Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Thực trạng và giải pháp xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.31 KB, 52 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “cán bộ là cái gốc của mọi công
việc”, “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Đảng ta
luôn xác định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn
liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ” 1. Do đó, xây dựng đội
ngũ cán bộ luôn là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng trong bất cứ thời
kỳ lịch sử nào.
Ngay từ trước khi thành lập Đảng, dưới hình thức các tổ chức cách mạng
yêu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng công tác đào tạo và xây dựng lực
lượng cán bộ để lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, dành
độc lập, thống nhất đất nước cũng như trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi
mới đất nước. Hiện nay, trước những yêu cầu của nhiệm vụ mới, công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ càng trở nên cấp bách. Đại hội XII của Đảng đã xác định:
“Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ
năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ” 2.
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở cũng ngày càng được quan tâm,
có vị trí quan trọng trong công tác cán bộ. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ Năm (khóa IX) khẳng định: “Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò
rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước... Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở
là nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng hệ thống chính trị hiện nay.”
Cơ sở là nơi cuộc sống có nhiều diễn biến phong phú, sinh động, đa dạng
và phức tạp. Để thực hiện nhiệm vụ, thực sự là cầu nối giữa nhân dân với Đảng,
Nhà nước, để đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến với nhân
dân... đội ngũ cán bộ cơ sở phải có năng lực tốt về trình độ, phẩm chất, bản lĩnh
và kinh nghiệm. Để đáp ứng yêu cầu đó, những năm qua, đã ban hành và tổ chức
thực hiện nhiều chủ trương, chính sách nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ cơ sở. Tuy nhiên, việc này vẫn còn nhiều bất cập; chất lượng đội ngũ cán bộ
cơ sở vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém; hoạt động của hệ thống chính trị cấp


1
2

V¨n kiÖn §¹i héi §¶ng toµn quèc lÇn thø VIII, tr.66.
V¨n kiÖn §¹i héi XII của Đảng, tr.293.


cơ sở vẫn gặp nhiều khó khăn, lúng túng, chưa tạo được động lực mạnh mẽ cho
sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tình hình đó đặt ra yêu cầu xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ cấp cơ sở thành một nội dung quan trọng và cấp thiết của công tác cán bộ
hiện nay. Vì thế, tôi chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp xây dựng, nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường trong giai đoạn hiện nay”.
2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích
Qua khảo sát, tổng kết, phân tích thực trạng tình hình, đề tài tập trung làm
rõ cơ sở khoa học cho việc xác định những giải pháp nhằm xây dựng, nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong
tình hình mới.
2.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của công tác xây dựng, nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường nói riêng.
- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của vấn đề qua việc tổng kết, khảo sát, đánh
giá thực trạng chất lượng và hoạt động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường;
thực trạng công tác cán bộ lãnh đạo phường hiện nay.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp xây dựng, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo phường đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước
giai đoạn hiện nay.
2.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu đối tượng là đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp phường hiện

nay.
2.4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung tìm hiểu cơ sở khoa học và giải pháp cho hoạt động xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường thuộc địa bàn Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng từ năm 2000 đến nay.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận

2


Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam; kết hợp tham khảo kết quả của các công trình nghiên cứu về khoa học tổ
chức, xây dựng Đảng đã có, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới.
3.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên quan điểm thực tiễn, quan điểm phát triển, quan điểm toàn
diện, quan điểm lịch sử - cụ thể.
Đề tài sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: lôgic - lịch
sử, phân tích - tổng hợp, phương pháp thực chứng, tổng kết thực tiễn, điều tra xã
hội học, thống kê, phỏng vấn…
8. Kết cấu Báo cáo Tổng quan của đề tài:
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được bố
cục làm 3 chương. Cụ thể như sau:
Chương I. Cơ sở lý luận về đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường và công
tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường.
Chương II. Cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo phường hiện nay.
Chương III. Một số giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo phường trong giai đoạn hiện nay.


Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO PHƯỜNG
VÀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO PHƯỜNG
1. Quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ, cán bộ cấp cơ sở và công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin
“Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng
thực tiễn”1. Năm 1844, ngay khi bắt đầu nghiên cứu triết học, Các Mác đã khẳng
1

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 2, tr.181.

3


định tư tưởng trên. Với tư cách là con người hoạt động - con người sử dụng lực
lượng thực tiễn là gạch nối tất yếu giữa tư tưởng và hiện thực, là nhân tố tiên
quyết hiện thực hoá mọi tư duy. Điều đó đúng cho mọi lĩnh vực hoạt động,
ngành nghề, ở mọi cấp độ, góc độ. “Những con người sử dụng lực lượng thực
tiễn” ở đây, theo nghĩa rộng nhất, cần được hiểu là con người - hành động tham
gia vào các quá trình hoạt động vật chất* hiện thực của xã hội. Với nghĩa đó,
“những người sử dụng lực lượng thực tiễn” không chỉ là cán bộ, nhưng bao hàm
đội ngũ “cán bộ”. Trong quan niệm của người Việt Nam, danh xưng “cán bộ”
càng có ý nghĩa cao đẹp. Đó là một lớp người tiên phong, sẵn sàng chịu đựng
mọi gian khó, hy sinh cho cách mạng, phấn đấu vì lợi ích của nhân dân và dân
tộc; là những người lãnh đạo và tổ chức các phong trào cách mạng đấu tranh bảo
vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước. Như vậy, có thể nói trong mọi trường hợp,
“cán bộ” chính là lực lượng chủ chốt trong đội ngũ những người “sử dụng lực

lượng thực tiễn” để hiện thực hoá các tư tưởng, tổ chức thực hiện ý tưởng trong
cuộc sống. Trong lĩnh vực hoạt động chính trị, “cán bộ” là những người “đứng
mũi chịu sào” trong việc hoạch định, thực thi các chính sách, quyết định không
chỉ của riêng lĩnh vực hoạt động chuyên ngành, mà hơn ai hết, họ là những
người đầu tiên chịu trách nhiệm về sự phát triển của xã hội.
Thời kỳ Mác - Ăngghen, thực tiễn phong trào công nhân và lý luận cách
mạng đang ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành và phát triển. Do đó, các
ông chưa đề cập sâu sắc đến vai trò người cán bộ cách mạng. Tuy nhiên, có thể
nói, tư tưởng bao trùm về “những người sử dụng lực lượng thực tiễn” đã thực sự
phản ánh thoả đáng và tổng quát vị trí, vai trò của con người - hoạt động. Trong
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các ông chỉ rõ: “người cộng sản là bộ phận
kiên quyết nhất trong các đảng công nhân…, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy
phong trào tiến lên”…2.
Đến thời kỳ Lênin, phong trào vô sản đã phát triển đến giai đoạn mới. Lúc
này, cách mạng đã vượt qua thời kỳ lý luận về mâu thuẫn giai cấp, sứ mệnh giai
cấp, mà công cuộc “thực hiện tư tưởng” đã nhanh chóng và khẩn thiết đặt ra nhu
cầu xây dựng “những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” để đảm đương sứ
mệnh “biến tư tưởng thành hiện thực”. Tổng kết các phong trào thực tiễn, Lênin
khẳng định: “Không một phong trào cách mạng nào mà lại vững chắc được nếu
*

vật chất trong sự đối lập với tinh thần (nghĩa triết học): hoạt động hiện thực, thực tiễn, có quá trình diễn biến
thực trong đời sống. Không chỉ là tư duy, ý tưởng. (TG)
2
C.Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, 1995, Hà Nội, tập 4, tr.614, 615.

4


không có một tổ chức ổn định và duy trì được tính liên tục gồm những người

lãnh đạo”3.
1.2. Từ tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ của cách mạng Việt Nam cũng nhiều lần
khẳng định “cán bộ là cái gốc của công việc” 4. Tư tưởng này được trở đi trở lại
nhiều lần dưới những hình ảnh khác nhau. Người coi cán bộ là tiền vốn của
Đảng : "Có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt
thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn" 5...
Coi cán bộ là “gốc”, là “vốn”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy cán bộ không chỉ
là một lực lượng chủ đạo, chủ công, tiên phong của cách mạng, mà hơn thế, họ
chính là những người “làm ra” và nuôi dưỡng cách mạng, tổ chức thực hiện các
phong trào cách mạng và chịu trách nhiệm về sự thành bại của cách mạng. Đặt
trong mối liên hệ trách nhiệm với nhiệm vụ chính trị của mình, người cán bộ là
“dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng
tê liệt. Cán bộ là người đem chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành
trong dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay mấy cũng không thực hiện được”6.
Xuất phát từ ý nghĩa hiện thực và tất yếu của người cán bộ đối với thực
tiễn phong trào cách mạng, thực tiễn hoạt động của xã hội, công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ tự thân nó đã là một công tác ở tầm chiến lược; và trên thực tế,
công tác này cũng luôn được các nhà lãnh tụ, các đảng cách mạng đặt ở tầm
chiến lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã
quan tâm đến điều này ngay từ những ngày đầu gây dựng phong trào cách mạng.
Người trực tiếp đứng ra tập hợp, rèn luyện, đào tạo nên lớp cán bộ đầu tiên của
Đảng và khẳng định từ sớm: “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” 7...
Đặc biệt, đội ngũ cán bộ ở cơ sở được Người rất coi trọng: “Cấp xã là người gần
gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi
công việc đều xong xuôi”. Cho nên, tại Hội nghị cán bộ miền núi tháng 9/1962,
Bác nhấn mạnh: "Phải ra sức bồi dưỡng cán bộ địa phương, cán bộ nữ và cán bộ
xã về mọi mặt".

3


Lênin toàn tập, NXB Tiến Bộ Matxcơva, tập 19, tr.158.
Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, Tập 5, tr.269.
5
Sđd, Tập 6, tr.46.
6
Sđd, Tập 5, tr.54
7
Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, Tập 5, tr.269.
4

5


Đối với đội ngũ cán bộ cách mạng, bên cạnh chữ “tài” như một yêu cầu tự
nhiên về mặt chuyên môn của người cán bộ, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh chữ
“đức”. Theo Người, “đức là gốc”: “Có tài phải có đức. Có tài không có đức,
tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong
chùa không giúp ích gì được ai” 8. Đạo đức là nền tảng của người cán bộ cách
mạng, giống như gốc của cây, nguồn của sông. Đó là nguồn mạch của tinh thần,
ý chí, lý tưởng và hành động của người cán bộ. Không có cái đức, cái tâm trong
sáng, người cán bộ không thể xả thân vì cách mạng, không thể phục vụ nhân dân.
Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ cách mạng “vừa “hồng” vừa “chuyên” là mục
tiêu và nội dung cơ bản của công tác cán bộ.
Xây dựng đội ngũ cán bộ trước hết phải đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính
trị. Người căn dặn: "Đảng ta tổ chức trường học lý luận cho cán bộ là để nâng
cao trình độ lý luận của Đảng ta đặng giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách
mạng và tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta có thể làm tốt hơn công tác của
mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng vĩ đại của mình"9.
Tuy nhiên, xây dựng đội ngũ cán bộ không chỉ dừng lại ở lý luận, mà “lý

luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế”10. “Lý luận mà không áp dụng vào
thực tế là lý luận suông”11. Thực tế trước hết là thực tế công việc, thực tế đất
nước để sử dụng, vận dụng kiến thức cho phù hợp. Cũng tại lễ khai giảng lớp
học lý luận khoá I trường Nguyễn Ái Quốc, Người nói: “việc học tập của các
đồng chí không phải nhằm biến các đồng chí thành những người lý luận suông,
mà nhằm làm thế nào cho công tác của các đồng chí tốt hơn”12.
Có thể thấy, xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhiệm vụ, trách
nhiệm, mục tiêu cơ bản của công tác cán bộ của Đảng là phải xây dựng được
một đội ngũ cán bộ cách mạng có đức, có tài, thông lý luận, giỏi thực tiễn, thạo
chuyên môn. Đây không phải là những tiêu chí hình thức để làm “đẹp đội ngũ”,
mà là đòi hỏi của cách mạng, đòi hỏi của công việc, là chính công việc của
người cán bộ. Đó có thể coi như những tiêu chí nền tảng của người cán bộ, mục
tiêu nền tảng của công tác cán bộ, để từ đó, Đảng ta có đội ngũ cán bộ đủ sức
gánh vác sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân.
8

Sđd, Tập 8, tr.184.
Sđd, Tập 8, tr.492.
10
Sđd, Tập 5, tr.234.
11
Sđd, Tập 5, tr.234.
12
Sđd, Tập 8, tr.497.
9

6


1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam

Từ khi thành lập đến nay, các văn kiện của Đảng và Nhà nước luôn nói rõ
vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ. Đặc biệt, bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với
sự khởi động của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế,
những bức thúc thực tiễn càng làm bật lên tầm quan trọng của công tác cán bộ.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã chỉ ra: "đổi mới đội
ngũ cán bộ có nghĩa là đánh giá, lựa chọn, bố trí lại, đi đôi với đào tạo, bồi
dưỡng để có một đội ngũ cán bộ có đủ những tiêu chuẩn về phẩm chất và nǎng
lực lãnh đạo, quản lý, ngang tầm nhiệm vụ"13.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng đã chỉ ra phương hướng
và nhiệm vụ của công tác cán bộ: "Đảng chǎm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên trong sạch, có phẩm chất, nǎng lực, có sức chiến đấu cao, Đảng quan tâm
bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân
dân"14.
Đến Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá VIII, Chiến lược cán bộ khẳng
định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với
vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ, là khâu then chốt trong công
tác xây dựng Đảng”15. Đặc biệt, Đảng đã xác định mục tiêu: “xây dựng đội ngũ
cán bộ các cấp từ Trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu, có phẩm
chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp
công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu,...”16.
Nghị quyết Đại hội IX tiếp tục nhấn mạnh: “đề ra nhiệm vụ “xây dựng đội
ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững vàng về
chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và
năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân”17.
Cũng trong nhiệm kỳ Đại hội VIII và Đại hội IX của Đảng, nhiều nghị
quyết chuyên đề, các quy định, quy chế về công tác cán bộ và về hệ thống chính
trị cơ sở đã được xây dựng và liên tục bổ sung, hoàn chỉnh nhằm nâng cao tính
hiệu quả, đồng bộ của công tác cán bộ, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xây dựng
13


Đảng Cộng sản Việt Nam: Vǎn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.132.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1991, tr. 21.
15
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ Ba khoá VIII, 1997, tr.66
16
Sđd, tr.87
17
Đảng Cộng sản Việt Nam: Vǎn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 2001, tr.141.
14

7


đội ngũ cán bộ của Đảng. Đặc biệt, công tác cán bộ trên các mặt quy hoạch, luân
chuyển, đào tạo, đánh giá, tuyển dụng… đã có nhiều bước tiến mới, thể hiện dần
tính chuyên nghiệp và hệ thống.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã đề ra hệ thống các giải pháp nhằm tiếp
tục đổi mới công tác cán bộ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có cơ cấu hợp
lý, chất lượng tốt, đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững vàng. Chú ý đào tạo cán
bộ nữ, cán bộ các dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân, chuyên gia
trên các lĩnh vực; bồi dưỡng nhân tài theo định hướng quy hoạch”.
Đại hội XI của Đảng đề ra yêu cầu: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ
công tác cán bộ. Thực hiện tốt Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá; đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong
từng khâu của công tác cán bộ”18.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nêu: “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tăng tỉ lệ cán bộ lãnh đạo, cấp ủy là người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ, cán bộ
trẻ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược,

đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách phát
hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài”19.
Có thể thấy, trong suốt chiều dài lịch sử của mình, Đảng ta chưa lúc nào
coi nhẹ công tác cán bộ. Mỗi thời kỳ lịch sử, với những điều kiện khác nhau,
yêu cầu khác nhau, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng được triển khai
ở những mức độ, phương thức, nội dung, tính chất, mục tiêu cụ thể khác nhau.
Hệ thống chính trị cơ sở là một bộ phận của hệ thống chính trị, thậm chí là
một phần quan trọng như Nghị quyết Hội nghị Trung ương Năm (khoá IX) nhận
định - “các cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú,
sinh sống. Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức
và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của dân,
huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng
đồng dân cư”20. Do đó mà đội ngũ cán bộ cơ sở là lực lượng rất quan trọng của

18

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ Ba khoá XI, 2011.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ Ba khoá XII, 2016.
20
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm khoá VIII, trang 19.
19

8


Đảng, Nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị chung của hệ
thống.
2. Cán bộ lãnh đạo phường và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo phường.

2.1. Đặc điểm, vị trí, chức năng, vai trò của phường.
2.1.1. Đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội của phường.
Có nhiều quan điểm về phường, trong đó phổ biến có hai loại quan điểm mang
những yếu tố giao thoa, đan xen nhau là quan điểm về “phường” gắn với hoạt động
nghề nghiệp và quan điểm về “phường” từ góc độ khoa học quản lý hành chính.
“Phường” gắn với hoạt động nghề nghiệp chỉ những nhóm người cùng
chung một nghề tập trung lại trên một địa bàn lãnh thổ nhất định. Quan điểm
này tồn tại chủ yếu trong thời kỳ phong kiến, theo đó, phường vừa mang yếu tố
địa lý, vừa mang yếu tố nghề nghiệp. Hà Nội cổ với “36 phố phường” là phương
ngữ truyền thống chứa đựng sự giao thoa đó.
Theo quan điểm quản lý hành chính: “phường” là đơn vị hành chính cơ sở
ở đô thị.
Trong lịch sử, khái niệm về “phường” với tư cách là đơn vị tổ chức hành
chính cơ sở đã hình thành và dần định hình qua các triều đại phong kiến, và về
mặt chuyên môn, đã có những phân biệt cơ bản với “phường nghề”, “phường
hội”...
Đơn vị “phường” hiện nay trong hệ thống quản lý hành chính nhà nước
bốn cấp của chúng ta cũng kế thừa những nguyên tắc tổ chức cơ bản đó. Theo
Quyết định số 94/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ngày
26.9.1981 thì Phường là đơn vị hành chính cơ sở ở nội thành, nội thị, tổ chức
theo khu vực dân cư ở đường phố, có khoảng từ 7.000 đến 12.000 dân. Về phân
cấp tổ chức, phường tương đương với “xã”, “thị trấn” là đơn vị hành chính cơ sở
ở ngoại thành, ngoại thị, khu vực nông thôn.
Về phân loại phường, có nhièu cách phân loại khác nhau:
- Theo đặc điểm riêng của phường, gắn với đối tượng, nội dung quản lý,
có thể chia thành 3 loại:
+ Phường ở phố cổ đã đô thị hóa xong;

9



+ Phường mới chuyển từ xã sang;
+ Phường được tổ chức ở khu đô thị mới hiện đại.
- Theo đặc điểm của loại thành phố, thị xã mà phường trực thuộc, có 3 loại:
+ Thứ nhất là phường thuộc quận ở các thành phố trực thuộc Trung
ương (phường ở các quận nội thành Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố
Hồ Chí Minh, Cần Thơ).
+ Thứ hai là phường thuộc thành phố cấp 2 trực thuộc tỉnh (phường
ở thành phố Hạ Long thuộc tỉnh Quảng Ninh, ở thành phố Vinh thuộc tỉnh Nghệ
An, ở thành phố Huế thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế, ở thành phố Nha Trang thuộc
tỉnh Khánh Hòa, ở thành phố Buôn Mê thuột thuộc tỉnh Đắk Lắk…).
+ Thứ ba là phường thuộc các thị xã ở các tỉnh, thành (như phường
thuộc thị xã Đồ Sơn - thành phố Hải Phòng...).
Sự đa dạng cũng cho thấy một điều không thể có một quyết định khuôn
mẫu về công tác cán bộ cho tất cả các loại hình phường, nếu muốn đạt tới một
giá trị cụ thể và thực tế nào đó.
Như vậy, phường cũng là cấp cơ sở như xã và thị trấn. Tuy nhiên, so với
hai loại hình đơn vị hành chính cơ sở đó, phường có một số đặc điểm đặc thù sau:
Về vị trí hành chính: Phường nằm trong đô thị. Đô thị là trung tâm chính
trị, hành chính, kinh tế, văn hoá, xã hội; là hạt nhân và động lực thúc đẩy sự phát
triển của địa phương, tỉnh, thành phố.
Về kinh tế: kinh tế ở phường là kinh tế đa ngành, chủ yếu là kinh tế hàng
hoá phi nông nghiệp, tập trung trong các lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, thương mại, dịch vụ. Các thành phần kinh tế cũng hết sức đa dạng với
sự có mặt của các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, các công ty
liên doanh, công ty cổ phần, các văn phòng đại diện của các công ty trong nước
và ngoài nước v.v. Đặc trưng này thể hiện rõ nét ở các thành phố lớn có bề dày
truyền thống: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng. Đó cũng là đặc
thù của các thành phố công nghiệp - dịch vụ mới: Hạ Long, Nha Trang, Vũng
Tàu, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Cần Thơ.... Còn một bộ phận phường mới chuyển

đổi từ xã trong quá trình đô thị hoá, nhất là của các thành phố, thị xã mới được
nâng cấp thì vẫn còn duy trì một bộ phận dân cư sản xuất nông nghiệp. Ở đó, về

10


mặt đời sống dân cư, có sự tồn tại đan xen của tập quán, lối sống nông nghiệp và
công nghiệp, chưa có tính phức tạp và biến động cao.
Về dân cư: Mật độ dân số ở phường thường cao, thành phần dân cư đa
dạng, phức tạp, nhiều biến động, nguồn gốc không thuần nhất; tập quán và lối
sống khác nhau, nhu cầu của đời sống vật chất và tinh thần hết sức phong phú và
đa dạng.. Sự phức tạp và đa dạng đó ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động của bộ
máy hành chính phường, nó tạo nên tính đặc thù của từng phường, kể cả trong
cùng một thành phố trong hoạt động thực tiễn của mình.
Về địa giới hành chính: Do tính phức tạp và đa dạng nêu trên, phường chỉ
thực sự có ý nghĩa trong quản lý hành chính nhà nước, mọi lĩnh vực hoạt động
khác hầu như không có sự phân biệt địa giới hành chính.
Rõ ràng, chúng ta thấy tính động và mở về mặt đời sống kinh tế, văn hoá,
xã hội... của phường là rất lớn. Đây là điều phân biệt rất rõ phường với xã, thị
trấn, nơi các hoạt động kinh tế, văn hoá, sinh hoạt của các tầng lớp dân cư còn
tương đối tập trung, ổn định, thuần nhất và tĩnh. Sự tương đối tập trung, thuần
nhất đó của xã là một yếu tố để các cơ quan quản lý nhà nước, xã hội tại đây có
chức năng tổ chức hoạt động quản lý trên mọi mặt của đời sống xã hội một cách
tương đối toàn diện, từ định hướng phát triển kinh tế đến giáo dục, từ quản lý
hành chính đến chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân...
Với những khác biệt về đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội so với
xã, thị trấn, nhiệm vụ, chức năng của phường cũng khác so với nhiệm vụ, chức
năng của xã, thị trấn. Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX chỉ rõ việc phân định
chức năng, nhiệm vụ của chính quyền phường với chính quyền xã, thị trấn như
sau: “Chính quyền phường không quản lý toàn diện các hoạt động sản xuất, đời

sống, dân cư trên địa bàn như chính quyền xã, thị trấn, song có nhiệm vụ rất
quan trọng trong quản lý đô thị, cần phân định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm
và tạo điều kiện để chính quyền phường thực hiện tốt nhiệm vụ, đặc biệt là trong
việc quản lý, thực hiện việc quy hoạch, quản lý đất đai, nhà ở, hộ tịch, vệ sinh
môi trường, trật tự đô thị”36.
1.2.1.2. Chức năng, vai trò của phường.

36

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, 2002, tr.172.

11


Hệ thống chính trị cấp phường bao gồm: đảng uỷ phường, chính quyền
nhân dân phường (hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân) và các đoàn thể chính
trị - xã hội ở địa phương.
Cũng như xã và thị trấn, phường là cấp cơ sở có chức năng, nhiệm vụ tổ
chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các mục tiêu
kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở cơ sở. Hiện nay, tại các thành
phố lớn đang từng bước thực hiện phân cấp quản lý cho chính quyền phường.
Theo đó, chính quyền phường chủ yếu thực hiện chức năng quản lý và hướng
dẫn thi hành pháp luật với nhiệm vụ cụ thể trong các lĩnh vực:
+ Quản lý dân cư, hộ tịch, hộ khẩu và các chính sách khác của Nhà nước
có liên quan đến biến động dân số.
+ Quản lý đất đai, trật tự xây dựng, trật tự đô thị.
+ Quản lý an ninh, trật tự an toàn xã hội và thi hành luật nghĩa vụ quân sự.
+ Thực hiện chính sách lao động, thương binh, xã hội và các chính sách
khác có liên quan.
+ Thu thuế đối với các đối tượng kinh doanh dưới vốn pháp định37.

Các nhiệm vụ khác do chính quyền cấp trên và các cơ quan ngành dọc
trực tiếp thực hiện.
Tuy không quản lý toàn diện các mặt hoạt động, phát triển của địa
phương, nhưng xuất phát từ tình hình tổ chức đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội
của khu vực đô thị đa dạng, tập trung, phức tạp, nhiều biến động và nhạy cảm về
lợi ích giữa các tầng lớp dân cư, trách nhiệm của phường rất nặng nề và quan
trọng. Sự ổn định và phát triển các hoạt động của đời sống xã hội trên địa bàn
phường là cơ sở căn bản đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của quận, thành
phố. Hơn nữa, là cấp gần dân nhất, thực hiện những dịch vụ liên quan trực tiếp
tới lợi ích nhân dân... Vai trò đó thể hiện ở những điểm sau:
Chính quyền phường là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
lợi của nhân dân trong phường:
Hội đồng nhân dân phường là cơ quan đại diện cho ý chí của nhân dân địa
phương do nhân dân địa phương bầu ra một cách dân chủ nhất, có quyền quyết
định những vấn đề quan trọng trong phạm vi phường và giám sát việc thực hiện
37

.Nguồn - Bộ Nội vụ

12


các quyết định đó. Uỷ ban nhân dân phường là cơ quan chấp hành của Hội đồng
nhân dân địa phương và Uỷ ban nhân dân cấp trên. Do đó, chính quyền phường
là nơi trực tiếp với dân, gần dân, hiểu dân nhất, quản lý những hoạt động gần gũi,
thiết thực nhất của nhân dân.
Chính quyền phường là trung tâm, lực lượng nòng cốt của hệ thống chính
trị ở đô thị, điều này được thể hiện qua một số mặt sau:
Một là, hệ thống chính quyền phường là hệ thống quyền lực có địa bàn
rộng, có quan hệ mật thiết và trực tiếp đến đời sống nhân dân.

Hai là, tất cả các chủ trương, chính sách của cấp trên thực hiện có hiệu
quả hay không đều phải thông qua chính quyền phường.
Ba là, hoạt động của chính quyền phường có ảnh hưởng lớn tới uy tín của
Đảng và nhà nước đối với nhân dân, nhân dân đánh giá uy tín của Đảng và Nhà
nước thông qua việc chính quyền giải quyết các công việc hằng ngày của dân,
khả năng đáp ứng các nhu cầu dân sinh, dân chủ của nhân dân.
Bốn là, hệ thống chính trị có phát huy được vai trò lãnh đạo, tổ chức, đoàn
kết nhân dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu xây dựng kinh tế - xã hội của địa
phương hay không tuỳ thuộc rất lớn vào chính quyền cơ sở.
Phường là bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước, thực hiện chức
năng quản lý hành chính nhà nước ở cơ sở.
Theo qui định của pháp luật thì Hội đồng nhân dân phường có quyền
quyết định các biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, chính sách phát triển văn
hoá, xã hội, y tế, giáo dục, an ninh quốc phòng trên phạm vi địa phương. Ngoài
ra, Hội đồng nhân dân còn bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân phường, thực hiện việc giám sát, chất vấn Uỷ ban nhân dân phường trong
việc thực hiện các nghị quyết và tuân thủ pháp luật. Uỷ ban nhân dân phường là
cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân địa phương, đồng thời là cơ quan
chấp hành của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp trên.
Trong thực tế, chúng ta thấy đối với phường, địa giới hành chính chỉ có ý
nghĩa trong phân cấp quản lý hành chính Nhà nước và không quyết định được
tính độc lập của một đơn vị hành chính. Chính quyền phường không quản lý
toàn diện kinh tế, các lĩnh vực khác đều được quản lý theo ngành dọc. Chính
quyền phường chỉ thực hiện một số việc quản lý hành chính Nhà nước theo pháp

13


luật và một số nhiệm vụ cấp trên giao. Nhưng có thể nói rằng cấp phường đóng
vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của thành phố, thực tiễn đã chỉ ra

rằng cấp phường vững mạnh là điều kiện cần thiết để cho cấp quận vững mạnh,
quận vững mạnh thì tỉnh, thành phố mới vững mạnh.
2.2. Cán bộ lãnh đạo phường và vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
phường.
Với những đặc điểm, nhiệm vụ, chức năng được thể chế hóa của phường
như trên, có thể thấy trách nhiệm và vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ
phường, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo đối với việc điều hành, quản lý và tổ chức
các mặt hoạt động, phát triển của địa phương.
Cán bộ lãnh đạo là những người giữ cương vị chỉ huy trong điều hành
công việc; là những người được quyền ra các quyết định quản lý, tổ chức, điều
hành những người dưới quyền thực hiện công việc21.
Bí thư đảng ủy: là người chịu trách nhiệm chính về toàn bộ hoạt động của
đảng bộ.
Phó bí thư Đảng ủy: là người chịu trách nhiệm chính về công tác xây
dựng Đảng, một số nơi phó bí thư trực tiếp làm trưởng ban tổ chức, chủ nhiệm
uỷ ban kiểm tra của đảng ủy và phụ trách khối đoàn thể; theo dõi công tác quản
lý và phân công công tác cho đảng viên ở các chi bộ; chỉ đạo công tác văn
phòng của đảng ủy, công tác tài chính của đảng bộ.
Chủ tịch hội đồng nhân dân: có trách nhiệm nghiên cứu, nắm vững các
chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, vận dụng vào
thực tiễn địa phương; chủ động đề xuất với ban thường vụ và đảng ủy những
chủ trương, biện pháp thực hiện các nhiệm vụ chính trị, củng cố tổ chức và nâng
cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy và đảng bộ...
Phó chủ tịch hội đồng nhân dân: là người trực tiếp làm công tác thường
trực của hội đồng nhân dân; theo dõi, kiểm tra công tác của các ban hội đồng
nhân dân, tổng hợp tình hình hoạt động của hội đồng nhân dân; giúp chủ tịch hội
đồng nhân dân chuẩn bị nội dung, triệu tập các kỳ họp theo luật định, kiểm tra
hoạt động của các tổ hội đồng; tổ chức tiếp xúc cử tri theo đúng luật.

21


Lê Quang Thưởng, , Sách tra cứu các mục từ về tổ chức, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.

14


Chủ tịch uỷ ban nhân dân: là người chịu trách nhiệm chính toàn bộ công
tác chính quyền nhà nước ở địa phương. Có trách nhiệm tổ chức thực hiện
nghiêm túc các mặt công tác do cấp trên chỉ đạo, chương trình công tác của đảng
ủy về mặt chính quyền đúng pháp luật...
Phó chủ tịch uỷ ban nhân dân: Trước năm 1987 và từ năm 2004 đến nay,
khối phường được biên chế hai chức danh phó chủ tịch uỷ ban nhân dân: một
phó chủ tịch phụ trách đô thị, chịu trách nhiệm chính về công tác quản lý đất
đai, quản lý trật tự xây dựng, quản lý thị trường, vệ sinh môi trường...
Trên thực tế, ở nhiều nơi bí thư đảng ủy phường đồng thời là chủ tịch ủy
ban nhân dân hoặc đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân. Với mô hình này,
thẩm quyền và trách nhiệm của bí thư càng lớn. Ngoài công tác đảng, bí thư
đảng ủy kiêm chủ tịch ủy ban nhân dân hoặc chủ tịch hội đồng nhân dân còn
phải chịu trách nhiệm lãnh đạo ủy ban hoặc hội đồng nhân dân chịu trách nhiệm
điều hành hoạt động của đời sống xã hội địa phương hoặc quyết sách những vấn
đề lớn của địa phương; duy trì công tác tiếp xúc cử tri cũng như hoạt động của
hội đồng, các tổ hội đồng hiệu quả, đúng luật định.
Cán bộ lãnh đạo được giao những thẩm quyền, trách nhiệm nhất định gắn
với chức vụ người lãnh đạo đảm nhiệm. Thẩm quyền càng cao thì trách nhiệm
càng nặng nề.
Trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường hiện nay, tại các đô thị lớn,
tốc độ đô thị hoá ngày càng cao và mức tăng dân số về mặt cơ học khiến cho
nhiệm vụ quản lý của chính quyền phường cũng phải chủ động và linh hoạt hơn
cho phù hợp thực tiễn. Lúc này vai trò đầu tàu, “đứng mũi chịu sào” của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo phường càng cần phải phát huy. Để thực hiện tốt chức trách,

nhiệm vụ được giao, người cán bộ lãnh đạo phải nhanh nhạy, phải có tầm bao
quát và phải có năng lực quản lý, tổ chức thực hiện một cách khoa học. Chẳng
hạn, cùng là việc triển khai, quán triệt nghị quyết của Đảng, của cấp uỷ cấp trên
nhưng không phải cứ dập khuôn theo kế hoạch là xong. Vấn đề là sau khi nghiên
cứu, học tập nghị quyết, cán bộ, đảng viên nắm bắt được gì, đọng lại cái gì và
vận dụng được gì.
Như vậy, vai trò và vị trí của đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường được thể
hiện như sau:

15


Vai trò của cán bộ lãnh đạo phường được thể hiện qua các mối quan hệ:
một là đối với đường lối, chính sách; hai là với bộ máy (các cơ quan, tổ chức
lãnh đạo, quản lý); ba là với công việc; bốn là với quần chúng. Người cán bộ
lãnh đạo phường chỉ được đánh giá là thực hiện tốt vai trò của mình nếu hoàn
thành nhiệm vụ mà các mối quan hệ đó đặt ra và đòi hỏi. Cán bộ lãnh đạo
phường giữ vai trò quyết định trong việc xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy
vững mạnh và phong trào cách mạng quần chúng sâu rộng ở cấp phường. Thực
tế cho thấy sự mạnh, yếu của hệ thống chính trị và phong trào cách mạng của
quần chúng gắn liền với vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nơi đây.
Đối với bộ máy, cán bộ lãnh đạo phường là trung tâm đoàn kết, tổ chức, sắp xếp
lực lượng. Họ tác động quyết định đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở Đảng, đến năng lực và hiệu quả quản lý của chính quyền, lực lượng
vũ trang và hoạt động của các đoàn thể quần chúng ở cơ sở. Cán bộ lãnh đạo
phường là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ cán bộ của hệ thống bộ máy
chính quyền cơ sở ở nước ta. Họ vừa là người đại diện của dân trong quản lý
nhà nước ở địa phương, vừa là người trực tiếp lãnh đạo, tổ chức thực hiện
quyền hành pháp và quản lý cũng như tiến hành các chương trình kinh tế - xã
hội ở cấp phường mà mình quản lý.

Về vị trí của cán bộ lãnh đạo phường: là người giữ vị trí trung tâm, định
hướng trong lãnh đạo, quản lý, điều khiển các hoạt động của đảng bộ, chính
quyền phường, có tác động trực tiếp và quyết định đến sự phát triển trên các lĩnh
vực kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, an ninh, quốc phòng... Chủ trì toàn bộ các
công việc của cấp ủy, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân. Là người nắm các
khâu trọng yếu, trọng tâm và những vấn đề mới nảy sinh, cơ mật trong đời sống
xã hội. Cán bộ lãnh đạo phường là trung tâm đoàn kết trong đảng bộ phường mà
trực tiếp là đảng ủy, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, đồng thời là nguồn cán
bộ bổ sung cho cấp trên, nhất là cấp quận.
2.3. Ý nghĩa và căn cứ khoa học của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo phường.
Căn cứ khoa học của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường
chính là những cơ sở lý luận và thực tiễn làm nền tảng cho việc xây dựng và
triển khai những nội dung hiện thực của hoạt động xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo phường. Để xác định được những nội dung, quy trình xây dựng đội ngũ cán

16


bộ phường một cách khoa học và sát thực, khả thi, có ý nghĩa trong thực tế, phải
căn cứ trên những yếu tố sau:
Thứ nhất, vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường và ý nghĩa công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường trong thực tiễn hoạt động của cả hệ
thống - đây là điểm tạo nên nhu cầu và ý nghĩa tự thân, tất yếu của công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo đối với cấp phường;
Thứ hai, phải căn cứ vào nhiệm vụ, trách nhiệm được thể chế hoá của
phường và cán bộ phường - yếu tố giúp xác định được những đòi hỏi về mặt
nguyên tắc đối với cán bộ lãnh đạo phường;
Thứ ba, căn cứ vào những vận động và đòi hỏi của cuộc sống thực tiễn
hiện tại - yếu tố giúp xác định những yêu cầu về mặt thực tiễn đối với cán bộ

lãnh đạo phường, từ đó làm căn cứ cho những nội dung của công tác xây dựng
cán bộ lãnh đạo phường;
Thứ tư, căn cứ vào thực trạng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường và thực
trạng của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường hiện nay - yếu tố
giúp đánh giá được những điểm mạnh, điểm yếu, những lợi thế và những tồn tại
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo phường, từ đó tiếp tục xác định được phương hướng điều chỉnh và xây dựng
những nội dung, quy trình... đối với công tác cán bộ phường...

17


Chương II
CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO PHƯỜNG HIỆN NAY
1. Yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối
với đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo phường.
Công tác cán bộ đóng vai trò hết sức quan trọng, đây là vấn đề then chốt
trong xây dựng Đảng, là mắt xích quan trọng của công cuộc đổi mới, là nhân tố
quyết định thành công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, trong giai
đoạn hiện nay, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu của thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì phải có đội ngũ cán bộ có trình độ,
năng lực mà một lực lượng quan trọng của đội ngũ đó là những cán bộ lãnh đạo
cấp cơ sở.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có vai trò lớn trong hoạt động thực tiễn
của hệ thống chính trị, trong đó có cán bộ lãnh đạo phường. Vì vậy, vấn đề xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nói chung, cán bộ lãnh đạo phường nói
riêng luôn là yêu cầu quan trọng của công tác cán bộ của Đảng, Nhà nước ta.
Tuy nhiên, trong mỗi thời kỳ, do tình hình thực tiễn khác nhau đặt ra những đòi

hỏi khác nhau đối với hệ thống chính trị cấp cơ sở và đội ngũ cán bộ cơ sở, nên
những đòi hỏi đặt ra đối với công tác cán bộ cấp cơ sở cũng khác nhau. Giai
đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, xuất phát từ
những đặc thù riêng của mình, cũng đang đặt ra những yêu cầu riêng của nó đối
với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường.
1.1. Yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối
với hệ thống chính trị phường.
Trong bối cảnh của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đời
sống kinh tế - xã hội của phường đang đứng trước những vận động mạnh mẽ.
- Về kinh tế:
Kinh tế công nghiệp - dịch vụ phát triển mạnh, mức độ hội nhập ngày
càng sâu rộng, tính giao lưu, biên độ mở của thị trường ngày càng lớn, thể hiện
trực diện trên địa bàn phường.

18


Các cơ sở sản xuất, cơ sở thương mại, giao dịch, dịch vụ thuộc mọi lĩnh
vực: tài chính, ngân hàng, công thương nghiệp, du lịch, giải trí v.v. xuất hiện
ngày càng nhiều với quy mô, trình độ khác nhau; tạo điều kiện cho các thành
phần kinh tế xuất hiện ngày càng đa dạng và đầy đủ với tất cả những đặc trưng
ngày càng hoàn thiện rõ nét của nó.
Cùng với sự phát triển của đô thị, công nghiệp, tính hiện đại, chuyên
nghiệp của các hoạt động kinh tế - xã hội gia tăng, đặc biệt là kinh tế dịch vụ du lịch - thương mại. Đây cũng chính là xu hướng quy hoạch phát triển của các
phường nội thành. Điều này đòi hỏi không chỉ các doanh nghiệp, các thành phần
kinh tế hoạt động ở tầm cao mới của khoa học - công nghệ và văn hoá, mà còn
đòi hỏi ở hoạt động quản lý của hệ thống chính trị các phường tính chuyên
nghiệp, khoa học, nhạy bén.
- Về xã hội:
Cùng với xu hướng đô thị hoá mạnh theo hướng hiện đại và chuyên

nghiệp, phường không ngừng mở rộng về qui mô dân số, địa giới hành chính;
bên cạnh đó còn là sự xuất hiện các khu đô thị tập trung theo lĩnh vực hoạt động:
khu dân cư, khu công nghiệp, khu văn phòng, khu thương mại… theo quy hoạch
của quận và thành phố. Những diễn biến đó làm cho hoạt động quản lý dân cư
của chính quyền phường ngày càng đặt ra những vấn đề mới, đa ngành, đa cấp.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá cũng đặt môi trường trở thành
một vấn đề nghiêm túc. Chưa nói đến những tác động của quá trình này tới môi
trường ở tầm vĩ mô, mà chỉ riêng việc giữ gìn, xây dựng môi trường, cảnh quan
đô thị sạch, đẹp, văn minh cũng đã trở thành một nội dung ngày càng lớn và
không kém phần nan giải trong hoạt động của phường.
Bên cạnh những nhân tố mới phát sinh và phát triển dưới tác động của
tình hình mới, những yếu tố truyền thống cũng tiếp tục vận động. Đòi hỏi về đời
sống văn hoá, tinh thần ngày càng phong phú và thường xuyên. Nhu cầu được
bảo đảm các quyền lợi và nghĩa vụ của người dân liên quan đến thân nhân, tư
cách công dân, liên quan đến môi trường sống, sinh hoạt, quan hệ dân cư, chế độ
chính sách… ngày càng đa dạng, sâu sắc và nhạy cảm.
Như vậy, có thể thấy, cũng với những nhiệm vụ, chức năng được thể chế
hoá lâu nay, nhưng rõ ràng tính chất của công việc đã thay đổi rất năng động
trên địa bàn phường. Hoạt động quản lý an ninh, trật tự đô thị, trật tự thị trường,

19


quản lý dân cư ràng buộc lẫn nhau trở thành vấn đề trọng yếu đối với sự ổn định
chung của phường và cao hơn là của quận và thành phố. Đặc biệt, trong xu
hướng vận động của quy hoạch đô thị và xu hướng đô thị hoá, công tác quản lý
đất đai và thực hiện quy hoạch đất đai nổi lên thành một vấn đề nhạy cảm và nan
giải.
Những vấn đề của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đặt ra
yêu cầu hệ thống chính trị phường phải có những thích ứng về nhiều mặt: về tổ

chức hệ thống, về cán bộ, về trình độ năng lực, về chuyên môn nghiệp vụ, về
văn hoá ứng xử, về khoa học – kỹ thuật… Tuy nhiên, có thể nhận thấy một
nguyên tắc chung là những vấn đề đó nhiều khi vượt quá khả năng giải quyết,
xử lý của chính quyền phường đơn lẻ, dù cho nhiều vấn đề thuộc về thẩm quyền
của phường theo luật định.
1.2. Một số yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường trong tình
hình hiện nay.
Cán bộ lãnh đạo phường là những người đang hàng ngày, hàng giờ phải
giải quyết một khối lượng công việc rất lớn, đa dạng, phức tạp nhằm thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá của địa phương và đất nước. Họ là
một trong những yếu tố then chốt quyết định sự vững mạnh, thành công của
phường. Điều này thể hiện trong thực tế là cùng một tổ chức bộ máy, cùng một
cơ chế, chính sách giống nhau nhưng ở phường nào có cán bộ lãnh đạo giỏi thì
phường đó kinh tế, xã hội phát triển, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được
giao và ngược lại.
Tuy nhiên, để phát huy được vai trò của người “đứng mũi chịu sào” trong
giai đoạn hiện nay, hoàn thành được những nhiệm vụ nhân dân uỷ quyền, phục
vụ nhân dân hiệu quả, người cán bộ lãnh đạo phường trước hết phải thích ứng
với những vận động của tình hình mới, đáp ứng được những đòi hỏi của thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Một số yêu cầu chung:
Về phẩm chất chính trị: Người cán bộ lãnh đạo phải luôn tin tưởng và
trung thành với Đảng, với chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; thực
hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước.
Kiên quyết đấu tranh bảo vệ Đảng; chống chủ nghĩa cơ hội, bè phái, cá nhân và
các biểu hiện tiêu cực khác trong Đảng.

20



Người cán bộ lãnh đạo phải có bản lĩnh chính trị vững vàng. Bản lĩnh
chính trị vững vàng là cơ sở cho việc xử lý một cách tỉnh táo các tình huống
phát sinh trong thực tiễn. Đây chính là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành
công hay thất bại của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong việc xử lý các tình huống,
vấn đề nhạy cảm và đây cũng chính là thước đo lòng tin, uy tín, sự tín nhiệm của
nhân dân đối với họ. Trong giai đoạn hiện nay, trước những vấn đề phức tạp và
nhạy cảm của cuộc sống, người cán bộ lãnh đạo trong đó có cán bộ lãnh đạo cấp
cơ sở cần phải có bản lĩnh chính trị hết sức vững vàng để đứng vững trước
những tác động nhiều chiều của cuộc sống; để đương đầu với những thử thách,
cám dỗ; hơn nữa, để dám nghĩ, dám làm, quyết tâm đưa địa phương đi lên.
Về trình độ, năng lực: Người cán bộ lãnh đạo trước hết phải tri thức, có
hiểu biết, luôn luôn sâu sát và nắm bắt kịp thời những vấn đề phát sinh trong
thực tiễn. Mặc dù là cấp thấp nhất trong hệ thống hành chính, nhưng người cán
bộ lãnh đạo cấp cơ sở nói chung hay cán bộ lãnh đạo phưòng nói riêng cũng cần
phải có tư chất đó. Ngày nay, khi mà mặt bằng dân trí trong xã hội và khoa học
công nghệ phát triển cao thì yêu cầu về tri thức và trình độ học vấn của đội ngũ
cán bộ càng trở nên ưu tiên số một.
Trong hệ thống tri thức mà người lãnh đạo cần có thì tri thức lý luận đóng
vai trò nền tảng, trước hết là lý luận về chính trị - xã hội, quan điểm, đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Nắm vững tri thức lý luận là
kim chỉ nam của hoạt động lãnh đạo.
Tiếp theo là kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ . Kiến thức chuyên môn,
nghiệp vụ theo từng lĩnh vực nghề nghiệp, từng cương vị công tác là đòi hỏi tất
yếu đối với người cán bộ chuyên nghiệp.
Về các phẩm chất năng lực khác: người cán bộ lãnh đạo phải có kinh
nghiệm và vốn sống thực tiễn. Kinh nghiệm và vốn sống thực tiễn bổ sung và
mang đến sức sống hiện thực cho vốn tri thức lý luận và các kiến thức chuyên
môn được đào tạo trong nhà trường. Kinh nghiệm - vốn sống của mỗi người
được tích luỹ bằng nhiều bằng nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau như
quan sát thực tế, học hỏi và kế thừa kinh nghiệm của người khác … Tuy nhiên,

sự trưởng thành về kinh nghiệm và vốn sống về cơ bản là do cá nhân trực tiếp
tham gia trực tiếp vào công việc, trực tiếp giải quyết những tình huống do chính

21


thực tiễn đặt ra. Thông qua thử thách trong thực tiễn công tác mà cán bộ ngày
càng trưởng thành, hiệu suất công tác ngày càng cao.
Về đạo đức: người cán bộ lãnh đạo phải là những người có đạo đức trong
sáng, lối sống lành mạnh. Đây là yêu cầu chung đối với cán bộ, công chức, và
càng là yêu cầu bắt buộc đối với người cán bộ lãnh đạo ở bất cứ cấp nào. Từ
xưa, chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta đã đúc kết đạo đức cách mạng của
người cán bộ trong bốn chữ: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, mà qua bao biến động
của thời cuộc vẫn giữ nguyên giá trị. Ngày nay, bốn chữ đó tiếp tục là yêu cầu
đạo đức chuẩn mực của người cán bộ, trước hết là trong công việc.
Cần là cần cù, chịu khó, nhưng sâu sắc hơn là ý thức luôn cố gắng hoàn
thành nhiệm vụ, kể cả khi gặp những điều kiện khó khăn, phức tạp - đó chính là
tinh thần trách nhiệm và kỷ luật trong công việc. Kiệm không chỉ là tiết kiệm
chung chung, tiết kiệm cho cá nhân mà quan trọng hơn, sâu xa hơn là tiết kiệm
thời gian, tiền bạc, công sức... của người lao động, của nhân dân, của đất nước.
Đây là đức tính cần thiết khi mà chúng ta đang tập trung mọi nguồn lực cho
công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Liêm tức là trong sạch,
không tham nhũng, không lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình để mưu lợi
riêng, không sách nhiễu nhân dân và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng.
Chính tức là ngay thẳng, công tâm, làm theo kỷ cương phép nước, theo đúng
pháp luật.
Về phong cách làm việc: Khoa học và dân chủ. Yêu cầu quan trọng nhất
hiện nay đối với người cán bộ lãnh đạo là tính dân chủ trong công tác. Càng gần
cơ sở, người cán bộ càng cần tác phong dân chủ, phương pháp dân chủ. Ở đây,
tính dân chủ trước hết là biết lấy lợi ích của nhân dân, của đất nước làm mục

tiêu; tôn trọng lợi ích và quyền lực của dân; đồng thời phải biết làm chủ bản
thân, điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích chung của toàn xã
hội. Đây là yếu tố điều chỉnh tinh thần làm việc của người cán bộ, quy định cơ
bản tình trạng quan hệ giữa cán bộ với nhân dân trong quá trình hoạt động của
mình.
Một số yêu cầu riêng đối với cán bộ lãnh đạo phường.
Bên cạnh những yêu cầu chung mà một người cán bộ lãnh đạo cần có,
người cán bộ lãnh đạo phường những yêu cầu riêng mang tính đặc thù, cụ thể.

22


Thứ nhất, về phẩm chất chính trị: Niềm tin vào lý tưởng cách mạng,
trung thành với đường lối chính trị của Đảng, tân tuỵ phục vụ sự nghiệp cách
mạng của đất nước, phục vụ nhân dân, vững vàng trước mọi thử thách, cám dỗ đó là những yêu cầu trường tồn và bất dịch đối với một người cán bộ lãnh đạo.
Thứ hai, về trình độ, năng lực: Đối với trình độ lý luận chính trị, cán bộ
lãnh đạo phường cần có nhận thức cơ bản về lý luận chính trị làm nền tảng cho
sự hình thành ý thức và niềm tin chính trị, đủ điều kiện để lĩnh hội quan điểm
đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước.
Ngoài ra, cần nắm được một cách tương đối toàn diện các vấn đề chung
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng của đất
nước; các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
nhà nước để có định hướng chung đúng đắn cho hoạt động lãnh đạo, quản lý của
mình tại cơ sở.
Đối với các kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ: Người cán bộ lãnh đạo
phường cần nắm chắc các kiến thức sau: Nắm chắc kiến thức pháp luật trên các
lĩnh vực mình phụ trách. Nắm vững các nghị quyết, chỉ thị của thành uỷ, quận
uỷ trên các lĩnh vực mình phụ trách. Nắm chắc kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ
theo ngành nghề công tác. Nắm vững kiến thức quản lý hành chính nhà nước,
quản lý xã hội, quản lý đô thị, đặc biệt với cán bộ lãnh đạo, quản lý khối chính

quyền. Nắm chắc tình hình thực tiễn địa phương trên các mặt, đặc biệt trên lĩnh
vực phụ trách.
Thứ ba, về phong cách lãnh đạo: Người cán bộ lãnh đạo ở cơ sở phường
cần đề cao tác phong làm việc dân chủ, bám sát thực tiễn, nhanh nhạy, sáng tạo
(trong xử lý tình huống), quyết đoán, dám nghĩ dám làm.
Thứ tư, các năng lực và phẩm chất cá nhân khác:
Nếu trình độ lý luận và chuyên môn có thể đào tạo được, thì những năng
lực sau lại thuộc về tư chất vốn có của mỗi người mà một người cán bộ lãnh đạo
ở cơ sở rất cần. Đó là năng lực tổ chức thực hiện, năng lực vận động quần
chúng, năng lực xử lý tình huống.
Hoạt động tác nghiệp của người cán bộ có tính tương tác cao độ với quần
chúng nhân dân, nếu không muốn nói sự thành công của nhiều công việc phụ

23


thuộc một phần lớn vào sự ủng hộ, tham gia của nhân dân. Điều này quan hệ
mật thiết với tác phong làm việc dân chủ của người lãnh đạo.
Một điểm nổi bật nữa của đời sống cơ sở đã được đề cập nhiều trong các
phân tích bên trên là tính đa dạng, biến động của thực tiễn luôn đặt ra những tình
huống hết sức phong phú, không có trong sách vở.
Thứ năm, cán bộ lãnh đạo phường phải là người có sức khoẻ tốt, đủ sức
làm việc liên tục trong nhiệm kỳ và hoàn thành nhiệm vụ cấp trên và nhân dân
giao phó.
Thứ sáu, cán bộ lãnh đạo phường phải là người hết lòng vì sự nghiệp cách
mạng, tận tuỵ phục vụ nhân dân, gắn bó với nhân dân, sẵn sàng làm “người đầy
tớ” của nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy; không cậy quyền để
mưu cầu lợi ích riêng, biết tiếp thu, lắng nghe sự phê bình của quần chúng nhân
dân và chịu sự giám sát của nhân dân.
1.3. Một số yêu cầu đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo

phường trong thời kỳ mới:
Yêu cầu chung: Bên cạnh việc xây dựng một đội ngũ cán bộ đáp ứng
được những yêu cầu cơ bản về bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, công tác
cán bộ phường hiện nay cần đặc biệt chú ý đến những yêu cầu về trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ và một số phẩm chất, kỹ năng hoạt động thực tiễn của cán bộ.
Theo đó, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường ngay từ bây
giờ phải hướng tới sự chuyên nghiệp hoá, chuẩn hoá về mặt chuyên môn,
nghiệp vụ.
Do đặc thù của công tác phường có tính thực tiễn cao về mọi mặt, do đó
việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường phải hướng về thực tiễn - đặc
biệt quan tâm tới các kỹ năng thực hành và hoạt động thực tiễn của cán bộ, đưa
yêu cầu này trở thành một trong những yêu cầu cơ bản của công tác xây dựng
cán bộ lãnh đạo phường nói riêng, cán bộ lãnh đạo cơ sở nói chung.
Từ những phân tích đại cương trên đây, có thể xác định được những ưu
tiên của công tác cán bộ đối với cơ sở phường. Ưu tiên trước hết là lựa chọn cán
bộ phục vụ các lĩnh vực hoạt động chủ yếu phù hợp với chức năng, nhiệm vụ,
tính chất công việc của phường. Do đó, về chuyên môn, ưu tiên các chuyên
ngành khoa học quản lý, pháp lý, kinh tế; về kỹ năng, ưu tiên các kỹ năng thực

24


hành; về năng lực, ưu tiên sự năng động, chủ động. Bám sát những nội dung đó,
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ phường sẽ đáp ứng được cơ bản những yêu
cầu của thực tiễn công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn
ra nhanh chóng và sâu rộng trên loại hình cơ sở đầy năng động này.
Đương nhiên, mỗi chức danh công tác có những yêu cầu riêng của mình
đối với người cán bộ đảm nhận chức danh đó. Tuy nhiên, ở phường, mặc dù vẫn
có sự chuyên trách về chuyên môn, nhưng nhìn chung, trên thực tế, do tính chất
bộ máy đơn giản, cán bộ không nhiều, công việc tập trung vào một số lĩnh vực,

đồng thời sự luân chuyển trong nội bộ lớn, nên người cán bộ lãnh đạo luôn phải
có tầm bao quát chung. Chính vì vậy, những ưu tiên xác định trên đây cũng có
thể coi là những tiêu chí được đề cao chung cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo
phường, cũng là những ưu tiên mà công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
phường cần tính đến.
Muốn vậy, các cấp uỷ đảng, các cơ quan chuyên môn về công tác cán bộ
cần phải tiếp tục quán triệt, đề xuất các phương án chiến lược về xây dựng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo phường trong thời kỳ mới. Công tác đánh giá cán bộ phải
được tiếp tục thực hiện một cách khách quan và khoa học; việc tuyển dụng, bổ
nhiệm cán bộ phải được tiến hành một cách công khai và dân chủ; tăng cường
hơn nữa công tác qui hoạch, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, thực hiện tốt việc kết
hợp đào tạo, bồi dưỡng với thử thách, rèn luyện và luân chuyển cán bộ. Chuyển
quy trình ngược: tuyển chọn - bố trí sử dụng - đào tạo sang quy trình thuận:
tuyển chọn - đào tạo - bố trí sử dụng. Các nội dung, quy trình của công tác cán
bộ đều phải hướng tới các nội dung ưu tiên nhằm thoả mãn trước hết cái cần
của thực tiễn chứ không phải là thoả mãn cái đủ hoàn thiện của mô hình lý
tưởng - đó là giá trị thực tế của công tác cán bộ.
2. Thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường trước yêu cầu của tình
hình mới.
2.1. Thực trạng trình độ học vấn, cơ cấu của đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường.
Khoảng mười năm trước đây, đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường chủ yếu là
cán bộ hưu trí, kể cả chức danh bí thư đảng uỷ, chỉ trừ chức danh chủ tịch uỷ
ban nhân dân. Điều này đến nay tuy đã có tiến bộ hơn nhưng hiện vẫn đang tồn
tại phổ biến ở nhiều xã, phường, nhất là các phường thuộc các thành phố lớn.
Khảo sát thực tế tại thành phố Hà Nội những năm gần đây cho thấy, cơ cấu đội

25



×