Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Luận văn Bài học đổi mới tư duy. Vận dụng bài học đổi mới tư duy vào vị trí công tác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.38 KB, 30 trang )

Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

"…một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể
không có tư duy lý luận"
C.Mác và Ph.Ăngghen:Toàn tập,
tập 20, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.489

1 Nhóm 1

1

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài này, ngoài sự cố gắng nỗ lực của cả nhóm 1, chúng em đã
nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ, động viên từ phía gia đình, các cá nhân đoàn
thể trong và ngoài trường.
Trước hết chúng em xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới các thầy cô
giáo và Ban giám hiệu trường Đại học Thương mại đã giúp em định hướng đúng đắn
trong học tập và tu dưỡng đạo đức trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt chúng em xin gửi lời cảm ơn, lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên PGS.TS
Phương Kỳ Sơn – người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ chúng em trong quá trình hoàn
thành đề tài này.


Cuối cùng em xin kính chúc thầy và các bạn lớp CH22B - KT luôn dồi dào sức
khỏe và thành công trong công việc.
Là công trình nghiên cứu đầu tay, do điều kiện còn hạn chế về kiến thức cũng như
tài liệu nên khó tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết. Vì vậy, chúng em rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy giáo và các bạn để nội dung của đề tài này
được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 06 tháng 12 năm 2016
Nhóm 1, Lớp CH22B - KT

2 Nhóm 1

2

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

LỜI CAM ĐOAN
Chúng em xin cam đoan:
1. Những nội dung trong đề tài này là do chúng em thực hiện dưới sự hướng dẫn

của giảng viên PGS.TS Phương Kỳ Sơn.
2. Các kiến thức thu được là do chúng em trực tiếp theo dõi, thu thập với một thái

độ hoàn toàn khách quan trung thực.
3. Toàn bộ nội dung đề tài là do chúng em tự xây dựng và nghiên cứu có sự tham


khảo các tài liệu liên quan, không sao chép toàn bộ từ bất kỳ bài nghiên cứu nào
tương tự.

Hà Nội, ngày 06 tháng 12 năm 2016
Nhóm 1, Lớp CH22B - KT

3 Nhóm 1

3

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tầm quan trọng của đề tài
Thực tiễn thế giới trong những thập kỷ qua và trong các thập kỷ tới đã, đang và sẽ
thay đổi một cách nhanh chóng, mà người Trung Quốc gọi là thời kỳ đại biến động.
Tuy nhiên, tư duy của con người đã không thay đổi kịp, tạo ra một độ trễ, thậm chí là
tụt hậu. Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, bài học tôn trọng khách quan và đổi mới tư
duy, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng.
Triết học là một khoa học đã có từ lâu đời. Ở mỗi thời kỳ, Triết học được phát
triển qua nhiều trường phái khác nhau với nhiều quan điểm khác nhau tại các quốc gia
và vùng lãnh thổ trên thế giới. Ngày nay, Triết học là một bộ phận không thể tách rời

với sự phát triển của bất kì hình thái kinh tế nào. Những vấn đề Triết học về lý luận
nhận thức và thực tiễn, bài học tôn trọng khách quan và đổi mới tư duy,…luôn là cơ sở,
là phương hướng cho xây dựng và phát triển xã hội, kinh tế, là tôn chỉ cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu xuất phát từ một lập trường Triết học đúng đắn,
doanh nghiệp có thể có được cách giải quyết phù hợp với các vấn đề do thị trường đặt
ra.
Khác với các nước Đông Âu và Liên Xô, ở Việt Nam nhu cầu đổi mới các chính
sách là xuất phát từ chính lĩnh vực kinh tế, chứ không phải hệ quả của những biến động
chính trị. Vì thế, muốn phát triển thì các doanh nghiệp không thể không đổi mới tư duy
và phải đổi mới tư duy làm sao để áp dụng vào doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Giải
quyết được vấn đề giữa lý luận và thực tiễn, giữa sáng tạo và hiện thực sẽ là cơ sở để
nghiên cứu về mối liên hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới tư duy. Một khi doanh
nghiệp có thể thấy rõ, hiểu rõ vấn đề này thì không những doanh nghiệp sẽ có một cái
nhìn tổng quát về việc phát triển doanh nghiệp mà còn có thể kết hợp giữa đổi mới tư
duy và đổi mới kinh doanh để làm cho sự phát triển của doanh nghiệp có những bước
nhày vọt.
Nhận thức được tầm quan trọng của bài học đổi mới tư duy và việc vận dụng bài
học này vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và vị trí công tác của
4 Nhóm 1

4

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

từng tác giả nói riêng, nhóm tác giả đã lựa chọn đề tài " Bài học đổi mới tư duy, vận

dụng bài học vào vị trí công tác của mình" để làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở lý luận về bài học đôi mới tư duy, các tác gia biết vận dụng bài học
này vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và vận dụng bài học vào
từng vị trí công tác của từng tác giả, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiêp cũng như nâng cao hiệu của công việc của bản thân.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
- Hệ thống hóa những lý luận cơ bản về vật chất, ý thức và nội dung bài học đổi
mới tư duy.
- Vận dụng bài học đổi mới tư duy vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
và từng vị trí công tác để đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
Bài thảo luận gồm hai phần chính:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bài học đổi mới tư duy.
Chương 2: Vận dụng bài học đổi mới tư duy vào hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
4. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu.
- Về lý luận: Đề tài hệ thống hóa những vấn đề lý luận về bài học đổi mới tư duy
bao gồm phạm trù vật chất, ý thức, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, nội dung bài
học đổi mới tư duy.
- Về thực tiễn: Nghiên cứu đề tài này làm cơ sở khoa học cho các cá nhân, tổ
chức, doanh nghiệp ứng dụng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp nói chung cũng như nâng cao hiệu quả công tác của các tác giả tham gia
nghiên cứu nói riêng.

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÀI HỌC ĐỔI MỚI
TƯ DUY
5 Nhóm 1

5


Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

1.1. Vật chất và ý thức.
1.1.1. Vật chất
1.1.1.1. Phạm trù vật chất
Vật chất là phạm trù triết học phức tạp và có nhiều quan niệm khác nhau về nó.
V.I.Lênin đã khẳng định bản chất vật chất của thế giới và đưa ra định nghĩa kinh điển
về vật chất như sau: “ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản anh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Theo định nghĩa của Leenin về vật chất:
Thứ nhất, cần phân biệt khái niệm vật chất với tư cách là phạm trù triết học (tức
phạm trù khái quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất và
được xác định từ góc độ giải quyết vấn đề cơ bản của triết học) với khái niệm vật chất
được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành (tức khái niệm dùng để chỉ những dạng
vật chất cụ thể, cảm tính; những biểu hiện cụ thể của thế giới vật chất tự nhiên hay xã
hội).
Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất của mọi tồn tại vật chất được khái quát trong
phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng là thuộc tính tồn tại khách quan,
tức là tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức con người.
Thứ ba, vật chất là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay
gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người là sự phản ánh
đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.
1.1.1.2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất

a. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Ăngghen định nghĩa “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất – tức được hiểu là
một phương thức tồn tại vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất
cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn
giản cho đến tư duy”
Dựa trên thành tựu khoa học ở thời đại mình, Ăngghen đã phân chia vận động
thành 5 hình thức vận động cơ bản là vận động cơ giới (sự di chuyển vị trí của các vật
thể trong không gian); vận động vật lý (vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ
bản, các quá trình nhiệt, điện…); vận động hóa (sự biến đổi các chất vô cơ, hữu cơ
trong những quá trình hóa hợp và phân giải); vận động sinh vật (sự biến đổi của các cơ
6 Nhóm 1

6

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

thể sống, biến thái cấu trúc gen…); vận động xã hội (sự biến đổi trong các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, đời sống xã hội,…).
b. Không gian và thời gian cũng là những phạm trù đặc trưng cho phương thức tồn tại
của vật chất.
Ăngghen viết: "Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian;
tồn tại ngoài thời gian thì hết sức vô lý như tồn tại ở ngoài không gian.". Theo
Ăngghen thì không gian và thời gian gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau và cả hai đều là
thuộc tính cố hữu của vật chất. Không thể có vật chất nào tồn tại bên ngoài không gian
và thời gian, cũng như không thể có không gian, thời gian nào tồn tại bên ngoài vật

chất. Lênin cũng đã nhận xét rằng: "Trong thế giới, không có gì ngoài vật chất đang
vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và
thời gian".
Không gian và thời gian có những tính chất của vật chất, đó là tính khách quan;
tính vĩnh cửu và vô tận; tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian.
1.1.2. Ý thức
1.1.2.1. Khái niệm về ý thức
Ý thức là sự phản ánh của bộ óc con người đối với thế giới vật chất khách quan,
là tổng hòa các quá trình tâm lý như cảm giác, tư duy…cũng là hạt nhân để con người
nhận thức về mình cũng như về thế giới. Nói cách khác, ý thức là sự phản ánh thế giới
vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng tạo.
1.1.2.2. Nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc
xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: nguồn gốc tự nhiên của ý thức là bộ óc con
người và hoạt động của nó cùng mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan,
trong đó thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người, từ đó tạo ra khả năng hình
thành ý thức của cong người về thế giới khách quan.
- Nguồn gốc xã hội của ý thức: có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc xã hội của ý
thức nhưng trong đó cơ bản nhất và trưc tiếp nhất là nhân tố lao động và ngôn ngữ.

7 Nhóm 1

7

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao


GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

+ Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự
nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người. Trong quá
trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan làm thế giới bộc lộ những
quy luật của nó và biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể
quan sát được. Những hiện tượng ấy thông qua hoạt động của các giác quan, tác động
vào bộ óc con người, tạo ra khả năng hình thành nên tri thức nói riêng và ý thức nói
chung.
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý
thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách
quan vào trong bộ óc người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý
thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
1.1.2.3. Bản chất và kết cấu của ý thức
a. Bản chất của ý thức
Triết học Mác - Lênin khẳng định bản chất của ý thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong bộ óc người một cách năng động, sáng tạo.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới
khách quan quy định cả về nội dung và hình thức biểu hiện nhưng đã cải biến thông
qua lăng kính chủ quan của con người.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của
ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự cho phối của các quy luật tự nhiên và
xã hội, được quy định bởi nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện
thwck của đời sống xã hội.
b. Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều thành tố có quan hệ với nhau. Tùy
theo cách tiếp cận mà có thể phân tích kết cấu đó theo các tiêu thức khác nhau. Có thể
phân tích cấu trúc đó theo hai chiều dưới đây:

Thứ nhất, theo chiều ngang: ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức,
tình cảm, niềm tin, lí trí, ý chí…trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi.
Thứ hai, theo chiều dọc: ý thức bao gồm các yếu tố như tự ý thức, tiềm thức, vô
thức…Tất cả những yếu tố đó cũng với những yếu tố khác quy định tính chất phong
phú, phức tạp trong thế giới tinh thần và hoạt động tinh thần của con người.
1.1.3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
8 Nhóm 1

8

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

1.1.3.1. Vai trò của vật chất đối với ý thức
Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật
chất là nguồn gốc của ý thức, vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh đối với
vật chất
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ
khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ
khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật
chất thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản
phẩm của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức
lâu dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh
quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc

người, thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao
động, ngôn ngữ), hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là
những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn
ngữ) đã khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất
nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý
thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác
động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên
vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng
như mọi sự biến đổi của ý thức.
1.1.3.2. Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người.
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đén vai trò của ý thức là nói đến vai
trò của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện
thực. Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất.
Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức
không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người
tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra
phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương
9 Nhóm 1

9

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn


tiện…để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình
đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng; tích cực
hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách
mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật
khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực
hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo – đó là sự tác động tích cực của ý thức;
còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất
quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược lại
các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đối với hoạt động thực
tiễn, đối với hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thể
quyết định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai,
thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất,
của ý thức có thể thấy: Vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả
năng sáng tạo của ý thức, là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả
năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua
hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự
tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức
vào những người hành động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện vật
chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành động theo định hướng của ý thức.

1.2. Nội dung bài học đổi mới tư duy
1.2.1. Tư duy
1.2.1.1. Khái niệm tư duy
Tư duy là phạm trù triết học dùng để chỉ những hoạt động của tinh thần, đem
những cảm giác của người ta sửa đổi và cải tạo thế giới thông qua hoạt động vật chất,
làm cho người ta có nhận thức đúng đắn về sự vật và ứng xử tích cực với nó.

1.2.1.2. Quá trình hình thành tư duy
10 Nhóm 1

10

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

Tư duy xuất hiện trong quá trình sản xuất xã hội của con người. Trong quá trình
đó, con người so sánh các thông tin, dữ liệu thu được từ nhận thức cảm tính hoặc các ý
nghĩ với nhau. Trải qua các quá trình khái quát hóa và trừu tượng hóa, phân tích và
tổng hợp để rút ra các khái niệm, phán đoán, giả thuyết, lý luận.v.v... Kết quả của quá
trình tư duy bao giờ cũng là sự phản ánh khái quát các thuộc tính, các mối liên hệ cơ
bản, phổ biến, các quy luật không chỉ ở một sự vật riêng lẻ mà còn ở một nhóm sự vật
nhất định. Vì vậy, tư duy bao giờ cũng là sự giải quyết vấn đề thông qua những tri thức
đã nắm được từ trước.
Tư duy bắt nguồn từ hoạt động tâm lý. Hoạt động này gắn liền với phản xạ sinh lý
là hoạt động đặc trưng của hệ thần kinh cao cấp. Hoạt động đó diễn ra ở các động vật
cấp cao, đặc biệt biểu hiện rõ ở thú linh trưởng và ở người. Nhưng tư duy với tư cách là
hoạt động tâm lý bậc cao nhất thì chỉ có ở con người và là kết quả của quá trình lao
động sáng tạo của con người.
1.2.1.3. Đặc điểm của tư duy
• Tư duy là năng lực bản chất của con người
Tư duy, trên thực tế là năng lực bản chất của con người. Đỉnh cao của nó là năng
lực nhận thức lý tính, trừu tượng, cái cho phép khái quát hoá mọi nhận biết khác của
con người về sự vật, hiện tượng, quá trình.

• Tư duy phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan
Tư duy là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan. Tư duy phải
được biểu đạt thành ngôn ngữ. Do đó, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy. Tư duy
có tính năng động, sáng tạo, nó có thể phản ánh được mối liên hệ bản chất bên trong
của sự vật. Nhận thức lý tính hay tư duy được thể hiện ở các hình thức như khái niệm,
phán đoán và suy lý.
• Tư duy là năng lực sáng tạo tinh thần
Tư duy không chỉ là năng lực phản ánh tinh thần mà còn là năng lực sáng tạo
tinh thần. Nói chính xác hơn, bản chất đặc thù của tư duy là sự thống nhất của hai mặt
mâu thuẫn: phản ánh tinh thần và sáng tạo tinh thần.
1.2.1.4. Vai trò của tư duy
11 Nhóm 1

11

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

Theo cách hiểu thông thường, tư duy là hình thức phản ánh cao nhất hiện thực
khách quan vào bộ óc con người. Nhưng tư duy còn có nhiệm vụ góp phần cải tạo thực
tại khách quan. Tuy nhiên ở đây cần có sự phân biệt về chất giữa trực quan sinh động
và tư duy trừu tượng. Trực quan sinh động chỉ là giai đoạn thấp của quá trình nhận
thức, thực chất là quá trình nhận thức cảm tính, dựa trên cơ sở hoạt động sinh, tâm lý
của các giác quan như mắt (thấy), tai (nghe)… Còn tư duy trừu tượng là giai đoạn cao
của quá trình nhận thức, thực chất là quá trình nhận thức lý tính, bằng các hình thức
như khái niệm, phán đoán và suy lý mà phản ánh được những thuộc tính, quan hệ

chung, phổ biến, cơ bản, tất yếu của các sự vật hiện tượng.
1.2.2. Nội dung bài học đổi mới tư duy
Một trong những nội dung hết sức quan trọng của đổi mới tư duy là đổi mới
cách thức nhận thức hiện thực nhất là khi hiện thực vận động ngày càng phức tạp. Tư
duy mới cho phép ta khám phá bản chất, thực chất của các hiện tượng mới và cũ đang
tồn tại và phát huy tác dụng trong đời sống.
Đổi mới tư duy là phát huy tính năng động chủ quan, phát huy vai trò tích cực,
năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật
chất hóa tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn
trọng tri thức khoa học, tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và
truyền bá nó vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hướng
dẫn quần chúng hành động. Mặt khác, phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành,
củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cách mạng để có sự thống nhất
hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động.
Thực tiễn là cơ sở và mục đích của nhận thức. Đối với phép biện chứng duy vật
thì thực tiễn là một quá trình mà trong đó, toàn bộ hoạt động vật chất của con người
gắn liền với quan điểm phát triển. Chính thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm nghiệm quá trình
đổi mới tư duy.
Đổi mới tư duy là một quá trình liên tục có tính quy luật nhằm khắc phục sự trì
trệ trong nhận thức, tư tưởng. Đổi mới tư duy sẽ góp phần khắc phục tình trạng trì trệ
và lạc hậu về nhận thức lý tuận. Kiến thức khoa học thực sự trở thành cơ sở, nền tảng
12 Nhóm 1

12

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao


GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

cần thiết cho công cuộc đổi mới tư duy. Không có tri thức khoa học mới thì không có
tư duy mới. Kiến thức cũ, muốn hay không cũng là tư duy cũ.
Đổi mới tư duy không có nghĩa là quá trình đổi mới này đi ngược với quan điểm
đời sống, quan điểm thực tiễn của chủ nghĩa Mác mà là tìm ra sự nhất trí chung của
toàn xã hội, bắt đầu từ việc nhận thức đúng tình hình thực tế, những diễn biến đang sảy
ra trong đời song hiện thực nhằm tạo ra chiến lược đổi mới hợp lý trong quan hệ kinh
tế, chính trị, xã hội…
1.2.2.1. Đổi mới tư duy về kinh tế
Bước ngoặt trong đổi mới tư duy kinh tế của Đảng là chúng ta chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Qua 25 năm, sự nghiệp đổ mới của Việt Nam đạt được những thành tựu như
ngày hôm nay là nhờ có Đảng lãnh đạo và do Đảng đã luôn luôn chủ động, sáng tạo
trong đổi mới tư duy về kinh tế. Đường lối và chính sách đổi mới từ Đại hội VI (1986)
của Đảng đã đặt cơ sở, nền tảng ban đầu cho giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ của nền
kinh tế nước ta. Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc, trong đó có đổi
mới tư duy về kinh tế, đột phá khởi đầu cho đổi mới các lĩnh vực tiếp theo. Tuy nhiên,
trong giai đoạn phát triển mới của đất nước đòi hỏi phải xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, do vậy chúng ta
cần phải tiếp tục đổi mới mạnh hơn nữa tư duy kinh tế cho phù hợp với điều kiện của
đất nước, xu hướng phát triển của thế giới và của thời đại.
1.2.2.2. Đổi mới tư duy về hệ thống chính trị
Để đổi mới tư duy về hệ thống chính trị cần phải bắt đầu từ những nhận thức
mới về chính trị và hình thành tư duy chính trị mới. Đây là tiền đề nhận thức khoa học
rất quan trọng để đổi mới hệ thống chính trị trong thực tiễn một cách có hiệu quả.
Thực chất của nhận thức mới về chính trị và tư duy chính trị đó là: Đảng cầm
quyền để lãnh đạo xã hội và lãnh đạo Nhà nước nhằm định hướng và phát huy tốt nhất
mọi năng lực phát triển của dân để dân làm chủ trong một Nhà nước mạnh chứ Đảng

không làm thay Nhà nước, không đứng trên xã hội. Đảng hoạt động trong khuôn khổ
13 Nhóm 1

13

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

pháp luật, nêu gương cho dân chúng bằng việc nghiêm chỉnh thực thi pháp luật. Nhà
nước là sức mạnh quyền lực và ý chí của dân. Nhà nước ở trong xã hội chứ không trùm
lên xã hội, lấn át xã hội, thay thế xã hội. Các tổ chức, đoàn thể chính trị của dân là môi
trường xã hội thể hiện và thực hiện sức mạnh dân chủ của dân, chứ không hành chính
hóa, quan liêu hóa, không ký sinh vào nhà nước và xã hội. Dân chủ và pháp quyền sẽ
đảm bảo cho yêu cầu đó được thực hiện.
1.2.2.3. Đổi mới tư duy về văn hóa, xã hội
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có
những bước phát triển mới trong tư duy lý luận về văn hóa, về xây dựng và phát triển
nền văn hoá; quan niệm về phát triển, về mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển và vai
trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.2.4. Đổi mới tư duy trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn
Trước hết của đổi mới tư duy trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn là
đổi mới công cụ nhận thức, công cụ hoạt động khoa học xã hội, mà thực chất, là đổi
mới về phương pháp. Và, hơn thế, đổi mới trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân
văn là nhìn nhận lại mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. Trong mối quan hệ này,

thông tin có vai trò quan trọng đặc biệt, “không có thông tin thì lý luận và thực tiễn
không có ý nghĩa gì”. Vai trò của khoa học chính trị và đi đến khẳng định, tất cả những
vấn đề cấp bách trong công cuộc đổi mới hệ thống chính trị đều có liên hệ mật thiết với
khoa học chính trị.

14 Nhóm 1

14

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG BÀI HỌC ĐỔI MỚI TƯ DUY VÀO HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
2.1 Nhận thức chung
2.1.1. Toàn cảnh đất nước
Qua vấn đề đổi mới tư duy lý luận ở Việt Nam hiện nay có thể xác định kết quả tư
duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới đất nước được thể hiện thành sự lựa chọn mô hình,
bước đi, chính sách cho quá trình phát triển của đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam,
nhà nước Việt Nam đã lựa chọn được đường lối, mô hình phát triển thích hợp, hướng
tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
2.1.2. Liên hệ công ty kinh doanh nhà nước chiếm cổ phần chi phối
Trên con đường phát triển Ban lãnh đạo các Công ty đã đặt ra mục tiêu: phát triển
công ty ngày càng tăng trưởng, vững mạnh, chất lượng cuộc sống của người lao động
được cải thiện và nâng cao. Ban lãnh đạo Công ty không ngừng cố gắng, tìm phương
hướng cho sự đổi mới để đạt mục tiêu trên. Tuy nhiên trên phương diện cá nhân nhóm

15 Nhóm 1

15

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

1 nhận định để hướng tới mục tiêu phát triển thì mô hình này cần phải đổi mới. Qua
nghiên cứu về thực trạng một số doanh nghiệp thuộc mô hình trên, nhóm 1 xin phép
đưa ra những nhận định cá nhân của mình về việc sự cần thiết phải đổi mới của mô
hình này là việc tái cơ cấu tổ chức công ty
2.2. Phân tích ưu nhược điểm trong mô hình quản lý công ty Nhà nước nắm giữ cổ
phần chi phối
Theo luật doanh nghiệp 2014:
Doanh nghiệp có vốn nhà nước là doanh nghiệp do nhà nước đầu tư, góp vốn một
phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ. Ở các doanh nghiệp này, nhà nước là một chủ đầu tư,
một cổ đông nắm giữ phần vốn góp từ 0% đến 100% vốn điều lệ. Nhà nước có thể là
chủ sở hữ duy nhất hoặc đồng sở hữu đối với các tổ chức, cá nhân khác. Phụ thuộc vào
phần vốn góp của nhà nước là dưới 50%, trên 50% hay 100% vốn điều lệ mà quyền và
nghĩa vụ của nhà nước với doanh nghiệp cũng sẽ khác nhau.
Đặc điểm pháp lý của doanh nghiệp có vốn nhà nước:
Về sở hữu: doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc sở hữu một phần hoặc toàn bộ
nhà nước, phụ thuộc vào việc nhà nước góp vốn một phần hay toàn bộ vốn để thành
lập doanh nghiệp.
Về hình thức tổ chức hoạt động: Doanh nghiệp có vốn nhà nước đươc tổ chức và
hoạt động theo hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc Công ty cổ phần. Trường

hợp nhà nước đầu tư toàn bộ phần vốn thành lập thì hình thức của doanh nghiệp là
Công ty TNHH một thành viên.
Về tư cách pháp lý: Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có tài sản độc
lập, nhân danh mình tham gia các giao dịch và tự chịu trách nhiệm về tài sản của mình
trong các giao dịch đó.
Về trách nhiệm tài sản: Doanh nghiêp có vốn nhà nước chịu trách nhiệm đối với
các khoản nợ phát sinh trong hoạt động kinh doanh bằng toàn bộ tài sản thuộc quyền sở
hữ của doanh nghiệp. Các loại tài sản thuộc quyền sở hữu củ doanh nghiệp bao gồm:
Tài sản góp vốn điều lệ của các chủ đầu tư, tài sản hình thành từ nguồn vốn vay, lợi
nhuận, các loại quỹ do doanh nghiệp trích lập và các tài sản khác theo quy định của
pháp luật.
Như vậy có thể rút ra ưu và nhược điểm của loại hình doanh nghiệp này
16 Nhóm 1

16

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

Ưu điểm:
Điểm mạnh của các doanh nghiệp nhà nước chính là cách giải quyết vấn đề. Nó
mang tính thống nhất, đồng bộ, kịp thời giải quyết các vấn đề nảy sinh trong nền kinh
tế. Ví dụ như khi tổng cầu của một loại hàng hóa nào đó trong thị trường vượt quá mức
cung, chính phủ sẽ đều động các doanh nghiệp nhà nước tăng cường về sản xuất mặt
hàng đó để đảm bảo cung ứng cho xã hội. Ngược lại khi tổng cung vượt quá tổng cầu
thì các doanh nghiệp nhà nước sẽ có sự thống nhất hạn chế sản xuất mặt hàng đó. (có

thể thay thế mặt hàng đó bằng một mặt hàng khác để sàn xuất nhằm tránh tình trạng
thất nghiệp xảy ra).
Nhược điểm:
Các doanh nghiệp nhà nước không năng động sáng tạo vì các doanh nghiệp chỉ
thụ động trong sản xuất, mọi quyền quyết định đều thuộc quản lí cấp trên. Lợi nhuận
có được cũng thuộc về nhà nước, các doanh nghiệp chỉ được hưởng mức lương ấn
định. Đây chính là nhược điểm của doanh nghiệp nhà nước.
2.3. Giải pháp đổi mới
Theo quan điểm đổi mới của Đảng, đổi mới tư duy trước hết là tư duy kinh tế, do
đó để phát triển doanh nghiệp thì mọi cơ chế cần phải linh hoạt, chủ động và hạn chế
các cấp quản lý, do đó cần thiết phải tái cơ cấu tổ chức kinh tế, cụ thể là thực hiện theo
mô hình doanh nghiệp công ty mẹ, công ty con
2.3.1. Mô hình công ty mẹ, công ty con
2.3.1.1. Khái quát:
Công ty mẹ - công ty con là một hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh được thực
hiện bởi sự liên kết nhiều pháp nhân kinh doanh nhằm hợp nhất các nguồn lực của một
nhóm Doanh nghiệp đồng thời thực hiện sự phân công, hợp tác về chiến lược dài hạn
cũng như kế hoạch ngắn hạn trong sản xuất kinh doanh giữa các Doanh nghiệp để tạo
ra sức mạnh chung và nâng cao hiệu quả hoạt động. Sự liên kết giữa công ty mẹ và các
công ty con là liên kết về vốn. Hình thức liên kết là có một công ty mẹ giữa vai trò
trung tâm đầu tư vốn vào các công ty con. Theo đó chi phối công ty con theo nhiều cấp
độ tuỳ theo tỷ lệ vốn đầu tư vào các công ty con đó. Mức độ đầu tư vốn của công ty mẹ
17 Nhóm 1

17

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao


GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

vào các công ty con có thể là đầu tư 100% vốn, đầu tư giữ cổ phần chi phối các Doanh
nghiệp là công ty con tham gia liên kết theo mô hình này là những pháp nhân đầy đủ
liên kết với công ty mẹ theo nhiều mức độ, chặt chẽ, vừa chặt chẽ và không chặt chẽ,
thông qua sự chi phối vốn phân công và hợp tác của công ty mẹ khi đó công ty mẹ với
tư cách thực hiện quyền chủ sở hữu quyết định về cơ cấu tổ chức, quản lý chủ yếu, tập
trung quyết định điều chỉnh vốn điều lệ, chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ vốn
điều lệ cho công ty khác. Quyết định dự án đầu tư theo quy định của Nhà nước quyết
định nội dung sửa đổi bổ sung. Điều lệ công ty mẹ - công ty con giám sát đánh giá hoạt
động kinh doanh của công ty con duyệt báo cáo quyết toán hàng năm. Quyết định việc
xây dựng lợi nhuận của công ty con.
2.3.1.2. Các loại mô hình công ty mẹ - công ty con:
Hiện nay trên thế giới có hai loại hình cơ bản
- Loại chủ thể : Loại này do một đơn vị có tiềm lực vốn, công nghệ mạnh nhất là
công ty mẹ, tập hợp nhiều công ty đơn vị nhỏ hơn dưới sự điều tiết của công ty mẹ
thành tập đoàn. Loại hình chủ thể do đơn vị lớn nhất nắm quyền chỉ huy tuyệt đối, các
thành viên có 3 khối chính. Khối trung tâm gồm có công ty mẹ bộ phận sự nghiệp, các
đơn vị sản xuất tất nhiên tập đoàn sẽ có nhiều bộ phận sự nghiệp và các đơn vị nhưng
nhất thể hoá về lợi nhuận, cùng một pháp nhân, các bộ phận sự nghiệp là trung tâm làm
ra lợi nhuận, được uy quyền kinh doanh đơn vị chỉ lo sản xuất tập đoàn lo vốn và đầu
tư. Nhật Bản và Hàn Quốc, sử dụng hình thức này khá phổ biến khối thứ hai gồm một
hay nhiều đơn vị công ty có vốn đầu tư tỷ lệ cao cảu tập đoàn, họ có quyền pháp nhân.
Khối thứ ba gồm những đơn vị của công ty mẹ. Khối thứ hai và ba mức khống chế của
tập đoàn tăng dần nhưng phải phụ thuộc vào nhau để tồn tại và phát triển dựa vào sức
mạnh của khối trung tâm,các tập đoàn khi áp dụng hình thức này có những đặc điểm
sau: - Khối hai và ba thường có mấy chục dơn vị, ngoài nhiệm vụ cung cấp cho khối
một của tập đoàn, họ còn kinh doanh cả mặt hàng khác đối với khách hàng đa dạng
hơn. - Công ty mẹ thường sản xuất kinh doanh da dạng sản phẩm dịch vụ chuyên môn

hoá cao, thường chiếm tỷ lệ doanh thu khoảng 70-80% của tập đoàn - Khối trung tâm
và tập đoàn trung, một tổng doanh thu giá cả, các số liệu do công ty mẹ cung cấp thống
nhất.

18 Nhóm 1

18

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

- Loại quản lý: Đơn vị nắm cổ phần lớn nhất của công ty mẹ nắm quyền chỉ huy,
điều phối các thành viên là các đơn vị có quyền pháp nhân riêng tập đoàn trong tập
đoàn. Trong loại hình "quản lý" cũng hình thành ba khối chính. Khối tập trung gồm
công ty mẹ là tổng hành trình có pháp nhân độc lập với nhiệm vụ chính là quản lý
khống chế các thành viên trong khối trung tâm có quyền pháp nhân nhưng do công ty
mẹ chi phối quản lý, khối thư hai là các đơn vị độc lập nhưng có cổ phần chi phối của
khối trung tâm, loại hình này không phổ biến ở các tập đoàn lớn. Các tập đoàn khi áp
dụng hình thức này có đặc điểm sau: - Chức năng quản lý và sản xuất tác biệt, các đơn
vị sản xuất có quyền pháp nhân riêng thường số lượng đơn vị không nhiều - Công ty
mẹ lo quản lý, đầu tư, kinh doanh tài chính. Do bộ phận quản lý không trực tiếp làm ra
lợi nhuận, cán bộ nên chỉ vạch ra chiến lược và chỉ đạo thực hiện. - Xuấth iện đối ngoại
các số liệu của tập đoàn không phải là số liệu của công ty mẹ Tuy nhiên sang song tồn
tại trong các mô hình trên là ba loại hình công ty mẹ
2.3.1.3. Các loại hình công ty mẹ - mối liên kết công ty mẹ - công ty con thông qua
hình thức này

a. Công ty mẹ tài chính Chỉ thực hiện chức năng đầu tư vốn vào các công ty con
mà không tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh khác nhau. Đây chính là mô hình
liên kết về vốn các công ty mẹ phải là những công ty có tiềm lực tài chính to lớn được
hình thành thông qua con đường nhất thể hoá kinh doanh bằng cách thôn tính sát nhập
xoá bỏ tư cách pháp nhân của một số Doanh nghiệp. Các công ty mẹ kiểu này thường
là các công ty tài chính hoặc các Ngân hàng thực hiện việc đa dạng hoá đầu tư vào
nhiều loại hình kinh doanh khác nhau chủ yếu chỉ tập trung vào việc giám sát tài chính
với mục tiêu là nhận được nhiều cổ tức từ hoạt động đầu tư đó và khi có thời cơ thì bán
lại cổ phiếu để kiếm lời. Công ty mẹ chỉ thực hiện quyền lãnh đạo đối với công ty con
bằng việc đưa ra các quyết sách về nhân lực, vật lực, sản xuất cung ứng tiêu thụ, sản
phẩm…đơn cứ thực hiện theo mô hình liên kết này là các Doanh nghiệp của Hàn Quốc
như Sam Sung, Daewo các tập đoàn của Trung Quốc như Liem sioe liong tập đoàn lấy
ngân hàng làm trung tâm ở Nhật Bản như Fuji, Mitsubishi, Sahua.
b. Công ty mẹ kinh doanh Thông thường là thực hiện kinh doanh ở một ngành
nghề nào đó mà sản phẩm có cấu tạo nhiều cấp, nhiều bộ phận và một hoạt động kinh
doanh nòng cốt, công ty mẹ là Doanh nghiệp đầu tàu trong lĩnh vực kinh doanh đó.
19 Nhóm 1

19

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

Mạnh về vốn tài sản có tiềm năng lớn về công nghệ và công nhân kỹ thuật có nhiều uy
thế trong việc thực hiện và các dự án lớn. Thực hiện chức năng là trung tâm xây dựng
chiến lược nghiên cứu phát triển, huy động và phân bổ vốn đầu tư đào tạo nhân lực, sản

xuất lắp ráp những sản phẩm nổi tiếng độc đáp phát triển các mối quan hệ đối ngoại tổ
chức phân công giao việc cho các công ty con trên cơ sở hợp đồng kinh tế. Như vậy,
công ty mẹ vừa thực hiện hoạt động kinh doanh vừa đầu tư vốn vào các công ty con
khác, vừa là đơn vị kinh doanh vừa có chức năng chỉ đạo, hợp tác với các công ty con
về thị trường kỹ thuật và định hướng phát triển. Đây là mô hình khá thích hợp với điều
kiện Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay Ví dụ công ty xe hơi Honda có 168 Doanh
nghiệp nhận thầu khoán cấp 1, 4700 Doanh nghiệp nhận thầu khoán cấp 2, 31.600
Doanh nghiệp thầu khoán cấp 3. Tập đoàn volvo với công ty mẹ volvo được thành lập
năm 1927 đến nay hoạt động kinh doanh 6 lĩnh vực có 73 công ty trực thuộc, sự phối
hợp và kiểm soát hoạt động của công ty mẹ với các công ty con, công ty cháu được
thực hiện chặt chẽ, thông qua chiến lược sản phẩm và kế hoạch kinh doanh đồng bộ từ
trên xuống dưới công ty mẹ tham gia góp vốn cổ phần, trợ gíup về mặt kỹ thuật, đào
tạo cán bộ….sự phân công và hợp tác trong nội bộ tập đoàn rất cụ thể.
c. Công ty mẹ là cơ quan nghiên cứu khoa học, mô hình liên kết giữa nghiên cứu
khoa học với sản xuất kinh doanh Theo dạng này, công ty mẹ thường là những trung
tầm nghiên cứu ứng dụng lớn, lấy việc phát triển công nghệ mới là đầu mối cho sự liên
kết - các công ty con là những đơn vị sản xuất kinh doanh có chức năng ứng dụng
nhanh kết quả nghiên cứu công nghệ mới cuả công ty mẹ biến nó thành sản phẩm có
ưu thế thị trường, năng lực cạnh tranh của cả tập đoàn chính ở khả năng liên kết, từ
nghiên cứu đến ứng dụng. Mô hình này thường áp dụng ở các ngành thực phẩm như
tập đoàn Chấn Quốc ở Trung Quốc chuyên nghiên cứu sản xuất và phân phối thuốc
chống ung thư. Tuy các dạng liên kết giữa công ty mẹ với công ty con dựa trên những
nền tảng khác nhau, phù hợp với từng hình thức sản phẩm khác nhau song suy cho
cùng đều là sự chi phối bởi yếu tố tài sản, trong đó bao gồm cả tài sản hữu hình, xác
định bằng lượng như sở hữu công nghệ, uy tín sản phẩm thị trường. Sức mạnh chi phối
của công ty mẹ phụ thuộc vào rất nhiều khả năng nắm giữ của các nguồn tài sản vô
hình có tác dụng hỗ trợ rất hiệu quả, tạo cơ sở vững chắc để củng cố, tăng cường quan
hệ hợp tác và lợi ích kinh tế giữa công ty mẹ và công ty con. Công ty mẹ ngược lại còn
có những lợi thế về mặt lao động, tài nguyên thị trường…khi các công ty ở những nước
có lợi thế về việc đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài của các tập đoàn xuyên quốc gia.

20 Nhóm 1

20

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

2.3.1.4. Chuyển đổi tổng công ty Nhà nước thành công ty mẹ - công ty con
Tổng công ty Nhà nước muốn chuyển sang hoạt động theo công ty mẹ - công ty
con trước hết phảo lựa chọn một Doanh nghiệp đóng vai trò là công ty mẹ và các
Doanh nghiệp đóng vai trò là công ty con. Đối với Doanh nghiệp tư nhân đơn sở hữu
hoặc đa sở hữu việc trở thành công ty mẹ hoặc công ty con mang tính chất tự phát. Một
Doanh nghiệp bằng một phương thức nào đó như mua đa số cổ phần hoặc nắm về công
nghệ, thị trường….mà chi phối một Doanh nghiệp khác thì sẽ trở thành công ty mẹ của
Doanh nghiệp đó. Ngược lại nếu để Doanh nghiệp khác chi phối thì sẽ trở thành công
ty con. Việc trở thành công ty mẹ hoặc công ty con không cần bất cứ một quyết định
mang tính chất hành chính nào. Đối với tổng công ty Nhà nước thì khác. Tổng công ty
và các Doanh nghiệp thành viên đều thuộc sở hữu Nhà nước đều bị điều chỉnh bởi luật
Doanh nghiệp Nhà nước và các văn bản pháp luật liên quan. Quan hệ giữa tổng công ty
và Doanh nghiệp thành viên được quy định trong điều lệ tổng công ty, nhưng tổng công
ty không hoàn toàn chi phối được các Doanh nghiệp thành viên nhất là những thành
viên có tính độc lập cao trong kinh doanh, nhất là những thành viên có tính độc lập cao
trong kinh doanh. Nếu cứ để Doanh nghiệp thành viên tổng công ty sẽ khó thực hiện
hoặc có thực hiện chỉ là hình thức. Để các Doanh nghiệp thành viên tổng công ty thành
công ty chỉ có hai giải pháp hiệu quả nhất. Thứ nhất là thực hiện đa dạng hoá hình thức
sở hữu các Doanh nghiệp thành viên, trong đó Nhà nước vẫn nắm cổ phần chi phối tại

các Doanh nghiệp này. Hình thức đa dạng hoá sở hữu có thể là cổ phần hoá hoặc đem
góp vốn liên doanh. Vì Nhà nước nắm cổ phần chi phối nên đương nhiên công ty cổ
phần hoặc xí nghiệp liên doanh đó sẽ bị tổng công ty chi phối và trở thành công ty con
của tổng công ty. Giải pháp thứ hai là chuyển Doanh nghiệp thành viên thành công
trách nhiệm hữu hạn một thành viên do tổng công ty là chủ sở hữu theo nghị định 63
của Chính phủ. Doanh nghiệp thành viên khi đó mặc dù vẫn có 100% vốn thuộc sở hữu
Nhà nước nhưng hoạt động theo luật Doanh nghiệp và chỉ có hoạt động quốc tế tổng
công ty là tổ chức duy nhất giữ vai trò sở hữu, do đó sẽ chi phối hoạt động của Doanh
nghiệp thành viên và Doanh nghiệp thành viên sẽ trở thành công ty con của tổng công
ty. Các công ty con công ty chính phủ, công ty liên doanh công ty TNHH một thành
viên là những pháp nhân độc lập chỉ chịu sự chi phối của tổng công ty với tư cách là
chủ sở hữu theo quy định của luật pháp không bị chi phối can thiệp vào quy trình hoạt
động kinh doanh, quảnlý tài chính bằng các quyết định hành chính. Do đó quyền tự chủ
của công ty con sẽ được phát huy đầy đủ việc lựa chọn Doanh nghiệp đóng vai trò
21 Nhóm 1

21

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

công ty mẹ tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của tổng công ty để quyết định. Có thể lựa
chọn văn phòng tổng công ty gồm cả những Doanh nghiệp thành viên hạch toán phụ
thuộc hoặc một Doanh nghiệp thành viên có vị trí quan trọng trong quá trình sản xuất
kinh doanh của công ty làm công ty mẹ . Toàn bộ số vốn Nhà nước giao cho tổng công
ty được chuyển thành vốn Nhà nước đầu tư giao cho tổng công ty mẹ. Số vốn Nhà

nước có tại công ty con đã chuyển thành công ty cổ phần, công ty liên doanh công ty
TNHH một thành viên, trở thành vốn của công ty mẹ đầu tư vào công ty con hoàn toàn
khác với việc Nhà nước giao vốn cho tổng công ty và tổng công ty giao vốn cho các
Doanh nghiệp thành viên. Khi hình thành các tổng công ty phần lớn các Doanh nghiệp
thành viên đã được thành lập trước đó và đã được Nhà nước giao vốn. Tổng công ty chỉ
tổng hợp số vốn đã có tại các Doanh nghiệp thành viên để làm thủ tục nhận vốn với
Nhà nước và giao vốn cho các Doanh nghiệp thành viên. Do cùng hoạt động theo luật
Doanh nghiệp Nhà nước nên tác động chi phối của tổng công ty với Doanh nghiệp
thành viên bị hạn chế. Khi các Doanh nghiệp thành viên đã chuyển thành công ty con
hoạt động theo luật Doanh nghiệp trong đó quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu được
quy định cụ thể, rõ ràng công ty mẹ có thể giữ 100% vốn Nhà nước hoạt động theo luật
Doanh nghiệp Nhà nước hoặc thực hiện đã sở hữu trong đó Nhà nước nắm cổ phần chi
phối, dù hjd theo hình thức nào Nhà nước vẫn nắm quyền chi phối đối với công ty mẹ
và qua đó nắm quyền tự chủ của công ty mẹ và công ty con. Để chuyển các tổng công
ty Nhà nước sang hoạt động theo hình thức công ty mẹ - công ty con, có thể thực hiện
đồng thời chuyển một Doanh nghiệp thành công ty mẹ và các Doanh nghiệp khác
thành công ty cổ phần, công ty TNHH một thành viên do công ty mẹ là chủ sở hữu
hoặc thực hiện chuyển các Doanh nghiệp thành viên thành công ty cổ phần công ty
TNHH một thành viên theo phương thức nào thì được chuyển đổi muốn thành công
phải đảm bảo hai yếu tố. Doanh nghiệp được chọn làm công ty mẹ phải là Doanh
nghiệp có vị trí quan trọng hoạt động kinh doanh quản lý tài chính các Doanh nghiệp
được chuyển thành công ty con phải hoạt động theo luật Doanh nghiệp. Nếu hai yếu tố
này không đảm bảo thì việc chuyển đổi khó có thể đạt được hiệu quả tốt thậm chí sẽ
lặp lại những tồn tại như các tổng công ty hiện nay.
Có thể nói đây là những Doanh nghiệp Nhà nước tạo điều kiện những loại hình
kinh doanh nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong mô
hình công ty mẹ - công ty con ở nước ta, chức năng quản lý của công ty mẹ cần được
xem xét vận dụng như chức danh quản lý trong các tổng công ty.
22 Nhóm 1


22

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

Về mặt pháp lý công ty mẹ công ty con là những chủ thể riêng biệt. Về cơ cấu tổ
chức thì công ty mẹ là chủ sở hữu các công ty con, trong những năm trước mất nó có
thể vẫn nắm giữ 100% ở các công ty con, nhưng về lâu dài cùng với sự phát triển của
các công ty theo hướng chiến hình thành tập đoàn, thì các công ty con nên được chuyển
đổi thành thực tế sở hữu với sự tham gia góp vốn của các thành phần kinh tế Vốn điều
lệ của công ty mẹ sẽ bao gồm không chỉ là vốn thuộc sở hữu của chính nó đang sử
dụng trực tiếp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty mẹ mà gồm cả toàn bộ
số vốn do công ty mẹ sở hữu ở công ty con vốn cổ phần hoặc phần góp voón của công
ty mẹ vào các liên doanh vào các công ty khác ở các công ty con, công ty mẹ chỉ sở
hữu phần vốn do công ty mẹ nắm giữ với tư cách là chủ đầu tư vào mọi khoản lợi tức
do số vốn này mang lại chứ không phải tất cả số vốn mà công ty con đang sử dụng. Đối
với công ty con, công ty mẹ chỉ quyết định coi vấn đề và được hưởng các lợi ích thuộc
về chủ sở hữu như quy định của luật Doanh nghiệp Như vậy, công ty mẹ quản lý và
điều hành các công ty con, Doanh nghiệp thành viên hoàn toàn bằng cơ chế chính. Mối
quan hệ giữa tổng công ty với vai trò và các Doanh nghiệp thành viên với vai trò công
ty con sẽ được nhận định một cách rành mạch, rõ ràng, vừa đảm bảo tập trung được
mọi nguồn lực, tính thống nhất trong việc thực hiện mục tiêu chiến lược của công ty
mẹ, vừa đảm bảo tập trung được mọi nguồn lực, tính thống nhất trong việc thực hiện
mục tiêu chiến lược của công ty mẹ vừa dảm bảo quyền chủ động trong sản xuất kinh
doanh cho các công ty con, các đơn vị thành viên có thể gồm công ty TNHH một thành
viên 100% vốn Nhà nước chuyển từ Doanh nghiệp Nhà nước sang hoặc thành lập công

ty cổ phần mà Tổng công ty công ty mẹ giữ cổ phần chi phối hoặc bên cạnh đó có thể
có công ty tài chính. Tổng công ty (công ty mẹ) quản lý và điều hành cac đơn vị thành
viên thông qua các đại diện của mình trong hội đồng quản trị hoặc hội đồng các thành
viên của các công ty thành viên đó phù hợp với tỷ lệ vốn góp của công ty con thành
viên. Công ty mẹ không chỉ đạo trực tiếp can thiệp vào hoạt động của các công ty con
thành viên đó. Mô hình tổng chúng tôi Nhà nước sẽ được đổi mới chủ yếu theo hướng
tạo mối liên kết bền vững về vốn, đầu tư, nhằm phát huy vào bảo đảm tính độc lập, tự
chủ của các Doanh nghiệp thành viên và tổng công ty, nhưng bảo đảm mối liên kết chặt
chẽ về tài chính giữa công ty mẹ tổng công ty và các công ty con Doanh nghiệp thành
viên.
2.3.2. Đánh giá việc chuyển đổi mô hình tổng công ty Nhà nước hiện nay sang mô
hình công ty mẹ công ty con:
23 Nhóm 1

23

Lớp: CH22B - KT


Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

2.3.2.1. Ưu điểm:
- Ưu điểm trước hết đấy là mô hình cho phép kết hợp một cách hài hoà các loại
hình sở hữu trong phạm vi một Doanh nghiệp giữa các loại hình Doanh nghiệp Nhà
nước, công ty cổ phần, công ty TNHH có sự đan xen với nhau hỗ trợ và cùng nhau phát
triển. Khả năng chi phối của Doanh nghiệp Nhà nước đối với các thành phần kinh tế
khác được duy trì. Trên cơ sở định hướng chiến lược, thị trường công nghệ, lực lượng
khoa học kỹ thuật. Dựa trên quan hệ tài chính với các mức độ khác nhau việc huy động

vốn và tập trung vốn được đẩy mạnh. Việc mở rộng áp dụng mô hình này là hướng
quan trọng để tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế tiến
tới hoạt động theo một bộ luật Doanh nghiệp thống nhất ở nước ta.
- Thứ hai, tạo ra cơ sở để giải quyết mối quan hệ trong nội bộ Doanh nghiệp Nhà
nước theo hướng nâng cao quyền hạn và trách nhiệm của các đơn vị tự chủ. Các mối
quan hệ buổi đầu đi vào thực chất hơn chứ không chỉ mang tính chất hành chính mệnh
lênh, thu nộp. Điều này khắc phục được nhược điểm của mô hình tổng công ty đang áp
dụng hiện nay. Mối liên hệ giữa các Doanh nghiệp thành viên thông qua hợp đồng kinh
tế, bình đẳng cùng có lợi
- Việc áp dụng mô hình này tạo ra cơ sở để giải quyết mối quan hệ trong nội bộ
Doanh nghiệp Nhà nước theo hướng nâng cao quyền hạn và trách nhiệm của các đơn vị
tự chủ. Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp Nhà nước làm yếu đi Doanh nghiệp đó
như một số tổng công ty gặp phải, ngược lại cho phép huy động thêm nguồn lực xã hội
đầu tư vào sản xuất kinh doanh mà vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước vẫn được bảo
đảm. Việc cho phép các Doanh nghiệp độc lập có thể tự nguyện tham gia vào tổ chức
mô hình công ty mẹ - công ty con mở ra hướng để đối mới các Doanh nghiệp Nhà
nước yếu kém về hiệu quả, nhỏ bé về quy mô.
- Thứ tư, tổng công ty được tổ chức như một công ty mẹ mới thực sự là một
Doanh nghiệp và có điều kiện để kiểm soát và đánh gía được hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh. Bên cạnh đó việc hình thành các công ty con dưới hình thức công ty
cổ phần tạo điều kiện để thu hút vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của đối tác
đầu tư nước ngoài. Đây được coi là một mô hình quản lý có khả năng ứng phó linh
hoạt hơn với sự biến động của thị trường. Thực ra, đó không phải là điểm mới, bởi vì
bản chất các công ty con, khi được thành lập với tư cách là công ty con, đã có tính độc
24 Nhóm 1

24

Lớp: CH22B - KT



Triết học nâng cao

GV: PGS.TS Phương Kỳ Sơn

lập về mặt pháp lý. Các mối quan hệ về vốn, về quyền và nghĩa vụ lợi ích giữa công ty
mẹ và các công ty con là vấn đề quyết định trong mô hình công ty mẹ - công ty con bởi
vì đấy chính là giải quyết tồn tại cơ bản của mô hình tổng công ty hiện nay, trong đó
các Doanh nghiệp thành viên đã cổ phần hoá tồn tại dưới hai hình thức là công ty
cổphần có cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt của tổng công ty và công ty cổ phần có cổ
phần của tổng công ty nhưng không phải là cổ phần chi phối. Phân định vốn và xác lập
quan hệ về tài chính rõ ràng giữa tổng công ty Nhà nước và các Doanh nghiệp thành
viên đã cổ phần hoá, chuyển từ liên kết hành chính sang liên kết về vốn đầu tư vốn là
điểm then chốt trong mô hình mơí. Mục tiêu tách bạch về vốn nhằm tạo cơ sở kinh tế
phân chia lợi ích và phần đánh quyền hạn giữa tổng công ty Nhà nước công ty mẹ.
Quyền hạn, lợi ích, trách nhiệm của tổng công ty là quyền hạn lợi ích, trách nhiệm của
chủ đầu tư vào Doanh nghiệp.
2.3.2.2. Nhược điểm của mô hình công ty mẹ công ty con
Dẫu biết việc chuyển đổi từ mô hình tổng công ty sang mô hình mẹ - công ty con
là một bước chuyển biến lớn, là bước ngoặt trong tiến trình phát triển của đất nước và
là giải pháp cho sự phát triển của mô hình công ty có nhà nước chiếm cổ phần chi phối.
Song không vì thế mà áp dụng vội vã đối với bất kỳ Doanh nghiệp nào trước khi tiến
hành áp dụng đồng loạt phải có những bước chuẩn bị kỹ lưỡng tránh mắc phải những
hạn chế, nhược điểm được thể hiện qua một số mô hình thí điểm của các Doanh nghiệp
Nhà nước.

25 Nhóm 1

25


Lớp: CH22B - KT


×