Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Đối tác công tư là một trong những định hướng cải cách quan trọng nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.15 KB, 15 trang )

Phân tích luận điểm: “Đối tác công tư là một trong những định hướng
cải cách quan trọng nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của Nhà nước. Tuy
nhiên, đối tác công tư không phải là “cây đũa thần” để giải quyết vấn đề cải
thiện chất lượng hoạt động của Nhà nước”.
BÀI LÀM
Quan hệ đối tác Công – Tư (PPP) được coi là một trong những công cụ hữu
hiệu để Nhà nước có được cơ sở hạ tầng cần thiết phục vụ lợi ích công và phát
triển kinh tế-xã hội. Tầm quan trọng của hình thức hợp tác này đã được khẳng định
ở các nước phát triển. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì PPP được
xem là công cụ cải cách quan trọng lĩnh vực quản lý công. Đây là hình thức hợp
tác tối ưu hóa hiệu quả đầu tư và cung cấp dịch vụ công cộng chất lượng cao, sử
dụng được kỹ năng, công nghệ hiện đại và tính hiệu quả trong quản lý của khu vực
tư nhân; buộc khu vực nhà nước ngay từ đầu phải chú trọng vào đầu ra và lợi ích;
đưa vốn tư nhân vào và giúp giảm nhẹ gánh tài chính cho dự án; rủi ro được chia
sẻ giữa các đối tác khác nhau…
Vậy mô hình đối tác công tư có phải là một phép màu và là chìa khóa vạn
năng cho mọi vấn đề?Hay nó còn có những nhược điểm gì cần khắc phục? Trùng
với quan điểm này, có một học giả đã nhận định rằng: “Đối tác công tư là một
trong những định hướng cải cách quan trọng nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
của Nhà nước. Tuy nhiên, đối tác công tư không phải là “cây đũa thần” để giải
quyết vấn đề cải thiện chất lượng hoạt động của Nhà nước”
Để hiểu rõ về luận điểm này, chúng ta cần nắm rõ khái niệm, lĩnh vực đối tác
công tư tại Việt Nam(được quy định tại Nghị định 15/2015/NĐ-CP), những nguyên
tắc, lợi ích, khó khăn, thuận lợi, hạn chế của hình thức PPP cũng như tình hình
thực hiện các dự án theo hình thức PPP tại Việt Nam. Cụ thể:
1. Hình thức đối tác công tư là gì
1.1. Khái niệm
1


Đầu tư theo hình thức đối tác công tư (sau đây gọi tắt là PPP) là hình thức


đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền
và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để thực hiện, quản lý, vận hành dự án kết cấu hạ
tầng, cung cấp dịch vụ công.
1.2. Đặc điểm của PPP
- Đảm bảo nghĩa vụ và quyền lợi hài hòa giữa các bên
- Sự tham gia của nhà nước
- Cơ chế tài chính của dự án PPP (khả thi về mặt tài chính, không làm tăng
nợ công)
- Không phải là tư nhân hóa, nhà nước vẫn nắm quyền sở hữu, quản lý. Khi
kết thúc dự án, nhà nước sẽ sở hữu công trình hoặc dịch vụ được tạo ra
1.3. Những lợi ích của hình thức đối tác công tư(PPP):
- Để mở rộng việc cung cấp dịch vụ công
- Tăng cường nguồn lực đầu tư trong khi ngân sách của chính phủ còn hạn
chế
- Giúp chính phủ tránh được những khoản nợ, giữ mức nợ chính phủ trong
giới hạn an toàn; không làm tăng thâm hụt ngân sách.
- Tăng hiệu quả kinh tế. Vì mục tiêu lợi nhuận nên các nhà đầu tư tư nhân
phải tìm cách để dự án được vận hành hiệu quả hơn. Thêm vào đó, với việc tham
gia của khu vực tư nhân, sự sáng tạo, trách nhiệm giải trình cũng như sự minh bạch
có khả năng sẽ được cải thiện
- Xã hội và nhà nước hỗ trợ khu vực tư nhân (trong và ngoài nước) thể hiện
vai trò tích cực của trong tăng trưởng kinh tế.
- Tìm phương thức quản lý và đầu tư mới
- Tăng cường hiệu quả trong việc phân phối, điều hành và quản lý dự án về
hạ tầng
- Có các nguồn lực bổ sung để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của việc đầu
tư vào cơ sở hạ tầng.
2



- Có cơ hội tiếp cận và nắm bắt các công nghệ tiên tiến (cả phần cứng và
phần mềm).
Mô hình PPP trở nên hấp dẫn với chính phủ các nước đang phát triển vì nó
được đánh giá như là một cơ chế ngoài ngân sách phục vụ cho phát triển cơ sở hạ
tầng như:
- Giúp tăng cường cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ tầng cần thiết.
- Áp dụng mô hình PPP có thể không yêu cầu bất kỳ chi tiêu tiền mặt ngay
lập tức qua đó giúp làm giảm gánh nặng của chi phí thiết kế và xây dựng.
- Cho phép chuyển nhượng nhiều rủi ro dự án sang khu vực tư nhân.
- Mô hình PPP giúp đưa ra những lựa chọn tốt hơn về thiết kế, công nghệ,
xây dựng, sự vận hành và chất lượng cung cấp dịch vụ hạ tầng.
1.4. Những nhược điểm của PPP
Nhược điểm lớn nhất của mô hình PPP là chi phí lớn hơn do các nhà đầu tư
tư nhân yêu cầu một suất sinh lợi cao hơn. Để tiến hành PPP, nhà nước phải bỏ ra
chi phí (các khoản hỗ trợ, kích thích đối tác tư nhân, mất nguồn thu phí trong
trường hơp đối tác tư nhân được thu phí, …). Xét trong ngắn hạn, nhà nước không
phải chi ngân sách nhưng vẫn có nguồn vốn để đầu tư. Tuy nhiên, về dài hạn, tổng
chi phí giữa việc nhà nước tự đầu tư so với việc thực hiện PPP có thể là tương
đương hoặc lớn hơn (trừ trường hợp đối tác tư nhân xây dựng, thực hiện dự án,
cung cấp dịch vụ có hiệu quả hơn so với nhà nước).
Hơn thế, mâu thuẫn giữa lợi ích chung và lợi ích cá nhân cũng là một vấn
đề. Các dự án PPP thường có tổng mức đầu tư rất lớn, đối tác tư nhân có thể phải
đi vay để đầu tư. Vì vậy, cần phải xem xét liệu những lợi ích của PPP có lớn hơn
chi phí phải trả từ việc khu vực tư nhân đi vay với lãi suất cao hơn chính phủ đi
vay hay không?.
- Không phải tất cả các dự án PPP đều có tính khả thi do các nguyên nhân về
chính trị, pháp lý, hay tính khả thi thương mại.

3



- Khu vực tư nhân có thể không quan tâm đến một dự án PPP do rủi ro cao
xuất phát từ năng lực nhận thức của các bên tham gia về một dự án PPP hoặc có
thể là sự hạn chế về mặt kỹ thuật, năng lực tài chính, trình độ quản lý thực hiện dự
án.
- Một dự án PPP có thể tốn kém hơn một dự án thông thường, trừ khi các
khoản chi phí tăng thêm (chi phí tài chính và chi phí vận hành dự án) có thể được
bù đắp thông qua việc tăng tính hiệu quả của dự án.
- Thay đổi trong hoạt động quản lý và kiểm soát tài sản của các cơ sở hạ tầng
thông qua một dự án PPP có thể không đủ để cải thiện hiệu suất kinh tế của nó, trừ
khi các điều kiện cần thiết khác được đáp ứng. Những điều kiện này có thể bao
gồm môi trường hoạt động thích hợp, cải cách hành chính, và thay đổi trong thực
tiễn hoạt động cũng như quản lý hoạt động của cơ sở hạ tầng.
- Thông thường, sự thành công của một dự án PPP phụ thuộc rất nhiều vào
hiệu quả của công tác quản lý và phối hợp giữa các bên liên quan trong hợp đồng
PPP.
Ngoài ra, thiếu ngân sách của chính phủ được xem là yếu tố chính trong việc
xem xét một dự án PPP. Các khoản chi phí tăng thêm trong một dự án PPP thường
là chi phí vay vốn đối với khu vực tư nhân cao hơn so với khu vực công cộng, và
các chi phí hành chính liên quan đến việc quản lý hợp đồng PPP. Chi phí giao dịch
của các dự án PPP cũng rất đáng kể.
2. Tình hình thực hiện các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư
tại Việt Nam
2.1. Một số hình thức hợp đồng dự án đầu tư theo hình thức đối tác công
tư tại Việt Nam:
1. Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (sau đây gọi tắt là hợp
đồng BOT) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu
tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu

4



tư được quyền kinh doanh công trình trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn,
nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (sau đây gọi tắt là hợp
đồng BTO) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu
tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu
tư chuyển giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được quyền kinh doanh
công trình đó trong một thời hạn nhất định.
3. Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (sau đây gọi tắt là hợp đồng BT) là
hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây
dựng công trình kết cấu hạ tầng; nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và được thanh toán bằng quỹ đất để thực hiện Dự án khác
theo các điều kiện quy định tại Khoản 3 Điều 14 và Khoản 3 Điều 43 Nghị định
15.
4. Hợp đồng Xây dựng - Sở hữu - Kinh doanh (sau đây gọi tắt là hợp đồng
BOO) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để
xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư sở
hữu và được quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định.
5. Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Thuê dịch vụ (sau đây gọi tắt là hợp
đồng BTL) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu
tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu
tư chuyển giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được quyền cung cấp dịch
vụ trên cơ sở vận hành, khai thác công trình đó trong một thời hạn nhất định; cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thuê dịch vụ và thanh toán cho nhà đầu tư theo các
điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều 14 Nghị định này.
6. Hợp đồng Xây dựng - Thuê dịch vụ - Chuyển giao (sau đây gọi tắt là hợp
đồng BLT) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu
tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu
tư được quyền cung cấp dịch vụ trên cơ sở vận hành, khai thác công trình đó trong

5


một thời hạn nhất định; cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuê dịch vụ và thanh
toán cho nhà đầu tư theo các điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều 14 Nghị định
này; hết thời hạn cung cấp dịch vụ, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
7. Hợp đồng Kinh doanh - Quản lý (sau đây gọi tắt là hợp đồng O&M) là
hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để kinh
doanh một phần hoặc toàn bộ công trình trong một thời hạn nhất định.
Lĩnh vực đầu tư của các dự án đầu tư theo hình thức hợp tác công tư là các
dự án xây dựng, cải tạo, vận hành, kinh doanh, quản lý công trình kết cấu hạ tầng,
cung cấp trang thiết bị hoặc dịch vụ công gồm:
a) Công trình kết cấu hạ tầng giao thông vận tải và các dịch vụ có liên quan;
b) Hệ thống chiếu sáng; hệ thống cung cấp nước sạch; hệ thống thoát nước;
hệ thống thu gom, xử lý nước thải, chất thải; nhà ở xã hội; nhà ở tái định cư; nghĩa
trang;
c) Nhà máy điện, đường dây tải điện;
d) Công trình kết cấu hạ tầng y tế, giáo dục, đào tạo, dạy nghề, văn hóa, thể
thao và các dịch vụ liên quan; trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước;
đ) Công trình kết cấu hạ tầng thương mại, khoa học và công nghệ, khí tượng
thủy văn, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu công nghệ thông
tin tập trung; ứng dụng công nghệ thông tin;
e) Công trình kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn và dịch vụ phát triển
liên kế
2.2. Những nguyên tắc của hình thức đối tác công tư tại Việt Nam:
- Thu hút được nguồn vốn ñầu tư của khu vực tư nhân trong và ngoài nước
cho phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ công.
- Vốn của khu vực tư nhân tham gia dự án được huy động theo nguyên tắc
không dẫn đến nợ công.


6


- Vốn chủ sở hữu của Nhà đầu tư trong dự án phải đảm bảo tối thiểu bằng
30% phần vốn của khu vực tư nhân tham gia dự án. Vốn vay thương mại (không có
bảo lãnh của Chính phủ) tới mức tối đa bằng 70% phần vốn của khu vực tư nhân.
- Cạnh tranh, công bằng, minh bạch, hiệu quả kinh tế, phù hợp với pháp luật
Việt Nam, theo tập quán và thông lệ quốc tế.
2.3. Lĩnh vực thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công – tư tại Việt
Nam:
- Đường bộ, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ.
- Đường sắt, cầu đường sắt, hầm đường sắt.
- Giao thông đô thị.
- Cảng hàng không, cảng biển, cảng sông.
- Hệ thống cung cấp nước sạch.
- Nhà máy điện.
- Y tế (bệnh viện).
- Môi trường (nhà máy xử lý chất thải).
- Các Dự án phát triển kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công khác theo
quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
3. Tình hình thực hiện các dự án theo hình thức đối tác công tư ở Việt
Nam
Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, trong giai đoạn 1994-2009 đã có 32
dự án được thực hiện theo mô hình PPP với tổng mức vốn cam kết khoảng 6,7 tỉ đô
la. Trong đó mô hình BOT và BOO là chủ yếu. Hai lĩnh vực đầu tư chiếm tỷ trọng
lớn nhất là điện và viễn thông. Từ những năm 1990 đến nay có khoảng 26 dự án
thực hiện theo hình thức BOT với tổng mức đầu tư là 128 ngàn tỷ đồng như: BOT
cầu Cỏ May, BOT cầu Phú Mỹ, điện Phú Mỹ, và rất nhiều nhà máy điện nhỏ và
vừa khác đang được thực hiện theo phương thức BOO.

Theo thống kê của Cục đầu tư nước ngoài Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong
năm 2010 tổng số dự án cấp mới được đầu tư trực tiếp từ nước ngoài là 969 dự án,
7


trong đó theo mô hình đầu tư BOT, BT, BTO có 6 dự án chiếm 1% trên tổng số dự
án cấp mới. Nhưng số lượng dự án cấp mới chiếm 55% so với số dự án đầu tư theo
hình thức BOT, BTO, BT là 11 dự án, chiếm, tỷ trọng cao nhất trong số tất cả các
hình thức đầu tư.
Theo số liệu của Cục quản lý đấu thầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng số dự án
PPP được đề xuất hiện nay là 186 dự án, gồm 165 dự án đề xuất từ UBND
tỉnh/thành phố, 21 dự án đề xuất từ các bộ ngành. Trong đó lĩnh vực giao thông
chiếm 30%, môi trường chiếm 25%, dịch vụ thương mại chiếm 25%, năng lượng-y
tế-nông nghiệp chiếm 20% và các lĩnh vực khác chiếm 5%.
3.1. Những khó khăn và thách thức:
+ Khung pháp lý cho mô hình PPP chưa được hoàn thiện, chưa có Luật về
PPP và các văn bản hưởng dẫn chưa đầy đủ.
Khảo sát của Trung tâm Thông tin và Dự báo KT - XH Quốc gia cho thấy,
các nhà tư vấn nước ngoài đánh giá môi trường thể chế về PPP ở Việt Nam chưa
cao, vẫn còn những hạn chế. Ví như, cụm từ “thí điểm” tạo cảm giác bất an và
không chắc chắn đối với các nhà đầu tư.
Quyết định 71/2010/QĐ-TTg về ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình
thức đối tác công - tư cũng không nêu được định nghĩa rõ ràng về PPP. Những lĩnh
vực của PPP rất hạn hẹp, mặc dù các điều khoản cho phép Chính phủ có thể bổ
sung, nhưng cơ chế kém minh bạch và rắc rối này được đánh giá là cách thức
không tích cực. Quy định về mức tham gia tối đa của vốn nhà nước là 30% sẽ loại
bỏ tới 80% các dự án PPP, trong khi không có quy định rõ phần đóng góp của Nhà
nước cụ thể bao gồm những nội dung nào.
Bên cạnh đó, theo các nhà tư vấn, việc Quyết định 71 không khuyến khích
hình thức nhà đầu tư tự đề xuất dự án PPP là không phù hợp với thông lệ quốc tế,

cũng như không hoàn toàn phù hợp với điều kiện hiện nay của nước ta. Quy trình
phê duyệt dự án PPP còn phức tạp và thẩm quyền cuối cùng của mọi dự án PPP
đều thuộc Thủ tướng Chính phủ, kể cả các dự án nhỏ. Tư vấn quốc tế đánh giá đặc
8


điểm này là không tích cực. Chúng ta cũng chưa có một khung pháp lý đồng nhất
cho những dự án theo hình thức PPP. Nghị định 108/2009/NĐ-CP dành cho các dự
án BOT và Quyết định 71 dành cho các dự án PPP có những nội dung không đồng
nhất và cũng không kết nối với nhau.
Nghiên cứu của Trung tâm Thông tin và Dự báo Quốc gia cũng chỉ ra rằng,
năng lực thực hiện của các cơ quan nhà nước còn hạn chế, đặc biệt là ở cấp địa
phương. Cho đến nay, quá khứ và hồ sơ thực hiện dự án theo hình thức PPP đúng
nghĩa hầu như không có, là điều nhà đầu tư quan ngại và không phản ứng tích cực.
+ Chưa thấy rõ nét hình thức hợp tác công - tư, mà mới chỉ thấy hình thức
hợp tác công - công
Về thực tế triển khai thí điểm dự án PPP theo Quyết định 71, hiện nay tình
trạng ôm dự án rất phổ biến, chỉ định thầu là chủ yếu. Hầu hết các doanh nghiệp,
Tập đoàn, Tổng công ty, công ty nhà nước đều hoạt động chủ yếu bằng vốn vay và
vốn chiếm dụng. Trong khi, các doanh nghiệp này chính là nòng cốt của nền kinh
tế và nhiều công ty đang là nhà đầu tư của những dự án lớn.
Điều này cũng cho thấy, nhà đầu tư Việt Nam không có vốn, hoạt động nhờ
vốn ngân hàng, mà chủ yếu là ngân hàng thương mại nhà nước, rồi sau đó xin trái
phiếu Chính phủ là đủ vốn để tham gia các dự án đầu tư. “Như vậy, xét cho cùng
hợp tác công - tư thực chất là công – công. Chính vì vậy, khi có lợi thì nhà đầu tư
nhảy vào, nhưng khi thua lỗ lại mang trả Nhà nước.
+ Cán bộ thực hiện chưa được đào tạo bài bản về lĩnh vực PPP và chưa có
kinh nghiệm về mô hình đầu tư này.
+ Do nguồn vốn đầu tư công bị hạn chế nên gặp nhiều khó khăn trong việc
phân bổ nguồn vốn nhà nước tham gia vào các dự án PPP.

+ Trong bối cảnh khủng hoảng kinh té toàn cầu, khả năng hỗ trợ của các nhà
tài trợ, tổ chức tài chính và nhà đầu tư nước ngoài đối với các dự án PPP tại Việt
Nam bị hạn chế.
3.2. Những giải pháp khắc phục
9


3.2.1. Hoàn thiện cơ bản về khung pháp lý về PPP
Để khắc phục hạn chế trên cần phải có một khung khổ pháp lý có hiệu lực
cao hơn (luật về PPP), bằng cách hợp nhất Nghị định số 108/2009/NĐ-CP, Quyết
định số 71/2010/QĐ-TTg thành Nghị định về đầu tư theo hình thức PPP và Nghị
định số 15/2015
Việc xây dựng khung pháp lý phải giải quyết được các vấn đề: hai bên tham
gia đến đâu? Trách nhiệm đến đâu? Quyền lợi đến đâu?. Tức, để bảo đảm tính chất
công, Nhà nước có thể can thiệp bất cứ lúc nào khi có thương hại đến lợi ích của
cộng đồng. Vì vậy, không nên quy định mức tỷ lệ cứng, nhưng phải quy định rõ
những quyền và trách nhiệm của hai bên. Để không còn “công – công”, thì bản
thân dự án phải làm rõ được sinh lời ở đâu và bao nhiêu thì mới hấp dẫn nhà đầu
tư.
Với mục đích mong muốn thu hút nguồn vốn đầu tư tư nhân vào phát triển
cơ sở hạ tầng trong bối cảnh khung thể chế còn chứa nhiều rủi ro tiềm tàng và phải
cạnh tranh với các nước trong khu vực nên việc hoàn thiện hơn nữa các chính sách
về PPP và tiến tới xây dựng Luật Đầu tư đối tác công - tư là hết sức cần thiết. Cụ
thể:
- Làm rõ các hình thức hợp tác trong PPP và phạm vi áp dụng;
- Thành lập và vận hành một tổ chức quản lý PPP ở cấp quốc gia, chịu trách
nhiệm xúc tiến các dự án PPP;
- Các quy định cụ thể về xây dựng dự án tiền khả thi, khả thi, đánh giá thẩm
định dự án PPP trước khi đấu thầu;
- Các quy định cụ thể liên quan đến đấu thầu và lựa chọn nhà cung ứng: Thủ

tục đấu thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu, chấm thầu, công bố kết quả;
- Các quy định cụ thể về các hình thức và nội dung trong hợp đồng PPP;
- Làm rõ các rủi ro có thể, các tranh chấp có thể phát sinh, các bên có liên
quan về cách giải quyết cũng như trách nhiệm của các bên trong quá trình thực
hiện dự án.
10


3.2.2. Tập trung nghiên cứu lựa chọn các dự án tiềm năng, ưu tiên các dự án
có tính thương mại cao để thực hiện theo mô hình PPP.
3.2.3. Bố trí nguồn vốn ngân sách tập trung ở Trung ương dành riêng để sẳn
sàng phân bổ cho các dự án PPP được lựa chọn. Dự kiến trong giai đoạn 20172020 Chỉnh phủ sẽ dành khoảng 20.000 tỷ đồng (tương đương 01 tỷ USD) cho các
dự án PPP.
3.2.4. Đẩy nhanh công tác tăng cường năng lực về PPP cho cán bộ, công
chức ở Trung ương và địa phương để trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ về dự án
PPP.
3.2.5. Sử dụng có hiệu quả cácnguồn tài trợ từ các nhà tài trợ, các tổ chức tài
chính quốc tế đối với chương trình PPP tại Việt Nam.
3.3. Thực trạng và nhu cầu đầu tư phát triển CSHTGTĐB Việt Nam
theo hình thức hợp tác công - tư
3.3.1. Thực trạng về hệ thống giao thông đường bộ và nhu cầu đầu tư
phát triển CSHTGTĐB Việt Nam
3.3.1.1. Thực trạng hệ thống giao thông đường bộ Việt Nam hiện nay
Đến hết năm 2015, ngành GTVT đầu tư xây dựng mới, nâng cấp, cải tạo
khoảng 4.400km đường bộ và hơn 94.000m dài cầu đường bộ; đặc biệt đã hoàn
thành việc nâng cấp, mở rộng và đưa vào khai thác toàn tuyến đường Hồ Chí Minh
đoạn qua Tây Nguyên sớm hơn 1,5 năm so với kế hoạch; cơ bản hoàn thành nâng
cấp, mở rộng QL1 từ Thanh Hóa đến Cần Thơ, sớm hơn 01 năm so với kế hoạch;
đã đầu tư mới và đưa vào khai thác khoảng 704km đường bộ cao tốc, vượt 104km
so với mục tiêu đề ra.

Tuy nhiên, đánh giá về hệ thống đường bộ toàn quốc, chỉ có 32% đạt loại tốt
trở lên, còn lại 68% là loại trung bình, xấu cần phải bảo dưỡng, nâng cấp ngay.
Nhiều tuyến chưa đảm bảo tiêu chuẩn, cầu và đường chưa đồng bộ, chất lượng mặt
đường xuống cấp nghiêm trọng nên thường xuyên xảy ra tai nạn và ùn tắc như:
QL1, QL2, QL3, QL5, QL6...; đặc biệt ở khu vực miền Trung, Tây Nguyên các
11


cầu, cống, tuyến đường xây dựng trước đây không phù hợp với tình hình thủy văn
hiện nay nên dễ bị ngập lụt trong mùa mưa bão, gây sụt lở.
3.3.1.2. Nhu cầu đầu tư phát triển CSHTGTĐB Việt Nam
Theo tính toán của Bộ GTVT, nhu cầu vốn đầu tư xây dựng CSHTGTĐB
đến năm 2020 bình quân khoảng 202.000 tỷ đồng/năm, trong đó một số dự án giao
thông quan trọng, cấp bách như QL1 cần bình quân 22.000 tỷ đồng/năm, đường Hồ
Chí Minh là 27.000 tỷ đồng/năm... và tổng nhu cầu vốn cho xây dựng kết cấu hạ
tầng giao thông từ nay đến năm 2020 do Bộ trực tiếp quản lý ước khoảng 1.015
nghìn tỉ đồng. Khả năng đáp ứng nhu cầu từ các nguồn ngân sách và có nguồn gốc
ngân sách (vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ, vốn ODA) theo Bộ
GTVT chỉ vào khoảng 28%. Phần thiếu hụt là 731 nghìn tỉ đồng, trong đó các dự
án có khả năng đầu tư bằng hình thức xã hội hóa có tổng mức đầu tư khoảng 452,6
nghìn tỉ đồng, trong đó yêu cầu phần vốn góp Nhà nước là khoảng 157 nghìn tỉ
đồng
3.3.2. Thực trạng đầu tư phát triển CSHTGTĐB Việt Nam theo hình thức
hợp tác công - tư
3.3.2.1. Đầu tư phát triển CSHTGTĐB Việt Nam theo hình thức hợp tác
công - tư
Thống kê sơ bộ do Bộ GTVT tổng hợp cho thấy, tính đến hết tháng 5/2015,
cả nước có 83 dự án kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức BOT và BT với tổng
vốn đầu tư 229.105 tỉ đồng, trong đó chủ yếu là các dự án BOT (92,3%). Điểm
đáng chú ý là 99,3% tổng mức đầu tư thuộc lĩnh vực giao thông đường bộ. Trong

cả giai đoạn 2011 - 2015 chỉ có vài dự án BOT và BT thuộc các lĩnh vực khác như
hàng hải, đường thủy nội địa với tổng mức đầu tư rất khiêm tốn, dưới 1%. Theo
cấp quản lý thì Bộ GTVT quản lý 90% số dự án BOT và BT với 89% tổng đầu tư
và các địa phương quản lý 10% số dự án với 11% tổng đầu tư .
3.3.2.2. Cơ hội và thách thức khi áp dụng hình thức hợp tác công - tư vào
đầu tư phát triển CSHTGTĐB tại Việt Nam
12


+ Những thuận lợi khi áp dụng hình thức PPP vào đầu tư phát triển
CSHTGTĐB ở Việt Nam
Việc triển khai mô hình đầu tư theo hình thức PPP trong lĩnh vực giao thông
đường bộ tại Việt Nam có rất nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai, tạo điều
kiện hoàn thiện hệ thống GTVT nói riêng và cơ sở hạ tầng Việt Nam nói chung.
Việc thực hiện thành công mô hình PPP trong lĩnh vực giao thông không những
trực tiếp thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội nước nhà mà còn đóng góp mạnh
mẽ cho chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam trong tương lai.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và Nghị quyết số
13-NQ/TW khẳng định, xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ là điều kiện
để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020. Chính vì vậy, Bộ GTVT đã triển khai đồng bộ các giải pháp, huy động tối đa
mọi nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông.
Với bối cảnh các nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn trái phiếu Chính phủ khó
có thể tăng đột biến do khống chế mức trần bội chi ngân sách cũng như trần nợ
công, nguồn vốn ODA đang thu hẹp dần khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập
trung bình thì các dự án thực hiện theo hình thức đối tác công - tư đã giúp giảm bớt
khó khăn nguồn vốn đầu tư công, phát huy hiệu quả, góp phần hoàn thiện cơ sở hạ
tầng giao thông, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Hình thức đầu tư theo hợp
đồng BOT, BT, BTO đang phát triển theo chiều hướng tích cực và dưới sự giám
sát, hỗ trợ của Nhà nước thì các hình thức đầu tư này đã bắt đầu có sự tiến triển

hơn so với các hình thức đầu tư khác.
Giai đoạn 2010 - 2014 là một trong những giai đoạn khó khăn nhất về vốn
đầu tư cho hạ tầng giao thông, nhiều dự án phải dừng, giãn tiến độ hoặc đình hoãn.
Nếu chỉ trông chờ vào ngân sách nhà nước thì sẽ không thể bố trí được nguồn vốn
lớn như vậy trong một thời gian ngắn. Chính vì vậy, Bộ GTVT chủ chương phải
tích cực kêu gọi đầu tư theo hình thức xã hội hóa. Tinh thần đó đã được Đảng và
Nhà nước ủng hộ và được thể hiện rõ nét bằng việc ban hành Nghị định số
13


15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức PPP và tiếp theo đó là Nghị định số
30/2015/NĐ-CP về lựa chọn nhà đầu tư. Hai Nghị định quan trọng này đã góp
phần tạo khung pháp lý rõ ràng về PPP để mở rộng cánh cửa thu hút đầu tư vào
lĩnh vực kết cấu hạ tầng giao thông.
+ Những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt khi áp dụng hình thức
PPP vào đầu tư phát triển CSHTGTĐB
Bên cạnh những thuận lợi về môi trường kinh tế - xã hội và hành lang pháp
lý cho đầu tư phát triển CSHTGTĐB theo hình thức PPP thì đầu tư theo hình thức
này cũng đang phải đối mặt với những thách thức không nhỏ. Cụ thể:
Vốn cho đầu tư phát triển CSHTGTĐB mặc dù đã được huy động ngoài
ngân sách nhà nước với khối lượng lớn nhưng chưa đáp ứng đủ cho các mục tiêu
xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đã đề ra. Nguồn vốn ODA dành
cho phát triển kết cấu hạ tầng giao thông ngày càng giảm sút sau khi Việt Nam trở
thành nước có thu nhập trung bình. Các hình thức huy động vốn khác bị hạn chế do
ảnh hưởng đến quy mô trần nợ công. Các chính sách về phí sử dụng dịch vụ hạ
tầng chậm được đổi mới.
Bên cạnh đó, hành lang pháp lý về PPP chưa đồng bộ, các văn bản quy phạm
pháp luật thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung hoặc thay đổi khiến các nhà đầu tư
nước ngoài băn khoăn về dự án PPP mà họ quan tâm hoặc đang đầu tư sẽ gặp phải
rủi ro liên quan đến cơ sở pháp lý. Vì thế, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn tâm

lý khá e dè, chần chừ khi quyết định tham gia vào môi trường đầu tư của Việt Nam
nói chung và kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ nói riêng.
Chúng ta đều thấy các dự án đầu tư phát triển CSHTGTĐB theo hình thức
đối tác công - tư, hầu hết có tổng mức đầu tư lớn, vòng đời dự án dài. Tuy nhiên
hiện nay, mức phí vẫn chưa cho phép tăng theo chỉ số CPI, hay nói cách khác chưa
tính đến các biến động của thị trường mà chỉ đề cập một cách định tính nên các nhà
đầu tư và các tổ chức tín dụng luôn cảm thấy rủi ro.

14


Mặt khác, nguồn cung cấp tín dụng cho các dự án hạn hẹp. Hầu hết nguồn
cung cấp tín dụng dài hạn hiện nay đến từ các tổ chức tín dụng trong nước. Tuy
nhiên, khả năng cung cấp tín dụng dài hạn của các tổ chức tín dụng trong nước
đang ở mức giới hạn. Việc huy động vốn từ các ngân hàng tín dụng ngoài nước khó
khăn do hầu hết các tổ chức tín dụng đều yêu cầu bảo lãnh doanh thu, bảo lãnh rủi
ro tỷ giá và thậm chí là bảo lãnh của Chính phủ đối với khoản vay…
Hiện tại, chúng ta đang thiếu một số lượng lớn nguồn nhân lực hiểu biết và
vận dụng được kiến thức PPP vào thực tế bởi Việt Nam chưa có một quy trình và
tài liệu đào tạo một cách bài bản về PPP trong khi kiến thức về PPP tổng quan cũng
như cách áp dụng PPP cho từng ngành, từng lĩnh vực lại rộng lớn.
Tóm lại, PPP hay hợp tác công - tư không phải là mô hình mới ở Việt Nam.
Mô hình này có thể góp phần vào việc xây dựng các cơ sở hạ tầng hay cung cấp
dịch vụ công cộng, nhưng không nên kỳ vọng nó sẽ là chiếc đũa thần để giải quyết
nút thắt cơ sở hạ tầng ở Việt Nam. Thực ra, một trong những nguyên nhân gây ra
thiếu hụt và quá tải cơ sở hạ tầng ở Việt Nam là do không ít công trình đã được xây
dựng hoặc là không hiệu quả (rất ít người sử dụng), hoặc là quá đắt, hoặc là cả hai.
Để giải quyết nút thắt cơ sở hạ tầng, việc cần làm hơn cả là lựa chọn đúng dự án
cần thiết và loại trừ những chi phí phi lý. Để làm được điều này, một quy trình
thẩm định dự án khoa học dựa trên những tiêu chí rõ ràng cộng với các thủ tục đấu

thầu công khai và minh bạch là việc cần làm ngay.

15



×