Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỘNG ĐƯỜNG BỜ KHU VỰC HUYỆN HẢI HẬU TỈNH NAM ĐỊNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.43 MB, 59 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI

KHOA KHOA HỌC BIỂN VÀ HẢI ĐẢO

NGUYỄN HỒNG HẠNH

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỘNG ĐƯỜNG BỜ KHU VỰC HUYỆN
HẢI HẬU TỈNH NAM ĐỊNH

HÀ NỘI, 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI

KHOA KHOA HỌC BIỂN VÀ HẢI ĐẢO

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỘNG ĐƯỜNG BỜ KHU VỰC HUYỆN
HẢI HẬU TỈNH NAM ĐỊNH

Chuyên ngành

: Khí tượng thủy văn biển

Mã ngành

: 52440299

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Hồng Hạnh
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Đỗ Mạnh Tuân



HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi. Các số
liệu trong bài đồ án tốt nghiệp này là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và đã
công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu đưa ra trong đồ án này dựa
trên các kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu, không sao chép bất kỳ kết
quả nghiên cứu nào của các tác giả khác. Nội dung của đồ án có tham khảo và
sử dụng một số thông tin,tài liệu từ các nguồn sách, tạp chí được cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc và được phép công
bố.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2017
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Hồng Hạnh

i


LỜI CÁM ƠN

Đầu tiên, em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến ThS. Đỗ Mạnh Tuân, giảng
viên Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, người đã trực tiếp chỉ
bảo tận tình, định hướng chủ đề và tạo điều kiện cho em trong quá trình làm
khóa luận. Em cảm ơn thầy về những kiến thức quý báu, những lời khuyên và
những lời góp ý chân thành để giúp em có thể hoàn thành tốt đồ án này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô tại Khoa Khoa học Biển và Hải đảo,
Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy và

truyền đạt cho em những kiến thức chuyên ngành trong quá trình học tập trên
giảng đường những năm học qua.
Đồng thời em cũng xin gửi lời cảm ơn đến anh Nguyễn Đức Hoan công tác tại
phòng Nông nghiệp, Ủy Ban Nhân dân huyện Hải Hậu đã đã giúp đỡ, cung cấp
số liệu và tạo điều kiện thuận lợi trong thời gian em làm đồ án.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, người thân và bạn
bè đã luôn giúp đỡ, động viên và tạo điều kiện tốt nhất cho em trong suốt quá
trình học tập cũng như trong cuộc sống.
Dù em đã cố gắng nhưng kiến thức của em còn hạn chế và còn nhiều bỡ ngỡ
nên bài đồ án tốt nghiệp này vẫn còn những thiếu sót. Em rất mong được thầy cô
và các bạn có những ý kiến đóng góp cho bài đồ án tốt nghiệp của em trở nên
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2017
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Hồng Hạnh

ii


DANH MỤC HÌNH
LỜI CAM ĐOAN.........................................................................................................i
LỜI CÁM ƠN.............................................................................................................ii
DANH MỤC HÌNH...................................................................................................iii
MỤC LỤC.................................................................................................................. iv
MỞ ĐẦU...................................................................................................................... 1
Trên thế giới................................................................................................................4
Tại Việt Nam...............................................................................................................5
f. Đặc điểm kiến tạo...................................................................................................11

CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM, THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 16
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU................................................................21
Mở lại dòng chảy sông Sò.........................................................................................43
Giải pháp xây dựng các Tombolo nhân tạo.............................................................44
Trên thực tế các Tombolo ngoài tự nhiên còn được gọi là “Doi cát nối đảo” là
một dạng địa hình tích tụ, theo đó một doi cát hay mũi nhô hẹp sẽ nối liền
một hòn đảo với đất liền............................................................................................44
Khi ta áp dụng xây dựng các Tombolo nhân tạo trên hệ thống ven biển huyện
Hải............................................................................................................................... 45
Hậu thì các Tombolo nhân tạo này sẽ có tác dụng giữ lại một phần bùn cát của
dòng chảy ven bờ nhằm bồi đắp và củng cố đường bờ...........................................45
KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ......................................................................................46
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................48

iii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.........................................................................................................i
LỜI CÁM ƠN.............................................................................................................ii
DANH MỤC HÌNH...................................................................................................iii
MỤC LỤC.................................................................................................................. iv
MỞ ĐẦU...................................................................................................................... 1
Trên thế giới................................................................................................................4
Tại Việt Nam...............................................................................................................5
f. Đặc điểm kiến tạo...................................................................................................11
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM, THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 16
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU................................................................21
Mở lại dòng chảy sông Sò.........................................................................................43
Giải pháp xây dựng các Tombolo nhân tạo.............................................................44

Trên thực tế các Tombolo ngoài tự nhiên còn được gọi là “Doi cát nối đảo” là
một dạng địa hình tích tụ, theo đó một doi cát hay mũi nhô hẹp sẽ nối liền
một hòn đảo với đất liền............................................................................................44
Khi ta áp dụng xây dựng các Tombolo nhân tạo trên hệ thống ven biển huyện
Hải............................................................................................................................... 45
Hậu thì các Tombolo nhân tạo này sẽ có tác dụng giữ lại một phần bùn cát của
dòng chảy ven bờ nhằm bồi đắp và củng cố đường bờ...........................................45
KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ......................................................................................46
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................48
PHỤ LỤC

iv


v


MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Biến đổi khí hậu và mặt trái của các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội
(khai thác, sử dụng tài nguyên nước ở thượng nguồn, các hoạt động phát triển
kinh tế trên sông, ven biển,…) đã gây ra nhiều tác động tiêu cực như mất cân
bằng bùn cát, gia tăng sạt lở bờ sông, bờ biển, suy giảm nghiêm trọng rừng ngập
mặn ven biển, xâm nhập mặn ngày càng sâu vào đất liền, phần lớn các cửa sông
ở khu vực duyên hải miền trung bị bồi lấp theo mùa, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến hoạt động kinh tế xã hội của bà con ngư dân.
Vùng cửa sông ven biển là nơi chịu tác động tương tác giữa đất liền và biển,
cũng là nơi tiến hành hoạt động phát triển kinh tế mạnh mẽ. Những quốc gia có
biển đã đầu tư nghiên cứu các điều kiện tự nhiên, xã hội nhằm quy hoạch sử
dụng lãnh thổ và lãnh hải có hiệu quả. Mặt khác, vùng cửa sông ven biển là nơi

tập trung nhiều tai biến gây ra những thiệt hại về người và của. Trên thế giới, các
nước phát triển đã đạt được những kết quả quan trọng trong nghiên cứu, khai
thác đới bờ như các hệ thống đê biển của Đức và Hà Lan là những công trình kỹ
thuật có tầm vóc lịch sử, đảm bảo an ninh cho cuộc sống người dân đồng thời
cũng là những cảnh quan nhân sinh hấp dẫn, thu hút nhiều khách du lịch. Các
bãi biển đẹp, các khu nghỉ mát, các cầu cảng được xây dựng và phát triển ổn
định là nhờ vào kết quả nghiên cứu đới bờ.
Việt Nam có đường bờ biển chạy dọc chiều dài cả nước từ Bắc vào Nam.
Những nguồn lợi mà biển cả mang lại cho đất nước và con người nơi đất Việt là
vô cùng to lớn. Đặc biệt mẹ thiên nhiên đã ưu ái dành cho nơi đây những bãi
tắm tuyệt đẹp làm cho Việt nam nổi tiếng với du khách trên thế giới về ngành du
lịch biển. Nhưng biển cả không phải lúc nào cũng êm đềm, bên cạnh những
nguồn lợi thu từ biển con người nơi đây luôn phải đối mặt với những mối đe dọa
tiềm ẩn do biển mang đến bất cứ lúc nào.
Đới bờ Việt Nam là nơi tập trung đông dân cư và phát triển nhiều đô thị, thành
phố, đồng thời cũng là nơi phải gánh chịu nhiều thiệt hại do thiên tai gây ra.
Trong những thập niên gần đây bờ biển Việt Nam luôn phải đối mặt với tình trạng
1


bị biển xâm thực gây nên hiện tượng xói lở - bồi tụ bờ biển. Hiện tượng bồi tụ xói lở bờ biển đang xảy ra rất phức tạp và phổ biến ở nhiều khu vực trên thế giới
và với Việt Nam cũng vậy, có những nơi đang xảy ra hiện tượng bồi tụ rất mạnh
nhưng lại có những nơi đang xảy ra xói lở nghiêm trọng gây ra những tổn hại về
vật chất, tinh thần và đem lại những khó khăn cho cuộc sống của con người. Từ
cuối thế kỷ XX đến nay, mức độ xói lở - bồi tụ bờ biển Việt Nam ngày càng gia
tăng từ phạm vi đến cường độ, đặc biệt là khu vực đới bờ tỉnh Nam Định. Trong
nhiều năm qua bờ biển tỉnh Nam Định biến động mạnh do quá trình bồi tụ và xói
lở. Khu vực các cửa sông lớn (Ba Lạt, Lạch Giang, Cửa Đáy) có tốc độ bồi tụ
mạnh, trong khi bờ biển các huyện Hải Hậu, Giao Thủy lại có tốc độ xói lở nhanh
và là vùng biển thuộc loại xói lở mạnh nhất nước ta hiện nay.

Huyện Hải Hậu thuộc khu vực ven biển tỉnh Nam Định, đồng bằng Bắc Bộ
Việt Nam. Đây là điểm kinh tế trọng điểm của tỉnh, có mật độ dân cư cao. Tỉnh
Nam Định có 91,5km đê biển thì huyện Hải Hậu chiếm 33,3km và là nơi có
tuyến đê xung nhất. Hải Hậu là khu vực có nguy cơ cao và thường xuyên bị ảnh
hưởng bởi sạt lở. Hiện tượng xói lở trong khu vực được ghi nhận từ đầu thế kỉ
XX (1905). Hiện nay tỉnh Nam Định có 35km đê biển của tỉnh bị xói lở đe dọa
đến sự an toàn các công trình và tính mạng cũng như nhà cửa của nhân dân địa
phương thì trong đó tình trạng đê biển Hải Hậu nghiêm trọng có tới 27km đê
biển bị xói lở. Hải Hậu là vùng xói lở rất điển hình về cả quy mô không gian và
thời gian, các trận vỡ đê biển xảy ra mạnh đặc biệt vào mùa mưa bão, dẫn đến
việc di dời các tuyến đê dự phòng càng bị lùi sâu về phía đất liền.
Trong những năm gần đây, nghiên cứu điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng
cửa sông ven biển đã được đầu tư và đẩy mạnh thực sự. Mặc dù vậy, các công
trình ven biển (đê biển), các vùng kinh tế, các cầu cảng luôn nằm trong mối đe
dọa của tự nhiên, cụ thể hàng năm sau mỗi trận bão các đê biển ở Hải Hậu bị
phá hủy, các đầm tôm bị ngập mặn, các cầu cảng hoạt động gặp khó khăn do bồi
lắng san lấp luồng lạch. Vấn đề cấp bách đặt ra là bảo vệ tính mạng người dân,
đảm bảo sự ổn định cho các hoạt động kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường đới
ven bờ tại khu vực huyện Hải Hậu nói riêng và tỉnh Nam Định nói chung. Do đó
2


nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống các yếu tố ảnh hướng đến quá trình
biến động đường bờ khu vực biển Hải Hậu là một vấn đề cần thiết. Vì vậy trong
phạm vi nghiên cứu của một đồ án em chọn đề tài là:
“NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỘNG ĐƯỜNG BỜ KHU VỰC HUYỆN HẢI HẬU
TỈNH NAM ĐỊNH”.
1.2. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn
- Ý nghĩa khoa học:
Làm sáng tỏ hiện trạng biển động đường bờ và xu thế xói lở - bồi tụ của khu

vực bờ biển huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định.
Làm rõ nguyên nhân gây ra hiện tượng xói lở - bồi tụ của khu vực bờ biển
huyện Hải Hậu
- Ý nghĩa thực tiễn:
Đề xuất các giải pháp phòng chống, giảm thiểu xói lở - bồi tại khu vực nghiên
cứu.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
1.3.1. Mục tiêu chung
Xác định hiện trạng biến động đường bờ và xu thế, nguyên nhân xói lở - bồi tụ
của bờ biển trong khu vực nghiên cứu.
Đề xuất các giải pháp để phòng chống, giảm thiểu xói lở - bồi tụ tại khu vực
huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
1.3.2. Mục tiêu cụ thể
Xác định tình trạng biến động đường bờ khu vực huyện Hải Hậu tỉnh Nam
Định.
1.4. Nội dung nghiên cứu
Thu thập, tổng hợp các tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội.
Nghiên cứu xu thế, nguyên nhân xói lở - bồi tụ của bờ biển khu vực nghiên
cứu.
Đề xuất các giải pháp để phòng chống, giảm thiểu xói lở - bồi tụ tại khu vực
nghiên cứu.

3


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lí luận
Hiện nay tình trạng xói lở - bồi tụ đang diễn ra khá phổ biến trên toàn dải bờ
biển, cửa sông ở nước ta, đặc biệt là dải từ Bắc Bộ đến Nam Trung Bộ và gây ra
những thiệt hại không nhỏ mức độ, cường độ và phạm vi ảnh hưởng khác nhau.

Xói lở và bồi tụ là hai quá trình đối lập và xảy ra song song với nhau và bị chi
phối bởi nhiều yếu tố (nội sinh, ngoại sinh và nhân sinh). Quá trình xói lở và bồi
tụ xảy ra rất phức tạp.
Bờ biển luôn bị thay đổi hình dạng do tác dụng của sóng vỗ, thủy triều các
dòng chảy có hướng dọc theo bờ cũng như tác dụng vật lý, hóa học của nước,
của sinh vật sống trong nước lên đất đá bờ. Quá trình làm thay đổi hình dáng bờ
biển chu yếu do sóng vỗ gọi là hiện tượng xói lở.
Bồi tụ là quá trình tích tụ (tích luỹ) các vật liệu phá huỷ.
Quá trình bồi tụ diễn ra rất phức tạp, nó phụ thuộc vào động năng của các nhân
tố ngoại lực. Khi động năng giảm dần thì các vật liệu sẽ tích tụ dần trên đường
di chuyển của chúng theo thứ tự kích thước và trọng lượng giảm. Nếu động năng
giảm đột ngột thì tất cả các loại vật liệu đều tích tụ và phân lớp theo trọng lượng.
Nội lực và ngoại lực là hai lực đối nghịch nhau : các quá trình nội lực có xu
hướng làm cho bề mặt Trái Đất gồ ghề hơn, còn quá trình ngoại lực lại có xu
hướng san bằng những chồ gồ ghề đó.
- Nguyên nhân xói lở - bồi tụ:
Xói lở - bồi tụ dải ven biển là một quá trình tự nhiên phức tạp, là hệ quả tương
tác giữa rất nhiều yếu tố. Những yếu tố gây ra xói lở bồi tụ bờ biển, trong đó các
yếu tố tác động đến quá trình xói lở bồi tụ bờ biển được phân làm hai nhóm: các
yếu tố tự nhiên và tác động của con người. Việc đánh giá xác định nguyên nhân
xói bồi phải xem xét đầy đủ trên các phương diện như sự vận chuyển bùn cát
dưới tác động của sóng, gió và dòng triều; các tác động của con người trong
phạm vi dọc bờ biển, trên các lưu vực sông, theo không gian cũng như thời gian
(Hình 1.1).
1


Yếu tố tự nhiên: Do biến đổi khí hậu theo các hiện tượng Nalina và Elnino làm
cho gió mùa bị xáo động bất thường, bão có xu hướng gia tăng về cường độ, bất
thường về thời gian và hướng dịch chuyển, thời tiết mùa đông nói chung ấm lên,

mùa hè nóng thêm. Xuất hiện bão, lũ và khô hạn bất thường do gió mùa tần suất
cao, nhiều cơn bão và áp thấp nhiệt đới liên tục, nối tiếp cộng với mưa lớn và lũ
liên tiếp…, mức độ dâng nước trực tiếp do gió bão vào thời kỳ triều cường. Hiện
tượng dâng mực nước sẽ trở nên cực kỳ nguy hiểm nếu tính đến hiện tượng lan
truyền sóng dài, sóng lớn từ ngoài vào cũng như nước dâng do sóng.
về kinh tế - xã hội. Xói lở – bồi tụ bờ biển là dạng thiên tai nặng nề, xảy ra ở cả
ba miền, diễn biến hết sức phức tạp gây thiệt hại rất lớn về người và của. Nó để
lại hậu quả lâu dài về kinh tế - xã hội và môi trường sinh thái. Bồi tụ bờ biển,
cửa sông thành tạo nên các bãi bồi quí giá cho nhiều vùng, song nhiều nơi cũng
trở thành tai biến nghiêm trọng, gây ra sa bồi luồng tàu, bến cảng, bồi lấp cửa
sông làm cản trở giao thông, giảm khả năng thoát lũ, gây ngập lụt trên diện rộng,
ngọt hoá các đầm phá, vũng vịnh...
Trong thời gian qua, trên bờ biển nước ta các hoạt động xói lở và bồi tụ bờ
biển thường xuyên xảy ra với nhiều kiểu, dạng, quy mô và cường độ tác động
khác nhau…Trong đó đới bờ khu vực Hải Hậu trong những năm gần đây là khu
vực xảy ra hiện tượng xói lở- bồi tụ ven bờ hết sức nghiêm trọng, kéo theo đó là
hiện trạng biến đổi đường bờ trong khu vực này là khá phức tạp.
Bờ biển Hải Hậu từ cửa Hà Lạn đến cửa Lạch Giang dài 33,32km. Toàn bờ
biển Hải Hậu bị xói lở trên chiều dài 17,2km, tốc độ xói trung bình 14,5m/năm,
lớn nhất 20,5m/năm. Quá trình xói lở đê kè biển diễn ra rất nghiêm trọng trong
cơn bão Damrey (2005). Bão đã làm hư hỏng và vỡ 8,12km đê biển Hải Hậu, có
đoạn vỡ hoàn toàn với chiều dài hơn 1km (Hải Triều-Hải Hòa). Trong thời gian
là hơn 50 năm (từ năm 1912-1965), hiện tượng xói lở nghiêm trọng diễn ra trên
đoạn bờ Hải Hậu, từ xã Hải Đông đến hải Hòa dài 16km, rộng 300 – 400m, rộng
nhất là 600m, gây ảnh hường lớn đến đời sống kinh tế xã hội không chỉ của khu
vực mà còn cho cả ven biển châu thổ sông Hồng như mất đất ở và đất canh tác,

2



ảnh hưởng đến các cơ sở sản xuất, đe dọa phá huỷ các công trình đê kè biển,
buộc phải di dời và tái định cư ổn định cuộc sống nhân dân.
Do đó nhằm bảo vệ đê bãi, các công trình ven biển, đời sống của người dân
ven biển thì vấn đề nghiên cứu về biến động đường bờ khu vực huyện Hải Hậu
tỉnh Nam Định là rất cần thiết.
Xói lở và bồi tụ bờ biển là kết quả của hoạt động địa động lực biển hoặc địa
động lực biển kết hợp địa động lực dòng sông, thường xuyên xảy ra ở các bờ
biển với những
Yếu tố con người: như đắp đập ngăn sông, đào kênh tưới tiêu, thoát lũ, quai đê
lấn biển, phá rừng ngập mặn, huỷ hoại hệ sinh thái rạn san hô.

Hình 1.1.1: Các nguyên nhân gây xói lở - bồi tụ khu vực ven biển
Những nhân tố tự nhiên quan trọng không thể bỏ qua trong việc hiểu và nhận
diện vấn đề xói lở bờ biển bao gồm: cấu tạo vùng bờ và hướng đường bờ, tác
động của gió, sóng, thủy triều, cũng như vai trò của rừng ngập mặn. Bên cạnh các
yếu tố tự nhiên, các tác động do con người tạo ra cũng cần được xem xét theo
không gian cũng như theo thời gian. Dưới đây, tôi sẽ lần lượt đề cập, phân tích và
3


thảo luận một số yếu tố được cho là những nguyên nhân chính tác động đến quá
trình xói lở - bồi tụ bờ biển khu vực huyện Hải Hậu trong phần Chương 3.
1.2. Cơ sở thực tiễn
- Trên thế giới
Nghiên cứu xói lở và bồi tụ đã được hầu hết các nước trên thế giới quan tâm. Ở
các nước phát triển người ta đã xác định được nguyên nhân và đề xuất các giải
pháp phòng chống hữu hiệu, đã dự báo tương đối chính xác diễn biến hiện tượng
xói lở bồi tụ. Ở các nước đang phát triển, vấn đề trị thuỷ sông, thoát lũ cửa sông
cũng rất được quan tâm nhưng do tài liệu điều tra cơ bản còn thiếu nên còn bị
động trước thiên tai xói lở.

Các công trình nghiên cứu về xói lở - bồi tụ bờ biển cửa sông được đăng tải
trên các tạp chí định kỳ như: Journal of Coastal Research (CERF - Mỹ), Natural
Disaster (Nhật). Trong nhiều chương trình, dự án quốc tế, vấn đề xói lở bồi tụ
được coi là trọng tâm như Chương trình “Land Ocean Interactions in the coastal
zone (LOICZ)”, chương trình APN... Hiện nay các nước Đông Nam Á đang phối
hợp xây dựng mạng lưới quan trắc và từng bước triển khai dự án EA LOICZ,
trong đó xói lở - bồi tụ bờ biển cửa sông là một trong các nội dung được ưu tiên.
Nhiều công trình nghiên cứu đã được biên tập, xuất bản dưới dạng sách như:
Richard Soulsby năm 1997 với cuốn sách “ Động lực học cát biển ”, trình bày
về các tác nhân, cơ chế, phương pháp nghiên cứu vận chuyển trầm tích, bồi-xói.
Một số nước có nền khoa học kỹ thuật biển tiên tiến trên thế giới đã áp dụng
các giải pháp khác nhau nhằm ổn định vùng bờ biển như Mỹ, Nhật, Pháp, Hà
Lan, Trung Quốc, Ý…Trong các giải pháp đó gồm các giải pháp phi công trình
và công trình hiện nay đang tiến tới kết hợp giữa hai giải pháp này. Đến nay các
nghiên cứu và giải pháp khoa học công nghệ về công trình phòng chống bồi tụ,
xói lở bờ biển trên thế giới đã có nhiều thành công đáng kể, đặc biệt là các
nghiên cứu chuyên sâu về hình thái, quy luật diễn biến và các giải pháp khoa
học công nghệ tiên tiến hàn chế bồi tụ và xói lở bờ biển. Trong đó giải pháp hiệu
quả và thành công nhất hiện nay là công trình cứng gồm hệ thống các đập ngăn

4


cát chắn sóng tùy theo các điều kiện cụ thể của từng vùng trên cơ sở nghiên cứu
đầy đủ các cơ sở khoa học và thực tiễn.
- Tại Việt Nam
Hiện nay tình trạng xói lở, bồi tụ đang diễn ra khá phổ biến trên toàn dải bờ
biển, cửa sông, đặc biệt là dải từ Bắc Bộ đến Nam Trung Bộ và gây ra những
thiệt hại không nhỏ về kinh tế - xã hội.
Ở nước ta, xói lở-bồi tụ cửa sông là dạng thiên tai nặng nề, xảy ra ở cả ba

miền, diễn biến hết sức phức tạp gây thiệt hại rất lớn về người và của, để lại hậu
quả lâu dài về kinh tế - xã hội và môi trường sinh thái. Hàng năm, nhà nước phải
chi một lượng kinh phí lớn để khắc phục, phòng chống tai biến và cứu hộ người
dân. Việc bồi tụ bờ biển, cửa sông đang tạo nên các bãi bồi quí giá cho nhiều
vùng, song nhiều nơi cũng trở thành tai biến nghiêm trọng, gây ra sa bồi luồng
tàu, bến cảng, bồi lấp cửa sông, làm giảm khả năng thoát lũ, gây ngập lụt trên
diện rộng, ngọt hoá các đầm phá, vũng vịnh...
Nhận thức rõ tính cấp bách và tầm quan trọng của vấn đề xói lở - bồi tụ, Nhà
nước và một số địa phương đã cho triển khai nhiều chương trình, đề tài, đề án
nhằm điều tra, xác định hiện trạng xói lở, bồi tụ theo dõi diễn biến ở các vùng
trọng điểm, xây dựng các luận cứ khoa học cho các giải pháp phòng chống. Khu
vực bờ biển Nam Định đặc biệt là khu vực bờ biển huyện Hải Hậu đang xảy ra
hiện tượng xói lở nghiêm trọng và đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu có
liên quan để làm rõ vấn đề này.
Nghiên cứu ở trong nước có thể kể ra các công trình tiêu biểu như:
Chuyên đề nghiên cứu thành lập bản đồ “Trầm tích tầng mặt và tướng đá –
thạch động lực tỷ lệ 1/500.000 đới biển nông ven bờ (0-30m nước) từ Hải Phòng
đến cửa Đáy do GS. Trần Nghi làm chủ nhiệm thuộc đề tài “ Điều tra địa chất và
khoáng sản biển đới biển nông ven bờ (0 -30m nước) Móng Cái – Hà Tiên do
TSKH Nguyễn Biểu làm chủ nhiệm (1991 – 2005).
Chu Văn Ngợi, 2009. “Nghiên cứu địa động lực hiện đại khu vực cửa sông
Ba Lạt đến cửa Đáy. Đề tài trọng điểm cấp Đại học Quốc gia, đề tài đã đánh giá

5


xu thế xu thế và nguyên nhân xói lở khu vực Hải Hậu dựa trên các thế hệ đê
biển do Nguyễn Công Chứ xây dựng.
Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng (2010) với “Biến động bờ biển và cửa sông
Việt Nam” là cuốn sách đề cập đến các quá trình biến động bờ biển, cửa sông

trong đó có đề cập đến khu vực ven biển Hải Hậu, Nam Đinh.
Nguyễn Mạnh Hùng và nnk ( 2011) với đề tài “Tình toán biến động bờ biển
khu vực ven biển Hải Hậu – Nam Định và châu thổ sông Hồng dưới tác động
đồng thời của trường sóng và mực nước”.
Đề tài nghiên cứu KHCN cấp Bộ “Nghiên cứu các giải pháp thoát lũ, phòng
tránh xói lở và bồi lấp cửa sông Vu Gia - Thu Bồn” do PGS.TS Vũ Minh Cát,
Trường Đại học Thủy lợi chủ trì thực hiện (2002-2003) nhằm nghiên cứu quy
luật diễn biến bờ biển và đánh giá khả năng thoát lũ qua cửa theo các kịch bản
diễn biến cửa khác nhau.
Đề tài KC09-05 “Dự báo hiện tượng xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông và các
giải pháp phòng tránh”, do Viện Địa lý - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
chủ trì thực hiện. Mục tiêu chính của đề tài là: đề xuất mô hình dự báo quá trình
xói lở - bồi tụ cho dải ven biển và cửa sông ở qui mô vừa (mùa và năm) và đề
xuất các giải pháp khoa học kỹ thuật phòng tránh xói lở, bồi tụ và bảo vệ các
công trình ven biển cửa sông.
Đề tài KC08-07/06-10 “Nghiên cứu đề xuất giải pháp ổn định các cửa sông
ven biển miền Trung” do Trường Đại học thủy lợi chủ trì thực hiện từ năm 2007
đến 2009 với các mục tiêu chính là: xác định nguyên nhân và quy luật diễn biến
(bồi, xói, dịch chuyển) các cửa sông ven biển miền Trung; đề xuất các giải pháp
thích ứng ổn định các cửa sông: Cửa Tư Hiền (Thừa Thiên - Huế); Cửa Mỹ Á
(Quảng Ngãi); Cửa Đà Rằng (Phú Yên) nhằm phát triển kinh tế, xã hội, an toàn
cho ngư dân và tàu thuyền tránh bão; phục vụ các cơ quan quản lý sử dụng kết
quả nghiên cứu để lập các dự án đầu tư chỉnh trị cửa sông có căn cứ khoa học và
kinh tế.
Hiện nay nước ta có 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì có đến 28
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển, với 125 huyện ven biển và 12
huyện đảo. Đây là những đơn vị hành chính đóng vai trò quan trọng đối với sự
nghiệp phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh, chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
6



Từ Bắc vào Nam, 28 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương có biển là các tỉnh
và thành phố: Quảng Ninh, Tp. Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình,
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Tp.
Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh
Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa-Vũng Tàu, Tp. Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Bến Tre,
Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang. Như vậy ta có thể thấy
nước ta có khá nhiều tỉnh, thành phố giáp biển, địa hình ven biển của các tỉnh,
thành phố đó đều có sự thay đổi theo mỗi năm. Ví dụ như:
- Trong những năm gần đây bờ biển Bà Rịa – Vũng Tàu bị biến đổi rất mạnh.
Có thể nói hoạt động phá hủy đang diễn ra trên toàn bộ chiều dài bờ biển trong
khu vực. Bờ biển lấn sâu vào đất liền phá hủy các công trình ven bờ gây ra
những hậu quả nặng nề, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống kinh tế xã hội của người
dân nơi đây.
- Cuối năm 2014, tình trạng sạt lở nghiêm trọng ở mức “báo động đỏ” với bờ
biển Cửa Đại (Hội An Quảng Nam). Tình trạng sạt lở tại bờ biển Cửa Đại vốn
đã nghiêm trọng, sau cơn bão số 3 lại càng trầm trọng hơn. Tuyến bờ biển Cửa
Đại dài hơn 7km, trong những năm gần đây, vùng bờ biển Hội An bị biến động
sạt lở nghiêm trọng, bình quân mỗi năm biển lấn sâu vào đất liền tại khu vực
phường Cửa Đại từ 30m- 50m. Đặc biệt, năm 2014 đoạn bờ biển từ bãi tắm công
cộng đến cầu cảng Cửa Đại bị sạt lở rất lớn gây ảnh hưởng đến nhiều công trình
ven biển, các tuyến đường giao thông và gây ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng
và tài sản của nhân dân…
- Từ năm 2003 tới nay, biến động đường bờ vùng cửa sông Cái, Nha Trang có
biểu hiện rõ rệt. Đới bờ cát Bắc thể hiện xu thế xói lở khá mạnh và rõ rệt. Trong
khi đó đới cát bờ nam diễn biến bồi xói xem kẽ nhau và có tính chất mùa.
Các chương trình, đề tài, đề án nghiên cứu kể trên đã thu được nhiều kết quả
có giá trị về mặt khoa học và thực tiễn, góp phần không nhỏ vào việc chỉnh trị
bờ biển, cửa sông, giảm nhẹ thiên tai xói lở, bồi tụ. Song do hạn chế về kinh phí
cũng như thiết bị nghiên cứu nên sự gắn kết giữa các vùng còn hạn chế, nhiều


7


vấn đề về qui luật diễn biến bờ biển, cửa sông, quá trình xói lở, bồi tụ vẫn chưa
được giải quyết thoả đáng.
Để có thể nghiên cứu một cách chính xác nhất thì ta cần tìm hiểu điều kiện tự
nhiên, kinh tế xã hội của khu vực ven biển huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định.
a. Khí hậu
Vùng Hải Hậu không được các đảo ven bờ che chắn, địa hình thấp và bằng
phẳng, đường bờ khá thẳng nên gió có điều kiện phát triển theo nhiều hướng.
Chịu sự ảnh hưởng của hai hệ thồng gió mùa Đông Bắc và gió mùa Tây Nam có
tình chất ngước nhau chi phối.
Gió ven biển: Mùa Đông thịnh hành các hướng gió Bắc, Đông Bắc và Đông.
Mùa hè thịnh hành các hướng gió là Nam và Đông Nam. Thời gian chuyển mùa,
gió Đông là hướng gió chính. Khi xuất hiện các nhiễu động thời tiết đặc biệt như
dông, lốc, bão,. . . tốc độ gió có thể lên tới 45m/s.
Lượng mưa: hàng năm dao động 1540 – 1750mm. Mùa mưa bắt đầu từ cuối
tháng IV và kết thúc vào tháng X chiếm 82 – 90% lượng mua cả năm. Mưa lớn
tập trung vào các tháng VII – VIII. Lượng mưa ngày lớn nhất đạt tới 300mm.
Mưa lớn có thể gây ra ngập úng cục bộ ở ven biển Hải Hậu.
Bão áp, thấp nhiệt đới: Nhìn chung khu vực này chịu tác động của 28% số
trận bão và áp thấp của Việt Nam. Trung bình hàng năm có 1 – 2 trận tác động
trực tiếp và 2 -3 trận tác động gián tiếp. Nhưng trong khoảng 20 năm trở lại đây
số trận bão và áp thấp đổ bộ vào khu vực này có tần suất giảm đi nhưng cường
độ lại mạnh hơn.
b. Đặc điểm thủy văn
Ảnh hưởng của phù sa bùn cát của các cửa sông Ba Lạt, Lạch Giang ít tác
động đến bồi tụ trong khu vực. Hơn nữa, các cửa sông Ba Lạt, cửa Đáy có hình
thái lồi, mở rộng xa ra biển đã làm khuyếch tán phù sa ra xa bờ. Vì vậy, khu vực

thiếu hụt bồi tích từ lục địa đưa ra mặc dù nằm giữa vùng bờ Châu thổ sông
Hồng.
Dao động mực nước khu vực mang tính chất nhật triều đều, các đặc trưng
mực nước trung bình, mực nước cao nhất và thấp nhất đều nhỏ hơn ở Hòn Dấu
8


và Cát Hải. Mực nước trung bình năm đạt 184cm, thấp hơn Hòn Dấu khoảng
2cm, cao nhất vào tháng 10, đạt 192cm và thấp nhất vào tháng 3, đạt 150cm.
Đây là thời kì sóng hướng đông và đông bắc phát triển mạnh sẽ phát triển mạnh
dòng bồi tích vận chuyển về phía nam trong pha triều xuống. Ngược lại, trong
mùa gió Tây Nam, sóng hướng Tây Nam và Đông Nam phát triển tạo dòng chảy
sóng kết hợp với dòng triều lên sẽ vận chuyển bồi tích lên phía bắc.
Sóng lớn ở vịnh Bắc Bộ truyền vào bờ Hải Hậu thường có chiều dài bước sóng
50-60m. Vì thế từ độ sâu 25 - 30m trở ra, sóng hầu như không tác động đến đáy.
Vào mùa hè, tháng 4 - 9, các hướng sóng ưu thế là Đông, Đông Nam và Nam.
Khu vực ven bờ Hải Hậu là nơi tập trung năng lượng sóng cao do sóng có
điều kiện phát triển mạnh. Khi xuất hiện sóng hướng Đông Bắc thì đoạn bờ từ
cửa Ba Lạt đến Văn Lý bị tác động khá mạnh trong khi đó đoạn bờ từ cửa Đáy
đến Nga Sơn và phần phía Đông Nam Đồ Sơn bị tác động không đáng kể. Vào
mùa hè, khu vực này chịu tác động mạnh mẽ của sóng bão có các hướng Nam
Đông Nam, Đông Nam, Đông Đông Nam với độ cao sóng từ 3,45 - 5,0m, tuy
tần suất xuất hiện chỉ đạt 0,01% đến 0,1%, nhưng năng lượng rất lớn, 5 - 6,49
kg/s2 và gây nên những đột biến trong quá trình thành tạo trầm tích và địa hình
của dải ven bờ.
Vào mùa gió Đông Bắc, dòng chảy tầng mặt khu vực Hải Hậu có hai hướng
chủ đạo là chảy lên (hướng Đông Bắc) và chảy xuống (hướng Nam và Tây
Nam). Trong đó, dòng chảy xuống hoàn toàn chiếm ưu thế cả về tần suất xuất
hiện lẫn vận tốc.
c. Địa hình – địa mạo

Địa hình khu vực nghiên cứu là địa hình đồng bằng và bãi triều tương đối bằng
phẳng. Tại các vùng cửa sông, địa hình rất đa dạng với nhiều kiểu nguồn gốc
khác nhau. Địa hình đáy biển ở vùng cửa sông có sự khác nhau theo độ sâu.
Bề mặt địa hình khu vực nghiên cứu hơi nghiêng về phía biển, độ dốc nhỏ dao
động từ 0,04 – 0,05m/km. Địa hình nhân tạo tiêu biểu ở đây là đê ngăn lũ ven
sông và đê biển. Hệ thống đê và các trục giao thông đã chia cắt ven biển Hải
Hậu ra những ô đất thấp khác nhau.
9


Vùng ven biển Hải Hậu ở vùng Đông Nam châu thổ, thuộc trũng sông Hồng,
có các đứt gãy kiến tạo lớn chi phối, như các đứt gãy sông Hồng, sông Chảy.
Sông Lô, ... Quá trình sụt lún ở châu thổ được bù đắp bởi lượng phù sa dồi dào.
Trong giai đoạn phát triển châu thổ hiện đại, khu vực ven biển chịu ảnh hưởng
rất lớn bở các hoạt động của con người, trong đó có việc đắp đê ngăn lũ đã làm
mất mối trao đổi phù sa giữa sông và đồng bằng làm cho bề mặt ven biển vốn
chưa được bồi đầy lại có thêm nhiều ô trũng..
d. Hải văn biển
Vùng nghiên cứu nằm kẹp giữa hai cửa sông lớn là Ba Lạt (sông Hồng) và cửa
Lạch Giang (sông Ninh Cơ). Hai nhánh sông lớn này chuyển tải khoảng 38-43%
tổng lượng nước và bùn cát của sông Hồng. Ngoài ra còn có các nhánh sông nhỏ
khác, đóng vai trò như những hệ thống thủy văn tự nhiên, cung cấp nước tưới
cho nông nghiệp và tiêu thoát nước vào mùa mưa. Trong số này đáng kể nhất là
sông Sò, là sông tự nhiên được cải tạo, đưa nước sông Hồng ra cửa Hà Lạn.
Hiện nay cửa Hà Lạn (sông Sò) đã bị bồi lấp mạnh.
e. Thổ nhưỡng
Các trầm tích bề mặt trải qua các quá trình mặn hóa, phèn hóa, bồi tụ và lắng
đọng đã hình thành 4 nhóm đất chính: Nhóm đất phèn, nhóm đất mặn, nhóm đất
phù, nhóm đất cát.
Nhóm đất phèn gồm đất phèn tiềm năng và đất phèn hoạt tính chiếm diện tích

khá lớn trong khu vực. Chúng có thành phần cơ giới trung bình với lớp phủ chủ
yếu là thực vật ưa mặn, chua như sú, vẹt.
Nhóm đất mặn gồm 4 loại: đất mặn ít, đất mặn trung bình, đất mặn nhiều và
đất mặn sú vẹt. Tổng muối hoà tan từ 0,25 - 1%, thành phần muối kim loại kiềm
chủ yếu là Cl-, SO42-, CO32-, HCO3- được ưu tiên để trồng rừng ngập mặn phòng
hộ. Đất mặn ít chủ yếu để trồng lúa cho năng suất khá cao.
Nhóm đất phù sa bao gồm đất phù sa được bồi giàu dinh dưỡng; đất phù sa
không được bồi, không glay hoặc glay yếu có thành phần cơ giới cát pha, thịt
nhẹ hoặc thịt trung bình; đất phù sa không được bồi, glay trung bình hoặc mạnh;
và đất phù sa không được bồi, glay mạnh và ngập úng vào mùa mưa. Loại đất
10


này rất phù hợp để trồng lúa nước, cây xen canh và cây ăn quả.
Nhóm đất cát được hình thành do tác động của biển, sông, dòng chảy nội đồng
và gió, phân bố ở các bãi cát và cồn cát ven biển. Đất nghèo dinh dưỡng, có
phản ứng ít chua (pHKCl = 5,5 - 6,0) bao gồm đất cát thô hình thành trên các cồn
cát trẻ ở biển và các cồn cát cổ nằm sâu trong đất liền. Chúng chủ yếu được sử
dụng để trồng rừng phi lao chắn gió, xây dựng khu du lịch, bãi tắm. Cồn cát cũ
được cải tạo thích hợp với nhiều loài cây trồng cạn.
f. Đặc điểm kiến tạo
Vùng nghiên cứu thuộc trũng Sông Hồng, hình thành và phát triển trong
Kainozoi. Trũng kiến tạo Sông Hồng có kiến trúc 2 tầng: tầng móng và tầng
phủ.
- Tầng móng
Tầng móng được cấu tạo từ các thành tạo trước Kainozoi, có tuổi từ
Proterozoi đến Mesozoi. Các thành tạo móng đã trải qua nhiều pha biến dạng, bị
các hệ thống đứt gãy sâu phân cắt ra các khối, chuyển động thẳng đứng với tốc
độ khác nhau. Trong phạm vi trũng Sông Hồng các thành tạo móng lộ ra ở một
vài nơi dưới dạng các đồi nhỏ: đá phiến thạch anh-mica, migmatit, đá phiến

mica, gneis biotit dạng mắt thuộc phức hệ Sông Hồng lộ thành chỏm nhỏ ở núi
Gôi; đá vôi màu xám, đá vôi màu xám sáng xen sét vôi thuộc hệ tầng Đồng Giao
lộ ra ở Yên Mô, Yên Khánh. Ở trung tâm, các thành tạo móng chìm sâu đến
4000m.

11


- Tầng phủ
Tầng phủ được cấu tạo từ các thành tạo có tuổi Paleogen, Neogen và Đệ tứ,
gồm các tổ hợp thạch kiến tạo:
+ Tổ hợp thạch kiến tạo Paleogen-Miocen: trầm tích lục địa. Tổ hợp thạch
kiến tạo được đặc trưng bởi các thành tạo thuộc hệ tầng Phù Tiên (E 2pt), Đình
Cao (E3đc), và hệ tầng Phong Châu (N11pch). Các thành tạo chủ yếu là cuội, sạn,
cát, bột có chứa ít than nâu, được hình thành trong điều kiện lục địa, trong giai
đoạn đầu hình thành trũng Sông Hồng.
+ Tổ hợp thạch kiến tạo Miocen trung-thượng: trầm tích lục địa và biển nông
ven bờ. Tổ hợp thạch kiến tạo đặc trưng bởi các thành tạo thuộc hệ tầng Phủ Cừ
(N21pc) và hệ tầng Tiên Hưng (N13th). Thành phần thạch học gồm cát kết hạt mịn
đến trung, xen lớp, có chứa ít than nâu thuộc tướng biển vùng ven bờ và tướng
đầm lầy. Các thành tạo được hình thành trong điều kiện bồn trũng đã mở rộng.
+ Tổ hợp thạch kiến tạo Pliocen-Đệ tứ: Tổ hợp có cấu tạo nhịp đặc trưng và
được chia làm 3 phụ nhịp:
Phụ nhịp dưới (hệ tầng Vĩnh Bảo N2 vb): đặc trưng bởi cát kết hạt nhỏ đến
thô, xen bột kết và sạn kết.
Phụ nhịp giữa bao gồm các hệ tầng Lệ Chi, Hà Nội và Vĩnh Phúc. Các thành
tạo này có cấu tạo nhịp rõ, cụ thể là mỗi nhịp bắt đầu bằng tướng trầm tích sôngsông biển và kết thúc bằng trầm tích biển.
Phụ nhịp trên: các trầm tích Holocen. Các thành tạo thuộc phụ nhịp này
được hình thành vào thời kỳ biển tiến Fladrian, chiếm một không gian rộng và lộ
trên bề mặt. Thành phần thạch học đặc trưng cuội kết, cát kết, sét bột kết tướng

sông, sông hồ, biển, biển gió.
g. Tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản của khu vực nghiên cứu không nhiều, gồm có một số
loại khoáng sản sau:
Khoáng sản kim loại: có các vành phân tán Ilmenit, Zircon, Monazit. Loại này
mới chỉ tìm kiếm và phát hiện tại huyện Hải Hậu. Các mỏ này có quy mô nhỏ,

12


trữ lượng chưa được đánh giá. Ngoài ra còn có quặng Titan, Zircon phân bố rải
rác, trữ lượng ít.
Nguyên liệu sét: bao gồm sét làm gạch ngói phân bố tại Quỳnh Phương (Hải
Hậu).
h. Điều kiện kinh tế - xã hội
Theo Niên giám thồng kê năm 2008 dân số huyện Hải Hậu tính đến năm
2008 là 1.947.299 người, diện tích là 1652,29km2, mật độ dân số là 1211
người/km2, tỷ lệ nam nữ đều nhau và tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên hàng năm là
trên 1%.
Huyện Hải Hậu là huyện bị mất nhiều đất do bị xói lở. Từ năm 2005 đến
nay diện tích đất không bị mất là do có hệ thống đê biển bảo vệ. Diện tích đất
không tăng nhưng dân số tăng do phát triển tự nhiên nói chung và do di chuyển
từ vùng bị xói lở, do đó trong huyện Hải Hậu mật độ dân số của một số xã rất
cao (Bảng 1).
Đơn vị

Diện tích (km2)

Dân số (người)


Mật độ dân số

(người/km2)
230,2
287.498
1249
Huyện Hải Hậu
3,04
4.996
1643
Xã Hải Triều
6,50
9.264
1425
Xã Hải Lý
3,95
5253
1329
Xã Hải Chính
Bảng 1.2.1: Diện tích, dân số và mật độ dân số các xã ven biển huyện Hải Hậu
Hải Hậu là huyện có trên 30 km bờ biển với hàng trăm phương tiện đánh bắt
hải sản và có lực lượng lao động nghề biển khá dồi dào, là một trong những vựa
lúa của Nam Định cũng như vùng đồng bằng sông Hồng. Đây là một trong
những đơn vị đầu tiên đạt năng suất lúa 5 tấn/ha. Hải Hậu khá nổi tiếng với gạo
tám, nếp hương, dự, v.v...
Kinh tế của Hải Hậu khá đa dạng, gồm nông nghiệp (trồng lúa), đánh bắt và
chăn nuôi thủy hải sản, thủ công mỹ nghệ (nghề mộc), làm muối, cây cảnh và
đặc biệt là du lịch. Huyện Hải Hậu phát triển du lịch tại bãi tắm Thịnh Long.
Ngoài ra cảng Thịnh Long cũng đóng vai trò trong phát triển kinh tế của huyện.
Bốn xã được coi là mũi nhọn trong nền kinh tế Hải Hậu là thị trấn Cồn - nơi có

13


chợ Cồn là trung tâm của cả vùng, thị trấn Thịnh Long, thị trấn Yên Định - là
trung tâm huyện và xã Hải Giang, Hải Phong, Hải Ninh nơi có những cánh đồng
lúa tám thơm đặc sản Hải Hậu. Bờ biển Hải Hậu còn có các cánh đồng muối.
Người dân ở đây cũng tham gia đánh bắt hải sản. Ngoài ra, vào lúc nông nhàn
người dân cũng đi làm ở các nơi đem lại một nguồn thu nhập quan trọng trong
mỗi gia đình.
Trong bối cảnh nền kinh tế cả nước gặp nhiều khó khăn, nhưng với truyền
thống đoàn kết, tự lực tự cường khắc phục khó khăn, huyện Hải Hậu đã cơ bản
hoàn thành và hoàn thành vượt các chỉ tiêu kinh tế-xã hội chủ yếu: Tốc độ tăng
trưởng kinh tế đạt 11,71%, tăng 0,38% so với kế hoạch. Thu ngân sách trên địa bàn
đạt 165,5 tỷ đồng, tăng 57% so với kế hoạch. Tổng sản phẩm bình quân đầu
người: 27,59 triệu đồng tăng 3,3 triệu đồng so với năm 2013. Giá trị sản xuất
trên 1ha canh tác đạt 93,5 triệu đồng.
Những năm qua cơ cấu kinh tế của Huyện đã có bước chuyển dịch tích cực
theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ, kinh tế biển, giảm tỷ
trọng các ngành nông nghiệp. Năm 1990 tỷ trọng nông, lâm, thủy sản chiếm
73,5%, công nghiệp, xây dựng chiếm 10,3%, dịch vụ chiếm 16,2%; đến năm
2003, tỷ lệ tương ứng là 49,6%, 20,7%, 29,7%.
Tận dụng lợi thế của huyện ven biển, Hải Hậu tập trung đầu tư phát triển
kinh tế biển, du lịch và công nghiệp, tạo bước "đột phá" về kinh tế xã hội, tăng
trưởng kinh tế, qua đó tạo tiềm lực kinh tế (vật chất) cho khu vực phát triển.
Tiêu biểu là khu kinh tế thị trấn Thịnh Long, với các dự án đầu tư của các tập
đoàn lớn gồm bốn chương trình: xây dựng nhà máy nhiệt điện, nhà máy đóng
tàu biển có công suất lớn, hệ thống kho trung chuyển dầu khí và xây dựng cảng
biển mang tầm quốc gia và khu vực.
Cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống của nhân dân ven biển huyện Hải Hậu
từng bước được cải thiện, số hộ giàu tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống, bộ

mặt nông thôn có sự thay đổi rất cơ bản về cơ sở vật chất, kỹ thuật và cơ sở hạ
tầng. Hệ thống điện, đường, trường, trạm, phương tiện đi lại, phương tiện nghe
nhìn, thông tin đại chúng ngày càng tăng. Tính đến cuối năm 2004 đã có 100%
14


hộ dùng điện sinh hoạt, tỷ lệ hộ gia đình có máy thu thanh và máy thu hình là
90% (2006). Tại đây, tỷ lệ nhà kiên cố và bán kiên cố cao so với các địa phương
khác trong toàn quốc.
Sự nghiệp giáo dục – đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô và chất
lượng. Số người đi học ngày càng tăng, số giáo viên cũng tăng. Đến nay vùng đã
đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và đi học đúng độ tuổi cũng như hoàn thành
phổ cập trung học cơ sở. Cơ sở vật chất của các trường học đã được tăng cường
đáng kể, hầu hết các xã đều có trường học cao tầng, khang trang. Dụng cụ thực
nghiệm, thí nghiệm và giáo cụ trực quan đã được đầu tư nên chất lượng giáo dục
đã được nâng lên đáng kể.
Y tế được tăng cường cả về mạng lưới, thiết bị, y cụ, thuốc phòng chống chữa
bênh và đội ngũ y bác sĩ. Công tác y tế trong những năm qua được Nhà nước
đầu tư nên số cơ sở khám chữa bệnh và số giường bệnh đã tăng lên nhiều. Năm
2008, huyện Hải Hậu có 72 cơ sở khám chữa bệnh và 645 giường bệnh. Do triển
khai làm tốt chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân và các
chương trình phòng chống dịch bệnh nên trong những năm qua vùng ven biển
tỉnh Nam Định là nơi dịch bệnh ít xảy ra và lan rộng trên diện tích lớn.
Các hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, báo chí, phát thanh,
truyền hình đã tích cực đổi mới cả nội dung và phương thức hoạt động góp phần
quan trọng trong việc tuyên truyền đường lối đổi mới của Đảng và phục vụ kịp
thời cho triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương.
Công tác quốc phòng – an ninh của huyện luôn luôn được quan tâm, đặc biệt
đã xây dựng được các tuyến phòng thủ ven biển, các địa bàn trọng điểm về kinh

tế - quốc phòng – an ninh được tăng cường. Đảm bảo tốt công tác tuyển quân
hàng năm. Đời sống của bộ đội, công an tại địa phương từng bước được cải
thiện. Thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân ngày càng được củng cố,
trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.

15


×