Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

quá trình vận dụng lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội phi mác xít và chủ nghĩa xã hội khoa học ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.74 KB, 38 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Không phải qua cuộc khủng hoảng ở Đông Âu vừa qua, chủ
nghĩa xã hội khoa học mới bị người ta phê phán dữ dội, mà cách đây
hàng trăm năm, từ khi nó mới ra đời cho đến nay, chủ nghĩa xã hội
khoa học đã bị mọi thế lực có ác ý phê phán từ mọi phía. Nhưng chủ
nghĩa xã hội khoa học chấp nhận mọi sự phê phán, vì chỉ có như thế,
khoa học mới phát triển và trưởng thành.
Nhưng sự phê phán trước đây với sự phê phán ngày nay qua cuộc
khủng hoảng Đơng Âu có những nét khác nhau. Người ta cố tình khơng
phân biệt giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và những biến dạng của nó.
Một số Đảng cộng sản công nhân ở Đông Âu đã tuyên bố đổi tên đảng
và chuyển sang lập trường của chủ nghĩa xã hội dân chủ.
Bên cạnh con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội khoa học, nổi lên
cái gọi là “con đường thứ ba” của chủ nghĩa xã hội dân chủ. Nó được
tuyên bố như là lối thoát duy nhất ra khỏi cuộc khủng hoảng toàn diện
và sâu sắc của chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Với một số kết quả bước đầu, nhóm nghiên cứu của Viện MácLênin cố gắng cung cấp cho bạn đọc nước ta một tài liệu theo quan
điểm mới nhận thức về trào lưu xã hội- dân chủ hiện đại. Dựa trên việc
phân tích các văn kiện cương lĩnh, các tuyên bố của Quốc tế xã hội
chủ nghĩa và các tư liệu khác của một số đảng xã hội-dân chủ ở châu
Âu, các tác giả cố gắng phác họa ra những đặc trưng nổi bật nhất trong
diện mạo chính trị - tư tưởng của chủ nghĩa xã hội dân chủ. Bằng cách
tiếp cận lịch sử, phân tích lý luận và thường xuyên đối chiếu với hoạt
động thực tiễn, các tác giả vạch rõ tính ảo tưởng của mơ hình xã hội –
dân chủ và cơ sở lý luận cải lương, cơ hội của nó. Thiếu một cơ sở lý
luận khoa học nhất quán, trong quá khứ, hiện tại và tương lai, chủ
nghĩa xã hội dân chủ không thể là một giải pháp về con đường phát
triển chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng đoàn kết tất cả các lực lượng cách mạng, chĩa mũi nhọn
vào kẻ thù chủ yếu là tư tưởng Hồ Chí Minh, thể hiện rõ trong quá


1


trình Người lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Là người gắn bó với tư
tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của cách mạng Pháp, Hồ Chí Minh đã
nêu cao các giá trị dân chủ và nhân đạo mà những người xã hội – dân
chủ vẫn thường tuyên bố, nhưng không phải bằng con đường cải lương,
cơ hội mà bằng con đường cách mạng triệt để.
Kế thừa truyền thống quý báu của Đảng và Bác Hồ trong chính
sách đối với trào lưu xã hội – dân chủ, chúng ta hoan ngênh những thay
đổi của những người xã hội –dân chủ cánh tả đấu tranh cho dân chủ và
tiến bộ, đặc biệt là trong vấn đề bảo hệ hịa bình, chống chiến tranh hạt
nhân, vấn đề bảo vệ môi trường và sinh thái, vấn đề ủng hộ một trật tự
kinh tế mới giữa các nước giàu và các nước nghèo.
Trào lưu xã hội – dân chủ với bề dày lịch sử và sự thâm nhập
của nó vào nhiều hồn cảnh, trình độ phát triển kinh tế, xã hội khác
nhau, là một kho tàng kinh nghiệm phong phú mà nhân dân ta có thể
tiếp thu có sự chọn lọc những giá trị chân chính của nó nhằm phục vụ
cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ngay những
kinh nghiệm thất bại của xu hướng xã hội – dân chủ cánh hữu ở nhiều
nước cũng là bài học phản diện giúp chúng ta quyết tâm đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa, không ảo tưởng về con đường của chủ nghĩa
xã hội dân chủ.
Tóm lại, cần tránh hai thái độ sai lệch, cực đoan đối với các trào
lưu xã hội – dân chủ: hoặc là, phủ định sạch trơn, coi họ tất cả là cơ
hội, cải lương và đầu hàng; từ đó có thái độ đối đầu triệt để với mọi
khuynh hướng xã hội – dân chủ. Hoặc là, ủng hộ một cách nhiệt thành
khơng có phân tích, tiếp nhận hoàn toàn cơ sở tư tưởng của các trào lưu
tư tưởng xã hội – dân chủ và muốn áp dụng nó vào hồn cảnh nước ta,
để cuối cùng dẫn đến phủ nhận chủ nghĩa xã hội học và lựa chọn con

đường của chủ nghĩa xã hội dân chủ.
Cả hai thái độ trên đều không đúng, sẽ dẫn chúng ta đi lạc
hướng, chệch mục tiêu và mang lại tổn thất cho sự nghiệp cách mạng
nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

2


Vấn đề so sánh sự giống và khác biệt của CNXHKH và CNXH
phi mác xít đã đang được quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt là từ khi
CNXH phi mác xít đã thay đổi và tác động những sự phát triển khác
nhau và giống nhau với CNXHKH là vấn đề này trở thành vấn đề thời
sự cấp bách. Đồng thời đề tài sẽ đi sâu phân tích so sánh cụ thể của các
nhà sáng lập ra chủ nghĩa XHCKH.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu:
+ Đề tài nhằm giúp cho bạn thân nhận thức sâu hơn về CNXH
phi mác xít và CNXHKH mà đã so sánh sự giống nhau và khác nhau.
+ Qua nghiên cứu về đề tài, bản thân sẽ nắm được sơ lược sự
hình thành và phát triển của CNXH phi mác xít và CNXHKH của chủ
nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời biết được quá trình vận dụng lý luận và
thực tiễn của CNXH phi mác xít và CNXH KH để so sánh vơi đất
nước Việt Nam ta.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Đề tài này đi sâu và làm rõ quá trình phát triển lý luận và thực
tiễn để so sánh vấn đề giống nhau và khác nhau của CNXH phi mác xít
và CNXH KH.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài có tham vọng nhiều và chỉ nghiên cứu các tồn bộ các

giáo trình mà các nhà sáng lập của thời kỳ CNXH phi mác xít và
CNXHKH đã trình bày về luận điểm của nó. Đó là những giáo trình
tiêu biểu về sự so sánh của CNXH phi mác xít và CNXHKH nửa thế kỷ
XIX và đầu thế kỷ XX.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài chủ yếu dùng phương pháp phân tích, tổng hợp, ngồi ra
cịn sử dụng kết hợp các phương pháp khác.
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu – kết luận và nội dung đề tài chia làm 3
phần.
I: Quan niệm cơ bản về CNXHKH và CNXH phi mác xít.

3


II: Phân tích so sánh quan niệm sự giống và khác nhau của
CNXHKH và CNXH phi mác xít.
III: ý nghĩa so sánh của CNXHKH và CNXH phi mác xít.

B. NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ CNXH KH – CNXH PHI MÁC XÍT
1. Khái niệm CNXH phi Mác xít:
Chính là thông qua cuộc đấu tranh tự phát,công nhân đã dần dần
nhận thức được rằng phải đoàn kết lực lượng mới có thể chống lại có
hiệu quả sự áp bức bóc lột của giai cấp tư sản. Các hiệp hội công nhân
bắt đầu được hình thành và phát triển, điều đó chứng tỏ sự giác ngộ
chính trị của giai cấp cơng nhân đã được nâng lên.
Cuộc đấu tranh có tổ chức của giai cấp công nhân là nguồn động
lực thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa Mác . C.Mác-Lênin và Ph.
Ănghen đã thể hiện nguyện vọng của tất cả những người lao động

hướng tới một xã hội cơng bằng, bình đẳng, tự do và khơng có áp bức
bóc lột. Bằng việc phát hiện ra chủ nghĩa duy vật lịch sử và quy luật
giá trị thặng dư dưới chủ nghĩa tư bản, trở thành khoa học. Lý luận
mác-xít khi kết hợp với phong trào công nhân đã trở thành một sức
mạnh vĩ đại chi phối và dần dần quyết định đường hướng của sự phát
triển lịch sử nhân loại từ nửa sau thế kỷ XIX. Tất nhiên xu hướng này
không phải lúc nào cũng diễn tiến theo một đường kẻ sẵn.
Tuy nhiên lịch sử đã chứng minh khuynh hướng cách mạng
trong phong trào công nhân đã thắng thế và giai cấp vơ sản với học
thuyết cách mạng mác – xít của mình đã phát triển từ giai cấp “tự
mình” trở thành giai cấp “cho mình” mà đỉnh cao là Cơng xã Pari. Hai
tháng dòng dã chiến đấu trong vòng vây của giai cấp tư sản đang lên,
lần đầu tiên trong lịch sử, giai cấp công nhân cách mạng đã thiết lập
được chính quyền của giai cấp vơ sản. Tuy nhiên cuộc “tấn công lên
trời” của giai cấp công nhân cách mạng đã thất bại. Những người theo
4


khuynh hướng cải lương đã lợi dụng sự thất bại này để minh chứng
thêm quan niệm của họ cho rằng, tư tưởng mác- xít về cuộc đấu tranh
cách mạng- mà những người cải lương và vơ chính phủ trong phong
trào công nhân hiểu thô thiển chỉ là đấu tranh vũ trang và các biện
pháp bạo lực - để giành chính quyền của giai cấp vô sản là sai lầm.
Trong những thập niên cuối thế kỷ XIX, thực tế những khuynh hướng
cải lương đã dần dần thắng thế trong phong trào công nhân, đặc biệt
sau khi P.Ănghen qua đời (1895). Tiến trình phát triển này đặc biệt rõ
nét trong phong trào công nhân Đức.
2. Khái niệm CNXH KH
Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời là kết quả tất yéu của sự phát
triển học thuyết Mác-Lênin về triết học và kinh tế chính trị học, cơ sở

cho việc luận chứng về kinh tế-xã hội của quá trình nảy sinh hình thành
và phát triển của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, luận giải sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân – người sáng tạo xã hội mới.
Đồng thời, thực tiễn đấu tranh cách mang của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động là cơ sở để kiểm nghiệm, tiếp tục phát triển triết
học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Sự hoàn chỉnh,
cân đối, thống nhất gắn bó chặt chẽ của học thuyết thể hiện tính khoa
học và cách mạng, lý luận gắn với thực tiễn của học thuyết Mác-Lênin.
Chủ nghĩa xã hội “là phương tiện giải phóng giai cấp vơ sản và việc
giải phóng giai cấp vơ sản là mục đích của nó”. CNXH khoa học là lý
luận chính trị của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời trên cơ sở hiện thực trong xã
hội tư bản chủ nghĩa; mặt khác là kết tinh tồn bộ trí tuệ nhân loại
những thành tựu khoa học giữa thế kỷ XIX. Trong khoa học tự nhiên,
các lý thuyết về tiến hóa, bảo ồn và chuyển hóa năng lượng, học
thuyết về tế bào, toán học, thiên văn và hàng hải…đã tác động mạnh
quá trình chinh phục nghiên cứu và ứng dụng khoa học tự nhiên đã
đem lại giá trị to lớn về phương pháp luận cho việc nghiên cứu lĩnh
vực khoa học xã hội như: Triết học, kinh tế, chính trị và xã hội học…
Cùng với phát triển về duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng
dư, các Mác đã phát hiện giai cấp công nhân hiện đại và vai trị của nó

5


trong lịch sdử và xây dựng lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội, học
thuyết cách mạng của giai cấp cơng nhân. Chủ nghĩa xã hội khơng cị
là một sự phát hiện ngẫu nhiên của một trí tuệ thiên tài nào mà là kết
quả tất nhiên của cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô
sản. Nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội khoa học không phải là dựng lên

một chế độ hết sức hoàn thiện mà là nghiên cứu quá trình lịch sử kinh
tế đã làm xuất hiện các giai cấp nói trên và cuộc đấu tranh giữa các
giai cấp ấy là một kết quả tất nhiên của q trình đó, và trong tình hình
kinh tế do q trình đó tạo ra, tìm cho được những phương pháp, cách
thức, con người để giải quyết những xung đột giai cấp đó trong điều
kiện kinh tế – xã hội của xã hội tư sản. Chủ nghĩa xã hội trở thành khoa
học cách mạng của giai cấp công nhân trong sự nghiệp sáng tạo xã hội
mới.
3. Một vấn đề có tính quy ước, quy tắc của so sánh
- Về hình thức:
So với Tuyên bố Pharanphuốc1951,rõ ràng, với Tuyên bố
Xtốckhơm, Quốc tế xã hội chủ nghĩa đã có những đổi mới đáng kể
trong quan niệm, tư duy và định hướng hoạt động của mình. Nhiều
nhận định hiện thực về thế giới ngày nay đã được nêu lên như: tính
chất phụ thuộc lẫn nhau của các nước trên hành tinh; những tác động to
lớn của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật; những khả năng mới đem
lại cho con người và đồng thời sự tiềm ẩn những thảm họa; những mâu
thuẫn giữa những nước giàu và nước nghèo, giữa những nước phát
triển và đang phát triển; mâu thuẫn giữa các nước phương Đông và
phương Tây và mâu thuẫn giữa khu vực Bắc và khu vực Nam. Quốc
tế xã hội chủ nghĩa đặc biệt nhấn mạnh những giá trị chung của lồi
người như: hịa bình, tự do, dân chủ, bình đẳng, cơng bằng, nhân đạo,
đồn kết…
Quốc tế xã hội chủ nghĩa đã cố gắng đề ra những kiến giải và
biện pháp cụ thể và nhiều vấn đề như: xây dựng trật tự kinh tế và chính
trị thế giới mới; đẩy mạnh q trình hịa dịu, đối thoại và giải trừ qn
bị, bảo vệ hịa bình và tránh thảm họa hạt nhân; việc bảo vệ môi
trường và giải quyết vấn đề nợ nần giữa các nước trên thế giới; nhấn

6



mạnh đến sự phối hợp và nỗ lực quốc tế chung để kiểm soát và giải
quyết các vấn đề chung của thế giới hiện đại.
Bản tun ngơn có tính cương lĩnh đó cũng nêu lên những tham
vọng của “chủ nghĩa xã hội dân chủ” nhằm mục tiêu “đạt được một
thiết chế quốc tế có thể tăng cường những giá trị cơ bản, sử dụng
những bảo đảm của các quyền công dân và quyền con người trong một
xã hội dân chủ”. Tun ngơn nhấn mạnh tính chất đa ngun trong
quan niệm và tổ chức của những người xã hội – dân chủ.
- Lý luận: thứ hai cho rằng lý luận mác- xít đã lạc hậu, khơng
chịu nổi sự thử thách của thời gian. Dưới chiêu bài cần phải xét lại chủ
nghĩa Mác cho phù hợp với hoàn cảnh mới, Béc –stanh và các thủ lĩnh
của Đảng xã hội –dân chủ Đức trước đây cũng như đa số các đảng xã
hội- dân chủ trong thời kỳ hiện nay đã theo đuổi đường lối phủ nhận
chủ nghĩa Mác thay thế nó bằng một lý luận cải lương.
Nhìn chung đặc trưng của giai đoạn này là sự đói đầu gay gắt
giữa những người xã hội – dân chủ và những người cộng sản. Đặc biệt,
cách hữu xã hội – dân chủ phụ họa với chủ nghĩa chống cộng, chống
các nước xã hội chủ nghĩa của giai cấp tư sản, tiếp tục gây ra những bị
kích như trước cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai. Về mặt lý luận, mặc
dù có những thay đổi, bổ sung, hoàn chỉnh bộ mặt mới của chủ nghĩa
xã hội – dân chủ, nhưng tựu lại, nó ngày càng xa rời chủ nghĩa Mác và
nuôi ảo vọng “cải tạo” chủ nghĩa tư bản bằng hịa bình. Thì hành những
biến pháp dân chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống nhằm cải cách
chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội.
Tuyên bố mục đích, tên gọi:
Sau những thập kỷ truyền bá và áp dụng lý thuyết về “con
đường thứ ba”, về mơ hình “chủ nghĩa xã hội dân chủ”, các nhà xã hội
– dân chủ cùng lắm chỉ có thể đạt được những biến đổi tạm thời, đáp

ứng được phần nào những lợi ích tối thiểu của quần chúng, những biến
bộ về phúc lợi xã hội, về một số quyền hoạt đọng xã hội của các giới
chủ và nghiệp đồn. Nhưng biến đổi và tiến bộ đó là rất có giới hạn.
Phong trào xã hội – dân chủ và các đảng xã hội – dân chủ, kể cả các
đảng có vị trí trong chính quyền, đã khơng thể giải quyết được về căn

7


bản lợi ích và nhu cầu giải phóng của quần chúng lao động. Hoạt động
của họ không thể không bị khống chế và nhiều trường hợp, các nhà xã
hội – dân chủ (phái hữu) đã đứng trên lập trường tư sản và bảo vệ lợi
ích tư sản. Cơ sở xã hội của các đảng xã hội - dân chủ phổ biến là
tầng lớp trí thức, những nhà tư sản trung lưu,các nhà sản xuất nhỏ,
công nhân quý tộc, chứ không phải là mở rộng vào quần chúng lao
động nghèo khổ nhất. Những căn bệnh xã hội vẫn cịn ngun vì cơ sở
xã hội của nó là chế độ tư bản chủ nghĩa vẫn không bị đụng chạm tới.
Cái gọi là tăng cường các quyền lực chính trị và hoạt động của
nghiệp đoàn mà các nhà xã hội – dân chủ đặt vào đó nhiều hy vọng
thực ra cũng khơng vượt được giới hạn của chủ nghĩa công liên mà từ
cuối thế kỷ trước các nhà kinh điển đã từng phê phán. Chủ nghĩa cơng
lien khơng thể giải phóng được lao động làm thuê, không thể nâng
công nhân và quần chúng lao động lên trình độ chính trị, sự giác ngộ
chính trị trong cuộc đấu tranh giai cấp.Nó giới hạn những phản ứng xã
hội của công nhân và lao động chỉ trong các biện pháp đấu tranh địi lợi
ích kinh tế trước mắt, mang tính chất cải lượng và thỏa hiệp. Chủ nghĩa
xã hội dân chủ chính là một hình thức mới của chủ nghĩa cơng liên mà
thơi.
Do tình hình của các nước Châu Âu khác nhau, truyền thống lịch
sử Việt Nam khác nhau, điều kiện môi trường kinh tế xã hội cũng khác

nhau, nên các chính sách, đường lối cải cách trong thực tiễn của các
Đảng cũng khác nhau, mặc dù chia xẻ triết lý chung về “con đường thứ
ba”. Tùy theo truyền thống và đặc thù riêng của mình, mỗi đảng phải
đề ra các đường lối, chính sách cải cách phù hợp với đất nướcmình –
“con đường thứ ba” của mình.
Những tuyên bố và những bước đi đầu tiên của các chính phủ
dân chủ xã hội mới cho phép ngày nay rút ra kết luận sau: sẽ khơng
thể có sự “chuyển hướng cải cách” căn bản như sự “chuyển hướng bảo
thủ”của những năm 80.. Nhìn tồn cục, sẽ khơng có những thay đổi căn
bản trong mơ hình “kinh tế thị trường xã hội” đã hình thành do kết quả
của các cuộc cải cách bảo thủ. Thực ra, từ đây nó có thể gọi là mơ
hình “con đường thứ ba”, hoặc “trung dung mới”; có thể tuyên bố

8


trung thành với các bảo đảm xã hội ( tuy nhiên nhưng bảo đảm ấy lại
phải gộp chung với sự cắt giảm các chi tiêu Nhà nước).
Sau thời kỳ gián đoạn và phân biệt về tổ chức, đến khi Quốc tế
xã hội chủ nghĩa của các đảng xã hội – dân chủ phục hồi trở lại (đầu
năm 50) thì nét nổi bật trong đường lối chính trị của trào lưu xã hội –
dân chủ là đoạn tuyệt với tư tưởng và truyền thống mác – xít, chủ
trương giải thể hệ tư tưởng, phi ý thức hệ, không quan tâm tới sự thuần
nhất về tư tưởng và lý luận trong chính trị cũng như trong toàn bộ hoạt
động của phong trào nói chung. Đây là điều được nhấn mạnh nhiều lần
trong các cương lĩnh chính trị của các cương lĩnh chính trị của các
Đảng xã hội- dân chủ. Tìm hiểu về các luận điểm và các cách thành lập
luận của các nhà xã hội- dân chủ trong thời gian gần đây ta thấy rõ
khuynh hướng chính trị cải lương của họ có mối liên hệ gần gũi với
phái Béc stanh, và sự phục hồi những quan điểm của ông ta.

Về hệ tư tưởng
Do hệ tư tưởng của những người xã hội – dân chủ được xây
dựng trên tinh thần nhân đạo trừu tượng và cùng với những biện pháp
cải tạo xã hội cải lương nửa vời đã ngày càng chứng tỏ họ không đạt
được tinh thần “duy vật lịch sử” mà vẫn dừng lại ở duy tâm và chiết
trung. Hậu quả là lực lượng xã hội ủng hộ các đảng xã hội – dân chủ đã
chuyển từ giai cấp công nhân sang các tầng lớp trung gian, trong đó có
tầng lớp “công nhân quý tộc”. Cơ sở xã hội này đã làm biến dạng
phong trào xã hội – dân chủ. Một mặt thì các chương trình “phúc lợi
chung” khơng bảo đảm được chất lượng phục vụ công cộng, và hơn thế
các chương trình chỉ chủ yếu đáp ứng được lợi ích của các tầng lớp
trung lưu còn những người thất nghiệp toàn phần hay thực tế bị gạt ra
“ngoại vi” của các chương trình đó, mặt khác, khu vực kinh tế Nhà
nước từ Pháp, Anh cho đến các nước châu Phi, nơi các Đảng xã hội –
dân chủ cầm quyền thì hoạt động khơng có hiệu quả do nạn quan liêu
và áp lực của tình hình chính trị – xã hội thường xun biến động. Mơ
hình Thụy Điển nổi tiếng như là hình mẫu lý tưởng của “con đường thứ
ba” hiện cũng đang bị nghi ngờ. Ở nước này sở hữu của chính phủ chỉ
chiếm có 7% thấp hơn cả ở Tây Âu và chỉ bằng 1/2 so với nước Anh

9


thời kỳ M.Thátchơ cầm quyền. Những nét chủ yếu của “mơ hình” này
là kinh doanh tự do năng động, khơng có thất nghiệp, phân phối lại thu
nhập một cách căn bản. Nhưng hiện nay người ta đang phải thay đổi
những đường nét chính của mơ hình này, mức đánh thuế giảm từ 72%
xuống còn 50% theo kế hoạch cải cách hiện nay. Do nhiều vấn đề kinh
tế và phúc lợi xã hội nên sự ủng hộ Đảng xã hội – dân chủ đã giảm
34%. Cơ sở xã hội của Đảng chủ yếu là tầng lớp trung gian, tầng lớp

“cổ xanh” hiện chỉ chiếm 23%. B.Mai-cơ, nhà kinh tế có ảnh hưởng
nhất của Đảng, nói “ Nếu Đảng xã hội – dân chủ trở thành một đảng
của giai cấp trung gian, hướng theo thị trường, thì nó sẽ phải cạnh
tranh với nhiều đảng Khác…nếu họ đi theo con đường khác, trở lại với
hình ảnh xã hội chủ nghĩa cũ, thì họ sẽ mất những lá phiếu trung gian”.
Những nội dung tư tưởng mới của trào lưu xã hội – dân chủ
được thể hiện một lần nữa trong tuyên ngôn Phranphuốccủa Đại hội
thành lập Quốc tế xã hội chủ nghĩa năm 1951. Bản tun ngơn đã
chính thức thừa nhận thuyết “phi hệ tư tưởng” và tuyên bố rằng “Chủ
nghĩa xã hội là một phong trào quốc tế, khơng địi hỏi sự thuần nhất
nghiêm ngặt của các quan điểm. Bất kể cơ sở niềm tin của những người
xã hội là phương pháp mác xít hay một phương pháp nào khác để phân
tích xã hội, bất kể những nguyên lý nhân đạo chủ nghĩa, mọi người xã
hội cố sức đạt một mục đích duy nhất: tiến tới một xã hội công bằng,
một đời sống tốt hơn, tự do và hịa bình trên thế giới”.
Về thế giới quan:
Việc phủ nhận hệ tư tưởng, thế giới quan đưa đến chủ trương
một lý thuyết bỏ ngỏ, xóa nhòa các quan điểm và ranh giới giai cấp
trong đấu tranh chính trị. Trong cương lĩnh và tuyên bố của các Đảng
xã hội – dân chủ hầu như đã hoàn tồn vắng bóng những luận đề về
giai cấp, đấu tranh giai cấp và vai trò lịch sử của giai cấp cơng nhân
trong cuộc đấu tranh này. Thay thế vào đó, các nhà lý luận và tư tưởng
chủ nghĩa xã hội – dân chủ đã đưa ra các quan điểm trừu tượng về tự
do, dân chủ bình đẳng và cuối cùng họ cũng đã cơng khai đường lối
chính trị thỏa hiệp với giai cấp tư sản. Đường lối đó được biện luận
bởi các quan niệm hợp tác, hịa giải, đồn kết.

10



Với tuyên bố “ Trung lập về thế giới quan”, phái hữu xã hội –
dân chủ đã hoàn toàn bộc lộ rõ bản chất cơ hội chủ nghĩa của họ. Họ
chủ cải biến chế độ tư bản bằng những cải cách bộ phận, để có “sự
chuyển hóa dần” từ chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội. Về hành
động, họ từ bỏ sự hợp tác với những người cộng sản, đấu tranh chống
lại hệ thống xã hội chủ nghĩa đang hình thành và tích cực ủng hộ
đường lối ngoại của Mỹ. Quốc tế xã hội tuyên bố: giữa những người xã
hội và những người cộng sản “khơng có gì là mang tính chung cả”. Họ
cơng khai chống lại bất cứ mặt trận thống nhất nào hoặc bất cứ một
hình thức hợp tác chính trị nào với các Đảng cộng sản.
Phái hữu xã hội – dân chủ đã tung ra các quan điểm lý luận đủ
kiểu “Đồng hành xã hội”, “Nhà nước phúc lợi chung”, “cuộc cách
mạng quản lý”, “nền kinh tế hỗn hợp”, “cuộc cách mạng về thu nhập”,
“xóa bỏ sự vơ sản hóa”, “phân tán sở hữu”… Họ hứa hẹn đưa giai cấp
công nhân lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường bầu cử, con đường
nghị viện. Họ cho rằng chế độ dân chủ là một phương tiện có khả năng
bảo vệ lợi ích của người lao động dưới chủ nghĩa tư bản và dần dần
“xóa bỏ” chủ nghĩa tư bản.
So sánh phương pháp luận
C.Mác viết: “Sự phân tích của tơi bắt nguồn từ chỗ cho rằng các
quan hệ luật pháp như các hình thức Nhà nước, khơng thể xem xét từ
bản thân chúng, và cũng không từ tự phát triển chung chung của tinh
thần nhân loại, mà hơn thế bắt rễ từ các quan hệ của đời sống vật chất”.
Đời sống xã hội đã và đang diễn tiến theo hướng hợp lực -như dự báo
của Ph.Ăng ghen năm 1980 – tất cả các yếu tố kinh tế, văn hóa, chính
trị, truyền thống dân tộc…. Trong đó các quan hệ kinh tế đống vai trò
như một nguồn quyết định. Nhà nước tư sản dù cho được những người
xã hội – dân chủ cải biến đến đâu cũng không thể thoát ly khỏi sự vận
động của đời sống xã hội tư sản. U.Bran ghi nhận: “ chúng ta phải xuất
phát từ một sự thật là chế độ Nhà nước của chúng ta trong tương lai sẽ

phải chịu nhiều thử thách trong quá trình xung đột giữa nhu cầu của xã
hội nói chung và những tham vọng vơ trách nhiệm của những nhóm cá

11


biệt đang chiếm giữ nhiều vị trí then chốt và của các tổ chức hùng
cường”.
So sánh từng nội dung
Về nguyên lý: Xã hội xã hội chủ nghĩa được xây dựng theo
ngun lý CNXH Khoa học, nó thuộc về hình thái kinh tế xã hộ mới
khác về chất so với CNTB, các mục tiêu dân chủ và nhân đạo được giải
quyết bằng sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động, đưa họ tới tự do
và trở thành chủ thể chân chính, không những chỉ sở hữu các thành
quả xã hội đạt được bằng cách mạng mà còn trực tiếp xây dựng tổ
chức, quản lý xã hội theo bản chất nguyên thủ và nhân đạo XHCN.
Trong cuộc hành chính lịch sử tới tự do, mỗi lần chuyển mình
tới một hình thái mới của sự phát triển xã hội, mỗi lần chuyển sang một
chế độ xã hội khác cao hơn, loài người đã dần từng bước thực hiện các
mục tiêu của tiến bộ, văn hóa và văn minh, đạt tới những khả năng
hiện thực mới để giành lấy dân chủ, tự do, công bằng và nhân đạo.
Nhưng trước chủ nghĩa xã hội, việc thực hiện các bước tiến này khơng
khỏi có những giới hạn, những hạn chế. Chính phủ xã hội đã mở ra kỷ
nguyên mới để thực hiện dân chủ triệt để, dân chủ cho số đong những
người nghèo khổ và nhân đạo cho chính bản thân những người lao
động là trung hợp tự nhiên và đầy đủ nhất với bản chất của dân chủ và
nhân đạo.
Hai điều căn bản sau đây là hoàn toàn sáng tỏ trong lý luận khoa
học và cách mạng của chủ nghĩa xã hội trên lập trường mác xít.
- So sánh quan niệmthế nào về CNXH

“Chủ nghĩa xã hội dân chủ”, theo quan điểm đã được ghi thành
văn của trào lưu xã hội – dân chủ, chủ yếu được thực hiện “bằng những
biện pháp dân chủ” trong tất cả các lĩnh vực của đời sống để cải cách
chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội! Cách hiểu về “chủ nghĩa xã
hội dân chủ” với nội dung chung như thế, thường được các đảng xã hội
– dân chủ diễn giảng cũng như thể hiện trong thực tế rất khác nhau.
Ơlốp Panmơ là cố Phó chủ tịch Quốc tế xã hội chủ nghĩa và nguyên
Thủ tướng Thụy Điển đã nói rằng: “Thế giới khơng phụ thuộc vào một
mơ hình nào cả, vì nếu định nghĩa chủ nghĩa xã hội là gì, thì đã có 71

12


định nghĩa khác nhau, nếu tơi có đưa ra một định nghĩa thứ 72 thì cũng
chẳng làm cho tình hình đỡ rắc rối hơn. Khơng có một định nghĩa nào
được thừa nhận cả”.
Đó là cách nói để che giấu bản chất cải lương tư sản của trào lưu
đó. Cũng khơng phải thuần túy chỉ là vấn đề “tìm đường” lên chủ
nghĩa xã hội cho phù hợp thực tế. Ý đồ sâu xa của họ chính là bác bỏ
chủ nghĩa xã hội khoa học và chống lại chủ nghĩa xã hội hiện thực. Đặc
biệt những người xã hội – dân chủ cách hữu từ lâu vẫn thường phỉ báng
chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ cực quyền, phản dân chủ nhằm đề
cao “chủ nghĩa xã hội dân chủ” của họ.
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, Quốc tế xã hội chủ nghĩa đã
có chủ trương cải thiện quan hệ rõ rệt. Họ khuyến khích các đảng xã
hội –dân chủ tiếp xúc, đối thoại với các đảng cộng sản và cơng nhân và
với ngun tắc của họ. Từ đó đến nay, nhiều đại hội của các đảng xã
hội – dân chủ cũng như đại hội của các đảng cộng sản và công nhân
các nước xã hội chủ nghĩa đã có đại biểu của cả hai bên tham dự.
Đáng chú ý nhất là tại lễ kỷ niệm 70 năm cách mạng tháng Mười ở

Matxcơva tháng 11-1987 đã có 26 đồn đại biểu các đảng xã hội – dân
chủ tham dự. Nói chung, trên vấn đề bảo vệ hịa bình, an ninh và hợp
tác quốc tế ngày nay lập trường của những người xã hội – dân chủ rất
gần với lập trường của những người cộng sản. Đó là nhân tố tạo cơ sở
xích gần nhau giữa hai trào lưu chính của phong trào cong nhân quốc tế
trong giai đoạn hiện nay.
- Về việc chia quan điểm của những người xã hội- dân chủ theo
cánh tả và cánh hữu vẫn còn nhưng chắc chắn phải được hiện đại hóa.
Bản thân tơi vẫn quan niệm mình là một người xã hội chủ nghĩa sinh
thái, nhân đạo, toàn cầu và giản dị – trong đó các khái niệm tồn cầu và
nhân đạo vốn là truyền thống của cánh tả. Các khái niệm giản dị và
sinh thái tương đối còn mới, nhưng cũng phù hợp với truyền thống
trên. Nhận xét đó phản ánh đúng thực trạng kết cấu thành phần hiện
nay trong các đảng xã hội – dân chủ. Nói chung, trong hàng ngũ của
họ bao gồm nhiều xu hướng, nhiều quan điểm khác nhau và nhiều khi
đối lập và đấu tranh với nhau khá gay gắt. Do mâu thuẫn nội bộ, tháng

13


3-1981, trong Công đảng Anh đã xảy ra phân liệt, kết quả là nhóm
đảng viên phái hữu tách khỏi đảng và thành lập Đảng xã hội- dân chủ
Anh. Ở Nhật Bản cũng xảy ra trường hợp tương tự, do sự phân liệt đã
tách ra làm hai đảng xã hội – dân chủ và Đảng xã hội chủ nghĩa: cả hai
cùng hoạt động và cùng là thành viên của Quốc tế xã hội chủ nghĩa.
Quan niệm về chủ nghĩa xã hội như là sự phủ định trực tiếp chủ
nghĩa tư bản, nhưng trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội lại
khơng chú ý tới tính kế thừa vốn là một yêu cầu quan trọng của phủ
định biện chứng. Nó liên hệ chặt chẽ với tính lịch sử – tự nhiên của sự
phát triển. Hầu hết các nước xây dựng chủ nghĩa xã hội đều từ điểm

xuất phát thấp, hoặc chưa qua trình độ phát triển điển hình của chủ
nghĩa tư bản (như ở Nga và các nước Đông Âu), hoặc còn dừng lại ở
các quan hệ tiền tư bản, ở xã hội phong kiến, lạc hậu, chậm phát triển
(như ở nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa châu Á). Lênin , với
“Chính sách kinh tế mới” đã hình dung thấy những đường nét lý luận
chủ yếu của mô hình quá độ gián tiếp tới chủ nghĩa xã hội. Nhưng đáng
tiếc là phát hiện sáng tạo đó của Lênin đã không được khai thác, vận
dụng và phát triển sau khi Lênin mất. Do đó, khi áp dụng những biện
pháp cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, ở nhiều nước, vẫn bị chi
phối bởi quan niệm về một con đường thẳng, trực tiếp tới chủ nghĩa xã
hội trong khi, sau thắng lợi của cuộc cách mạng chính trị, giành chính
quyền về tay giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động, xã hội vẫn chưa
hồn tồn chín muồi những tiền đề tất yếu kinh tế – xã hội.
Quan niệm của các nhà kinh điển mác xít về chủ nghĩa xã hội là
dựa trên những phân tích khoa học về chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã
hội muốn bộc lộ tính ưu việt của nó, phải xây dựng sao cho nó vượt
qua trình độ của chủ nghĩa tư bản và đủ sức phát triển trên trình độ của
của chính nó. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, quan niệm đó đã bị
nhận thức một cách giản đơn và phiến diện. Đã xẩy ra hai trường hợp
phản ánh rất rõ tính giáo điều: tuyên truyền cho tính ưu viẹt của chủ
nghĩa xã hội một cách hìh thức và khiên cưỡng.Chủ nghĩa xã hội còn là
mầm mống của cái mới, tính ưu việt của nó cịn là một xu hướng của
tương lai chứ chưa phải là một trạng thái hiện thực. Do đó, càng nói về
ưu việt của chủ nghĩa xã hội bao nhiêu thì càng mâu thuẫn với thực
14


tiễn bấy nhiêu – một thực tiễn quá độ đang còn lẫn rất nhiều tàn dư, tạp
chất, những mẩu vụn cịn sót lại của cái cũ trong cái mới cịn đang
manh nha. Điều đó, khơng ngừng mang tính thuyết phục, không đạt

được hiệu quả giáo dục niềm tin khoa học đối với quần chúng mà
ngược lại còn làm giám sút sức hấp dẫn đích thực của lý tưởng xã hội
chủ nghĩa.
- Về lý luận để thực hiện con đường đi lên CNXH
Thắng lợi của cách mạng tháng Mười năm 1917 đã mở đầu một
thời đại mới trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thời đại mà
nội dung cơ bản là sự quá độ từ chủ nghĩa tư sản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới. Sự vận động của lịch sử, sự nỗ lực của các
dân tộc, các quốc gia hướng theo đường nét tổng quát đó trong suốt thế
kỷ XX này đã tạo nên những biến đổi căn bản về kinh tế, chính trị và
xã hội của thế giới hiện đại. Tuy nhiên, lịch sử không diễn ra theo một
con đường thẳng tắp chỉ gồm có thuận lợi và những thành tựu. Đã
khơng có khơng ít những khó khăn, mâu thuẫn, những vấp váp, sai lầm
và cả những thất bại trê con đường đấu tranh để đạt tới tiến bộ và phát
triển xã hội. Trong nhiều thập kỷ nay, thế giới đang tích tụ hàng loạt
những vấn đề chưa giải quyết.
Những biến đổi dồn dập của các sự kiện chính trị trên tất cả các
cấp độ quốc gia, khu vực và trên thế giới cũng theo đó đã tăng lên một
cách đáng kể. Sự tác động, ảnh hưởng và đan xen lẫn nhau giữa các
khuynh hướng và xu hướng chính trị, giữa các trào lưu tư tưởng, các
học thuyết lý luận đã đem lại những nội dung mới mẻ và hết sức đa
dạng cho cuộc đấu tranh giữa các lực lượng, các phong trào và các tổ
chức chính trị trong thế giới ngày nay về việc lựa chọn con đường phát
triển và tìm kiếm những giải pháp cho hiện tại và tương lai.
Một là, thiết lập Nhà nước chun chính vơ sản, do giai cấp công
nhân lãnh đạo, dựa trên nền tảng liên minh của giai cấp công nhân với
nông dân và quần chính lao động vơ sản, là điều kiện tiên quyết để
từng bước xây dựng, hoàn thiện và phát triển các tiền đề kinh tế cần
thiết cho việc thực hiện quá độ lên CNXH.
Hai là, do xuất phát điểm là một xã hội lạc hậu, nên quá độ lên

CNXH không qua chế độ TBCN là một kiểu chế độ gián tiếp, phải trải
qua “một loạt bước quá độ trung gian”, đòi hỏi giai cấp vơ sản phải tìm
15


kiếm và sử dụng hàng loạt biện pháp quá độ đặc biệt. Vốn không cần
thiết đối với kiểu quá độ trực tiếp.
Ba là, về phương diện kinh tế, trong thời kỳ quá độ kiểu gián
tiếp, tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sử hữu, tồn tại nhiều thành
phần kinh tế. Trong quá trình phát triển kinh tế, hình thức kinh tế hợp
tác đóng vai trị cực kỳ qun trọng để dẫn dắt những người sản xuất
hàng hóa nhỏ từng bước đi theo quỹ đạo của CNXH.
Bốn là, xây dựng và phát triển nền đại cơng nghiệp có khả năng
cải tạo cả công nghiệp là cơ sở vật chất bảo đảm cho sự thắng lợi của
CNXH. Nền đại công nghiệp được xây dựng nhờ sự phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần giải phóng mọi tiềm năng trong
nước; mặt khác nhờ tiếp thu, vận dụng những thành tựu của các nước
trên thế giới.
Năm là, xác lập, mở rộng và thực hiện quyền dân chủ XHCN,
khắc phục xu hướng tự phát triển tiểu tư sản, tệ quan liêu trong bộ máy
Nhà nước.
Sáu là, tiến hành cách mạng văn hóa, coi đó là bộ phận có tầm
quan trọng đặc biệt của toàn bộ sự nghiệp cách mạng XHCN. Chống
bệnh giáo điều, bắt chước máy móc.
Các đảng xã hội và xã hội – dân chủ với lý luận về chủ nghĩa xã
hội dân chủ của nó mặc dù thời gian gần đây đã có ít nhiều thay đổi về
thái độ, đổi sách, từ chỗ chống cộng, chống Liên Xô, chống chủ nghĩa
xã hội khoa học đã chuyển sang chính sách hịa dịu, thực hiện đối thoại
và hợp tác với các đảng cộng sản và các nước xã hội chủ nghĩa, nhưng
nét về cơ bản, hệ tư tưởng, lập trường, quan điểm của chủ nghĩa xã hội

dân chủ vẫn đối lập với chủ nghĩa xã hội khoa học.
Sự đối lập này biểu hiện tập trung ở con đường và các giải pháp
tiến tới chủ nghĩa xã hội và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Điều này
đã được đề cập ở phần trên khi chúng ta vạch rõ tính chất vơ căn cứ
của con đường thứ ba của trào lưu xã hội – dân chủ.
Nếu chủ nghĩa xã hội khoa học vạch rõ chỉ có thơng qua đấu
tranh giai cấp và cách mạng xã hội, giai cấp vô sản và quần chúng bị áp
bức bóc lột mới có thể giải phóng mình khỏi ách thống trị tư bản chủ
nghĩa và xây dựng chế độ xã hội mới do mình làm chủ, thì chủ nghĩa
xã hội dân chủ lại chủ trương điều hòa mâu thuẫn và hợp tác giai cấp,
16


đặt phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản và quần chúng lao động
trong khuôn khổ của những cải cách kinh tế mà chủ nghĩa tư bản có thể
chấp nhận được.

II. PHÂN TÍCH ĐỂ SO SÁNH QUAN NIỆM SỰ GIỐNG NHAU
VÀ KHÁC NHAU CỦA CNXHKH VÀ CNXH PHI MÁC XÍT
1.Chọn các tiêu chí đưa ra ở phần một để so sánh.
1.1. So sánh theo nội dung:
Ngay từ năm 1919, trong cuốn sách “ con đường tiến tới chủ
nghĩa xã hội” xuất bản ở Viên (Áo), Ơttơ Bauơ, nhà lý luận của Đảng
xã hội – dân chủ Áo đã viết: “Chúng ta khơng muốn cómột chủ nghĩa
xã hội quan liêu, có nghĩa là một thiểu số nhỏ thống trị của dân tộc.
Chúng ta muốn có chủ nghĩa xã hội - dân chủ”. Quan niệm này được
nói rõ hơn khi những người xã hội bằng cách thi hành những biện pháp
dân chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống nhằm cải cách chủ nghĩa
tư bản thành chủ nghĩa xã hội.


17


Tô mát Muyen cho rằng “chủ nghĩa xã hội là một nguyên lý tổ
chức xã hội mà cấu trúc thể chế và tổ chức có thể có nhiều hình thái
khác nhau tùy giai đoạn phát triển và kinh nghiệm xã hội”….
Rõ ràng là những quan niệm trên đây là lảng tránh tất cả những
vấn đề về bản chất của chế độ sở hữu, quan hệ giai cấp, chế độ kinh tế
và chế độ chính trị mà chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã
hội khác về chất so với chế độ tư bản chủ nghĩa không thể khơng đặt
ra. Sự lảng tránh đó là có dụng ý. Nó bị quy định bởi thái độ chính trị
cải lương của trào lưu xã hội –dân chủ phủ nhận sự cải biến xã hội
cách mạng và phủ nhận nguyên lý chỉ thơng qua con đường xóa bỏ trật
tự xã hội tư bản chủ nghĩa mới có thể tạo lập được chủ nghĩa xã hội.
Các khái niệm “những người bị thiệt thịi”, “những thành viên yếu kém
về kinh tế” khơng nói lên một điều gì xác định về sự nghiệp giải phóng
giai cấp và giải phóng xã hội hướng vào giai cấp công nhân và quần
chúng lao động. Dù cho có đề cập tới việc bảo vệ lợi ich của công
nhân, lý luận xã hội – dân chủ vẫn không che lấp được ý định thực tế
của họ là phủ nhận vai trị chính trị của giai cấp này trong cuộc sống
cách mạng vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Vấn đề càng trở nên trừu
tượng hơn khi các nhà xã hội – dân chủ cho rằng, “muốn có chủ nghĩa
xã hội , giai cấp công phải tự tổ chức lại và vượt qua những giới hạn
của họ dưới hệ thống tư bản chủ nghĩa, diễn đạt được những nguyên lý
xã hội chủ nghĩa và những đối sách hiện đại cho những điều kiện đó.
Những đối sach cụ thể phải được thiết kế như những yếu tố của chủ
nghĩa xã hội sẽ từng bước thay thế chủ nghĩa tư bản”, ‘Chủ nghĩa xã
hội sẽ phát triển từ tác động lẫn nhau giữa sự thay đổi xã hội có tính
xây dựng và kinh nghiệm”. Theo quan niệm nay, phong trào công nhân
dù với nội dung và hình thức đấu tranh giải phóng như thế nào cũng chỉ

nằm trong khn khổ, giới hạn của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa là phương thức đã ra đời và tồn tại được bởi sự bóc lột và nơ
dịch cơng nhân. Bảo tồn chủ nghĩa tư bản, xét đến cùng vẫn là sự lưu
ý lớn nhất, quan trọng nhất mà các nhà cải lương xã hội – dân chủ đặt
ra trước phong trào công nhân.

18


Việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là dựa trên cơ
sở các quy luât khách quan của đời sống xã hội. Nó khác về căn bản
với con đường cải lương, hòa nhập vào chủ nghĩa tư bản.Về hệ tư
tưởng, sự lựa chọn chủ nghĩa xã hội khoa học là nhất quán với việc bảo
vệ và phát triển chủ nghĩa Mac trong điều kiện lịch sử ngày nay. Đa
nguyên chính trị, đa đảng và những khái niệm “dân chủ thuần túy”
“dân chủ vô hạn”…chỉ là những mưu toan phát triển dân chủ tư
sản,thúc đẩy diễn biến hòa bình ở các nước xã hội chủ nghĩa, đẩy các
nước này rơi vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
Trên vấn đề Nhà nước, thực chất của cái gọi là “Nhà nước phúc
lợi chung”, “nhà nước toàn dân” của những người xã hội – dân chủ chỉ
che đậy cho khoảng cách giữa những người giàu với người nghèo đang
tăng lên ở ngay cả các nước do những người xã hội – dân chủ cầm
quyền nhiều năm.
1.2. Vấn về so sánh:
Chủ nghĩa cộng sản không phải là một ý tưởng đạo đức tốt đẹp
mà hiện thực phải tuân theo. Nó là kết quả tất yếu của sự vận động
hiện thực của sản xuất , của kinh tế. Trong bản chất của nó, cách mạng
cộng sản chủ nghĩa có nội dung kinh tế. Chính là dựa trên tính tất yếu
kinh tế và căn nguyên kinh tế, xem nó là nguồn gốc và động lực sâu xa
nằm ở bên trong các quá trình lịch sử mà Mác từ chỗ phân tích quy luật

về sự phù hợp của quan hệ với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất đã tiến đến khái quát khoa học có giá trị phổ đại lịch sử. Phát
hiện và giải quyết mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, rằng mỗi thời đại lịch sử được đo bằng một trình độ
phát triển đặc trưng của lực lượng sản xuất cũng như mỗi chế đọ xã
hội có một kiểu quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất mà
xã hội đo đạt được.
Kết luận rút ra ở đây là, một mô hình phát triển xã hội, một sự
lựa chọn con đường phát triển lịch sử, trước hết phải giải quyết vấn đề
chế độ sở hữu, xác lập xem kiểu sở hữu nào được coi là trật tự thống trị
xã hội. Mọi giá trị tinh thần, mọi tuyên ngôn đạo đức trong xã hội mới
được lựa chọn và tạo dựng nó thực hiện được hay khơng, có hợp lý

19


hay khơng, có triển vọng hay bị phá sản ngay từ đầu. Điều đó được soi
rọi và chịu thử thách bởi chính bản chất kinh tế, quan hệ sở hữu của
xã hội ấy. Tính quy định đó chung cho mọi người thời đại lịch sử.
2. Chỉ ra ý nghĩa của việc đối tượng phương pháp những
quan điểm sai lầm.
2.1. Về lý luận
Phịng ngừa cực đoạn giáo điều và tính đơn giản hóa trong
nghiên cứu lý luận về đổi mới chủ nghĩa xã hội cũng là phịng ngừa
tính hời hợt, hình thức; phịng ngưà tình trạng tiếp tục tách rời giữa lý
luận với thực tiễn. Thực chất của tình trạng đó là ở chỗ sự sản xuất ra
lý luận không ở trong quá trình tìm kiếm từ thực tiễn để phát hiện ở
bản thân nó những mâu thuẫn, những tình huống lý luận cần phải giải
quyết; rằng, phải giải phóng cho thực tiễn những gì và như thế nào một
khi lý luận lạc hậu hoặc sai lầm đang áp vào thực tiễn, đang cản trở sự

phát triển của nó. Mặc khác, nghiên cứu lý luận và đề xuất các giải
pháp lý luận không ở trong sự thôi thúc của thực tiễn, do đó khơng phát
hiện được hoặc phát hiện khơng đúng nhu càu lý luận bức xúc của thực
tiễn, vì thực tiễn.
Kết quả là, cái lý luận mà thực tiễn đang cần, đang rất cần thì lý
luận khơng đáp ứng được, đang thiếu hụt, thậm chí hồn tồn vắng
bóng. Ngược lại, cái lý luận không được nhào nặn, chưng cất, chắt lọc
từ thực tiễn, có ích cho thực tiễn và cho bản thân lý luận - tức là một
loại sản phẩm lý luận thuần túy nhân đạo từ đầu óc bằng câu chữ, khái
niệm dựng nên và chỉ dừng lại là câu chữ, khái niệm thì lại thừa thãi
nhưng vơ bổ.
Tình trạng đó đang tiếp tục kéo dài sự nghèo nàn của lý luận, của
tư tưởng và đời sống thực tiễn vẫn không thêm một chút rọi sáng nào
của lý luận gắn chặt với những chất liệu của thực tiễn, nhờ đó thúc đẩy
thực tiễn phát triển. Là có lý khi co người đã khái qt tình trạng đó
như sau: Đang có một thực tiễn khơng lý luận bên cạnh một lý luận
không thực tiễn.

20


Tư duy lý luận mới và nhận thức lý luận mới về chủ nghĩa xã hội
muốn thực sự góp vào sự phát triển mới của chủ nghĩa xã hội phải khắc
phục tình trạng chia cắt, tách rời nói trên.
Đã một thời, do những sai lầm cực đoan giáo điều, chúng ta đã
khơng sao có thể hình dung được chủ nghĩa xã hội lại là kinh tế hàng
hóa và thị trường; lại là tư nhân, cá thể có thể tồn tại lâu dài bên cạnh
nhà nước - quốc doanh và tập thể – hợp tác xã. Nếu không nghiên cứu
thấu đáo thì đến thời đổi mới ngày nay có thể lại chuyển sang một cực
đoan giáo điều kiểu khác, một thứ giản đơn hóa khác khi chuyển dịch

những cái khẳng định trước đây cái phủ định và đem cái bị phủ định
ngày hôm qua thành cái khẳng định ngày hôm nay. Nếu xét theo hình
thức biểu hiện có thể thấy trên một số tiêu chí nào đó được khẳng định
hiện nay chính là cái đã bị phủ định trước đây. Nhưng bản chất vấn đề
lại khơng dừng ở đó. Có thể phát hiện thấy và tập hợp được rất nhiều
dấu hiệu, đặc trưng về một khái niệm nào đó mà vẫn chưa giải quyết
xong định nghĩa khoa học về nó.
Chính vì vậy, những kết quả nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa xã
hội trong quá trình đổi mới trước hết vẫn là những tìm tịi, phát hiện
các vấn đề mới đang nảy sinh nhiều hơn là giải quyết các vấn đề đó.
Một thực tế mới lạ đang mở ra, đang bắt đầu những thử nghiệm thì
chưa thể giải trình đầy đủ, tường minh và có kết luận dễ dàng. Trình
bày các nhân tố khách quan và chủ quan dẫn tới đổi mới; tính chất, nội
dung và ý nghĩa của đổi mới như đã nêu trên; đó là những đường nét
tổng quát của lý luận đổi mới và là nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Thực tiễn phát triển của nước ta trong tiến trình đổi mới sẽ
là làm sâu sắc thêm những nhận thức đó.
Một mưu tốn khác của chủ nghĩa chống Cộng là cố tình đối lập
chủ nghĩa Lênin với chủ nghĩa Mác trước hết trên các vấn đề cốt yếu
về lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa và về lý luận đảng kiểu mới.
Những luận điểm của chủ nghĩa Mác được Lênin phát triển trong
những điều kiện lịch sử mới đều bị họ coi là ngược lại di sản của Mác .
Họ phủ nhận những học thuyết cơ bản của Mác, nhưng lại giả vờ trung
thành với chủ nghĩa Mác . Họ lên án chủ nghĩa Lênin đã áp đặt chuyên

21


chính của giai cấp lên tồn xã hội, chun chính của đảng đối với giai
cấp và cuối cùng chuyên chính của một nhóm lãnh tụ chun nghiệp

đối với tồn đảng. Bằng nhiều cách khác nhau các nhà tư tưởng xã hội
– dân chủ phái hữu cố chứng minh tính hạn chế của chủ nghĩa Lênin,
rằng nó chỉ có tác dụng đối với các nước chậm phát triển như nước
Nga. Họ muốn hạ thấp chủ nghĩa Lênin như là một học thuyết mang
tính chất quốc gia, khơng có ý nghĩa quốc tế, không thể vận dụng được
trong điều kiện chủ nghĩa tư bản phát triển.
Sai lầm cơ bản nhất là sai lầm trong nhận thức lý luận về chủ
nghĩa xã hội. Đó là sai lầm muốn xây dựng một kiểu chủ nghĩa xã hội
thuần khiết, trong sạch, khơng có hơi hám của chủ nghĩa tư bản. Muốn
sản xuất một kiểu chủ nghĩa xã hội bằng một hệ thống chính trị tập
trung quan liêu, chi phối toàn bộ đời sống xã hội bằng một trung tâm
quyền lực tuyệt đối, làm cho chính quyền Nhà nước khơng thật sự là
chính quyền của dân, vì dân và do dân. Muốn xây dựng nhanh chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản không cần những bước trung gian,
những giai đoạn quá độ.
Trong khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang
diễn ra và được tiến hành mạnh mẽ, sâu rộng trong các nước tư bản
phát triển, thì trong các nước xã hội chủ nghĩa, nó đang đi những bước
ì ạch và gặp nhiều khó khăn. Do đánh giá sai tình hình, khơng dự báo
kịp thời và nắm bắt hướng đi mới của công nghệ nên giữa các nước xã
hội chủ nghĩa và các nước tư bản phát triển đã có một khoảng cách
cơng nghệ khá lớn. Từ thập kỷ 70, khoảng cách này càng được bộc lộ
rõ trong mọi mặt của đời sống xã hội. Trong mấy thập kỷ qua, trên thực
tế các nước xã hội chủ nghĩa chưa tạo điều kiện thuận lợi cho những
bước phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ, cho
sự phát triển và đổi mới nền sản xuất và nền kinh tế – xã hội.
Những sai lầm trên đã triệt tiêu động lực phát triển của chủ
nghĩa xã hội, làm cho các nước xã hội chủ nghĩa trong hơn 70 năm qua
tiến lên một cách chậm chạp về nhiều mặt, nhất là về mặt kinh tế và
khoa học, kỹ thuật.


22


Như vậy, từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc, chủ nghĩa
xã hội Nhà nước đã trở nên lỗi thời. Nó gây ra sự bất bình sâu sắc
trong nhân dân, trước hết là do những bất công xã hội lớn lao, sự mất
dân chủ kéo dài và sự xa sút ngày càng rõ của mức sống hàng ngày. Do
đó, chủ nghĩa xã hội khơng thể hiện được bản chất ưu việt của mình
trước hàng trăm triệu người trên thế giới.
Trong bối cảnh xã hội đó, hình thành vơ số các nhóm, câu lạc
bộ, các tổ chức chính trị đủ các mầu sắc đòi đổi mới xã hội, đòi dân
chủ hóa và chấm dứt mơ hình chủ nghĩa xã hội Nhà nước. Các đảng
cầm quyền cũng thấy rõ là không thể lãnh đạo xã hội theo khuôn mẫu
cũ. Họ đứng trước sự lựa chọn giữa hai khả năng: một là, kiên trì con
đường xã hội chủ nghĩa, khắc phục các biến dạng của chủ nghĩa xã hội,
đổi mới quan niệm về chủ nghĩa xã hội theo hướng giữ vững nguyên
tắc và thích ứng với các thách thức mới của thời đại; Hai là, từ bỏ con
đường cải tạo xã hội theo chủ nghĩa xã hội khoa học mà chấp nhận con
đường cải lương nửa với. Đó là con đường chủ nghĩa xã hội dân chủ.
Với tính chất đa nguyên, hỗn tạp, thỏa hiệp về tư tưởng, chủ nghĩa xã
hội dan chủ mong muốn tập hợp lực lượng, đặc biệt là trong các cuộc
bầu cử để giành ảnh hưởng trong một hệ thống đa đảng.
2.2. Về thực tiễn
Cuộc khủng hoảng trầm trọng ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa,
những khuyết điểm sai lầm mới phát sinh trong quá trình cải tổ mà
điển hình nhất là sự biểu chính trị ở Đông Âu đã cung cấp cho chúng ta
những bằng chứng để hiểu cái giá phải trả khi tiếp nhận chủ nghĩa đa
nguyên, thừa nhận nền chính trị đa nguyên và chế độ đa đảng. Hậu quả
nặng nề mà nhiều nước đang phải gánh chịu là Đảng Cộng sản mất vai

trò lãnh đạo xã hội, chế độ xã hội chủ nghĩa đang có nguy cơ bị xóa bỏ,
và ở đó, nền chính trị tư sản đang có những điều kiện, hồn cảnh thuận
lợi để hồi sinh.
Hiện nay, có hai kiểu phê phán chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Thứ nhất, là kiểu phê phán của những xã hội hiện thực chân
chính. Họ biết dũng cảm thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội . Họ tự phê phán với thái độ tôn

23


trọng sự thật và chú ý đến những điều kiện lịch sử cụ thể không rơi
vào quan điểm phủ định sạch trơn. Họ vạch ra những biến dạng, sai
lầm của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng thấy rõ
những thành tựu thực tế mà chủ nghĩa xã hội đã đem lại cho lịch sử
nhân loại. Nhận ra những biến dạng của chủ nghĩa xã hội để khắc phục
sai lầm, vượt qua khủng hoảng, tìm đến giá trị thực của chủ nghĩa xã
hội và kiên quyết lựa chọn con đường của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Thứ hai, là kiểu phê phán của những người xã hội –dân chủ cánh
hữu. Họ đang cố gắng lợi dụng tình hình khủng hoảng tồn diện và
nghiêm trọng của các nước xã hội chủ nghĩa để không chỉ kịch liệt lên
án mà còn mưu toan loại bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực, phủ nhận chủ
nghĩa xã hội khoa học và khẳng định “ con đường thứ ba” của họ là
đúng đắn.
Rõ ràng, hai kiểu phê phán đó nhằm các mục tiêu hoàn toàn
khác nhau. Chúng ta cũng thấy rõ Quốc tế xã hội chủ nghĩa đã và đang
lợi dụng khó khăn của các nước xã hội chủ nghĩa để tác động gây ảnh
hưởng của họ. Cương lĩnh mới của Quốc tế xã hội chủ nghĩa thể hiện
rõ ýđồ mong muốn các nước xã hội chủ nghĩa tiến hành cải tổ, cải cách
theo quan điểm của họ, tức là đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội dân

chủ: Về thực chất đó chính là con đường phục hồi chủ nghĩa tư bản.
Họ khuyến khích thành lập các đảng xã hội – dân chủ ở các nước xã
hội chủ nghĩa.
Sai lầm cơ bản nhất là sai lầm trong nhận thức lý luậnvề chủ
nghĩa xã hội. Đó là sai lầm, muốn xây dựng một kiểu chủ nghĩa xã hội
thuần khiết, trong sạch, khơng có hơi hám của chủ nghĩa tư bả. Muốn
xây dựng một kiểu chủ nghĩa xã hội bằng một hệ thống chính trị tập
trung quyền lực tuyệt đối, làm cho chính quyền Nhà nước khơng thật
sự là chính quyền của dân, vì dân và do dân. Muốn xây dựng nhanh
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản không cần những bước trung
gian, những giai đoạn qu
Do đánh giá sai tình hình, khơng dự báo kịp thời và nắm bắt
hướng đi mới của công nghệ nên giữa các nước xã hội chủ nghĩa và các
nước tư bản phát triển đã không có một khoảng cách cơng nghệ khá

24


lớn. Từ thập kỷ 70, khoảng cách này càng bộc lộ rõ trong mọi mặt của
đời sống xã hội. Trong mấy thập kỷ qua, trên thực tế các nước xã hội
chủ nghĩa chưa tạo điều kiện thuận lợi cho những bước phát triển mạnh
mẽ của khoa học và công nghệ, cho sự phát triển và đổi mới nền sản
xuất và nền kinh tế xã hội.
Trong bối cảnh xã hội đó, hình thành vơ số các nhóm, câu lạc
bộ, các tổ chức chính trị đủ các mầu sắc địi hỏi đổi mới xã hội, địi dân
chủ hóa và chấm dứt mơ hình chủ nghĩa xã hội Nhà nước. Các Đảng
cầm quyền cũng thấy rõ là không thể lãnh đạo xã hội theo khuôn mẫu
cũ. Họ đứng trước sự lựa trọn giữa hai khả năng. Một là, kiên trì con
đường xã hội chủ nghĩa, khắc phục các biến dạng của chủ nghĩa xã hội,
đổi mơi quan niệm về chủ nghĩa xã hội theo hướng giữ vững nguyên

tắc và thích ứng với các nhà thách thức mới của thời đại. Hai là, từ bỏ
con đường cải tạo xã hội theo chủ nghĩa xã hội khoa học mà chấp nhận
con đường cải lương nửa vời. Đó là con đường chủ nghĩa xã hội dân
chủ. Với tính chất đa nguyên, hỗn tạp, thỏa hiệp về tư tưởng, chủ nghĩa
xã hội dân chủ mong muốn tập hợp lực lượng, đặc biệt là trong các
cuộc bầu cử để giành ảnh hưởng trong một hệ thống đa đảng.
2.2.1. Nêu ra quan điểm của CNXHKH về phần so sánh quan
điểm CNXHKH và CNXH phi mác xít.
- So sánh hai quan điểm CNXHKH và CNXH phi mác xít
+ Về Chủ nghĩa xã hội khoa học
Những nguyên nhân này tác động vào thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội đã tạo nên trong thế đan xen nhau nhiều biến thể về chủ
nghĩa xã hội mà bản chất và kết cục của nó đều xa lạ với chủ nghĩa xã
hội khoa học. Chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong quá trình xây dựng
cũng chịu những ảnh hưởng và tác động tiêu cực đó tuy khơng trầm
trọng và sâu sắc bằng. Điều này có thể giải thích được ở chỗ, trên thực
tế, chiến tranh kéo dài 1/3 thế kỷ đã chiếm mất của chúng ta phần lớn
thời gian và sức lực. Chủ nghĩa xã hội ở nước ta chưa xuất hiện ở dạng
đầy đủ mà chủ yếu còn là một khuynh hướng vận động của tương lai.
Ảnh hưởng của mơ hình “chủ nghĩa xã hội Nhà nước” ở Liên Xô và
Đông Âu vào Việt Nam tuy cũng chịu hậu quả chung của căn bệnh giáo

25


×