích là thước đo quan trọng nhất
của hiệu quả kinh tế đối với một hệ thống sử dụng đất. Tổng giá trị trong một
giai đoạn hay cả chu kỳ phải trên mức bình quân của vùng, nếu dưới mức đó
thì nguy cơ người sử dụng đất sẽ không có lãi, hiệu quả vốn đầu tư phải lớn
hơn lãi suất tiền vay vốn ngân hàng [7].
* Bền vững về xã hội
Thu hút được lao động, đảm bảo đời sống và phát triển xã hội.
Đáp ứng nhu cầu của nông hộ là điều quan tâm trước, nếu muốn họ
quan tâm đến lợi ích lâu dài (bảo vệ đất, môi trường). Sản phẩm thu được cần

21


thoả mãn cái ăn, cái mặc, và nhu cầu sống hàng ngày của người nông dân.
Nội lực và nguồn lực địa phương phải được phát huy. Về đất đai, hệ thống
sử dụng đất phải được tổ chức trên đất mà nông dân có quyền hưởng thụ lâu dài,
đất đã được giao và rừng đã được khoán với lợi ích các bên cụ thể.
Sử dụng đất sẽ bền vững nếu phù hợp với nền văn hoá dân tộc và tập
quán địa phương, nếu ngược lại sẽ không được cộng đồng ủng hộ [7].
* Bền vững về môi trường

Loại hình sử dụng đất phải bảo vệ được độ màu mỡ của đất, ngăn chặn thoái
hoá đất và bảo vệ môi trường sinh thái. Giữ đất được thể hiện bằng giảm thiểu
lượng đất mất hàng năm dưới mức cho phép.
Độ phì nhiêu đất tăng dần là yêu cầu bắt buộc đối với quản lý sử dụng
bền vững.
Độ che phủ tối thiểu phải đạt ngưỡng an toàn sinh thái (>35%).
Đa dạng sinh học biểu hiện qua thành phần loài (đa canh bền vững hơn
độc canh, cây lâu năm có khả năng bảo vệ đất tốt hơn cây hàng năm...).
Việc đánh giá tính bền vững của các loại hình sử dụng đất là rất phức
tạp, cần phải qua một chuỗi thời gian dài.
Ba yêu cầu bền vững trên là để xem xét và đánh giá các loại hình sử
dụng đất hiện tại. Thông qua việc xem xét và đánh giá các yêu cầu trên để
giúp cho việc định hướng phát triển nông nghiệp ở vùng sinh thái [7].
2.3

Tình hình nghiên cứu về đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất
nông nghiệp huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh.
Tỉnh Hà Tĩnh thuộc vùng Bắc trung bộ; địa hình có 3 dạng địa hình

chính là đồi núi, trung du và đồng bằng tuy đất đai không phì nhiêu nhưng do
đặc điểm địa hình nên tạo thuận lợi để phát triển một nền nông nghiệp đa
canh, đa dạng hoá sản phẩm và phát triển nông nghiệp hàng hoá.

22


Trước đây, tỉnh đã tiến hành phân hạng đất để phục vụ quản lý nhà nước
về đất đai như: Thu thuế, chỉ đạo sản xuất nông nghiệp, giao đất và thu hồi
đất…, xây dựng các bản đồ thổ nhưỡng. Những năm gần đây, tuy công tác
đánh giá đất phát triển mạnh ở nước ta nhưng ở Hà Tĩnh chưa thực hiện được.

Huyện Vũ Quang mới được tái lập từ năm 2000, gồm 11 xã và một thị
trấn. Đến nay chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào có quy mô lớn, có
tính hệ thống cao làm cơ sở cho việc phát triển nền nông nghiệp của huyện.
Vũ Quang là huyện chủ yếu sản xuất nông nghiệp và có các điều kiện tự
nhiên, kinh tế xã hội tương đối đồng nhất giữa các xã trong huyện. Đất đai
được sử dụng để sản xuất nông nghiệp từ lâu, tuy nhiên trình độ thâm canh của
người dân chưa cao. Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, Vũ Quang là vùng đất
có hướng phát triển nông nghiệp rất điển hình. Trong những năm gần đây cơ
cấu cây trồng chuyển dịch mạnh theo hướng giảm diện tích cây lương thực,
tăng diện tích cây ăn quả, nuôi cá và rau màu. Mặt khác, việc chuyển đổi ruộng
đất để hình thành những vùng sản xuất nông nghiệp hàng hoá tập trung đang
diễn ra trong toàn huyện. Vì vậy, nghiên cứu phát triển nông nghiệp của huyện
Vũ Quang trong những năm tới theo hướng sản xuất hàng hoá là rất cần thiết,
và việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp trong thời điểm
hiện tại có ý nghĩa trong phát triển kinh tế xã hội của huyện.

23


3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1

Đối tượng nghiên cứu: Các loại hình sử dụng đất nông

nghiệp
3.1.2

Phạm vi nghiên cứu: Đất sản xuất nông nghiệp trên địa


bàn huyện Vũ Quang - tỉnh Hà Tĩnh.
3.2

Nội dung nghiên cứu

3.2.1

Điều tra, đánh giá khái quát điều kiện tự nhiên,

kinh tế xã hội có liên quan tới việc sử dụng đất đai.
- Đánh giá về điều kiện tự nhiên: vị trí địa lý, địa hình, khí hậu, thủy
văn, tài nguyên nước, thổ nhưỡng… ảnh hưởng đến việc sử dụng đất đai.
- Đánh giá điều kiện kinh tế xã hội: Cơ cấu kinh tế, tình hình dân số,
lao động và việc làm, tình hình quản lý đất đai, thị trường tiêu thụ nông sản,
dịch vụ và cơ sở hạ tầng (giao thông, thủy lợi, công trình phúc lợi,...) ảnh
hưởng đến sử dụng đất.
3.2.2

Thực trạng sử dụng đất và tình hình sản xuất

nông nghiệp
- Điều tra hiện trạng và tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên địa
bàn huyện.
- Xác định hiện trạng và mô tả các loại hình sử dụng đất chính.
3.2.3

Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông

nghiệp

+ Đánh giá hiệu quả về kinh tế của các loại hình sử dụng đất.

24


+ Đánh giá hiệu quả xã hội của các loại hình sử dụng đất.
+ Đánh giá hiệu quả môi trường của các loại hình sử dụng đất.
3.2.4. Định hướng và giải pháp sử dụng đất sản xuất nông
nghiệp trên địa bàn huyện
- Xác định các loại hình sử dụng đất có hiệu quả.
- Định hướng nâng cao hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp.
- Đề xuất hướng sử dụng đất sản xuất nông nghiệp.
- Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp.
3.3

Phương pháp nghiên cứu

3.3.1

Phương pháp chọn điểm nghiên cứu

- Huyện Vũ Quang có 12 xã, thị trấn nhưng hiện nay có 2 xã đang di
dời tái định cư đến vùng khác do nằm trong vùng lòng hồ thuỷ điện Ngàn
Trươi - Cẩm Trang. Các điều kiền về tự nhiên, địa hình, thổ nhưỡng của
huyện Vũ Quang tương đương nhau giữa các xã. Chúng tôi chọn 3 xã có đầy
đủ các loại hình sử dụng đất của huyện là xã Đức Lĩnh, xã Đức Hương và Sơn
Thọ trong số 10 xã còn lại làm điểm cho vùng nghiên cứu.
+ Xã Đức Hương: Là xã miền núi nhưng xã có diện tích đất trồng cây
hàng năm lớn so với các xã khác.
+ Xã Đức Lĩnh: Là xã vừa có diện tích đất trồng cây lâu năm ăn quả,

vừa có diện tích đất trồng cây hàng năm tương đối lớn.
+ Xã Sơn Thọ: Là xã miền núi có diện tích trồng cây ăn quả tương đối
lớn huyện.
Chọn 150 hộ điều tra tại 3 xã nghiên cứu đại diện theo phương pháp
chọn mẫu có hệ thống thứ tự lấy mẫu ngẫu nhiên.
3.3.2

Phương pháp điều tra cơ bản

- Tiếp cận các cơ quan quản lý về đất đai, cơ quan quản lý nông, lâm

25


×